1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chén rượu Hương đưa say lại tỉnh

Chủ đề trong 'Văn học' bởi Julian, 05/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. haitacnd

    haitacnd Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/07/2004
    Bài viết:
    5.356
    Đã được thích:
    0

    Cái quạt I
    Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
    Duyên em dính dán tự bao giờ
    Chành ra ba góc da còn thiếu
    Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
    Mát mặt anh hùng khi tắt gió
    Che đầu quân tử lúc sa mưa
    Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
    Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?

    ĐỜI TỨC LÀ VĂN, VĂN TỨC LÀ ĐỜI​
    XUÂN DIỆU
    Hồ Xuân Hương sinh trước chúng ta khoảng 200 năm, và mất không biết vào lúc bao nhiêu tuổi. Nhưng trong văn học Việt Nam, cái tên Xuân Hương cứ gợi lên trong trí óc ta một người còn trẻ, ta cảm thấy gọi "bà" là không ổn, khác hẳn với bà Đoàn Thị Điểm, bà huyện Thanh Quan. Trong cái ý niệm của ta, Xuân Hương khôn gbao giời già, ta thích gọi bằng "nàng", bằng "cô", đẹp hơn hết, ta chỉ muốn gọi bằng hai tiếng Xuân Hương, tên của nàng thơ.
    Trong văn học Việt Nam trước cách mạng, có ít tác giả nào mà đời mình lại gắn liền với tác phẩm của mình khăng khít như Xuân Hương. Đời Xuân Hương với thơ Xuân Hương không chia tách nhau, mỗi đoạn đời là có thơ, đến trước mỗi cảnh vật lại có mỗi thơ, cho đến nỗi cũng nhờ mối liên quan đó mà chúng ta bây giờ - trước hiện trạng thiếu tài liệu về tiểu sử Xuân Hương - thì lần theo thơ mà dựng lại những chặng đời của tác giả. Nguyễn Hữu Tiến, trong Giai nhân di mặc (Nét mực lưu lại của giai nhân) có lẽ đã bằng theo các bài thơ, thêm vào các lời truyền khẩu mà viết lại cái đời của Xuân Hương.
    Đứng trước tình cảnh không biết ngày sinh tháng đẻ, năm mất của một thi hào như Hồ Xuân Hương, biết không đích xác về đời của Xuân Hương, nghi vấn cả về một số bài thơ không biết có phải của Xuân Hương không. Có phải vì Xuân Hương không viết một quyển sách chữ Hán nào (Sau khi Xuân Diệu viết bài này người ta mới phát hiện ra Lưu hương ký có nhiều căn cứ là tác phẩm chữ Hán vảu thi sĩ họ Hồ) cho nên trước kia không được liệt vào hàng tác giả? Xuân Hương không viết bằng cái tiếng chính thống của chính quyền phong kiến xưa, không dùng cái ngôn ngữ Hán sang trọng kia mà chỉ làm thơ "nôm na mách qué" thôi. Thơ Xuân Hương còn sống đến nay là nhờ sự bảo vệ của quần chúng nhân dân, họ không cất ở viện tàng thư, mà chủ yếu ở trong trí nhớ của họ.
    Xuân Hương là người cùng thời với Phạm Đình Hổ (Chiêu Hổ, 1768 - 1839), tức là sống cuối thời Lê, qua Tây Sơn, sang đầu thời Nguyễn. Xuân Hương ra đời sau bà Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748) và theo Lê Thước và Trương Chính (Văn nghệ số 428, ngày 24-12-1972) thì Xuân Hương có tặng thơ Nguyễn Du (sinh năm 1765).
    Xuân Hương là con ông Hồ Phi Diễn, ở làng Quỳnh Đôi (Nghệ An), mẹ Xuân Hương họ Hà, lấy lẽ Hồ Phi Diễn thì quê ở Hải Dương. Như vậy Xuân Hương là một người "lai", là sự hoà máu của hai miền Trung - Bắc và được sinh trưởng ở đất Bắc.
    Cha mẹ nhà ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, Hà Nội. Nguyễn Hữu Tiến viết: "Nhà trông xuống Hồ Tây" - sau lại chú thêm: "Sau Xuân Hương có thiên ra ở thôn Tiên Thị, tổng Thiên Túc, huyện Thọ Xương, bây giờ là phố Nhà Thờ, gần đền Lý Quốc Sư". Thế thì Xuân Hương là người Hà Nội, có lẽ đọc thơ Xuân Hương, ta cũng thoáng thấy cái "tính cách Hà Nội" trong đó.
    Vì không có tài liệu chính xác nên không thể xếp cho chính xác trước sau các đoạn đời của Xuân Hương, nhưng các đoạn chính trong đời Xuân Hương thì đã soi đường, kết đọng trong những bài thơ. Có thể dựa theo những đoạn chính ấy là:
    1. Thời con gái đi học chữ nho: Các sách kể rằng khi cha mất, Xuân Hương được mẹ nuôi cho ăn học. Đi học, hay có những truyện tinh nghịch không thể tránh được giữa học trò, giữa con trai với con gái. Thời này người ta truyền lại rằng một hôm Xuân Hương trượt chân ngã giữa sân, bọn học trò trai cười rộ chế giễu, Xuân Hương ứng khẩu đọc ngay chữa thẹn:
    Giơ tay với thử trời cao thấp
    Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài

    (Nhưng những lối thơ khẩu khí nói theo lối "to tát" này, ta không thường thấy ở thơ Xuân Hương. Đây có thể chỉ là một giả thuyết mà thôi)
    Bài thơ Giếng nước ở trên có thể tin là làm trong thời kỳ này.
    Trong bài, tài thơ đã rất cao, không non tay chút nào hết, những tình thơ, tứ thơ còn ôm ấp một cái gì non tơ, mới mẻ: Từ chiếc cầu trắng cho đến nước trong đều "thanh thơi", cỏ gà không phải là mọc cao, cá giếc không phải là quẫy mạnh, cái giếng rất thanh và tân. Tuy không có gì làm bằng chứng cả, nhưng ta sẵn sàng tin những người bảo rằng bài thơ này làm lúc Xuân Hương còn đi học, đây là "thơ con gái" như "lúa con gái" vậy.
    2. Thời Tổng Cóc: Có thuyết bảo rằng Xuân Hương lần đầu tiên lấy chồng, lại bị ép uổng lấy một người cai tổng goá vợ, tục gọi là Tổng Cóc (lại có thuyết bảo lần đầu Xuân Hương lấy ông phủ Vĩnh Tường). Thời Tổng Cóc không có gì là vui, vì khi Tổng Cóc chết đi, Xuân Hương có một cái thở dài như thoát nợ, như ngực vừa cất được một cái gì đè nén:
    Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
    Thiếp bén duyên chàng có thế thôi!
    Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
    Ngàn năm khôn chuộc dấu bôi vôi!
    Hẳn Xuân Hương đã khổ lắm với người này, thì mới lấy cái tên Cóc ra để mà đay nghiến. Nòng nọc đứt đuôi... Xuân Hương bảo tổng Cóc chết hẳn đi, chết không phản hồi. Xuân Hương muốn chôn Tổng Cóc hai lần, vào bôi vôi vào, đánh dấu vào, thật là đào sâu chôn chặt!
    (còn tiếp...)
    Công - Hầu - Khanh - Tướng... Vòng trần ai!
  2. haitacnd

    haitacnd Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/07/2004
    Bài viết:
    5.356
    Đã được thích:
    0
    Chán quá, hôm nay ngồi hì hụi mãi mà khi gửi bài mạng lại lỗi không gửi được, phí bao nhiêu công sức. Quan trọng là mất hết cả hứng, chờ khi khác có thời gian thì làm lại vậy.
    Cái quạt II
    Mười bảy hay là mười tám đây(*)
    Cho ta yêu dấu chẳng rời tay
    Mỏng dầy chừng ấy, chành ba góc
    Rộng hẹp dường này, cắm một cay(**)
    Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
    Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày
    Hồng hồng má phấn duyên vì cậy(***)
    Chúa dấu vua yêu một cái này
    (*). Mười bảy, mười tám: Số nan quạt giấy, cũng là ý nói tuổi của người con gái.
    (**). Cay: Cái suốt của quạt giấy, hai đầu có mảnh kim loại (nhài quạt) hình tròn để chốt các nan lại ở hai nan cái.
    (***). Cậy: Giống cây hồng, quả bé và chát, nhựa dùng để phất quạt. "Má hồng không thuốc mà say" (Cung oán ngâm khúc)
    Công - Hầu - Khanh - Tướng... Vòng trần ai!
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Giễu Quan Hậu
    Tình cảnh ấy, nước non này,
    Dẫu không Bồng Đảo cũng tiên đây.
    Hoành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn,
    Thúy lĩnh đen trùm một thức mây.
    Lấp ló đầu non vừng nguyệt chếch,
    Phất phơ sườn núi lá thu bay.
    Hỡi người quân tử đi đâu đó?
    Đến cảnh sao mà đứng lượm tay.
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hang Cắc Cớ (1)

    Trời đất sinh ra đá một chòm,
    Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
    Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
    Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
    Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
    Con đường vô ngạn(2) tối om om.
    Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc(3)
    Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm!

    (1) Tên một cái hang ở trong chùa Thầy. Ca dao có câu: "Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ; Trai chưa vợ thì đến hội này"
    (2) Vô ngạn: Không có thành bờ tay vịn.
    (3) Xuyên tạc: Xoi và đục thông qua đá.

    Được julian sửa chữa / chuyển vào 06:12 ngày 02/11/2004
  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hang Thánh Hoá Chùa Thầy (1) ​
    Khen thay con tạo khéo khôn phàm,(2)
    Một đố giương ra biết mấy ngoàm.(3)
    Lườn đá cỏ leo sở rậm rạp,
    Lách khe nước rỉ mó lam nham.
    Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
    Hai tiểu lưng tròn đứng giữa am.
    Đến mới biết là hang Thánh Hoá,
    Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham!

    (1) Tên cái hang trong chùa Thầy. Truyền rằng Từ Đạo Hạnh đã hoá ở đây nên gọi là Thánh Hoá.
    (2) Khôn phàm: Như khôn phạm.
    (3) Đố ngoàm: Thành ngữ "ngoàm nào đố ấy" nói về cách kiến trúc nhà ở xưa: Một mảnh đố tre thì ngoạm tre; đố gỗ thì ngoàm gỗ. Một đố nhiều ngoàm ở đây nói về cấu tạo hang động tự nhiên. Nếu coi cả vách động là một đố, thì vòm động với các hõm to, nhỏ là những ngoàm.

    Được julian sửa chữa / chuyển vào 06:10 ngày 02/11/2004
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Giới thiệu thơ Hồ Xuân Hương tại thư viện Quốc hội Mỹ ​
    Trưa 2/12, tại số nhà 101 đại lộ Độc lập, Washington, Ban châu Á thuộc Trung tâm John Kluge của Thư viện Quốc hội Mỹ đã tổ chức buổi giới thiệu tập thơ của Hồ Xuân Hương với tựa đề "Xuân Hương" (Spring Essence).
    Tập thơ do nhà xuất bản báo chí Copper Canyon ấn hành, gồm 49 bài thơ bằng chữ Nôm của Hồ Xuân Hương do giáo sư tiếng Anh tại Trường đại học Bắc Carolina đồng thời là nhà thơ không chuyên John Balaban tuyển chọn và dịch sang tiếng Anh.
    Dịch giả J. Balaban cùng Liên Hương, chuyên viên Ban châu Á, đã giới thiệu và đọc một số bài thơ với phần đệm đàn tranh của Ngô Thanh Nhàn, nhà ngôn ngữ học thuộc Đại học Tổng hợp New York.
    Ban châu Á đang lưu giữ hơn 30 cuốn sách viết bằng nhiều thứ tiếng về Hồ Xuân Hương, trong đó có bản bằng chữ Nôm và có tập thơ của Nguyễn Du: Kim Vân Kiều.
    Nguồn: eVăn, Nhân dân
  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương Một Thiên Tài Bất Hạnh​
    Nguyễn Quý Ðại​

    Ngồi buồn nhớ chị Xuân Hương
    Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai..
    Giấc mộng con của Tản Đà
    Nhìn lại lịch sử Dân tộc Việt Nam luôn chiến đấu dành độc lập, tự do, mở đầu cuộc khởi nghĩa của chị em Hai Bà Trưng (40-30 trước công Nguyên) và Bà Triệu (năm 248) để lại những chiến tích oai hùng. Những người khác không cầm gương đao xông pha nơi chiến trận, mà cầm bút đóng góp cho nền văn hoá dân tộc như những nhà thơ nữ nổi tiếng : Đoàn Thị Điểm dịch giả Chinh phụ ngâm khúc cuả ông Đặng Trần Côn, Ngọc Hân công Chúa với Ai tư vãn.. Ngô Chi Lan Ỷ Lan Phu nhân, Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh. Nữ sĩ nỗi tiếng một thời được gọi là Bà Chúa Thơ Nôm (1),Hồ Xuân Hương xuất hiện vào thế kỷ thứ 18. Giai đoạn đất nước chia đôi hai miền Nam Bắc. Trịnh - Nguyễn phân tranh gọi là Đàng trong Đàng ngoài lấy sông Linh Giang làm biên giới từ 1627-1772.
    Hồ xuân Hương sinh năm (1772-1822) (2) con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An.Theo một số tài liệu dẫn chứng: Hồ Sĩ Anh đời nhà Lê sinh bốn người con trai : Hồ Thế Viêm, Hồ Phi Quyền, Hồ Phi Cơ, Hồ Phi Tích (1665-1734 đậu Hoàng giáp năm 1700). Hồ Thế Viên là ông Tổ bốn đời cuả anh em nhà Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ sang Nguyễn, còn Hồ Phi Cơ là ông tổ bốn đời cuả Hồ phi Mai tức nữ sĩ Xuân Hương. Như vậy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Hồ Xuân Hương là anh em cùng họ ông tổ năm đời (3).
    Hồ Xuân Hương và thân phận
    Ông Hồ Phi Diễn thi đỗ Tống Sinh làm quan cuối thời đại vua Lê. Ông đã lập gia đình nhưng cưới thêm vợ thứ quê Hải Dương, sinh ra Xuân Hương. Lúc Xuân Hương 13 tuổi thân phụ mất, Xuân Hương rời làng Khán Xuân theo mẹ về làng Thọ Xương gần Hồ Hoàn Kiếm, đi học một thời gian phải ở nhà giúp mẹ lo sinh sống gia đình. Xuân Hương tự học thêm, thông minh làm thơ hay, tiếng tăm lừng lẫy. Có Tổng Kình tên tự Nguyễn Công Hoà tục gọi là Tổng Cóc ở làng Tứ Xã (nay thuộc huyện Phong châu - Vĩnh Phú) Cai Tổng mến tài của Xuân Hương, nhờ người mai mối cưới Xuân Hương làm thứ thiếp.Theo tục truyền chiều 30 tết Tổng Cóc đem biếu quà tết cụ Đồ Xứ bị Hồ Xuân Hương ra câu đố:
    ``Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới"
    Sáng hôm sau, Tổng Cóc đến làm xong thủ tục xông nhà đọc lại câu đối:

    ``Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào"
    Có thể Xuân Hương mến mộ chàng trai nầy có khiếu văn chương nên nhận lời kết hôn với Tổng Cóc. Theo tài liệu cuả Giáo sư Lê trí Viễn (4) Tổng Cóc không phải là một anh trọc phú, mà là một nho sĩ từng có phen lều chõng như ai và trong sự gặp gỡ Xuân Hương có chuyện chữ nghiã chứ chẳng phải chỉ có đồng tiến .." Tổng Cóc yêu thương Xuân Hương và từng bảo nàng làm thơ viết vào gỗ để người ta sơn then giữ cho bền, hiện nay tại nhà thờ của ông Kiều Phú, thôn Đại Đình, xã Sơn Dương huyện Phong Châu, Vĩnh Phú còn tấm ván mít ghi những nét thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Bút tích còn 4 câu thơ :
    Thảo lai băng ngọc kính
    Xuân tận hoá công hương
    Độc bằng đan quế thượng
    Hào phóng bích hoa hương
    Tạm dịch:
    Nói đến tấm gương bằng ngọc
    Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân
    Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ
    Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm (5)

    Tình yêu giữa hai người không được bao lâu trong hoàn cảnh gia đình mà người chồng yếu đuối, Xuân Hương bản tính nghệ sĩ giao tiếp rộng không tránh được va chạm hằng ngày trong xã hội phong kiến ``Đau đớn thay phận đàn bà! Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu" Xuân Hương bị gia đình bên chồng đè nén với thân phận làm lẽ. Nên đã phản kháng quyết bỏ nhà ra đi. Thân phận của Xuân Hương cũng như hoàn cảnh của kiếp đàn bà làm lẽ mọn :

    Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
    Chém cha cái kiếp lấy chồng chung !
    Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
    Một tháng đôi lần có cũng không
    Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
    Cầm bằng làm mướn, mướn không công
    Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ
    Thà trước thôi đành ở vậy xong
    Ca dao cũng có bài:
    Tối tối chị giữ mất buồng
    Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
    Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
    Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn...
    Từ giả gia đình Tổng Cóc đi tìm phương trời thơ mộng tự do hơn, vốn người yêu thơ văn lãng mạn muốn vượt qua bức tường nho giáo khắc nghiệt, nhưng không tránh được cái nghiệp tình duyên ngang trái. Xuân Hương lấy ông phủ Vĩnh Tường, tình yêu được trân quý hơn, nên Xuân Hương làm bài thơ giã từ ``Khóc Tổng Cóc":
    Chàng Cóc ơi ! Chàng Cóc ơi !
    Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
    Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
    Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
    Bài ``Khóc Tổng Cóc "gây nhiều dư luận trong văn học, những người ở Làng Mương, làng Giáp nói bài thơ đó là khóc cho mối tình của Xuân Hương, không phải khóc người chồng đã mất, bởi vì Xuân Hương từng khổ đau với hoàn cảnh làm vợ lẽ trong gia đình Tổng Cóc nên dùng những từ ngữ chỉ họ hàng nhà Tổng Cóc nào là nòng nọc đứt đuôi để giễu lúc Tổng Cóc còn sống, Xuân Hương lập gia đình với ông phủ Vĩnh Tường cũng trong cảnh lẽ mọn không tránh được cảnh khổ ghen tương cay độc như Hoạn Thư:
    Rằng tôi chút dạ đàn bà,
    Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình
    Lòng riêng, riêng cũng kính yêu.
    Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai
    Kiều cuả Nguyễn Du
    Thời gian chung sống tri ngộ ông phủ Vĩnh Tường (ở Thổ Tang, Vĩnh Phú bây giờ) tuy làm vợ lẽ nhưng ông Phủ coi nàng là bạn văn chương tình duyên không đến nỗi bẽ bàng, Nhưng tình nghiã vợ chồng chỉ trong 27 tháng ông Phủ mất, Xuân Hương đã khóc chồng. Cuộc đời Xuân Hương về tình duyên bất hạnh:
    Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
    Thiếp bén duyên nàng có thế thôi
    Chôn chặt văn chương ba thước đất
    Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
    Cán cân tạo hoá rơi đâu mất;
    Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
    Hăm bảy tháng trời là mấy chốc;
    Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi !
    Cuộc đời Xuân Hương có thể ``bảy nổi ba chìm" qua hai đời chồng hy sinh cả đời chịu thân phận làm lẽ mọn, nỗi khổ đau cũng là niềm dang dở cái mối duyên thiên, duyên trời nào có phải là hậu qủa oan nghiệt của con nguời như ``chữ tài liền với chữ tai một vần" !
    Thơ và bạn đời
    Tập thơ Lưu Hương Ký chú dẫn: Hoan Trung Cổ Nguyệt Đường Xuân Hương nữ sĩ sử tập Lưu Hương Ký viết xong năm Giáp Tuất (1814) mãi đến năm 1964 được phát hiện (?). Tên di cảo có nghiã là ghi mùi hương thơm của ngọc lưu, chữ Lưu này nhắc nơi Xuân Hương sinh ở huyện Quỳnh Lưu. Trong tập thơ có 30 đầu đề ; 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm, phần xướng hoạ có lẫn thơ của văn nhân thời bấy giờ để lại số đề tài khúc chiết, nồng nàng yêu đương mong đợi. ở Cổ Nguyệt Đường do Xuân Hương dựng lên ở phường Khán Xuân gần Hồ Tây khu vực vườn Bách Thảo, trường Bưởi đường Cổ Ngư làng Yên Phụ.Tình yêu, tình bạn của Xuân Hương rất nhiều bài gợi cảm, lãng mạn với những văn nhân thi sĩ như (trích dẫn mỗi người một tựa đề) :
    Thi hào Nguyễn Du (1765-1820) bài : Cảm cựu Kiêm Trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu
    Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
    Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
    Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
    Giấc mộng rồi ra nửa khắc không ?
    Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
    Phấn son càng tủi phận long đong
    Biết còn mảy chút sưong đeo mái
    Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng treo...
    Xuân Hương với Tốn Phong hai bài : Ngụ ý đến Tốn Phong Thi v... v...
    Đường hoa diù dật bước đông phong
    Nghĩ kẻ tìm thơm cũng có công
    Lạ mặt dám quen, cùng gió nước
    Nặng lòng nên nhẹ đến non sông
    Da trời nắng nhuộm tươi màu biếc
    Phòng gấm trăng in dải thức hồng
    Ai nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ !
    Trước trăm năm hẳn nợ chi không ?
    Xuân Hương với Hiệp trấn Sơn Nam Thượng họ Trần Ngọc Quán...

    Vác cắm đàn tao một ngọn cờ
    Ấy người thân đấy, phải hay chưa ?
    Lắc đầy phong nguyệt lưng bầu rượu
    Giắt lỏng giang hồ nửa túi thơ
    Đình nguyệt góp người chung đỉnh lại
    Trời Hoan mỏ mặt nước non xưa
    Bấy nay tài tử bao nhiêu tá ?
    Thèo đảnh khen ai khéo đạt cho!
    Xuân Hương với Mai Sơn Phủ ``Hoạ thơ Sơn Phủ" bài thơ bằng Hán văn gởi bạn tỏ lòng quyến luyến nhớ thương. khoảng thời gian (1799- 1801)
    Này đoạn chung tình biết với nhau
    Tiễn đưa ba bước cũng nên câu
    Trên tay khép mở tanh chiều nhạn,
    Trước mặt đi về gấp bóng câu
    Nước mắt trên hoa là lối cũ,
    Mùi hương trong nệm cả đêm thâu
    Vắng nhau mới biết tình nhau lắm
    Này bạn chung tình biết với nhau..
    Xướng họa với Chiêu Hổ tức Phạm Ðình Hổ (1768-1839) đối thủ với Hồ Xuân Hương
    Anh đồ tỉnh, anh đồ say
    Sao an ghẹo nguyệt giữa ban ngày
    Này này chị bảo cho mà biết
    Chốn ấy hang hùm chớ mó tay..
    Xuân Hương trải qua nghiều kinh nghiệm nhân sinh, nhất là về ái tình để rồi
    ``quang cảnh trong đời chiếc gối mơ ! " đời sống phóng túng của Xuân Hương để nhận lấy lời phê bình ``tự thán":
    Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn
    Một đời riêng mấy tiếng chua cay
    Sau khi viết xong tập Lưu Hương Ký (1814), bảy năm sau(1822) Xuân Hương mất, nhưng mộ bà được táng ở đâu ? ngày nay vẫn chưa tìm được tung tích, chắc chắn cũng ở quanh Hà Nội, năm 1842 Tùng Thiện Vương ra thăm cảnh Hồ Tây có làm bài thơ viếng mộ Xuân Hương ``Long Biên trúc chi từ" bản dịch ra việt ngữ của học giả Hoàng Xuân Hãn:
    Đây hồ rực rỡ hoa sen
    Sai người xuống hái để lên cúng đàn
    Chớ trèo qua mộ Xuân Hương
    Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng
    Sen tàn, phấn rữa mồ hoang
    Xuân Hương đã khuất bên làn cỏ xanh
    U hồn say tít làm thinh
    Gío xuân mấy độ thế tình không hay !!
  8. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương

    Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến ``nhất nam viết tử thập nữ viết vô" Đàn bà ít được đi học ứng thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chửa thẹn:
    Giơ ta với thử trời cao thấp
    Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài

    Hồ Xuân Hương thông minh, có tài, khá tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc cuả bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là ``lẳng lơ" ! Nhưng hãy đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi đi ngang qua miếu Sầm Nghi Đống, bị vua Quang Trung giết ở Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin đồn miếu linh thiên nên Xuân Hương đã đề mấy câu thơ :
    Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo
    Kià đền Thái thú đứng cheo leo
    Ví đây đổi phận làm trai được
    hì sự anh hùng há bấy nhiêu ?
    Dưới xã hội thời phong kiến người quan niệm ``trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ một chồng". Xã hội bất công! Vấn đề đa thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại trừ các nước theo Hồi Giáo) . Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ chồng.. Nhưng Xuân Hương đã muốn phá cái phong tục thời đó. Nên lúc sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có người goá phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ đi vắng Xuân Hương xem đơn và phê ngay :
    Phó cho con Nguyễn thị Đào
    Nước trong leo lẻo cắm sào chờ ai ?
    Chữ rằng xuân bất tái lai
    Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già .
    Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương được lưu truyền hậu thế qua tập Lưu Hương Ký. Biệt tài thơ Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điển tích sáo ngữ, đọc thơ hiểu được nghiã đen và nghiã bóng. Đọc thơ Hồ Xuân Hương với tâm hồn nghệ sĩ thực sự phát hiện được những khía cạnh miêu tả rất thẩm mỹ.
    Đọc bài ``Ngủ quên" như xem bức tranh trưa hè người thiếu nữ đang ngủ, độc giả có thể liên tưởng đến bức tượng khỏa thân với những đường nét tuyệt vời sống động... cảm thấy rung động nghệ thuật trước hình ảnh đẹp lành mạnh.
    Muà hè hây hẩy gió nồm đông
    Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
    Lược trúc chải cài trên mái tóc,
    Yếm đào trễ xuống dưới nương long
    Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
    Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
    Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
    Đi thì cũng dở ở không xong.
    Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục ai thấy hoa đẹp không muốn nhìn? Từ xưa và nay nhiều phê bình bàn cãi tranh luận, thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục. Những người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng xem những sáng tác cuả Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác âm điệu kỳ tài.. Nhóm khác phê bình thơ mang chất tục sinh lý đè nén ``Libido" ..Bài thơ đầu đề không được thanh ``*********" Hồ Xuân Hương tả rất hay:
    Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
    Ban đêm không mắt sáng như đèn
    Đầu đội nón da loe chóp đỏ
    Lưng đeo bị đạn rủ thao đen
    Để có thể thẩm định thế đứng cuả nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng ?.. Bởi vì vấn đề ******** từ Á sang Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những hình điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu tại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh .. những tác phẩm đó thể hiện linh động văn hóa, sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau, Nhiều sắc dân họ thờ các bộ phận sinh dục, Dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam (*********) ******** được nói đến trong sinh hoạt của con người. Xã hội bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội . Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian:
    Có chồng từ thuở mười lăm.
    Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
    Đến chừng mười chín đôi mươi.
    Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
    Một rằng thương, hai rằng thương
    Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!
    (Ca dao)
    Đời sống qua thi ca bình dân, diễn tả trào lộng, vui tươi vốn có trong thực tế không nói xa gần, cái điếu cầy hút thuốc người bình dân:
    Lòng em cay đắng quanh năm
    Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
    Các anh các bác trong làng
    Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
    Vắng em đau khổ trăm chiều
    Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê
    (ca dao)
    Nổi tiếng như Truyện Kiều diễn tả lại chuyện ******** trong khuê phòng:
    Đêm xuân một giấc mơ màng
    Đuốt hoa để đó, mặc nàng nằm trơ
    hoặc
    Này con thuộc lấy nằm lòng
    Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
    Chơi cho liễu chán hoa chê
    Cho lăn lóc đá cho mê mẫn đời
    Khi khóe hạnh khi nét ngài
    Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
    Điều là nghề nghiệp trong nhà
    Đủ ngần ấy nếp mới là người soi
    Hay Trạng Quỳnh với bài tạ ơn cô hàng bánh:
    Đương cơn nắng cực đói lòng thay
    Thiết đãi ơn cô có bụng nầy
    Giờ biết lấy gì mà tạ lại
    Xin quỳ hai gối chống hai tay
    Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng lớp nào dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người trần tục nên ca tụng sinh hoat trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân Hương để tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái ``tục" trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác. Đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ sau để so sánh bài đèo Ngang và đèo Ba Đội cuả hai nữ sĩ:
    Bước tới đèo ngang bóng xế tà
    Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
    Lom khom dưới nuí tiều vài chú
    Lác đác bên sông chợ ( rợ) mấy nhà
    Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
    Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
    Dừng chân đứng lại trời non nước
    Một mảnh tình riêng ta với ta
    Huyện Thanh Quan
    Chúng ta cảm nhận bài thơ ấy hay nhẹ nhàng trang nhã, bài nầy có 8 câu nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán:
    Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc
    Nhật văn cô điểu khiếu gia gia
    Nghiã là
    Đêm nghe đỗ vũ kêu quốc quốc
    Ngày lắng gà rừng gọi gia gia
    Hồ xuân Hương vịnh đèo Ba Dội là một bức tranh tả chân đơn sơ:
    Một đèo, một đèo lại một đèo
    Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
    Cửa son đỏ loét tùm lum nóc
    Hòn đá xanh rì lún phún rêu
    Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
    Đầm đià lá liễu giọt sương rơi
    Hiền nhân quân tử ai là chẳng
    Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo
    Bài thơ nầy đọc qua độc giả có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Dội, ``một đèo, một đèo lại một đèo" từ màu sắc ``cửa son đỏ lóet; tùm hum; xanh rì; lún phún; lắt lẻo".. Xuân Hương đã tài tình tạo ra một bức tranh sống động thành hợp tấu kỳ thú, từ âm thanh, màu sắc, nếu đi qua đèo thi độc giả chia xẽ được với thi nhân .Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không gian lan thoi gian, tạo những nét đặc sắ, thông thường ít nghe diệp âm ``hõm hòm hom, toen hoẻn .." trong bài vịnh hang Cắc Cớ:
    Trời đất sinh ra đá một chòm
    Nứt làm đôi mảnh hõm hòm hom
    Kẽ luồng gió thông reo vỗ phập phòm
    Gịot nước hữu tình rơi lõm bỏm
    Con đường vô ngạn tối om om
    Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
    Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm

    Giọt nước từ những thạch nhủ rơi từng giọt, xuống vũng nước bên dưới lõm bõm, con đường vào hang thiếu ánh sáng. Ngày nay nhờ phương tiện lưu thông thuận lợi, nếu ghé hang Thánh Hoá ở làng Thuỵ Khê, huyện Sài Sơn tỉnh Sơn Tây (Hà Tây) hang ở hòn núi có Chùa Thầy. Hàng năm có hội chùa Thầy mà không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết chùa Thầy. Đến đó sẽ nhớ ngay nữ sĩ Xuân Hương, là một thiên tài cũng vịnh cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất linh động cảnh trời mây non nước...vào những ngày đầu xuân, hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên phải gọi là trèo các bậc thì đúng hơn là đi, chen chân trong động hương khói pha mờ mù sương:

    Người quen cõi Phật chen chân xọc
    Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm...

    Bài ``đánh đu" bức tranh quê sống động hơn, diễn tả cảnh vui xuân náo nhiệt:
    Tám cột khen ai khéo khéo trồng
    Người thì lên đánh kẻ ngồi trông
    Trai đu gối hạc khom khom cật
    Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
    Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
    Hai hàng châu ngọc duỗi song song
    Chơi xuân ai biết xuân chăng tá
    Cột nhổ đi rồi lỗ bỏ không!
    Có thể Hồ Xuân Hương đã phỏng theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập:
    Bốn cột lang nha ngắm để trồng
    À thì đánh cái ả còn ngang
    Tế hậu thổ khom khom cật
    Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
    Tám bức quần hồng bay phất phới
    Hai hàng châu ngọc đứng song song
    Chơi xuân hết tấc dường ấy
    Nhổ cột đem về để lỗ không .
    Ngày nay ở miền Bắc hội xuân vẫn còn giữ trò chơi đánh đu, thường những trai gái thích đánh đu như cuộc thi lòng dũng cảm. Khi chàng trai nhấn đu, cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng, chờ đón độ cao bay bổng. Khi độ cao đã giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón..tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài ..gối hạc, lưng ong, ngưả ngửa lòng, phất phới, song song. Xuân Hương đã khéo tài tình dùng điệp khúc
    Qua ca dao Việt nam cũng có nhiều bài truyền tụng rất là ``tục" như cái vịnh cái quạt:
    Rành rành ba góc rành rành
    Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
    Khi vui thì sướng thay là
    Khi buồn thì nước chảy ra rì rì..
    Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng hơn có tính cách tương tự như ca dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan được bồi bằng giấy với hình dáng xòe ra để quạt cho mát , bất cứ ở đâu, khi mưa có thể che đầu, khi xếp lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa:
    Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
    Duyên em dính dáng tự bao giờ
    Chành ra ba góc da còn thiếu
    Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
    Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
    Che đầu quân tử lúc sa mưa
    Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
    Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ...
    Ngành tiểu công nghệ dệt vải thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm ươm tơ làm luạ tự dệt may sắm áo quần. Ban ngày làm việc đồng áng, đêm về dệt vải. với dụng cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi guốc con suốt, con thoi (con cò bằng gõ), Xuân Hương tả đêm cô gái dệt vải; mà phẩm chất vải tốt không phai màu phải ngâm lâu:

    Thắp đèn lên thấy trắng phau
    Con cò mấp máy suốt đêm thâu
    Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
    Một suốt đâm ngang thích thích mau
    Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
    Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
    Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
    Chờ đến ba thu mới dãi màu
    Chùa Quán Sứ được xây dựng từ thế kỷ thứ 17 nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội ; Phật giáo vào thời Xuân Hương suy thoái, thời nào cũng có người núp dưới chiếc áo cà sa.. Xuân Hương đã nghi ngờ về chùa Quán Sứ trong cảnh vắng teo:
    Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
    Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
    Chày kình, tiểu để suông không đấm
    Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
    Sáng banh không kẻ khua tang mít
    Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
    Cha kiếp đường tu sao lắt léo
    Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo
    Hay qua bài
    Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ
    Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
    Tu lâu có lẽ lên sư cụ
    Ngất nghểu toà sen nọ đó mà
    Người đời nhớ Xuân Hương ở tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang nặng những niềm đau .. trong đó khối tình của Xuân Hương nặng như đá, với những tâm sự thế thái nhân tình làm rung động sâu thẳm cõi lòng người:
    Gan nghĩa giãi ra cùng nhật nguyệt
    Khối tình cọ mãi với non sông
    Đá kia còn biết xuân già dặn
    Chả trách người ta lúc trẻ trung
    (Đá ông chồng, đá bà chồng)
    hoặc qua bài tình tự:
    Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
    Trơ cái hồng nhan với nước non
    Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
    Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn !
    Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
    Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
    Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
    Mảnh tình san sẻ tý con con.
    Xuân Hương vịnh ``Bánh trôi nước" quen thuộc của người bình dân.Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới thời phong kiến lắm lận đận nhưng tấm lòng được tôn trọng:

    Thân em trắng phận em tròn
    Bảy nổi ba chìm với nước non
    Lớn nhỏ dù tay kẻ nặng
    Mà em vẫn giữa tấm lòng son

    Hồ Xuân Hương có phong cách riêng tiêu biểu cho thái độ tự nhiên tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân Hương rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích . Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu và tiết tấu, thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời, nhưng bài viết giới hạn không thể trình bày và trích giải hết được.Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam.

Chia sẻ trang này