1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến thắng Điện biên và cuộc chiến Việt Pháp

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi datvn, 06/05/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    Chiến thắng Điện biên và cuộc chiến Việt Pháp

    Sắp đến ngày kỷ niệm rồi, hãy nói về đề tài này đi!
  2. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0

    Trước hết đây là một chiến thắng hết sức thuyết phục của phe ta. Thực dân Pháp ban đầu định chiếm lấy vùng lòng chảo chiến lược Điện Biên, lôi kéo ********* về miền Tây Bắc hiểm yếu để tiêu diệt nhưng nào ngờ bị ta tương kế tựu kế đánh cho tơi bời. Thậm chí chúng còn bị diệt nhanh chóng hơn là khi chúng không kéo quân tập trung về Điện Biên. Thời đó chúng ta tự hào là đã làm nên một chiến thắng chấn động địa cầu, không những ta mà các thuộc địa khác của Pháp ở châu Phi cũng giành độc lập mau chóng hơn. Nhưng bây giờ tôi hỏi bạn tại sao hồi đó đang lợi thế như vậy mà ta không thể dành độc lập trọn vẹn. Có phải vì miền Bắc cương quyết làm CM triệt để, không chấp nhận tuyển cử tự do (tổ chức giữa các đảng phải từ Nam chí Bắc) mà rồi cuối cùng đưa dân tộc vào một cuộc chiến huynh đệ tương tàn không? Nếu như không có cuộc chiến Việt Nam 1954-1975 thì đất nước có bị tàn phá đến thế ko (thống kê mới nhất là 77 triệu lít Dioxin- chất độc màu Da Cam đã được rải thảm ở VN trong thời kỳ này ) Bao nhiêu gia đình ly tán chịu chịu đựng khổ đau...Có bắt buộc là ta phải làm BẠO LỰC CÁCH MẠNG thì mới độc lập tự do ko?Có thể có những con đường khác nữa đấy!! Nói thế này có khi nhiều bạn phản đối tôi: Tại sao hồi đó ta đánh Mỹ nhưng bây giờ lại kêu gọi tư bản Mỹ vào làm ăn, nhất mực đòi Mỹ công nhận nền kinh tế của ta là kinh tế thị trường?( Nền kinh tế mà Pháp đã từng thực thi ở VN). Và bây giờ khi vào thời kỳ Đổi Mới- Đổi mới kinh tế và đổi mới cả tư duy, ngẫm lại ta mới thấy của đồng bào hy sinh xương máu cống hiến vì đất nước đáng quý nhường nào. Nhưng tiếc thay nó chẳng để làm gi cả. Vì giá như không hy sinh như thế, có thể ta vẫn có một đất nước tự do độc lập, có lẽ còn hơn cả ngày nay nhiều...
    Kỷ niệm chiến thắng DBP- chiến thắng của ta trước kẻ cai trị ta ngót nghét 80 năm, xin mời các bạn đọc một vài tư liệu lịch sử:

    Phần I: Cuộc hành binh Cax-to
    Cách đây gần nửa thế kỷ, trong ba ngày 20, 21, 22-11-1953 , quân Pháp mở cuộc hành binh mang tên Ca-xto (Hải ly) đánh chiếm Điện Biên Phủ, mở đầu cho một cuộc chiến lớn nhất trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, dẫn đến thất bại hoàn toàn của thực dân Pháp và thắng lợi chấn động địa cầu của nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam.
    Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng, một trong bốn vựa lúa của miền Tây Bắc và là vựa lúa lớn nhất, chiều dài gần 20km, chiều rộng từ 6 đến 8km. Điện Biên Phủ cách Hà Nội theo đường chim bay 300km, cách Luông Pha Băng - Kinh đô nhà vua Lào - 200km. Các nhà quân sự Pháp đánh giá Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng chẳng những đối với Đông Dương mà còn đối với cả vùng Đông Nam Á. Na-va, Tổng chỉ huy cuối cùng của quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương coi Điện Biên Phủ là một cái "thìa khóa để bảo vệ Thượng Lào", một "bàn xoay" có thể xoay đủ bốn hướng: Việt Nam, Lào, Miến Điện, Trung Quốc, nơi đó có thể thiết lập một "căn cứ không - lục quân" quan trọng và là một "pháo đài" cực mạnh sẵn sàng "nghiền nát" quân đội Việt Nam.
    Na-va không phải là người đầu tiên đề xuất việc chiếm đóng Điện Biên Phủ. Xa-lăng người tiền nhiệm của Na-va đã từng nghĩ đến việc di chuyển tập đoàn cứ điểm ở Nà Sản lên Điện Biên Phủ. Cô-nhi, tư lệnh Bắc Bộ tự cho mình là "một trong những người đầu tiên" gợi ý cuộc hành binh đánh chiếm Điện Biên Phủ. Trong hồi ức của mình, Na-va viết: "Hồi 18 giờ 15 phút ngày 20-11-1953, một bức điện mật cho biết đại đoàn 316 hành quân lên Tây Bắc uy hiếp mạnh Lai Châu. Tôi quyết định chiếm Điện Biên Phủ... để bảo vệ Luông Pha Băng, nếu không vài tuần nữa nơi đây sẽ rất nguy hiểm".
    Theo các tài liệu đã được công bố, từ đầu tháng 11-1953, Na-va đã có ý định đánh chiếm Điện Biên Phủ. Ký giả Rô-giê Bru-giơ cho biết: Ngày 3-11 đại tá Béc-tơi tham mưu phó của Na-va, mang đến cho Cô-nhi chỉ thị của Tổng chỉ huy phải đánh chiếm Điện Biên Phủ trong thời gian từ 20 đến 25-11".
    Chủ trương đánh chiếm Điện Biên Phủ của Na-va vấp phải sự phản ứng khá gay gắt của Bộ tham mưu Bắc Bộ. Ba-xti-a-ni tham mưu trưởng của Cô-nhi trong tờ trình gửi Na-va đề ngày 4-11-1953 có đoạn viết: "Trong khi mối đe dọa đối với đồng bằng ngày càng rõ, người ta đem chôn chân cách Hà Nội 300km một lực lượng tương đương với 3 binh đoàn cơ động. Và điều đó chỉ nhằm bảo vệ một cách tốt nhất đối với nước Lào trước giả thiết một mối đe dọa chưa có gì báo hiệu".
    Cùng một ý kiến với Ba-xti-a-ni, các sĩ quan không quân, hậu cần của Bộ chỉ huy Bắc Bộ nêu lên những khó khăn về kỹ thuật, chiến thuật trong việc nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ và bảo đảm hậu cần bằng đường không cho một căn cứ lớn ở cách xa Hà Nội đến như vậy.
    Ngày 17-11-1953, Na-va từ Sài Gòn ra Hà Nội cùng với Mắc Giắc-kê, Bộ trưởng và Mô-rít Đờ-giăng, Cao ủy để ra quyết định cuối cùng về cuộc hành binh Ca-xto đánh chiếm Điện Biên Phủ.
    Tướng Gin, người được chỉ định chỉ huy cuộc hành binh, tướng Đờ Sô, tư lệnh không quân Bắc Bộ vẫn tiếp tục nêu những lý do phản đối cuộc hành binh. Còn Cô-nhi, tư lệnh Bắc Bộ, người đã từng đề xuất ý kiến đánh chiếm Điện Biên Phủ, lúc này giữ im lặng. Ông ta lo ngại cuộc hành binh Ca-xto đánh chiếm Điện Biên Phủ và kế hoạch Át-lăng dự định đánh chiếm 3 tỉnh tự do ở Liên khu 5 sẽ rút ruột, thu hút hết lực lượng bảo vệ đồng bằng Bắc Bộ trong khi 4 sư đoàn ********* vẫn ở thế uy hiếp.
    Cuối cùng Na-va giành quyền quyết định. Ông ta quy định thời gian thực hiện cuộc hành binh Ca-xto là trong 3 ngày nữa, ngày 20-11-1953.
    Cuộc hành binh không vận lớn nhất trong chiến tranh Đông Dương bắt đầu.
    Chúng ta hãy nghe ký giả Rô-giê Bru-giơ kể: "Rạng sáng ngày 20, ba sĩ quan cấp tướng: Gin, Bô-đê (phụ tá của Na-va) và Đờ Sô chui vào một chiếc máy bay Đa-kô-ta C47 cất cánh bay về hướng tây...
    Dưới cánh máy bay ở độ cao 2.000 mét, bầu trời đầy mây và viên sĩ quan theo dõi khí tượng không đoán chắc về khả năng quan sát trên thung lũng sông Nậm Rốm. Khoảng 7 giờ 15, chiếc Đa-kô-ta chở các tướng bay dọc Điện Biên Phủ còn chìm trong sương, bỗng viên sĩ quan khí tượng đột nhiên lạc quan dự báo trong nửa tiếng đồng hồ nữa có thể bắt đầu công việc. Mặt trời đã chiếu lấp lánh các khúc sông Nậm Rốm. Bô-đê quay sang Gin, gợi ý bật đèn xanh cho cuộc hành binh Ca-xto".
    Trong thời gian đó, tại hai sân bay Gia Lâm và Bạch Mai ở Hà Nội, các đơn vị nhảy dù chuẩn bị lên máy bay. Vì chỉ có 65 máy bay chở quân, nên phân chia cho đợt đầu 33 chiếc, đợt hai 32 chiếc. Chiếc đi đầu do viên phi công Ni-cô lái.
    Trên bản đồ không ảnh, 4 bãi nhảy dù đã được vẽ ra, đều được đặt tên con gái. Phía bắc, dọc theo sân bay Mường Thanh là bãi nhảy dù số một tên là Na-ta-sa. Lui về phía nam trên hai bờ sông Nậm Rốm là 2 bãi nhảy dù: Ốc-ta-vi ở phía hữu ngạn và Si-mon bên tả ngạn. Một bãi nhảy dù dự bị mang tên Su-dan ở phía nam, cách 6km bên hữu ngạn sông Nậm Rốm.
    Đơn vị nhảy dù đầu tiên là tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 do Bi-gia chỉ huy gồm 651 lính dù có nhiệm vụ chiếm lĩnh phía tây bắc thung lũng, đồng thời bảo vệ cho đợt nhảy dù thứ hai của tiểu đoàn 2, trung đoàn dù tiêm kích số 1 gồm 820 lính dù do Brê-chi-nhắc chỉ huy, nhảy xuống bãi Si-mon. Đơn vị thứ ba là tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 gồm 722 lính dù do Su-kê chỉ huy, cất cánh từ Hà Nội lúc 13 giờ 15 phút và nhảy dù lúc 15 giờ cùng với một đại đội công binh và một phân đội pháo binh thuộc trung đoàn pháo binh nhẹ nhảy dù số 35.
    Cuộc hành binh mà Bộ tham mưu của Cô-nhi lo lắng đã không gặp trở ngại lớn, mặc dù vấp phải cuộc đọ súng với một đơn vị của trung đoàn 148. Lúc đó tiểu đoàn 910 và trung đoàn bộ trung đoàn 148 đang đóng quân ở Điện Biên Phủ làm công tác dân vận và củng cố, huấn luyện, chuẩn bị tiến công vị trí Mường Pồn và phối hợp với đại đoàn 316 tiến đánh giải phóng Lai Châu. Cuộc nhảy dù của quân đội Pháp có gây bất ngờ cho cán bộ, chiến sĩ và dân bản, nhưng chỉ sau ít phút, bộ đội ta và dân quân Mường Thanh đã triển khai lực lượng đánh trả địch suốt ngày, làm cho hơn 100 quân dù chết và bị thương.
    Theo Rô-giê Bru-giơ, viên sĩ quan đầu tiên bị thiệt mạng là đại úy bác sĩ Ray-mông bị trúng đạn khi còn đang lơ lửng trên không. Chỉ tính riêng tiểu đoàn Bi-gia đã bị loại khỏi vòng chiến đấu 41 người (10 chết và 31 bị thương). Số bị thương sau đó được chuyển lên Lai Châu bằng trực thăng, nơi đó có trạm phẫu thuật cơ động số 21 của trung úy Tô-mát.
    Sẩm tối ngày 20-11-1953, binh đoàn không vận số 1 (viết tắt là GAP1) gồm 1.800 lính nhảy dù đã chiếm được thung lũng Điện Biên Phủ vắng tanh. Dân bản bỏ chạy hết vào rừng. Tiểu đoàn 910 và trung đoàn bộ trung đoàn 148 sau khi bắn hết đạn đã rút về Mường Phăng.
    Ngày hôm sau, thứ bảy 21-11-1953, Binh đoàn không vận số 2 (GAP2) tiếp tục nhảy dù. Tướng Gin nhảy xuống đợt này. Binh đoàn không vận số 2 gồm tiểu đoàn dù xung kích số 8 do Tua-rê chỉ huy, tiểu đoàn dù lê dương số 1 do Ghi-rô chỉ huy, và tiểu đoàn cuối cùng, tiểu đoàn dù ngụy số 5 nhảy vào ngày chủ nhật 22.
    Trên bãi Ốc-ta-vi các thiết bị nặng được thả xuống. Một chiếc máy ủi nặng 7 tấn đứt dây dù rơi chìm nghỉm vĩnh viễn trong bùn lầy, theo lời kể của Xu-đra. Bốn chiếc máy ủi khác tiếp đất không đến nỗi mạnh, nhưng cũng hư hỏng chút ít do đã quá cũ kỹ, được sử dụng từ thời đại chiến thế giới lần thứ hai chưa kể là đã qua bao lần sử dụng trên chiến trường Đông Dương.
    Mọi nỗ lực của quân chiếm đóng ngoài việc chiếm một số cao điểm ngoại vi như Bản Kéo, Độc Lập, Him Lam, việc quan trọng nhất là khôi phục đường băng sân bay Mường Thanh do quân Nhật để lại từ năm 1945. Đại đội công binh nhảy dù số 17 đảm nhiệm việc này với sự hỗ trợ của tiểu đoàn Bi-gia. Công binh cũng bắc một cây cầu gỗ qua sông Nậm Rốm nối liền sân bay với làng Mường Thanh và con đường 41. Ngày 22, sau đợt nhảy dù của tiểu đoàn dù ngụy số 5, một máy bay liên lạc Bi-vơ hạ cánh, tiếp đó là 3 chiếc Mo-ran. Ngày 25-11-1953, chiếc Đa-kô-ta đầu tiên hạ cánh xuống sân bay Mường Thanh.
    Căn cứ không quân lục quân Điện Biên Phủ bắt đầu hình thành.
    (Còn nữa)
    Trung tướng HỒNG CƯ
    I am a Citizen of the World

  3. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Phần II: Giải phóng Lai Châu, bao vây Điện Biên Phủ
    Khi thấy Lai Châu và Thượng Lào bị uy hiếp, quân Pháp tăng thêm nhiều quân lên Tây Bắc. Ngay lập tức, quân ta đã tiến hành một cuộc hành quân cấp tốc để giải phóng Lai Châu, phân tán địch ở Tây Bắc và bao vây Điện Biên Phủ.
    Đại đoàn 316, đơn vị nổi tiếng đánh giỏi ở địa bàn rừng núi là đơn vị đi tiên phong trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954. Cuộc tiến quân của Đại đoàn lên Tây Bắc... cách đây 50 năm đã tạo ra đòn chiến lược đầu tiên làm cho kế hoạch Na-va bắt đầu rạn nứt, khối cơ động chiến lược nổi tiếng của Na-va bắt đầu chia năm xẻ bảy.
    Sự thực cuộc hành quân này chỉ là một bộ phận của Đại đoàn 316 gồm Đại đoàn bộ và Trung đoàn 174 từ Thanh Hóa tiến lên Lai Châu. Trước đó, bộ phận chuẩn bị chiến trường do Tham mưu trưởng Vũ Lập dẫn đầu đã đi từ đầu tháng 11. Các trung đoàn khác của 316 vẫn ở lại địa bàn Tây Bắc làm nhiệm vụ từ sau chiến thắng giải phóng Sầm Nưa bên Thượng Lào (xuân 1953). Trung đoàn 98 ở lại Sầm Nưa giúp bạn củng cố vùng mới giải phóng. Trung đoàn 176 ở lại vùng sông Đà tiễu phỉ và làm công tác dân vận củng cố hậu phương Tây Bắc. Các trung đoàn này đã được lệnh nhanh chóng tập trung về Đại đoàn để tham gia chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954.
    Chính ủy Đại đoàn 316 Chu Huy Mân dự Hội nghị của Bộ Tổng tư lệnh phổ biến kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 tại Thái Nguyên. Hội nghị họp đến ngày thứ hai (20 - 11 - 1953 ) thì được tin địch nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ. Không khí hội nghị khẩn trương hẳn lên.
    Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh nhận định: "Địch đã phát hiện đại đoàn 316 đang tiến quân lên Tây Bắc. Chúng cảm thấy Lai Châu và Thượng Lào bị uy hiếp, nên đưa lực lượng lên đối phó. Điều này không ngoài dự kiến của ta: nếu Tây Bắc bị uy hiếp thì địch sẽ tăng viện lên hướng này, hoặc đánh ra vùng tự do để phá cuộc tiến công của ta. Cần xúc tiến nhanh việc đánh Lai Châu, không để cho quân địch đóng ở Lai Châu co về Điện Biên Phủ"(1).
    Đêm 20-11-1953, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho đại đoàn 316 trong hành quân tổ chức thành từng tiểu đoàn để đi cho nhanh, chậm nhất ngày 6 tháng 12 năm 1953 phải có mặt ở Tuần Giáo. Bộ Tổng tư lệnh điều động thêm Đại đoàn 308 lên Tây Bắc để bao vây địch ở Điện Biên Phủ . Ngày 21-11-1953, Bộ Tổng tham mưu cử bộ phận tiền trạm đi bố trí sở chỉ huy tiền phương. Các đại đoàn khác bí mật đứng chân ở các vùng căn cứ địa, sẵn sàng chiến đấu. Các mũi tiến quân sang Trung, Hạ Lào tiếp tục hành quân Chiến cuộc Đông-xuân theo phương án tác chiến đã hoạch định, bắt đầu thực hiện. Cuộc đấu trí, đấu lực lớn nhất giữa ta và địch trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất sắp diễn ra.
    Ngày 24-11-1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kết luận hội nghị. Ông nói: "Vô luận rồi đây địch tình thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản có lợi cho ta"(2). Hội nghị sôi nổi hẳn lên. Thời cơ đang đến. Sau hội nghị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tìm gặp Chính ủy Đại đoàn 316 Chu Huy Mân thì được biết ông đã nhận nhiệm vụ về trước để kịp đuổi theo bộ đội đang hành quân. Đại tướng gọi điện thoại cho người đón đường, nói với ông Mân quay lại. Buổi chiều, ông Mân dắt xe đạp đi vào cơ quan với vẻ ngạc nhiên. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói:
    - Địch đã ném thêm nhiều quân xuống Điện Biên Phủ. Đồng chí cần đi thật gấp cho kịp bộ đội, đôn đốc đơn vị hành quân cấp tốc lên bao vây Lai Châu. Phải chặn ngay con đường từ Lai Châu về Điện Biên Phủ. Có thể sẽ đánh Điện Biên Phủ(3). Chính ủy Chu Huy Mân ra đi vội vã. Ông đuổi kịp bộ đội bằng xe đạp, dùng hết bốn đôi má phanh để lao dốc, xuống đèo.
    Đại đoàn 316 nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh. Sau 20 đêm liên tục hành quân cấp tốc, ngày 6-12-1953, cơ quan Bộ tư lệnh Đại đoàn và trung đoàn 174 đã có mặt ở Tuần Giáo, trung đoàn 98 đã đến đèo Pha Đin.
    Sự xuất hiện của đại đoàn 316 trực tiếp uy hiếp Lai Châu. Tướng Cô-nhi, tư lệnh Bắc Bộ, lập tức ra lệnh cho trung tá Trăng-ca chỉ huy vùng tác chiến Tây Bắc (viết tắt là ZONO) cho quân đồn trú ở Lai Châu rút về tập trung ở Điện Biên Phủ. Cuộc hành quân rút chạy này được đặt tên là Pô-luýt. Lực lượng chính quy gồm biệt kích thuộc binh đoàn biệt kích hỗn hợp không vận rút bằng đường bộ theo đường mòn Pa-vi nối liền Lai Châu với Điện Biên Phủ. Mệnh lệnh của Cô-nhi đưa ra quá gấp, đến nỗi không đủ thời gian tập hợp 25 đại đội biệt kích còn rải rác trong rừng. Họ được lệnh qua vô tuyến điện, rút mau về Điện Biên Phủ.
    Được tin địch rút, đêm 7-12, tại Sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh lúc này đã được đặt ở hang Thẳm Púa, km 15 trên đường Tuần Giáo-Điện Biên Phủ, Tổng tham mưu phó Hoàng Văn Thái và Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lê Liêm triệu tập cán bộ đại đoàn 316 đến giao nhiệm vụ: Nhanh chóng giải phóng thị xã Lai Châu và kiên quyết cắt đường mòn Pa-vi không cho địch co về Điện Biên Phủ.
    Đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba và Chính ủy Chu Huy Mân quyết định tiến quân bằng hai mũi: tiểu đoàn 439 của Trung đoàn 98 do Phó chính ủy Trung đoàn Phạm Quang Vinh chỉ huy tiến đánh Lai Châu, còn đại bộ phận lực lượng của Đại đoàn theo đường Tuần Giáo-Điện Biên Phủ đến Nà Tấu xuyên rừng, vượt đèo Pa Thông tiến ra cắt đường mòn Pa-vi ở khoảng Pu San-Mường Pồn. Đại đoàn để lại một tiểu đoàn (tiểu đoàn 938 thuộc trung đoàn 98) ở lại Tuần Giáo bảo vệ Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng tư lệnh và đề phòng địch nhảy dù đánh phía sau lưng ta.
    Nói về mũi tiến đánh Lai Châu, tiểu đoàn 439 đêm 9-12 được Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng tư lệnh cho ô-tô vận tải chở lên Lai Châu, nhưng xe chỉ chạy được đến Nậm Mức cách Lai Châu 45km thì không tiến được nữa vì đường quá xấu, tiểu đoàn xuống xe tiếp tục hành quân bộ. Tối ngày 10, tiểu đoàn tới Pa Ham, một vị trí tiền tiêu cách Lai Châu 32km. Lực lượng địch ở đây đã tăng lên tới 3 đại đội do các vị trí lẻ co cụm dồn về. 22 giờ, tiểu đoàn 439 nổ súng tiến công. Quân địch cầm cự khoảng nửa tiếng đồng hồ rồi rút chạy. Tiểu đoàn 439 đuổi theo, sáng 11 tới chân đèo Cờ-la-vô. Địa thế đèo này rất hiểm trở, một đại đội chốt giữ có thể ngăn chặn cả một trung đoàn, nhưng quân địch hoảng sợ, thấy bộ đội ta xuất hiện bèn tháo chạy. Đêm 11-12-1953, tiểu đoàn 439 đã đến sát thị xã Lai Châu. Được nhân dân dẫn đường, tiểu đoàn đã vượt qua cầu sắt tiến đánh các vị trí địch trong thị xã. Ngày 12-12-1953 , thị xã Lai Châu được giải phóng sau gần một thế kỷ bị đô hộ dưới ách thực dân. Đèo Văn Long, "vua" xứ Thái tự trị, đã được máy bay Pháp đưa về Hà Nội. Mũi tiến quân giải phóng Lai Châu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
    Nói về mũi tiến ra cắt đường mòn Pa-vi, sau bốn ngày xuyên rừng vượt núi vất vả, ngày 12-12-1953 cùng thời gian với việc giải phóng Lai Châu, các tiểu đoàn đi đầu đã tiến ra tới các điểm chặn địch trên đường mòn Pa-vi: tiểu đoàn 251, trung đoàn 174 tới vị trí Mường Pồn, nơi có đồn địch; tiểu đoàn 215, trung đoàn 98 đứng chân ở núi Pu San; tiểu đoàn 888, trung đoàn 176 chốt chặn ngay ở Bản Tấu cửa ngõ phía Bắc Điện Biên Phủ.
    Cùng thời gian ấy, 7 giờ ngày 11-12, tư lệnh quân Pháp mới chiếm đóng Điện Biên Phủ là Đờ Cát (vừa mới thay Gin) đưa ba tiểu đoàn dù thuộc GAP 2 (Binh đoàn không vận số 2) do Lăng-gơ-le Lang Lais chỉ huy có phi pháo yểm hộ tiến lên Mường Pồn đón các đơn vị từ Lai Châu rút về.
    Cuộc đụng độ giữa quân dù với quân đại đoàn 316 diễn ra quyết liệt. 9 giờ sáng ngày 11, tiểu đoàn dù lê dương số 1 ra bến Bản Tấu cách Điện Biên Phủ 16km thì bị tiểu đoàn 888 chốt chặn. Quân Pháp bị thương 12 người, trong đó có thượng sĩ Ba-ty. Các tiểu đoàn dù không dám chui vào thung lũng hẹp có đường mòn Pa-vi, sợ bị phục kích. Mệnh lệnh truyền ra là trèo núi. Suốt từ ngày 11 đến 13 mới tới được đỉnh Pu San cao 1.168 mét thì vấp phải tiểu đoàn 215 và đại đội phòng không 677 đang chờ sẵn ở đó. Thiếu úy Lan-tan kể:
    "Các loạt súng nổ nhiều đến nỗi người ta có cảm tưởng là cả một tiểu đoàn đối phương nổ súng đồng loạt. Lửa bắt cháy vào cỏ tranh và lan rộng, quân dù chạy tán loạn tránh đạn và lửa. Những người bị thương rên la vì bị lửa thiêu. Thật là khủng khiếp! Đạn súng cối nổ, từng loạt đạn ngắn, ngọn lửa xoáy tròn, đạn dược nổ trong than cháy rực. Trung úy Phua-ri-ê vừa dẫn đầu đại đội nhô lên bị trúng đạn ngay vào đầu. Đại úy Đô-đơ-vin bị thương nặng- Riêng đại đội tôi: 12 chết, 24 bị thương, 2 mất tích coi như mất nửa quân số" (4).
    Mặc dù có phi pháo yểm trợ, các tiểu đoàn dù không vượt được quãng đường 4km từ Pu San đến Mường Pồn. Trong khi đó, trận Mường Pồn diễn ra. Sáng 12-12-1953, đại đội 674 của tiểu đoàn 251 đi đầu tới Mường Pồn thì phát hiện trong đồn và bản đông đặc quân địch từ Lai Châu rút về. Đại đội lập tức bao vây và nổ súng. Quân địch có máy bay yểm trợ thả bom napan để giãn lực lượng ta, mở đường đi về Điện Biên Phủ. Đại đội 674 kiên quyết không nới lỏng vòng vây. Liên lạc viên Bế Văn Đàn chuyển lệnh cho tiểu đội Chu Văn Pù đang chặn đánh một cánh quân địch từ trên cao tràn xuống. Pù nhấc trung liên trong tay định xả súng nhưng không có chỗ tựa. Bế Văn Đàn bèn lấy thân mình làm giá súng cho Chu Văn Pù trút đạn tiêu diệt địch. Nhưng Bế Văn Đàn cũng ngã xuống hy sinh. Mười năm sau, nhạc sĩ Huy Du viết ca khúc "Bế Văn Đàn sống mãi", lời ca có câu: "Từ chiến thắng Điện Biên lẫy lừng thế giới, anh bước vào trang sách các em thơ...!". Đến sáng ngày 13 -12, có lực lượng tiếp sức quân ta mở đợt tiến công mạnh mẽ tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Mường Pồn.
    Ký giả Béc-na Phôn trong cuốn sách "Điện Biên Phủ một góc địa ngục" đã tổng kết cuộc hành binh Pô-luýt: "Khi lực lượng Pô-luýt rời Lai Châu ngày 9-12", họ gồm 2.101 người, trong đó có 3 trung úy và 34 hạ sĩ quan Pháp.
    Khi những người sống sót của đại đội lừa ngựa Thái và đại đội nhẹ 428 tới Điện Biên Phủ ngày 22-12, chỉ còn 10 người Pháp, trong đó có trung úy Un-pa và 175 lính Thái. Gần 2.000 lính biệt kích, hàng trăm người dân sự, cũng như 2 sĩ quan, 25 hạ sĩ quan Pháp không còn lên tiếng khi điểm danh. Hơn thế ********* đã thu được đủ vũ khí để trang bị cho một trung đoàn.
    Lăng-gơ-le chỉ huy GAP2 bị Đờ Cát chỉ trích: Cuộc hành quân đã kéo dài 5 ngày mà vẫn không đến được đích Mường Pồn! Còn Lăng-gơ-le thì nổi khùng: Hai tiểu đoàn dù, hoạt động trong tầm yểm trợ của pháo binh và không quân mà buộc phải rút lui, điều đó đối với anh ta là không thể tưởng tượng được. Trong báo cáo của mình về trận này, Lăng- gơ-le phân trần: "Quân dù không thích nghi với chiến đấu ở rừng núi. Trong khi đó, đối phương, họ rất thạo" (5).
    Lúc này Đại đoàn 308 được lệnh cấp tốc tiến quân lên bao vây Điện Biên Phủ. Suốt một tháng trời đêm đi, ngày nghỉ, vừa đi vừa phổ biến nhiệm vụ, huấn luyện bổ sung, củng cố tổ chức, trung tuần tháng 12 Đại đoàn đến Sơn La. Theo lệnh của Tổng tham mưu phó Hoàng Văn Thái, trung đoàn 36 rời đường 41, ngày đêm xuyên rừng đi đến Pom Lót, phía nam tây nam Điện Biên Phủ có nhiệm vụ cắt đường sang Lào không cho địch liên lạc với lực lượng của chúng ở Thượng Lào. Ngày 21 tháng 12, trung đoàn 36 đã có mặt ở nam tây nam Điện Biên Phủ. Quân địch ở Điện Biên Phủ đã bị bao vây.
    Các cuộc hành quân của 316 và 308 gây cảm hứng cho nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Ông đi cùng bộ đội và sáng tác bài hát "Hành quân xa". Lời ca có câu "Hành quân xa có rất nhiều gian khổ... Đời chúng ta đâu có giặc ta cứ đi".
    Trung tướng HỒNG CƯ
    ...................................
    (1)- Đại tướng Võ Nguyên Giáp. ĐBP điểm hẹn lịch sử. NXB QĐND 2000, trang 42.
    (2)-(3)- Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sách đã dẫn trang 44, 45.
    (4)- Roger Bruge-những người ở ĐBP NXB Perrin 1999 trang 59.
    (5)- Roger Bruge-Sách đã dẫn-trang 62.


    I am a Citizen of the World

  4. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
  5. kieuphong

    kieuphong Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/01/2002
    Bài viết:
    5.781
    Đã được thích:
    0
    Hơ...hơ.., hóa ra bài viết bị chặn. Cũng chả thắc mắc gì. Có điều các Mod yêu cầu bác gianghoyenbinh cứ post về trận ĐBP đi, còn cái vấn đề nhập nhằng mà bác đấy viết, cùng với trả lời của bác Calvary thì cho đi đi, kô khéo lại cãi nhau nữa.

    Xuân tàm đáo tử ty phương tận
    Lạp chúc thành hôi lệ thủy can
  6. VIKING_VN

    VIKING_VN Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/02/2003
    Bài viết:
    142
    Đã được thích:
    0

    Đây là tài liệu khá hay nhưng có điều cần phải đính chính: chỉ khoảng vài lít đến vài chục lít Dioxin mà thôi. chục triệu lít thì giết vài cái Trái đất này.
    Lễ kỷ niệm hôm nay không thấy nhắc tới Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhỉ, cũng không thấy ông xuất hiện trên TV. Có lẽ ông bị ốm nặng chăng?
  7. luuthuy

    luuthuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/06/2002
    Bài viết:
    2.109
    Đã được thích:
    1
    Định viết vài điều, nhưng thôi trả lời truớc một cái tư liệu này. Cái này chắc cũng ít nguời biết.
    Còn bác gianghobenbinh, lúc khác anh em thảo luận vấn đề thống nhất sau. Giờ này tôi mệt lắm ko viết đuợc dài.
    Vào vấn đề chính, cái này thì tôi chưa được đọc tài liệu chỉ nghe giảng trên lớp. Đó là của một giảng viên đại học KHXH&NV. Cho nên thông tin tôi ko dám đảm bảo 100% nhưng có thể nói là đáng tin cậy. Đây là một câu chuyện:
    Cuộc chạm trán đầu tiên của ta và địch trong chiến dịch ĐBP còn diễn ra trước khi ta đánh các cụm cứ điểm(đồi nào ta đánh đầu tiên nhỉ).
    Ta đều biết, quân ta phải hành quân lên ĐBP và sau đó tập kết lại xây lán trại để đánh địch. Một căn bệnh hành hạ binh lính ta bấy giờ là sốt rét.
    Trong một đợt tập kết quân(có lẽ là của một trung đội). Quân ta lên đến chỗ tập kết, cần phải đi đên nơi liên lạc để lấy đồ dùng và gạo cho việc xây dựng trại. Có hai chiến sĩ của ta bị sốt rét đuợc phân công ở lại. Còn lại cả trung đội đi sang nơi khác lấy gạo và các nhu yếu phẩm khác.
    Hai chiến sĩ ta đang nằm bốc nghe tiếng động. Một anh bảo:"Sao bọn kia nó đi gì mà nhanh thế?" Anh kia bảo chưa chắc đâu, nên cảnh giác. Lập tức một anh liền trèo lên cây(hết sốt rét ngay) và thấy một đội quân địch và nguỵ đi đến, liền tụt xuống bảo anh kia:"Có địch". Anh kia cũng lập tức hết sốt rét. Hai anh bàn kế hoạch.
    Một anh leo lên ngay trên cây. Đợi bọn địch đến, liền hô giõng dạc:"Bọn giặc, chúng bay đã bị bao vây, đầu hàng thì sống chống thì chết". sau đó quát tiếp:"Hạ vũ khí xuống". Bọn nguỵ nhìn thấy trên cây có một anh lính của ta, tuởng là bị bao vây thật liền hạ vũ khí xuống. Bọn Pháp nhìn vậy cũng bỏ vũ khí theo. Anh kia tiếp tục hô:"Tiểu đội 1, cử một đồng chí ra thu vũ khí của địch". Anh chiến sĩ kia ra làm y như vậy.
    Sau đó anh lính kia hô tiếp"Bên phải quay, buớc, đồng chí ban nãy ra áp giải giặc". Đi đuợc một đoạn thì sang nơi tập trung của một trung đội khác và bọn giặc đã bị khống chế.
    Sau đó báo Nhân dân có về và đưa tin về chuyện này.
    Như tôi nói, đây là một ví đụ đánh giặc thông minh của chúng ta. Tôi ko nghĩ đây là chuyện bịa vì đây là lời giảng của một giảng viên đại học cho chúng tôi khi chúng tôi.
    Hết
    Nước chảy đá mòn
  8. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    <BLOCKQUOTE id=quote><font size=1 face="Arial" id=quote>Trích từ bài của gianghobenbinh viết lúc 11:58 ngày 07/05/2003:
    <BLOCKQUOTE id=quote><font size=1 face="Arial" id=quote>Trích từ bài của Cavalry viết lúc 08:47 ngày 07/05/2003-]
    Đọc một bài dài lại thấy lẫn vào những lý lẽ kiểu này. Thôi chịu khó lập lại vì sợ các bạn trẻ lại hiểu nhầm:
    - Ai không chịu tổng tuyển cử: HCM hay Ngô Đình Diệm mới chân ướt chân ráo được Mỹ ấn vào thay Bảo Đại? Nếu bầu cử thì theo bạn ai thắng? ==> thưa bạn có thể là ĐCS thắng hoăjc thua, ko quan trọng lắm. Vì ở Mỹ đảng Cộng Hoà hoặc đảng Dân chủ cũng thắng hoặc thua, ở Anh, đảng Bảo Thủ và Công Đảng cũng thế, chuyện thường tình trong chính trị mà.
    Nhưng vấn đề là lúc bấy giờ thì chắc chắn là Đảng CS sẽ thắng và Mỹ không muốn vậy. Họ muốn ngăn chặn sự phát triển của CNCS tại ĐNÁ. Ngoài việc ủng hộ 1 chính quyền thân Mỹ tại Nam VN, họ còn kéo cả các nước ĐNÁ vào cuộc chiến nữa. Tiêu biểu là Thái Lan phải cho Mỹ đặt căn cứ quân sự ở nhiều nơi để tiện điều không quân sang đánh VN. Xa hơn thì Úc và New Zealand, Nam Hàn, Philippine.
    - Ai gây ra chiến tranh sau 1954? Thời gian đầu ta còn chờ một cuộc bầu cử, sau khi chắc chắn không có bầu cử, những người theo cộng ở miền Nam bị Diệm giết theo luật 1959, thì mới bắt đầu có phong trào nổi dậy Đồng khởi 1960. ==>
    Tôi cũng không ủng hộ Diệm Nhu vì bọn ấy thực hiện một chính sách độc tài gia dình trị. Nhưng có thời điểm họ cũng từng liên lạc với Bác Hồ để hy vọng thống nhất 2 miền bằng con đường đàm phán đấy.-
    Hồi đó ta đánh Mỹ vì Mỹ nhảy vào đánh ta! đánh Pháp cũng thế, không có ai muốn gây sự trước với 2 ông này cả.==>
    Cái này thì thực chưa chắc chắn đâu vì ban đầu Mỹ đã cho CIA vào Việt Bắc huấn luyện ********* kháng Nhật đấy. Có tin rằng sau này, Bác Hồ cũng từng viết thư cho tổng thống Truman đề nghị Mỹ giúp đỡ. Bác rất sáng suốt nhận ra không chỉ việc theo Tầu và LX mới có thể dành ĐL mà có thể là bất cứ ai đó sẵn sàng giúp ta! Tuy vậy về sau Truman cho là ********* theo hoàn toàn LX rồi nên không giúp nữa..
    Đó là khi họ đã bị quan thầy Mỹ tính hất cẳng rồi nên mới tính chuyện hòa hoãn với Bắc Việt. Cái này thì nếu bạn thích, bạn có thể tham khảo cuốn Ông cố vấn của Hữu Mai hoặc "1 cuộc chiến tranh 6 đời Tổng Thống" của 1 tác giả nước ngoài. Trong cuốn này có nói rõ về sự can thiệp của Mỹ vào Đông Dương, viết khách quan.
    - Một lần nữa cho ai có ý kiến là miền Bắc chủ trưong thống nhất. Đó không chỉ là miền Bắc mà còn là những người miền Nam kháng chiến. Bạn tưởng nhân dân miền Nam đánh Pháp suốt 9 năm ròng rồi bỗng nhiên theo Mỹ hả!!!:)
    ==> Ta thì không theo Mỹ nhưng ta theo LX và Tầu. Chẳng qua cũng chỉ vì ta cho rằng LX nó ưu việt hơn Mỹ. Bạn nên tìm tài liệu về việc LX đối xử ra sao với các nước Đông Âu thời sau Thế chiến 2 để rõ hơn về người anh em LX nhé.
    Thế thì bạn thích theo Mỹ hả?
    - Còn việc ngày nay có hơi nghèo tí thì là chuyện dài không những từ thời chiến tranh mà còn từ 1975 tới giờ!! ==> thời gian 1954-1975 đó là cả một thế hệ, từ 1954 đến nay khoảng 50 năm đó là 2 thế hệ từ ông dến cha đó!!!
    I am a Citizen of the World

    Được gianghobenbinh sửa chữa / chuyển vào 12:00 ngày 07/05/2003
    [/QUOTE]
    Chuyện tại sao bây giờ ta vẫn nghèo thì phải xét từ xửa từ xưa, nhiều yếu tố LS, Văn hóa, địa chính trị cộng lại thì may ra mới hiểu rõ được. Chỉ cần biết là bây giờ chúng ta đang cố gắng thoát nghèo là được. Cứ ngồi chê bai quá khứ mà quên đi hiện tại và tương lai thì ... "Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng Đại bác". Câu này chắc các bác biết chứ ạ?[/size=3]
    Được lonesome sửa chữa / chuyển vào 16:31 ngày 16/09/2003
  9. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Hê hê hê. Huy Phúc được biết, có một ông Pháp nói "không lực lượng nào châu Á đánh bật một cứ điểm châu Âu". Vecdoong Pháp nổi tiếng về phòng thủ cứ điểm.
    ĐBP là cả lọ mực đổ lên vinh quang ấy, tiếp theo Angiê hi sinh 7 triệu người đánh đuổi quân Pháp. Những người xứ này đánh trận Đông Dương về nói rõ: quân châu Á bé người dẫn hơn chục nghìn tù binh đi diễu.
  10. hailua_dichat

    hailua_dichat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    1.262
    Đã được thích:
    0
    Chuyện của Bạn LuuThuy kể khá hay và rất giống với những chuyện tương tự về cách đ1nh thông minh của bộ đội VN trong các thời kỳ, có những chuyện là sự thật 100% nhưng cũng có những chuyện phải xem lại!
    còn việc bạn hỏi tên ngọn đồi mà Quân ta đã đánh đầu tiên, ý bạn muốn nhắc đến đồi A1, kiểm sóat tòan bộ sân bay Mường Thanh và vùng lòng chảo chăng?
    tiện đây cũng xin góp đôi lời về trận đánh này, Địch xây Lô cốt trên đỉnh đồi , kiểm sóat tòan bộ cả một vùng rộng xung quanh nhiều Km, quân ta đã nhiều lần áp sát nhưng đều bị thất bại , thương vong rất nhiều , và thế là một cách đánh thông minh được đưa ra, đào hầm xuyên thẳng lên đỉnh đồi ( nên nhớ là vùng lòng chảo ĐBP có cấu trúc thổ nhưỡng là đất bazan phong hóa nên khá cứng , mà khi đó VN chỉ dùng cơ bắp là chủ yếu) việc đào hào được thực hiện liên tục bởi các tóan công binh thay phiên nhau. kết quả A 1 bị xóa xổ chỉ bằng một cái công tắc điện kích hỏa cho khối thuốc nổ lớn
    Còn liên tục những ý kiến của bạn gianghobenbinh cũng xin nhắc lại chi tiết " Quyết định khó khăn nhất trong đời" của Tướng Giáp!
    nếu các bạn biết rằng việc tập trung quân và phương tiện để đánh lòng chảo ĐBP là cực kỳ khó khăn, nhất là phải kéo những khẩu pháo leo đèo, vựơt suối trong khi máy bay địch quần thảo trên đầu ( chính trong việc này mà xuất hiện các xe thồ tải đạn, gạo để thấy sự thông minh của dân VN ta)
    thế nhưng khi ta đã tập kết tđủ chuẩn bị đánh thì lại có tin là địch phát hiện ý đồ của quân ta và đang giương bẫy! Lúc này chuyên gia TQ bảo cứ đánh , áp dụng chiến thuật biển người, cần thiết người TQ sẽ mang quân sang giúp
    Sau khi tham khảo ý kiến các tướng lĩnh khác, tướng Văn quyết định kéo quân ra ông nói " trước khi giao nhiệm vụ cho tôi Bác Hồ có kêu tôi lại nói rằng Bác giao tòan quyền quyết định cho chú nhưng phải chiến thắng trở về!" và đấy là quyết định khó khăn nhất trong đời làm tướng của một Giáo Sư sử học
    còn diễn biến về sau này thì bạn như bạn gianghobenbinh đã dẫn!

    HaiLúa

Chia sẻ trang này