1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến dịch Mậu Thân - góc nhìn của người Mỹ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Heliot_85, 13/01/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Geri Li Ben, trợ lý của phân xã trưởng, hãng thông tấn NBC, được điện thoại làm thức giấc vào lúc quá ba giờ sáng. Đó là cô con gái của gia đình anh ta đến ăn tết vào đầu hôm gọi, cô ta bảo rằng ngoài phố có bắn nhau. Ben nói với cô đừng sợ. Anh gọi điện thoại đến sở chỉ huy cảnh sát quân sự, tự giới thiệu là quan chức của hãng tin NBC và hỏi chuyện gì đang xảy ra. ?oAnh giữ kín đấy nhé?, một binh nhì bảo anh, ?onhưng Sài Gòn đang bị tấn công không đáng kể?. Ben gọi điện lại cho cô gái và bảo cô không nên ra ngoài.
    Pitơ Brextrăp của tờ bưu điện Hoa Thịnh Đốn tại Sài Gòn vừa qua trở về sau chuyến đi đến Khe Sanh và Đà Nẵng và thở phào khi được trở lại thành phố bình yên này. Một cú điện thoại đã đánh thức anh ta dậy. Đó là Li Lexkêgiơ, người đồng sự.
    -Chúng đang tấn côn thành phố đấy!
    -Thành phố nào? Brextrăp hỏi lại.
    -Thành phố này chứ đâu, Sài Gòn ấy.
    -Lố thế. Lại mọt vụ đột nhập nào đó thôi.
    Brextrăp đáp, anh ta vốn là một cự lính thuỷ đánh bộ. Thế rồi anh ta lại lăn ra ngủ, nhưng lại bị một cú điện thoại khác, sau đó đã đánh thức dậy, và ba chân bốn cẳng chạy đến sứ quán.
    Khi ở Sài Gòn vào lúc nửa đêm, thì ở Oasinhtơn là giữa chiều. Oan W.Rôtxtôp, trợ lý an ninh quốc gia của Tổng thống Giônxơn, đang tiếp bốn biên tập viên của tờ Oasinhtơn Pôtx, tờ báo ngày càng tỏ ra hoài nghi về những tuyên bố về tiến triển khả quan của cuộc chiến tại Việt Nam. Rôtxtôp đã hứa với những nhà báo này sẽ đưa ra những tài liệu của ********* mà Mỹ bắt được, nó nói lên Mỹ đang thắng lợi và phía cộng sảng đang mơ tưởng những cố gắng ?ohết hơi? phi thực tế để giành chiến thắng! Rôtxtôp dẫn các vị khách vào một căn phòng tầng trệt không có cửa sổ có tên là phòng Thông báo tình hình của Nhà Trắng, là trung tâm chỉ huy của Tổng thống trong các cuộc khủng hoảng về chính sách đối ngoại. Một bức ảnh lớn treo tường về căn cứ Khe Sanh của lính thuỷ đánh bộ, được chụp chi tiết đến từng chiến hào một được bày lên trên các bàn. Trên chiếc bàn đặt giữa phòng là những chồng bị vong lục của Hội đồng an ninh quốc gia, những bản sao chụp lại để phát cho các nhà báo, trong đó nói về những tài liệu của cộng sảng vừa bắt được, những cuộc thẩm vấn tù binh, những báo cáo của những tên đào ngũ từ vùng có chiến sự. Ông ta xin cáo vì bận việc khác và giao lại trách nhiệm cho một báo cáo viên.
    Trong khi các nhà báo đang giở từng trang của bản bị vong lục, cánh cửa thông sang trung tâm thông tin liên lạc ngay bên cạnh mở ra và một trợ tá dúi vào tay báo cáo viên một mảnh giấy. Tay báo cáo viên ra lệnh: ?oĐưa ngay cho ông Oend?. Lại một mảnh giấy khác đến và được chuyển vội đến cho Rôtxtôp. ?oXem ra có chuyện lộn xộn ở Sài Gòn?, tay báo cáo viên nói với nụ cười gượng gạo. Lại một mảnh giấy nữa được đưa tới. Rồi một mảnh nữa. Giòng tin và sự căng thẳng ngày càng tăng trong căn phòng bắt đầu trở nên hấp dẫn hơn nhiều những văn kiện để trên bàn. ?oHoá ra vixi đang tấn công sứ quán ỏ Sài Gòn?, báo cáo viên giải thích với các nhà báo.
    Rôtxtôp gặp các nhà báo khi họ chuẩn bị rời Nha Trang, và nhắc đến việc tấn công sứ quán MỸ đẻ gây ?oấn tượng với khách. ?oCác vị có muốn bản sao (của tài liệ) không?? Viên phụ tá của Tổng thống hỏi họ. Các nhà báo đến nhặt các bị vong lục chất trên bàn và mang về toà soạn, nơi mà các bản tin từ Sài Gòn đang đánh về trên các máy têlêtip trong phòng điện báo.
    Trở lại phòng thông báo tình hình, một trợ tá cảm thấy cái ?oáp lực không tin được? muốn biết thêm tin tức của phòng trên. Phòng trên chính là phòng Bầu dục của Tổng thống Mỹ.
    Buổi chiều ấy, không khí vốn yên tĩnh trại trung tâm điện báo của Bộ ngoại giao, một cơ sở nhận tin thành lập năm 1961 để giúp các quan chức ngoại giao nắm bắt kịp thời những biến động. Thông thường, tin tức đều tiên là từ nguồn của các hãng thông tấn, và lần này là hãng AP từ Sài Gòn đánh đi.
    Khoảng nữa giờ sau, nhân viên trực Gion B.Thơmxân nhận được một cú điện thoại từ hải ngoại do Cahun, tham tán chính trị của sứ quán gọi từ nhà riêng ông ta ở tại Sài Gòn, Thơmxân ghi lại và chuyển báo cáo này cho Bengiamin Rít thư ký hành chính của Bộ ngoại gao mà bàn làm việc của anh ta nằm trong dãy văn phòng của Bọ trưởng ngoại giao Đin Rátxcơ.
    Rít nhấc ống nói điện thoại và đăng ký nói chuyện ưu tiên với sứ quán ở Sài Gòn. Tiếng nói từ nửa vòng trái đất vọng tới là của Alân Oend, người trực ban trên tầng bốn của toà sứ quán bị vây hãm.
    Oend báo cáo:-Bên ngoài đang bắn nhau.
    -Anh đinh nói là ngoài khu sứ quán à? Rít hỏi.
    -Trong sứ quán đấy. Ngay ngoài toà nhà này này.
    Rít bàng hoàng. Anh ta báo tin cho trợ lý bộ trưởng ngoại giao P.Bănđi, người phụ trách vùng viễn đông, và ông này cũng đâm hoảng vì cái tin này. Rít cũng báo cáo luôn cho Đin Rátxcơ. Ông bộ trưởng ngoại giao thường nghe báo cáo tình hình tại văn phòng riêng của mình, chẳng mấy khi như chiều nay đến thẳng phòng điện báo để đọc từng mẩu tin. Ông trông vẫn giữ vẻ điềm tĩnh.
  2. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3

    VC.... VC !
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thứ trưởng bộ ngoại giao Nicôlátx Katgiânbách và phó trợ lý bộ trưởng ngoại giao Philip Habíp đang đến thăm theo kế hoạch định trước trung tâm theo dõi các hoạt động về Việt Nam tại Sở chỉ huy cục tình báo trung ương gần Lengxlây, bang Vơginia. Trong các cơ quan chính phủ có dính líu sâu vào cuộc chiến tranh Việt Nam. CIA là cơ quan xa cách nhất với nghệ thuật rao hàng nên xem ra là những người kém lạc quan nhất. Đầu năm 1968, các quan chức CIA ngày càng tỏ ra lo ngại về những dấu hiệu về một cuộc tấn công chưa từng có của ********* và Bắc Việt đang chuẩn bị và thối chí trước thái độ thoả mãn trong quân đội Mỹ. Sự thảng thốt đó nhắc nhở một quan chức cấp cao của CIA đến không khí trước trận bão xảy ra trên một chuyến đi biển, khi mặt trời vẫn còn chiếu sáng và gió còn thổi nhẹ, nhưng một cảm giác khó chịu đã bắt đầu từ sau gáy.
    Một số quan chức CIA coi Katgiânbách là một đồng minh tiềm tàng trong nỗ lực làm cho chính sách của Mỹ ở Việt Nam có những thay đổi cơ bản, và họ xem cuộc đi thăm hôm đó là một dịp để truyền cho ông ý thức về sự cấp bách của tình thế. Dùng các bản đồ và biểu đồ, một quan chức CIA điểm lại những tình hình báo mới nhất từ vùng chiến sự và đưa ra ý kiến rằng ?ochúng ta đang đứng trước những cuộc tấn công ồ ạt, có thể vào cuối dịp nghỉ tết?. Vào lúc đó, một nhân viên điện báo đến, cầm trong tay một mảnh giấy. ?oĐây là tin nói rằng ********* đang tấn công sứ quán ở Sài Gòn và họ đang ở tầng dưới cùng?, anh ta nói.
    Một trong số những vị khách thoạt đầu cho đó là một lời nói đùa tế nhị của CIA, nhưng sau đó những chi tiết rõ ràng đã làm cho tan biến đi cái ý nghĩ đó. Ông ta rên rỉ: ?oTôi biết việc đó rồi, tôi đã biết rồi?.
    Cuộc tấn công Tết Mậu Thân hẳn sẽ có một tác động mãnh liệt đối với tình cảm ý nghĩ và niềm tin của hàng triệu người Mỹ và tương lai của những nhà lãnh đạo chính trị nước Mỹ. Xảy ra vào mộ thời điểm gay cấn, ngay trước khi diễn ra cuộc bầu cử sơ bộ trong năm bầu cử Tổng thống, cuộc tấn công đã đánh vào chế độ chính trị của Mỹ vào đúng lúc nó tỏ ra do dự nhất về đường lối và đang mang những mầm mống của sự thay đổi.
    Sau tất cả những gì khác vừa được bàn tán về tình hình chiến tranh, tin về cuộc tổng tấn công vào sứ quán Mỹ đã nói rằng các lực lượng cộng sant thực ra mạnh hơn nhiều so với điều mà chính phủ Mỹ đã từng thú nhận, rằng cuộc chiến tranh còn rất xa vời để tiến tới một chung cục mà các quan chức đã bóng gió nói tới. Hai bài học có tính chất phản biện có thể được rút ra từ nhận thức này: Một là Hoa Kỳ có thể tăng cường chiến tranh một cách ồ ạt, bời vì trong quá khú cũng như hiện nay, những nỗ lực của Mỹ là không đầy đủ. Thứ hai là Hoa Kỳ cần phải từ bỏ cuộc chiến tranh như là một mục tiêu vô vọng, bởi vì nó không thể đạt được một cái gì tương tự với cái giá mà nó phải trả.
    Chính khách đầu tiên phản ứng trước tình thế này là một người thuộc phái diều hâu khét tiếng, thượng nghị sĩ Xtrom Thơmând của bang Carolina Nam. Cuối buổi chiều đó ông ta đọc một bài diễn văn chống lại đạo luật về dân quyền chưa biểu quyết trong phòg họp thượng viện hầu như trống không khi một trợ tá trao cho ông ta một mẩu tin điện. Thơmând ngừng nói và đọc bức điện đó. Mặt ông ta đỏ gay lên và giơ hai bàn tay đâm vào nhau trong nỗi thất vọng đắng cay. Ông ta nói với Tổng thống Giônxơn như thể ông Tổng thống đang có mặt trong phòng họp ?oNgài hãy sử dụng quyền hành của mình để dội mưa bom lên đầu chúng đến mức chúng không còn chịu nổi, kiểm bom mà chúng ta đã tiến hành trong đại chiến II, nếu cần (tức là bom nguyên tử-ND). Bất cứ cái gì cần thiết để kết thúc cuộc chiến tranh này đều phải làm để cứu lấy sinh mạng của người Mỹ?. Ông đòi hỏi Tổng thống ?oTừ bỏi lối vờn dử? với cuộc chiến tranh này để cho người Mỹ phải hy sinh tính mạng. ?oChúng ta sẽ còn phải chờ đến bao lâu nữa? Bao nhiêu sinh mạng Mỹ còn phải hy sinh trước khi chúng ta có được một hành động cứng rắn và quyết định mà đáng ra chúng ta phải tiến hành nhiều năm trước đây?.
    Sáng hôm đó, Thượng viện đã có một hành động mà xem ra đã dọn đường cho sự chú ý đến lý lẽ của vị thượng nghị sĩ bang Carolina Nam này và những người cùng phe cánh với ông ta. Không tranh cãi gì mấy và không có phiếu nào phản đối, Thượng nghị viện đã thông qua việc cử Clác Clipphớt làm Bộ trưởng quốc phòng. Clipphớt được coi là người cánh hẩu của Linđân Giônsơn, một cựu chiến binh lạnh lùng và là người bảo vệ không nao núng chính sách chiến tranh của Giônsơn. Ở Oasinhtơn, nói chung người ta cho rằng ông ta sẽ có thái độ diều hâu hơn đối với chiến cuộc so với người tiền nhiệm là Robớt S.Mắcnamara, đã sắp mất chức tại Lầu năm góc.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đánh nhau trong đêm tối
    Ở Sài Gòn một người Mỹ khác, cũng ở bang Carolina Nam đang trăn trở thâu canh tại biệt thự của ông ta trên phố Trần Quý Cáp. Tướng Uyliêm C.Oétmolen liên tiếp nhận những báo cáo qua điện thoại về những cuộc tấn công mạnh mẽ của cộng sảng khắp miền Nam. Ông ta đã lường trước một cuộc tấn công của cộng sản, đặc biệt tại Khe Sanh và ở những nơi khác thuộc Bắc Trung phần, mà không hề lường đến một cái gì lại rộng lớn và được phối hợp tài tình đến thế.
    Trong những giờ đầu, ông còn có phần hoài nghi. Hầu như toàn bộ các thành phố khắp miền Nam đều bị tấn công từ trong hay ngoài, và chẳng ai biết cộng sản có bao nhiêu lực lượng dự trữ chưa tung ra. Sân bay Tân Sơn Nhất, nơi tổng hành dinh của Oét đóng, bị ba tiểu đoàn cộng sản tấn công. Hơn nữa, tình hình về phía lực lượng đồng minh lại hết sức mù mờ, những hành động của quân đội Cộng hoà và của dân chúng ra sao cũng chẳng rõ, và chỉ mới có những báo cáo ban đầu của các tiểu đoàn, trung đoàn và những tổ chiến đấu đặc biệt của quân Mỹ về việc họ triển khai những vị trí chiến đấu mới khắp miền Nam đang bốc lửa.
    Từ bối cảnh đó, cuộc đột kích vào sứ quán có vẻ là một cuộc quấy rối hơn là sự đe dọa, một chuyện nhỏ nhưng sẽ vượt khỏi tầm cỡ của nó do sự tập trung của báo chí Mỹ và sự quan tâm của chính phủ Mỹ. Họ không hề sợ sứ quán bị thất thủ mà sớm muộn họ cũng sẽ thắng trong trận chiến mà kẻ địch chỉ có khoảng một trung đội đó.
    Sự trấn an có tính chất thực dụng đó cũng đủ có tác dụng tốt đối với những trận đánh khác trong những cuộc chiến tranh khác, nhưng quả là không đáp ứng một cách hết sức bi thảm trong lúc này. Xem ra toàn thế giới đang hướng về sứ quán, và phán xét hành động này như thể toàn bộ cuộc chiến tranh sẽ được quyết định do kết quả của nó. Mỗi phút trôi qua trong sự băn khoăn của công chúng, chiếc đồng hồ chạy tích tắc cho đến giờ phát tin buổi tối của vô tuyến truyền hình ở Mỹ và thời hạn cắt bài vở của những tờ bái ra sáng hôm sau. Vấn đề thời gian vấn đề đã ám ảnh Hoa Kỳ suốt thời kỳ can thiệp vào Việt Nam, bỗng xuất hiện dưới hình thức hết sức gay gắt và phi lý của nó. Các nhà cầm quyền dân sự không chỉ đòi hỏi chiến thắng tại sứ quán, mà họ cần có chiến thắng đó tức thời. Ở thời buổi mà truyền thông đại chúng hiện đại nhanh như chớp, việc đo lường thắng lợi quân sự không chỉ là nó ra sao mà còn vào lúc nào.
    Vào 4 giờ sáng, giờ Sài Gòn, Đại sứ Bâncơ, quan một trợ tá, yêu cầu viên tổng trưởng cảnh sát Nam Việt, thiếu tướng Nguyễn Văn Luân, cho quân tiếp viện toà đại sứ. Câu trả lời từ đồn cảnh sát quận 1, ở cách sứ quán Mỹ một dãy nhà. Viên sĩ quan chỉ huy, một đại uý, đã từ chối không hành động. Anh ta bảo trong đêm tối chả ai có thể phân biệt được bạn thù và quân của ông ta sẽ bị kẹt giữa hai làn đạn. Nếu người Mỹ có thể đến đồn ông ta, đưa cảnh sát của ông ta đến sứ quán và chỉ cho họ đầu là *********, thì lại là chuyện khác. Một lính thuỷ đánh bộ Mỹ và một cảnh sát quân sự Mỹ được cử đến đồn, nhưng người Việt đã không cho họ vượt qua các chướng ngại vật.
    Vào 4 giờ 20 phút, Cohum tham tán chính trị của sứ quán gọi điện thoại thúc Oétmolen về việc tổ chức một lực lượng phản công và di tản những người bị thương ở sứ quán. Tướng Oét ra lệnh cho tiểu đoàn quân cảnh 716, đơn vị chiến đấu lớn nhất của Mỹ trong thành phố, phải quét sạch quân địch cần khỏi sứ quan và coi đó là nhiệm vụ ?oưu tiên số 1?.
    Sở chỉ huy quân cảnh đáp ứng lại bằng yêu cầu có xe thiết giáp và máy bay trực thăng dùng vào việc tấn công chiếm lại sứ quán. Những phương tiện quân sự hạng nặng như vật chỉ có thể điều từ các đơn vị nằm ngoài thành phố. Trong lúc đó, lực lượng quân cảnh đưa thêm quân đến sứ quán. Viên trung uý quân cảnh chỉ huy ở đây đã nghiên cứu tình thế và không chịu tiến đánh vào sứ quán trong đêm tối. Mọi cánh cổng đều khóa chốt, và lỗ thủng tại bức tường bao bọc sứ quán thì những người Mỹ ở phía ngoài chưa lần ra được ở chỗ nào. ?o********* thì ở trong sứ quán, họ không đi đâu cả. Chẳng ai có thể lọt vào, mà chẳng ai có thể lọt ra ngoài?, một lính quân cảnh đã báo cáo vậy qua máy bộ đàm. Viên trung uý bảo rằng cứ phải đợi đến khi trời sáng bởi vì chúng ta đã vây chúng lại rồi. Qua giọng nói của anh ta, chẳng tỏ ra chút gì khẩn cấp.
    Trong khu sứ quán, hai bên vẫn tiếp tục nhiệm vụ theo hết khả năng của họ mà sẵn sàng chiến đấu đến phút cuối cùng. Các chiến sĩ ********* chiếm lĩnh các vị trí trong hay sau các bồn hoa và các nơi jgác trong khu vườn để bắn trở lại trước một hoả lực đối phương ngày càng tăng từ các mái nhà quanh sứ quán. Đại tá Giacốpxân, người đã từng trải bao chiến trận, đứng ngắm những người lính ********* suốt cả đêm ấy từ chiếc cửa sổ biệt thự của ông nằm sau sứ quán. Ông ta có ấn tượng sâu sắc với sự dũng cảm phi thường của họ trong chiến đấu. Chẳng một ai trong số họ tỏ ra có một chút gì nao núng hay chịu đầu hàng.
    Những người Mỹ trong khu nhà sứ quán thì lại nằm ngoài vòng chiến một cách kỳ lạ, trừ khi một quả rocket hay những viên đạn bắn vào toà sứ quán. Họ không nhìn thấy gì về cuộc chiến đấu đang diễn ra xung quanh họ, và đôi tai họ chỉ biết được rằng cuộc chiến đấu đang hết sức dữ dằn. Còn họ thì hầu như bất lực. Chỉ có việc chờ đợi trong nỗi lo âu căng thẳng và thất vọng trong cảnh cùng đường.
    Mặt khác tiếng nói của họ lại đi khắp thành phố và trên thế giới qua dây điện thoại, và những máy điện thoại thì cứ liên tục réo chuông. Oend và Griphin trong phòng mật mã trên lầu 4 đã nhận điện thoại suốt đêm từ phòng theo dõi tình hình của Nhà Trắng và từ trung tâm theo dõi các hoạt động của Bộ ngoại giao ở Oasinhtơn, cách nơi này ½ vòng trái đất; từ vị tướng lính thuỷ đánh bộ ở Đà Nẵng, cách đây 500 dặm; từ sở chỉ huy quân sự Mỹ tại sân bay Tân Sơn Nhất; từ nhà của viên tham tán chính trị sứ quán; và cả từ một nhân viên viện trợ nước ngoài gọi điện thoại để tìm hiểu là chuyện gì đang xảy ra. Thật giống như là phòng gọi điện thoại trên chiếc tàu Titanic khi chiếc tàu này đang chìm dần xuống biển.
    Trung sĩ Harpơ, người hầu như suốt đêm nằm lom khom trên hành lang để chờ ********* xông vào, cứ lao tới máy điện thoại mỗi lần nó réo lên vì sợ tiếng chuông báo động cho ********* ở bên ngoài. Một cú điện thoại vào nửa đêm là của đại uý lính thuỷ đánh bộ Sáclơ Xamxân, trợ tá của tướng Oét, ông này đang kiểm tra tình hình để báo cáo lại với viên tư lệnh quân lực Mỹ.
    -Có chuyện gì thế trung sĩ? Ông ta hỏi vì nhận thấy giọng nói kích động của bên kia đầu dây.
    -********* đang ở ngoài cửa đấy, tôi nói cho ông rõ.
    -Anh không sợ? Hay không việc gì chứ? Xamxân hỏi, nghĩ bụng có thể Harpơ có khi phóng đại sự việc lên.
    -Tôi thề là không đâu.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Một chiếc trực thăng quân sự Mỹ mang một tốp lính từ sư đoàn Không vận 101 mưu toan đổ quân lên nóc nhà sứ quán vào lúc 5 giờ sáng, nhưng đã thu hút một loạt hoả lực của ********* bắn lên từ mặt đất, chiếc máy bay vội vàng quay trở về.
    Tại sở chỉ huy Long Bình, nằm cách thành phố 15 dặm, thiếu tướng Phrêđêrich Wâyân, tư lệnh các lực lượng Mỹ vùng Sài Gòn biết tin là chiếc trực thăng này quay trở lại. Thấy rằng không cần thiết phải đổ quân trong đêm tối đầy nguy hiểm, ông ra lệnh cho lực lượng tiến công chờ cho đến khi có thời cơ thuận lợi.
    Vào khoảng 6 giờ 15 phút sáng, một chiếc trực thăng cán gáo đã có thể đổ xuống nóc nhà sứ quán. Nó để lại đó 3 hòm đạn súng máy M.16 và cất cánh mang theo Zahuranich, trung sĩ Xôtô và Fisơ.
    Những người bảo vệ sứ quán ở trong toà nhà thì được trang bị bằng đủ các loại súng lục và những vũ khí nhẹ khác. Vì không có ai có trong tay một khẩu M.16 nào, nên những hòm đạn do trực thăng tiếp viện đã nằm vô dụng trên nóc nhà suốt đêm.
    Thế giới bên ngoài lệ thuộc vào những phóng viên đang tụ tập cách đó một dãy nhà. Các nhà báo tìm mọi cách để đưa tin bằng những gì họ nghe, họ nhìn và họ hỏi.
    Bari Zothiân, người phát ngôn báo chí của Mỹ, cũng chẳng biết V.C. đã đột nhập vào toà nhà sứ quán chưa. Cả những người ở lầu 4 sứ quán cũng thế. Một trung sĩ quân cảnh người quá nặng nề và quá hoảng hốt đã nói với nhóm nhà báo bằng một giọng kích động rằng: ?oHọ đang trong toà nhà?.
    Pitơ Anét của hãng AP là một phóng viên chiến tranh kỳ cự đã nhận được giải Pulítgiơ về những bài vở viết về cuộc chiến tranh Việt Nam, cố chạy đi chạy lại ngoài bức tường sứ quán đến chiếc máy điện thoại cách đó một dãy nhà. Anh ta đang liên tục đưa tin cho văn phòng AP tại ngôi nhà Eđen. Dựa vào tài liệu Anét phát ra tại nơi xảy ra chiến sự hãng AP đã phát ra tin quan trọng đầu tiên rằng V.C. đang trong toà nhà sứ quán. Bản tin viết:
    ?o********* tấn công Sài Gòn hôm thứ tư và chiếm một phần sứ quán Mỹ. Lực lượng quân cảnh Mỹ tìm cách tràn vào sứ quán khi trời bắt đầu hừng sáng, nhưng bị đẩy lùi trước một hoả lực rất mạnh từ sứ quán bắn ra??
    Ở Niu Yoók, đài truyền hình NBC đã đưa tin về sự kiện thảm bại này cho khoảng 14 triệu khán giả Mỹ.
    ?o********* đã chiếm một phần sứ quán Mỹ ở Sài Gòn sáng sớm thứ tư, theo giờ Việt Nam. Những người bắn tỉa đang ở trong các toà nhà và trên các mái nhà gần sứ quán và đang bắn vào các nhân viên Mỹ trong khu sứ quán.
    Hai mươi lính biệt động cảm tử được tin là đang chiếm giữ tầng một của toà đại sứ.
    Cuộc tấn công vào sứ quán và những căn cứ chủ chốt ở Sài Gòn, ở sân bay Tân Sơn Nhất và Biên Hoà nằm phía bắc Sài Gòn, là đỉnh cao của cuộc tấn công lớn nhất và được phối hợp ở trình độ cao nhất của đối phương trong cuộc chiến tranh này. Không có tin tức gì về thương vong của phía đồng minh ở Sài Gòn, nhưng người ta cho là cao.
    Các cuộc tấn công xảy ra khi hàng ngàn nhân viên dân sự đang đón mừng năm mới theo âm lịch và vào những lúc mà người ta không thể phân biệt được đầu là tiếng nổ của lựu pháo và các loại súng nhỏ với tiếng pháo mà những người vui tết đã đốt lên??
    Ở Oasinhtơn, các quan chức cao cấp của chính phủ ngồi trước màn ảnh tivi với bộ mặt đầy lo lắng. Họ đang theo dõi buổi phát tin tối, vốn là nguồn thông tin hàng đầu quyết định thái độ hầu hết nhân dân Mỹ.
    Vào kúc 6 giờ 40 phút chiều ở Oasinhtơn, Philíp Habib, người điều hành công việc về Việt Nam của Bộ ngoại giao đã gọi điện thoại khẩn cho trụ sở tạm thời của chỉ huy sứ quán ở Sài Gòn. Tham tán chính trị của sứ quán Cohum cầm ống nghe ở đầu dây này. Hai phút sau, Cohum nói chuyện bằng điện thoại với trung tâm các hoạt động chiến đấu của bộ chỉ huy quân sự Mỹ, nơi mà các tin tức dồn dập đưa đến các trận đánh lớn ở vùng ngoại vi trung tâm này tại sân bay Tân Sơn Nhất và khắp miền Nam. Cohum báo tin cho các sĩ quan phụ trách các hoạt động quân sự và những người này hẳn đã không thể tin được vài cái tin rằng ?omối quan tâm chính? của Oasinhtơn là lấy lại sứ quán Mỹ ở trung tâm Sài Gòn. Họ trả lời có phần dè dặt rằng bức tường cao bảo vệ sứ quán là một ?oVấn đề chiến thuật quan trọng?-vì ********* thì ở bên trong còn những lực lượng cứu viện của MỸ lại ở bên ngoài. Tuy nhiên, Cohum được thông báo là một lực lượng cứu viện Mỹ đang xuất phát.
    Không thoả mãn với sự trả lời đó, Cohum gọi điện thoại cho tướng Oét. Ông ta nhấn mạnh: Oasinhtơn quan tâm đến sứ quán. Tướng Oét trấn an ông ta rằng lính chở bằng trực thăng sẽ đổ bộ xuống sứ quán ngay thôi.
    Khi trời hửng sáng, sĩ quan an ninh Rôbớt Fơrây loạng choạng vấp phải vật gì nằm trên vỉa hè đằng trước sứ quán. Đó là đống gạch vụn mà công binh ********* đã phá bức tường thành lỗ thủng để chui vào trước đây 4 giờ. Lần đầu tiên họ hiểu ra ********* đã chui vào được khu sứ quán bằng cách nào trong khi quân cứu viện Mỹ lại bị khoá chặt ở bên ngoài không vào được. Fơrây thận trọng chui qua lỗ tường, vào trong, anh ta thấy một lính ********* bị thương nặng đang cố gượng ngồi lên trên bãi cỏ và lăm lăm quả lựu đạn trong tay sẵn sàng ném ra. Fơrây ngắm mục tiêu người lính trong đường ngắm của khẩu súng trong khi một tia chớp màu da cam loé lên trước mặt anh ta, và cảm thấy xỉu đi trước sức dội của vụ nổ. Người lính biệt động cộng sản đã tháo chốt quả lựu đạn, nhưng không đủ sức để ném nó đi.
    Cổng trước sứ quán bị phá hỏng nghiêm trọng. Sau nhiều giờ tìm cách phá cổng, lính quân cảnh đã bắn vỡ khóa cổng và lấy xe Jeep húc mở tung cổng ra. Họ lao vào khu sứ quán, theo sau là tốp ký giả. Xác người nằm ngổn ngang khắp sân. Hầu như tất cả ********* đều đã chết, đang hấp hối hay đã trốn thoát.
    Cùng lúc đó một chiếc trực thăng của sư đoàn Không vận 101 hạ cánh trên nóc sứ quán. Alen Oend, viên sĩ quan trực ban, ra khỏi phòng mật mã trên lầu 4 và lên cầu thang máy bay. Khi bước ra khỏi cầu thàng ở tầng 6, năm lính nhảy dù Mỹ nai nịt chỉnh tề đón mừng anh ta. Họ trang bị đầy đủ: súng M.16, súng phóng lựu M.79, súng phóng lựu đạn tay, lựu đạn và dao găm.
    Oend gặp viên chỉ huy. Thiếu ta Hilen Xuát, 33 tuổi, tiến lên và trao cho anh ta quả lựu đạn, nhưng anh ta từ chối. Oend nói với viên chỉ huy lính dù rằng theo anh biết được cho đến giờ thì không có ********* trong toà nhà. Để đề phòng, Xuát và lính anh ta lần lượt đi kiểm tra toà nhà từng tầng một trong khi trực thăng tiếp tục đỏ quân xuống nóc nhà với nhịp độ mỗi lúc một nhanh. Họ chả thấy bóng dáng một ********* nào nữa cả.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Hậu quả
    Người ta chính thức thông báo lấy lại sứ quán vào lúc 9 giờ 15 phút sáng, 6 giờ 28 phút sau khi phát ra lời kêu cứu đầu tiên.
    Vào lúc 9 giờ 20 phút, tướng Oétmolen bước qua chiếc cổng sứ quán bị tan hoang để kiểm tra tình hình. Trên nền thềm cao chạy dài dưới mái che của toà nhà là những lính ********* hoặc đã chết hoặc bị trọng thương. Xác Đaniên và Xibát vẫn nằm tại chỗ mà họ đã ngã xuống bên trong cổng ngách. Một số con cái người chết đang khóc lóc. Phóng iên tin và ảnh có mặt khắp mọi chỗ. Két Oeb của hãng UPI, trong một tin tường thuật rất đáng nhớ đã viết rằng quang cảnh nơi này giống một cửa hàng thịt ở Eđen!
    Đám nhà báo lắm mồm chợt im bặt khi tướng Oét đi qua chiếc sân tan hoang của sứ quán. Cuộc vây chiếm sứ quán kéo dài 6 giờ rưỡi của ********* đối với nhiều người trong số họ xem ra lạư thất bại đau đầu nhất mà Mỹ đã gặp ở Việt Nam. Mặc dù quy mô tấn công nhỏ, nhưng chuyện thì thật tầy đình. Dường như nó đã vạch ra sự dối trá của cái hình ảnh màu hồng và những lời tuyên bố chiến thắng mà tướng Oét và nhiều người khác đưa ra.
    Lần này các nhà báo cảm thấy tội nghiệp cho tướng Oét. Ông ta sẽ có thể nói những gì trước thảm họa này? Họ tin rằng ông ta phải nói một vài câu.
    Oétmolen bước nhanh vào chiếc hành lang và bắt tay trung sĩ Harpơ, người vẫn đang ngồi tại vị trí của mình. Theo yêu cầu của tướng Oét, Oend gọi điện thoại ưu tiên cho Philip Habi ở Oasinhtơn. Tướng Oét nói trong khoản 20 phút, miêu tả tình hình và tìm hết cách để làm dịu sự kinh hoàng đang lan tràn ở thủ đô Hoa Kỳ.
    Ông ta bỏ ống nói xuống, nói vài câu với Bari Zothiân, cố vấn ngoại vụ, và bước ra để gặp các nhà báo. Ông ta mặc bộ quần áo lao động hồ cứng và là phẳng, với 4 ngôi sao đính trên ve áo.
    Đối diện với nửa vòng người đứng quanh gồm các nhà báo, các phóng viên ảnh và truyền hình, tướng Oét đưa ra nhận định về mặt quân sự ?onhững kế hoạch chu đáo của kẻ địch đã phá sản?. Toà nhà bị hư hại ít ở bên ngoài. Tất cả kẻ địch đột nhập vào khu sứ quán mà theo tôi biết đến nay đều bị giết. 19 xác đã tìm thấy trong khu sứ quán-xác kẻ thù.
    Tướng Oét nói rằng, những cuộc tấn công vào các vùng dân cư khắp miền Nam là được tính toán một cách ?ohết sức lừa bịp? để gây ra sự kinh hoàng lớn nhất ở Việt Nam, và nói lên quan điểm của mình rằng họ đã bị ?ođánh lạc hướng. Vì những nỗ lực của kẻ đichj vẫn là nhằm vào Khe Sanh và vùng bắc Trung phần?. Kẻ địch đã bộc lộ lực lượng do chiến lược của họ đã chịu thương vong lớn? Với sự đồng ý của chúng tôi, Tổng thống Thiệu đã thủ tiêu lệnh ngừng bắn, quân đội Mỹ tiếp tục tấn công và truy kích kẻ địch hết sức mãnh liệt. Ông ta tuyên bố.
    Các nhà báo hình như không còn tin vào tai mình nữa. Tướng Oét đang đứng trên đống hoang tàn và nói rằng mọi việc đều vĩ đại.
    Như thường xảy ra trong chiến tranh Việt Nam, việc ?ođếm xác? lính ********* tại sứ quán Mỹ đã tỏ ra là thổi phồng. Bốn xác người Việt là 4 lái xe dân sự trực đêm tại đội xe của sứ quán đêm đó. Một nhân viên an ninh Mỹ sau đó kể lại rằng anh ta thấy một ?okẻ địch? gục xuống phía sau chiếc bồn cây bằng xi măng, gào to và cầm một cái gì trong tay quơ lên loạn xạ trước khi bị giết. Đó là tấm thẻ chứng minh nhân viên sứ quán Mỹ của anh ta.
    Một trong nhữn người lái xe bất hạnh này để lại một vợ và bảy con, một người nữa là một vợ và 6 con còn người thứ ba một vợ và một con.
    Những lính thuỷ đánh bộ tham gia bảo vệ sứ quán nói rằng họ thấy một người lái xe Việt Nam thứ tư có biệt danh là ?oXátsơmo? cầm súng bắn vào họ. Tên thật anh ta là N.V.D. đã liên tục làm việc cho sứ quán từ năm 1950. Anh ta đã từng có lần lái xe riêng cho đại sứ Mỹ. Mọi người trong sứ quán đều biết anh, người nổi tiếng thân Mỹ nhất trong số nhân viên người Việt Nam làm việc cho sứ quán. Anh ta phải là *********, một viên bí thư sứ quán nói, bởi vì anh ta khôn ngoan hơn những lái xe khác. Sau cuộc chiến, người Mỹ tìm thấy cạnh xác anh một khẩu AK.47, và khẩu súng lục Braoninh 47 dắt ở thắt lưng?
    Ba lính gác lính thuỷ đánh bộ kéo lá vờ sao vạch lên cột cờ trước toà nàh sứ quán đã bị một phen kinh hoàng vào lúc 11 giờ 45 phút sáng, 9 giờ sau khi cuộc tấn công bắt đầu. Một lát sau đại sứ Bâncơ xuất hiện tại sứ quán bất chấp sự can ngăn của lính gác bảo vệ và đi một vòng quanh khắp sứ quán để thị sát. Bân cơ trông rất tinh tươm trong chiếc quần vải chéo, chiếc sơmi trắng tinh và đôi giầy xỏ chân. Quây quanh ông ta là những lính thuỷ đánh bộ, những lính quân cảnh, lính nhảy dù và những nhân viên an ninh thuộc bộ ngoại giao mang vẻ mặt tối sầm và bê bết máu em vì trận chiến đấu vừa qua. Ngài đại sứ nói với các ký giả rằng ********* đã thất bại trong cuộc tấn công này ?ovì họ không bao giờ có thể lọt vào căn cứ sứ quán được?.
    Trận đột kích sứ quán đã chiếm lĩnh những hàng tít lớn trên nhiều báo Mỹ ra ngày hôm sau. Tờ Đâyli Niuz (tin Hàng ngày) xuất bản tại Oasintơn, đăng xã luận trên trang nhất một việc không bình thường, dưới đầu đề ?oChúng ta đã ở đâu? Chúng ta hiện ở đâu??. Kèm theo bài xã luận là một tranh biếm hoạ vẽ tướng Oét đang cụng đầu với một du kích ********* tại một góc ngôi nhà được mệnh danh là ?osứ quán Mỹ Sài Gòn?. Các ngôi sao trên quân hàm vị tướng này đang bay ra khỏi bộ quân phục của ông ta, còn khẩu súng của ông ta thì dúi nòng xuống đất. Người lính ********* thì dí họng súng vào bụng ông ta. Phụ đề bức tranh viết: ?oChúng ta đã trải qua một bước ngoặt?-Tướng Oétmolen.
    Ngay sau khi trận chiến đấu tại sứ quán chấm dứt, chính phủ Mỹ bắt đầu biến sư Mỹ ở Sài Gòn thành một sở chỉ huy được phòng ngự hết sức chắc chắn. Quân đội chuyển giao cho lính thuỷ đánh bộ Bến Cát sứ quán nào súng máy, súng tiểu liên M.16, lựu đạn, mặt nạ phòng hơi cay và các vũ khí và trang bị khác. Người ta xây những ổ đặt súng máy trên nóc sứ quán. Những lao công thì dọn dẹp những chậu hoa tròn đã từng trở thành những vị trí chiến đấu tốt cho các tay súng ********* trong khu vườn sứ quán và mang đến đặt tại một công viên trung tâm thành phố. Một hệ thống thông tin liên lạc hết sức tinh vi, có thể làm cho những người bảo vệ sứ quán có thể thường xuyên liên lạc với các đơn vị bên ngoài, được lắp đặt?
    Về những người có ?ochiến công? bảo vệ sứ quán, thì trung sĩ Harpơ được thưởng mề đây Sao Đồng vì một mình đã chống chọi bảo vệ sứ quán, và sau đó anh ta rời khỏi hàng ngũ lính thuỷ đánh bộ để trở thành một phó quản đốc một trạm dịch vụ ở Minexôta, bang quê quán của anh ta. Oend, viên sĩ quan trực ban của sứ quán hôm đó, các sĩ quan an ninh Krămxây, Phơrây và nhân viên mật mã Gripphin thì được bằng khen của bộ ngoại giao vì hành động anh hùng. Sau đó họ được chuyển đi làm ở nước khác.
    Gioocgiơ Giacốpxân cũng được bằng khen bộ ngoại giao vì hành động anh hùng. Tướng Oét đã tặng ông ta một khẩu súng AK.47 mà một ********* bị tử thương bỏ lại, khẩu súng gắn một tấm biển nhỏ bằng đồng rất đẹp có ghi hàng chữ: ?oMột ********* bắn khẩu súng này nhưng không trúng. Ngài đại tá bắn lại và không chệch đích?. Giacốpxân vẫn tiếp tục sống tại biệt thự của ông trong khu sứ quán gần hai năm nữa. Đến lúc này, đếm trong những khẩu súng lục cất trong các căn phòng, tất cả có tới 37 khẩu súng trong ngôi nhà của ông ta.
  7. solitary

    solitary Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/12/2003
    Bài viết:
    267
    Đã được thích:
    0
    Trong trang vietnam-war.info có trích dẫn câu nói của ***** : " các ông giết 10 người Việt, chúng tôi chỉ cần giết 1 người Pháp (?)...."
    Hình như tôi đọc trong " Chiến đấu giữa vòng vây" thì con số này là 4 mà. Ai giúp tôi làm rõ chỗ này với!
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 2: Nước Mỹ đêm hôm trước
    Trận tuyến quan trọng nhất và hay biến động nhất trong mùa hè và mùa thu năm 1967 là trên địa bàn dư luận Mỹ. Ngay từ đầu việc Mỹ can thiệp ồ ạt vào Việt Nam đã là một cuộc chạy đua giữa việc đạt tới mục tiêu và sự kiên nhẫn, mà bây giờ thì sự kiên nhẫn đã cạn rồi. Hàng triệu người Mỹ, những người có khuynh hướng giao phó cuộc chiến cho Tổng thống và các tướng lĩnh, bây giờ càng ngày càng thất vọng, nhức nhối và hoài nghi về cuộc xung đột ở bán đảo Đông Dương. Nhiều người trong số họ đã chấp nhận chiến tranh như là một cuộc phiêu lưu chống cộng đáng mong muốn chừng nào mà hành động đó tỏ ra thắng lợi và tương đối ít đau đớn, nhưng rồi thắng lợi đã trở thành điều có thể bàn cãi và mơ hồ, còn sự đau đớn thì ngày càng tăng.
    Chính phủ nói rằng, chiến tranh đang thắng lợi, nhưng vài tháng một, họ lại phải gửi quân sang Việt Nam để bổ sung và thương vong lẫn chi phí chiến tranh cũng theo đà đó mà tăng lên. Không hề có sự đứt đoạn nào trong các bản tin hàng ngày về sự ?ođếm xác? và những cuộc ném bom, hay những cảnh hciến đấu trên màn ảnh ti vi trong chương trình thời sự buổi tối hàng ngày.
    Đáp lại mối hoài nghi ngày càng tăng, ở hậu phương, chính phủ phải nhân đôi những lời tuyên bố về thắng lợi ngoài tiền phương. Dưới sự điều khiển của Nhà Trắng, ngành hành pháp phát động một chiến dịch đọc diễn văn và công bố số liệu để chứng minh rằng ánh sáng đang rõ dần ở cuối đường hầm. Nhưng sự đời lại không diễn ra như chính phủ mong đợi. Bình minh ở châu Á không đến một cách từ tốn mà như một làn sét đánh.
    Hành động này bắt đầu từ mùa xuân, tướng Oét lại báo tin về rằng ông ta cần thêm quân. Khoảng 40 vạn quân chiến đấu Mỹ đang có mặt ở miền Nam Việt Nam, và quân số dự tính sẽ tăng lên đến 47 vạn cho đến hết năm. Ngày 27-4-1967 tướng Oét đưa ra hai đề án để Tổng thống chọn lựa:
    1.Một lực lượng cần thiết tối thiểu gồm 8 vạn quân bổ sung để đối phó với sự tăng cường quân lực và vũ khí của đối phương trong lòng miền Nam Việt Nam và các nước láng giềng.
    2.Một lực lượng chọn lựa gồm 118.000 được tăng cường thêm sẽ tăng sức ép đối cới kẻ địch và giành thắng lợi nhanh chóng hơn trong chiến tranh.
    Vấn đề đặt ra quanh chiếc bàn có dáng dấp một chiếc quan tài ở Phòng Nội Các là khi nào thì cuộc chiến tranh kéo dài và đầy thất vọng này kết thúc? Một sự tiên đoán nào cũng rất khó khăn. Tướng Oét trả lời vậy, nhưng ông đoán là ít nhất cũng mất 5 năm để kết thúc cuộc chiến với lực lượng nổ sung tối thiểu. Nếu lực lượng chọn lựa được chấp nhận, cuộc chiến tranh có thể rút ngắn lại trong vòng ba năm.
    Sự phỏng đoán của tướng Oét được đón nhận với những nét mặt ủ ê. Liệu công chúng Mỹ có thể làm ngơ cuộc chiến tranh này thêm 5 năm nữa, hay dù chỉ ba năm nữa thôi? Làm thế nào để chỉ ra cho công chúng những kết quả nhanh chóng và đáng chú ý để biện minh cho việc tiếp tục tăng cường quân sự và để chứng minh rằng cuộc chiến tranh không hề bị sa lầy mà có triển vọng thắng lợi?
    Oan Rôxtâu, cố vấn Tổng thống về đối ngoại gợi ý một phương sách đạt thành tựu chung nhanh chóng: Đổ bộ lên Bắc Việt Nam. Ý kiến này đã được nghiên cứu chi tiết trong năm trước mà người bí mật vạch ra kế hoạch là Chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân Ol Uylơ, trong đó có ba dự án riêng biệt nhau. Mỗi dự án đều hướng tới một cuộc đổ quân bằng đường bộ, đường không và đường biển, một cuộc đổ bộ vào vùng Vinh và 2 cuộc khác gần giới tuyến quân sự tạm thời. Rắc rối là ở chỗ mỗi cuộc đổ quân đều cần đến 3 sư đoàn. Một số quân sẽ đi thẳng từ Mỹ (qua căn cứ Okinaoa) nhưng phần lớn chỉ thị do bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam đảm nhiệm. Tuy nhiên tướng Oét đã báo cáo với Uylơ rằng ông ta không có quân dư để đảm nhiệm công việc đó.
    Vấn đề sức mạnh quân sự và ý chí chính trị đã là trung tâm của vấn đề đưa chiến tranh đến miền Bắc Việt Nam bàn năm 1966. Bây giờ, cùng hai vấn đề đó đang đặt ra với những người trong căn phòng nội các vào tháng 4 năm 1967. Nếu tướng Oét được cấp thêm 20 vạn quân như đề nghị tối đa của ông, Mỹ sẽ có một lực lượng to lớn để tổ chức những cuộc đột nhập lên phần đất phía Nam của miền Bắc Việt Nam, hay cả đột nhập vào con đường tiếp tế của cộng sản và các vùng đất thánh ở Lào và Campuchia. Cái quyết định cơ bản là chính trị và dẫn đến vấn đề liệu nhân dân Mỹ ủng hộ cái gì trong cuộc chiến tranh hạn chế và giới lãnh đạo chính trị Mỹ cho rằng cuộc chiến tranh đáng giá với cái gì trong điều kiện gây ra một nguy cơ toàn cầu.
    Nếu người ta quyết định sản xuất đưa chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam, tướng Oét báo cáo, thì những công việc chuẩn bị sẽ không xong trước mùa xuân năm 1968 vì điều kiện thời tiết của Bắc Việt Nam. Tổng thống xem ra không chú ý lắm đến chủ trương này và tạm thời vấn đề được gạt ra.
    Tổng thống Giônxơn quyết định tiếp tục tăng càng ít quân càng tốt mà không phá bỏ lời hứa công khai của ông sẽ đáp ứng nhu cầu của tướng Oét. Mười tuần sau cuộc họp ở Oasinhtơn, bộ trưởng quốc phòng Mắc-Namara bay sang Sài Gòn để thương lượng một giải pháp tối thiểu về yêu cầu tăng quân ?ocần thiết tối thiểu? của vị tư lệnh chiến trường. Cuối cùng, tướng Oét đồng ý chấp nhận 55.000 quân bổ sung, thấp hơn con số 8 vạn mà ông đã đề nghị, và kèm thêm lời hứa của Oasinhtơn có thêm số quân do Mỹ đài thọ từ Thái Lan hay Nam Triều Tiên tiếp tục đến sau này.
    Sự gia tăng cuối cùng này về quân lực Mỹ sẽ nâng cao số quân Mỹ ở miền Nam lên tới 525 ngàn, vượt qua cái ngưỡng quan trọng về mặt tâm lý là ½ triệu và con số quân Mỹ cao nhất tham gia cuộc chiến tranh Triều Tiên. Một hậu quả thực tế lại còn to lớn hơn: Cần phải có thêm nhiều tỷ đô la nữa hàng năm đê chi cho đội quân Viễn chinh này.
    Đây là đòn cuối cùng đánh vào chính sách kinh tế ?osáng và bỏ? vốn mỏnh manh của Tổng thống Giônxơn, chính sách chiến tranh Việt Nam và Xã hội Vĩ đại, ?otất cả đều không có kiểm soát kinh tế hay việc tăng thuế nói chung?. Chính sách ?okhông có một hy sinh nào? này đến lượt nó là cột chống quan trọng cho sự đồng tình chung thời Giônxơn đang tàn lụi, nhưng bây giờ thì các nhà kinh tế đã báo động rằng phải có một thứ hy sinh nào đó mới được. Ngày 18, Tổng thống đứng trước chiếc bảng đen đầy nững con số ngân sách và đề nghị tăng 10% thuế đánh vào thu nhập cá nhân và tổ hợp. Đồng thời, ông tuyên bố sẽ gửi 45.000 đến 50.000 quân bổ sung cho chiến trường Nam Việt Nam vào những tháng tới.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cho đến lúc bấy giờ, hầu hết người dân Mỹ chưa từng bị yêu sách điều gì hay đóng góp chút gì để hỗ trợ cho chuộc chiến tranh. Đối với hầu hết người Mỹ, cuộc xung đột thật xa xôi với sinh mạng và kinh nghiệm của họ. Đối với con số 13 triệu thanh niên của đất nước này ở lứa tuổi từ 18 đến 26, khoảng 1/50 tham gia nghĩa vụquân sự trong 3 năm 1965-1967. Trong số người đi quân dịch, không quá một nửa cầm súng sang Việt Nam ngay cả vào lúc đỉnh cao của các hoạt động quân sự. Đối với nhóm người được đưa đến vùng chiến sự, khoảng 1/50 bị giết. Đối với những lời bàn tán về những quan tài đưa về nước, hiển nhiên là đại đa số trong 200 triệu người Mỹ tự cá nhân họ không biết một ai trong số 13.000 người chết khi làm nhiệm vụ ở Việt Nam. Từ năm 1961 đến mùa hè năm 1967, hàng năm còn có nhiều người Mỹ hơn thế chết vì ngã, hai lần người chết nhiều hơn về bệnh xơ gan và 4 lần nhiều hơn chết về tai nạn ô tô.
    Giữa năm 1967, chi phí chiến tranh đã đạt tới mức 20 tỷ hàng năm, đủ để làm mất cân đối ngân sách quốc gia và buộc Tổng thống Giônxơn phải tăng thuế. So sánh với các cuộc chiến tranh khác mà hầu hết người ta còn nhớ, tổn thất về kinh tế là khiêm tốn.
    Đối với đại đa số người Mỹ, cuộc chiến tranh không phải là một vấn đề đạo lý mà là một vấn đề thực tế. Tâm lý yêu nước, chống cộng và thường tuân theo sự lãnh đạo của Tổng thống trong vấn đề chiến tranh hay hoà bình, hầu hết người Mỹ chỉ trở nên chán nản sau khi cuộc chiến tranh bị kéo dài và những nghi ngờ ngày càng tăng đối với những bước tiến quân sự đến một thắng lợi có thể sờ thấy được. Một số muốn tăng cường ném bom, một số muốn một sự giải quyết bằng thương lượng và rút quân từng bước còn nhiều người thì ủng hộ bất cứ cách nào xem ra có thể kết thúc được chiến tranh. Công chúng không tin tưởng và bực dọc. Có nhiều điều thực trong lời nói đùa về một bà nội trợ nói với người đi điều tra dư luận tại cửa trước ngôi nhà rằng: ?oTôi tán thành 47% cho leo thang, 47 % cho việc rút khỏi chiến tranh và phần còn lại thì chưa quyết định?.
    Trong số 250 hạ nghị sĩ trả lời cuộc điều tra của tờ Người hướng dẫn Thiên Chúa giáo vào tháng 9, 43 người đã chuyển từ lập trường ủng hộ chính sách chiến tranh của chính quyền sang lập trường tìm một lối thoát cho cuộc chiến tranh này. Một trò giải trí hẫp dẫn trong mùa hè và mùa thu năm nay là ngắm sự sụp đổ của ván bài đôminô tại Quốc hội và tìm hiểu ai đã thay đổi lập trường và lý do vì sao.
    Một trong những người dẫn đầu là thượng nghị sĩ Motân của bang Kentắcky, cựu chủ tịch Đảng cộng hoà, nổi tiếng về sự sắc sảo về chính trị, là phụ tá bộ trưởng ngoại giao thời chính quyền Aixenhao, ông ta đóng vai trò không đáng kể trong quá trình cam kết của Mỹ đối với Việt Nam và gần đây giống như phần lớn nhân vật trong Quốc hội, là một người ủng hộ, những hành động quân sự của Hoa Kỳ trên vùng đất xa xôi kia. Nhưng ông ta ngày càng chán ngán với những kết quả thu được, và sau khi những giáo viên phổ thông, những lái xe tắc xi và những người dân bình thường ở tỉnh lẻ tại một bang có tiếng là ?odiều hâu? đã ca cẩm vê sự chi phí của cuộc chiến tranh, ông ta đã thay đổi lập trường. Trong mộc cuộc phỏng vấn, ông ta tuyên bố: ?oTôi là một người thuộc phái diều hâu triệt để, tôi hoàn toàn tán thành việc ném bom. Tôi từng nghĩ là mỗi khi phát động chiến tranh ta phải kết thúc nó trong vòng 6 tháng. Nhưng tôi đã lầm??. Nhiều lần sau đó, Motân tuyên bố rằng chính sách Việt Nam của Mỹ là ?ophá sản? và kêu gọi ngừng ném bom, chấm dứt những cuộc hành quân ?otìm và diệt?, giảm bớt một cách đáng kể quân Mỹ ở Việt Nam và có những nỗ lực mới để tìm kiếm một giải pháp bằng thương lượng.
    Ở Hạ viện, một số những người ?othay đổi lập trường? là Pôn Phinđlây, trước đây vốn là một chính khách diều hâu, là Clôt Pépơ, An Uman, người đã từng ủng hộ những chủ trương của Giônxơn ở Việt Nam.
    Cuộc chiến tranh đã trở thành mối quan tâm cá nhân đối với nhiều nghị sĩ và họ được nghe những lời phản đối quanh bàn ăn của gia đình, chẳng hạn hạ nghị sĩ O.Nêu đã phải hứng những trận bom chất vấn của cậu con trai 22 tuổi và cô gái 20 tuổi, cả hai là sinh viên trường cao đẳng Boxtân. Ông ta dùng những câu trả lời từ những cuộc họp thông báo tình hình đặc biệt của chính phủ nhưng mỗi lần lại bị bắn phá tơi bời. Đào sâu hon vào sự việc, ông phát hiện ra rằng rất nhiều quan chức thông báo tình hình với ông thì bản thân họ cũng có những mối hoài nghi với cuộc chiến tranh này, và những hoài nghi đó còn được chia sẻ từ phía các tướng tá, các quan chức ngoại giao và tình báo và những người ủng hộ chiến tranh quanh thành phố Oasinhtơn. Vào tháng 9, ông đề nghị chính phủ chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam, khai triển lại quân Mỹ trên các địa bàn chiến lược và giải pháp kết thúc chiến tranh ra Liên Hiệp Quốc. Ông tuyên bố với các nhà báo: Sau hơn một năm rưỡi, nghe những lời kể của họ về cuộc chiến, tôi đã khẳng định rằng Rátcơ và Mac Namara cùng những người thuộc phe của họ đã sai lầm. Chúng ta đang ném bom với tổn phí là hai vạn đô la mỗi lần có người cho rằng họ trông thấy 4 ********* trong một bụi rậm, và ?ochẳng ăn nhằm gì!?.
    ?oChẳng ăn nhằm gì!? là lời biện minh cốt tuý nhất cho việc thay đổi chiều hướng chính sách, rất ít những người thay đổi lập trường trong Quốc hội Mỹ phản đối chiến tranh trên cơ sở đạo lý hay pháp lý, và rất ít người trong số họ hoàn toàn phù hợp với tên gọi ?ophái bồ câu?. Thật vậy, nhiều người trong số họ sẽ chẳng phản đối chừng nào mà chiến tranh tiến triển theo chiều hướng thuận lợi cho Mỹ với một nhịp độ và chi phí có thể chấp nhận được. Những cuộc tranh cãi của họ không phải về mục đích của cuộc chiến tranh mà là về khả năng thất bại. Rõ ràng là trong mùa thu năm 1967 những thay đổi lập trường này phản ánh sự xâm nhập vào thái độ trung gian của phần lớn dư luận Mỹ, và điều này là nghiêm trọng hơn rất nhiều so với những cuộc đi bộ hoà bình hay những cuộc khẩu chiến chống chiến tranh. ?oKhông, chúng tôi sẽ không đi!? trên miệng của những thanh niên phản đối chiến tranh không phải là một vấn đề lớn lao về mặt chính trị đối với chính quyền Giônxơn. ?oChẳng ăn nhằm gì? trên miệng các nghị sĩ thuộc phái lưng chừng và các cử tri của họ lại là một vấn đề nghiêm trọng. Vấn đề này lại càng nghiêm trọng gấp nhiều lần nếu chiến cuộc ở châu Á lại không tiến triển thuận lợi đối với họ.
  10. fade_away

    fade_away Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/01/2005
    Bài viết:
    1.025
    Đã được thích:
    0
    bác ptlinh ơi, theo tôi biết thì có vài điểm trong cuộc tiến chiếm ĐSQ Mỹ có lẽ phải xem lại:
    -thí dụ nói quân ta chỉ chiếm được tầng một, trong khi tôi nhớ đã xem một bức ảnh chụp tầng thượng ĐSQ Mỹ với hai chỗ đánh dấu 2 lần đổ quân của lính dù 101 Mỹ với ghi chú là lần đầu đổ xuống bị bắn rát quá nên bật ra hôm sau mới thành công.
    Trong bài hồi ký của người chỉ huy mũi này đăng trên báo tết năm 87 thì phải (chỉ ghi bí danh là anh tư, anh Năm gì đó) thì nói quân mình đánh thốc vào, tụi Mỹ đóng cửa sắt ngăn cách các tầng rất nhanh nên mình lên mỗi tầng là lại phải dùng thủ pháo nên tốc độ tiến chậm, lên đến tầng 3 thì nghe tiếng trực thăng nên đoán bân cơ té rồi. Ông còn nói chiếm được phòng an ninh ĐSQ vì khi xông vào thấy có thằng Mỹ ngồi trước một loạt màn hình quay các điểm trong toà nhà, nhớ mỗi chi tiết ông thấy thằng này không có súng nên chỉ quay lại hô: Vĩnh là bác cảnh vệ lao vào nghe cái rốp là chú kia đi liền.
    -Điểm thứ 2 là tất cả biệt động đều chết: ít nhất là còn bác chỉ huy, và ở vô tuyến mình năm 98 thì phải nhân dịp năm chẵn cũng nói lại vụ này và nói có một người duy nhất bị bắt là một chiến sĩ tên Vân (có đưa cả ảnh lúc bắt) và nói là do quả lựu cuối của anh bị xịt.
    Thế thui, mời bác cứ post tự nhiên

Chia sẻ trang này