1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến thắng Điện biên và cuộc chiến Việt Pháp

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi datvn, 06/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. MDB

    MDB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2003
    Bài viết:
    947
    Đã được thích:
    0
    Giả thiết của bác rất có lý. Tuy nhiên, ông Tây chỉ đề cập là quân ta bị hy sinh có 490 người tại đồi thứ nhất, còn mộ ở đây lại là 900.
    Trung với Đảng - Hiếu với Dân - Khó khăn nào cũng vượt qua - Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành - Kẻ thù nào cũng đánh thắng!
    u?c lonesome s?a vo 16:58 ngy 28/03/2004
  2. MDB

    MDB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2003
    Bài viết:
    947
    Đã được thích:
    0
    Tôi thấy các thông tin trên của bác rất hợp lý. Điều này có thể giải thích được tại sao nhiều khi tổn thất của quân ta vượt quá quân số xung kích tại các cứ điểm. Rất có khả năng các đại đoàn đã bổ sung quân số tiêu hao của các đơn vị tấn công các cứ điểm Độc Lập, Him Lam và A1 bằng lực lượng dự bị tân binh.
    Trung với Đảng - Hiếu với Dân - Khó khăn nào cũng vượt qua - Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành - Kẻ thù nào cũng đánh thắng!
    u?c lonesome s?a vo 16:58 ngy 28/03/2004
  3. MDB

    MDB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2003
    Bài viết:
    947
    Đã được thích:
    0
    Tiện đây tôi xin đăng lại bài viết về hỏa lực các đại đoàn tham chiến tại Điện Biên. Chú ý là bài báo có đề cập tới 1 trung đoàn pháo 105 ly và 1 trung đoàn pháo 75 ly trong đại đoàn 351, cộng thêm với số pháo 75 ly có tại mỗi đại đoàn (ít nhất là 16-32 khẩu 75 ly nữa cho 4 đại đoàn chủ công). Có điều tác giả bài báo không nhắc gì về tư liệu của trung đoàn pháo 51 (1 tiểu đoàn pháo 105 ly và 1 tiểu đoàn pháo 122 ly Katyusha) mà bác BFut có nhắc tới trong chủ đề về Đại tướng. Tác giả bài báo cũng có nhầm lẫn khi cho rằng 1 tiểu đoàn pháo có 4 khẩu. Thật ra mỗi 4 khẩu hợp thành 1 đại đội pháo, và mỗi 3 đại đội hợp thành 1 tiểu đoàn. Trung đoàn pháo 45 có 2 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn 3 đại đội 12 khẩu pháo.
    ------------------------------------------------------------------------
    Các đại đoàn chủ lực chuẩn bị trận quyết chiến chiến lược

    Quân Đội Nhân Dân   
    Ngày 18 tháng 02 năm 2004


       
     
    Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến phát triển sang giai đoạn mới, chúng ta phải tập trung xây dựng một lực lượng lớn các binh đoàn chủ lực, mở những chiến dịch quy mô lớn tiêu diệt và làm tan rã quân địch. Đến năm 1949, trên cơ sở lực lượng dân quân tự vệ phát triển rộng khắp và bộ đội địa phương hình thành, vấn đề xây dựng các đại đoàn chủ lực có sức cơ động cao, sức đột kích lớn, làm lực lượng quyết định trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược trở thành yêu cầu khách quan phù hợp với quy luật phát triển của quân đội ta. Những điều kiện khách quan và chủ quan để quân đội ta xây dựng các đại đoàn chủ lực đã cơ bản được bảo đảm.
    Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của các đại đoàn chủ lực trong cuộc kháng chiến, sau hội nghị cán bộ bàn về phương hướng xây dựng bộ đội chủ lực (5-1947), Bộ Tổng tham mưu mở hội nghị tổ chức xây dựng lực lượng (2-1949), thống nhất phương án tổ chức biên chế của một đại đoàn chủ lực trực thuộc Bộ và đề nghị Bộ Quốc phòng ban hành quy chế về tổ chức biên chế của đại đoàn chủ lực.
    Theo phương hướng đó, Bộ Tổng tham mưu khẩn trương kiện toàn các trung đoàn chủ lực trực thuộc Bộ, tăng cường quân số và vũ khí trang bị để nâng cao quy mô tổ chức, tiến tới thành lập đại đoàn chủ lực. Từ giữa năm 1949, các đại đội độc lập hoạt động trên các chiến trường được lệnh rút về để cùng các tiểu đoàn tập trung xây dựng thành những trung đoàn, đặc biệt là đại đoàn chủ lực. Các bộ phận được tập trung là những đơn vị có nhiều chiến công, cán bộ, chiến sĩ dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, vũ khí được bổ sung.
    Nhờ những nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cùng với phong trào toàn dân đánh giặc ngày càng phát triển, các đại đoàn chủ lực lần lượt ra đời. Ngày 28-8-1949, Đại đoàn bộ binh 308 được thành lập tại Đồn Đu, Đồng Hỷ (nay là Phú Lương), tỉnh Thái Nguyên. Đây là đại đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của quân đội ta được mang danh hiệu Quân Tiên Phong. Tiếp đó, 5 đại đoàn bộ binh lần lượt được thành lập trên các chiến trường gồm: Đại đoàn 304-Đại đoàn Vinh Quang ở Thanh Hóa (10-3-1950), Đại đoàn 312-Đại đoàn Chiến Thắng ở Phú Thọ (27-12-1950), Đại đoàn 320-Đại đoàn Đồng Bằng ở Ninh Bình (16-1-1951), Đại đoàn 316 ở Lạng Sơn (1-5-1951), Đại đoàn 325 Đại đoàn Bình-Trị-Thiên ở Bình-Trị-Thiên (5-12-1952) và Đại đoàn công pháo 351 ở Tuyên Quang (27-3-1951). Các đại đoàn chủ lực được thành lập đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về quy mô tổ chức, là một thay đổi về chất của quân đội ta qua 9 năm xây dựng và chiến đấu.
    Theo biên chế, quân số mỗi đại đoàn bộ binh gồm hơn 9.500 người, có ba trung đoàn bộ binh và các tiểu đoàn công binh, pháo binh, phòng không, thông tin, vận tải và cơ quan trực thuộc. Mỗi đại đoàn tập trung xây dựng 1 đến 2 trung đoàn mạnh. Mỗi trung đoàn mạnh có một tiểu đoàn pháo (4 khẩu 70 hoặc 75 ly), 2 trung đội trinh sát, một trung đội công binh, một đại đội thông tin và một đại đội vận tải. Về binh chủng, Đại đoàn công pháo 351 là đại đoàn binh chủng đầu tiên của quân đội ta, biên chế ba trung đoàn: trung đoàn sơn pháo 675, trung đoàn pháo xe kéo 45, trung đoàn công binh 351, một tiểu đoàn vận tải, một đại đội chỉ huy và các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần.
    Phần lớn vũ khí trang bị của các đại đoàn là thu được của địch, số còn lại do ta sản xuất và một phần do Trung Quốc giúp đỡ (sơn pháo 74 ly, pháo 105 ly và súng bộ binh). Tháng 3 năm 1953, Bộ Tổng tham mưu xây dựng lại biên chế các đơn vị chủ lực từ đại đội đến đại đoàn theo phương hướng gọn nhẹ, tăng cường hỏa lực và sức đột kích, đồng thời bổ sung quân số, vũ khí trang bị.
    Trên cơ sở tổ chức và trang bị theo biên chế mới, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo chặt chẽ công tác huấn luyện, trong đó tập trung huấn luyện cách đánh công kiên, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các đại đoàn chủ lực. Phương pháp và nội dung huấn luyện được cải tiến phù hợp với thực tế từng chiến trường, nhất là chiến trường rừng núi. Sau một thời gian tích cực huấn luyện, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ và khả năng chiến đấu của bộ đội các đại đoàn chủ lực được nâng lên rõ rệt.
    Như vậy, việc xây dựng các đại đoàn chủ lực 308, 304, 312, 316, 320, 325, 351 phản ánh quá trình phấn đấu rất gian khổ, công phu để đưa quân đội ta, từ một đội quân du kích tiến lên quân đội chính quy, từ trang bị vũ khí thô sơ, thiếu thốn tiến lên trang bị tương đối hiện đại; từ chỉ có bộ binh tiến lên có nhiều binh chủng, trở thành lực lượng chủ yếu tiến hành chiến tranh chính quy, có thể đánh tiêu diệt lớn quân chủ lực địch, giải phóng đất đai, làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho ta. Nhanh chóng xây dựng các đại đoàn chủ lực với quy mô thích hợp, trên cơ sở bộ đội địa phương mạnh, dân quân du kích hùng hậu và kiên quyết đưa các đại đoàn chủ lực tiến lên đánh lớn với sức cơ động lớn, sức chiến đấu cao trong những năm 1949-1953, là quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta để tiến hành cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch quyết chiến chiến lược cuối cùng có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
     
    Trung với Đảng - Hiếu với Dân - Khó khăn nào cũng vượt qua - Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành - Kẻ thù nào cũng đánh thắng!
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Cái này không chắc, em xem chương trình kỉ niệm chiến thắng ĐBP trên VTV, 1 cụ cựu binh từng chốt ở A1 nói có cả quân của 308, 312, 316 tham chiến. Có thể trong quá trình chốt giữ ngoài trung đoàn 174 còn có tân binh hoặc quân chiến đấu của các đơn vị khác được bổ sung liên tục. Hồi kí của ĐT nói rằng trận địa 2 bên chỉ cách nhau vài chục mét và hoàn toàn không có vật cản, nên những trận giành giật là rất rất thường xuyên.
    Thì ra các đại đoàn còn có bộ phận "kinh tế tự túc" ở hậu phương, thảo nào quân số cấp đại đoàn lớn như vậy.
  5. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Nếu bác tự đặt vào vị trí của quân tây, thì tất nhiên chúng ta sẽ có những bất đồng về từ ngữ ! Về phía ta, binh đoàn cơ động 100 (GM 100) đã bị tiêu diệt ở trên đường 19, chỉ cón bọn tàn binh đi nhập vào GM42 của ông Sockeel, GM 42 vẫn là 1 đơn vị có tổ chức của địch chứ không phải như tàn quân GM 100.
    Về trung đoàn 803 của ta, trong sách của ông Fall, nó lúc ẩn lúc hiện một cách luôn mơ hồ làm cho bọn quân báo pháp đoán chọn lung tung.
    Về phần tướng Nam Khánh, lúc này là trung đoàn phó trđ 803 (trđ trưởng Phan Hàm, chính uỷ Nguyễn Thái/Võ Bẩm), cũng như trong trận Ia Đrăng, ông cho một cách rất chính xác về tình hình của ông nhưng về những đơn vị xung quanh thì ít đầy đủ hơn. Em cuñg chỉ tóm tắt cả hơn 100 trang trong hồi ký của cụ cùng với mấy tin tức em xin được từ mấy cựu chiến binh.
    Trong chiến dịch 1954 chống cuộc hành quân Atlante của tây, đầu tiên (tháng 1) ta có 2 trung đoàn chủ lực tham gia : trung đoàn 108 và 803 (tđ 365, 59 và 39)
    Kế hoạch đầu tiên của ta là giải phóng Kontum (kế hoạch toàn diện của Liên Khu 5 là giải phóng vùng cao nguyên càng nhiều càng tốt để ủng hộ cho hội nghị Geneve). Theo kế hoạch này, để tấn công Kontum, trung đoàn 108 sẽ là mũi chủ công, trđ 803 sẽ yểm trợ bằng cách chiếm những đồn chốt xung quanh Kontum và điều động đại đội 11 của tđ 59 đi giúp du kích địa phương phục kích địch trên đường 19 (từ An Khê tới).
    Trong khi đang phát triển đội hình thì ta được tin địch đánh vào hậu phương ta ở Phú Yên là quê của hầu hết các cán bộ chiến sỹ của tđ 365. Vì vậy, trđ phải thay đổi kế hoạch : tđ 365 ra Phú Yên chiến đấu với địch, 2 tđ còn lại vẫn thực hiện nhiệm vụ cũ.
    Trong trận Kontum, ngày 1/2 tđ 39 phục kích thành công GM 100 ở Kon-Sơn-Lư (Fall có nói tới, chính xác về quân số phía ta, nhưng không biết được là đơn vị nào), sau đó tđ này đi xuống phía nam cắt đường 14 (từ Plây Cu lên). TĐ 59 chiếm cứ điểm Kon-Brây ngày 29/1 và cùng với TrĐ 108 giải phóng Kontum ngày 5/2.
    Sau đó trung đoàn tiến về phía nam ( tướng Nam Khánh lúc này ở lại Kontum để tổ chức địa phương quân và tự vệ đến ngày 15 mới trở lại trĐ), 2 tđ 59 và 39 tập trung trước đồn Đắc-Đoa từ ngày 15 đến ngày 18 để chuẩn bị chiếm liñh đồn này. Ngày 18, thì hoàn thành nhiệm vụ. Ta cũng có ngạc nhiên khi thấy trong số tù binh có đến gần 100 tên thuộc GM 100. Ở đây ông Fall cũng có nói khá đúng về TrĐ 803.
    Sau trận này, trđ 803 tiến về căn cứ Đắc Pớt ở nam Tây Nguyên nghỉ đến ngày 20/3 (trong sách của Fall gọi là Dak Bot). Trong khi đó, mấy GM tây đi lục soát tìm trđ khắp nơi không thấy. Ngày 20, trđ phải rời Đắc Pớt để tấn công phủ đầu Plây Rinh khi tụi GM 100 cuñg đang tập trung ở Plây Rinh để tấn công Đắc Pớt ! Trận này ta hơi ở trong thế bị động vì địch được mấy thằng tù binh chạy thoát thông báo vị trí của trđ 803 cho nên ta phải đánh trong tư thế 1 chọi 8 theo tướng Nam Khánh(theo ta GM 100 có khoảng 4000 lính lúc đó), nhưng theo tài liệu của Fall thì chỉ khoảng 1 chọi 5 (nó có 3,498 người trước chiến dịch - 25% tổn thất đến lúc đó). Ta đánh phá được cái chốt của địch và gây cho GM thiệt hại nặng (Fall cũng công nhận điều này).
    Đến đây là kết thúc cuộc đối đầu giữa GM 100 và trđ 803. Tụi GM 100 lên An Khê và sẽ bị Trđ 96 tiêu diệt trên đường 19. Trong khi Trđ 803 xuống phía nam tiêu diệt các đồn nguỵ ở trên đường 7B (đường này sau nổi tiếng hồi tháng 3 năm 75 hơn là hồi này ) để mở cửa về phía biển : trận Cheo Reo-Tuy Bình- Củng Sơn(địch đầu hàng) -Tuy Hoà gặp lại tđ 365 (tháng 5, Fall cũng có nói tới). Cuối tháng 5, tđ 59 đi cùng với tướng Nam Khánh lên Chư Đrếch (Chu Dreh theo Fall và sẽ gặp GM 42 +tàn quân GM 100 của Sockeel rút về Ban Mê Thuột) tập hợp với trđ 108 để cắt đường 14 đi từ Plây Cu xuống BMT, trong khi phần còn lại của trđ đi xuống phía nam cắt đường 21 từ Khánh Hoà lên BMT. Ý định tất nhiên là để cô lập BMT như ta đã làm với Kontum, Plây Cu và An Khê. Đến đây thì hoà ước Geneve được kí, chấm dứt chiến tranh Đông Dương.
    Như vậy phải công nhận là lúc bấy giờ, ta hoàn toàn có thế chủ động, luôn tính trước tụi tây một nước cờ, mặc dầu quân số có lẽ tương đương và hoả lực thì thua hẳn. Về mặt chiến lược, em thấy kế hoạch giải phóng tây nguyên nhằm có thêm uy lực ở Geneve này có lý hơn là cái chiến lược trong sử sách tây nó gán cho mình : mấy trung đoàn ta chạy loanh quanh trong rừng tây nguyên để tiêu diệt hai ba cái binh đoàn cơ động tây.
    Trong thời gian GM 100 bị tiêu diệt trên đường 19, trđ 108 đang ơ, phía nam Plây Cu, trên đường 14 và trđ 803 đang hành quân lên đường 14 cho tđ 59, và xuống đường 21 cho phần còn lại của trung đoàn (cả 2 phần cách đường 19 đến cả 100 km đường chim bay qua toàn vùng rừng núi hiểm trở) cho nên để tham gia những trận phục kích trên đường 19 thì hơi khó mặc dầu bọn quân báo tây ở đây lúc này hay gán cho ta nhiều phép kỳ lạ.
    Về phần bọn này, em cũng thấy, nếu đầu chiến dịch bọn tây còn khá, càng về sau tụi nó càng đoán lung tung, sai bét. Có lẽ ĐBP đang phân chia tụi nó.
    Về phần ta, trđ 96 lúc đó có chính uỷ là thượng tướng Đặng Vũ Hiệp và không có tướng Nguyễn Hữu An như trong phim mẽo "we were soldiers ..." (ông lúc này là trung đoàn trưởng trong đại đoàn 308 ở ĐBP).
    Cho thêm cái bản đồ lấy từ "street without joy" ra :

    Hành trình của "dim xăng" (GM100) từ vùng biển đến chỗ chết trên đường 19.

    Hành trình của trung đoàn 803 trong chiến dịch giải phóng tây nguyên 1954.
    Được panzerlehr sửa chữa / chuyển vào 02:21 ngày 09/03/2004
  6. ducsnipper

    ducsnipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2003
    Bài viết:
    1.866
    Đã được thích:
    0
    Xin lỗi làm chậm mạch thảo luận của các bạn, bài này tôi thấy cũng có liên quan đến chủ đề này nên xin post lên đây:
    Một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của tôi
    Trong không khí cả nước náo nức chuẩn bị kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ?" một chiến thắng lẫy lừng và chấn động địa cầu, ngày 7-3-2004, tại Điện Biên đã diễn ra hội thảo khoa học cấp quốc gia về chiến thắng lịch sử ấy. Báo SGGP xin trân trọng trích đăng bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi đến tham gia hội thảo. Đầu đề bài trích này là của SGGP.
    Trong buổi bình minh của thiên niên kỷ mới, trên Tổ quốc Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất, công cuộc đổi mới xây dựng phát triển đất nước đang từng ngày khởi sắc, nhân dân ta kỷ niệm trọng thể 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
    Chúng ta còn nhớ: Thu Đông 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân xâm lược Pháp bước sang năm thứ 8. Sau 5 năm tự lực chiến đấu trong vòng vây, từ năm 1950 trở đi, chủ lực ta liên tiếp mở nhiều chiến dịch lớn, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở biên giới Việt-Trung, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào. Chiến tranh du kích phát triển mạnh, làm ?oruỗng nát? vùng tạm chiếm của đối phương.
    Trước tình hình nguy khốn ở Đông Dương, chính phủ Pháp cử tướng bốn sao Hăngri Nava sang làm Tổng chỉ huy thứ 7 của đội quân viễn chinh xâm lược. Ta được biết nội dung kế hoạch Nava do bạn Trung Quốc cung cấp. Theo kế hoạch này, Nava đề ra mục tiêu trong vòng 18 tháng, tập trung lực lượng cơ động chiến lược để tiến công tiêu diệt phần lớn chủ lực ta, buộc chính phủ ta phải chấp nhận đàm phán theo những điều kiện do Pháp đề ra, nhằm tìm ?olối thoát danh dự? cho cuộc chiến tranh xâm lược.
    Trong Đông Xuân 1953-1954, Nava tập trung các binh đoàn cơ động ở đồng bằng Bắc bộ nhằm đối phó với cuộc tiến công có thể xảy ra của chủ lực ta, càn quét bình định vùng sau lưng chúng; cho quân nhảy dù xuống Lạng Sơn, đánh ra Ninh Bình, uy hiếp các căn cứ kháng chiến của ta ở Việt Bắc và Thanh Nghệ Tĩnh.
    Để phá tan kế hoạch Nava, buộc chúng phải phân tán lực lượng, bị động đối phó, Bộ thống soái tối cao của ta chủ trương dùng một bộ phận quân chủ lực, phối hợp với các lực lượng địa phương, chủ động mở các cuộc tiến công lên Tây Bắc, Trung Lào và Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên, lấy Tây Bắc làm hướng chính. Đó là những hướng chiến lược hiểm yếu mà địch tương đối yếu, ta có thể tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, tiếp tục khoét sâu mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán binh lực của địch, tạo nên thế trận mới, thời cơ mới. Tình hình có thể phức tạp, ta cần theo dõi diễn biến, khi thời cơ xuất hiện thì nhanh chóng tập trung lực lượng, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho ta.
    ?Thắng lợi to lớn của các chiến trường phối hợp trong giai đoạn đầu của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 đã làm cho kế hoạch Nava bị đảo lộn và bắt đầu phá sản. Ở chiến trường chính, Điện Biên Phủ, lúc đầu chưa có trong kế hoạch Nava và cũng chưa có trong kế hoạch tác chiến của ta, đã trở thành nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược, cuộc đọ sức quyết liệt nhất giữa ta và địch.
    Thực hiện quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, bộ phận tham mưu của ta và của đoàn cố vấn đi trước để chuẩn bị chiến trường, đã đề nghị phương án tranh thủ ?ođánh nhanh giải quyết nhanh? khi địch còn đứng chân chưa vững, dốc toàn lực đánh trong 3 đêm 2 ngày tiêu diệt toàn bộ quân địch giành thắng lợi. Tôi và đồng chí trưởng đoàn cố vấn đi sau, lên đến mặt trận đã nghe báo cáo phương án đánh nhanh.
    Tại cuộc họp đầu tiên của Đảng ủy chiến dịch, tôi đã nêu những khó khăn lớn mà bộ đội ta chưa thể vượt qua nếu đánh theo phương án đó. Nhưng ý kiến chung đều cho rằng: Bộ đội ta đã được huấn luyện về cách đánh tập đoàn cứ điểm, hiện nay sung sức, quyết tâm chiến đấu rất cao, lại có lựu pháo và cao xạ pháo lần đầu xuất trận, với sức mạnh mới, có thể gây bất ngờ và sẽ chiến thắng. Nếu không đánh sớm, để địch tăng thêm quân và củng cố công sự, khiến tập đoàn cứ điểm trở nên quá mạnh, ta sẽ bỏ lỡ cơ hội đánh tiêu diệt lớn trong Đông Xuân này. Chiến dịch kéo dài sẽ không giải quyết được khó khăn về hậu cần. Đồng chí trưởng đoàn cố vấn cũng tán thành phương án ấy.
    Tuy không tin vào thắng lợi của phương án đánh nhanh thắng nhanh, nhưng tôi tự thấy mình vừa mới đến chiến trường, chưa có đủ cơ sở thực tế để bác bỏ ý kiến của đa số, nên đã đồng ý triệu tập Hội nghị cán bộ để phổ biến kế hoạch tác chiến theo phương châm ?ođánh nhanh, giải quyết nhanh?. Đồng thời tôi chỉ thị cơ quan tham mưu theo dõi chặt chẽ tình hình địch từng ngày, từng giờ, kịp thời báo cáo; nếu tình hình thay đổi, ta có thể thay đổi kế hoạch.
    Suốt 11 ngày đêm theo dõi tình hình, tôi thấy địch ngày càng tăng cường lực lượng, ra sức củng cố trận địa, và những khó khăn của ta chưa có cách khắc phục. Nhiều đêm trăn trở, cân nhắc, đêm cuối cùng thức trắng, tôi đi đến kết luận: đánh theo cách này nhất định thất bại. Sáng ngày 26-1, tôi đã trao đổi ý kiến thống nhất với đồng chí trưởng đoàn cố vấn, tiếp đó đưa ra Đảng ủy mặt trận bàn thay đổi cách đánh. Cuộc thảo luận trong Đảng ủy đã diễn ra gay go sôi nổi. Tất cả đều cho rằng bộ đội quyết tâm cao, mọi mặt đã chuẩn bị, phải đánh nhanh, nếu không sẽ khó khăn, mất thời cơ. Nhưng khi đặt ra câu hỏi: Vậy đánh nhanh có bảo đảm chắc thắng 100% như Bác Hồ căn dặn không? Thì không ai dám khẳng định; cuối cùng Đảng ủy đã đi đến nhất trí phải chuyển sang phương châm ?ođánh chắc, tiến chắc? - một phương án đã từng dự kiến trước đây. Mặc dầu mấy vạn quân ta đã dàn trận, đạn đã lên nòng sẵn sàng nổ súng vào đêm 26-1, nhưng chúng ta đã kiên quyết dừng lại, cho lui quân về vị trí tập kết, kéo pháo ra để chuẩn bị trận địa đánh theo phương án mới. Quyết định thay đổi phương châm đã được triển khai, sau đó báo cáo về trung ương bằng thư hỏa tốc, được Bác Hồ và Bộ Chính trị nhất trí và cho biết sẽ động viên hậu phương đem toàn lực chi viện cho tiền tuyến đánh thắng.
    Thay đổi cách đánh trong tình thế toàn mặt trận từ trên xuống dưới quyết tâm chiến đấu theo phương án đánh nhanh giải quyết nhanh, các đơn vị đã vào vị trí chiến đấu, chờ giờ nổ súng là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của tôi.
    Chúng ta chuyển sang cách đánh chắc tiến chắc tức là bao vây đánh dần từng bước, tiêu diệt địch từng bộ phận, từ ngoại vi vào trung tâm. Đánh theo cách này, ta có điều kiện tập trung binh hỏa lực ưu thế tuyệt đối trong từng trận, tạo nên sức mạnh áp đảo đánh thắng địch.
    Để bảo đảm bao vây, tiêu diệt địch từng bước, theo kinh nghiệm chiến đấu của Giải phóng quân Trung Quốc mà đoàn cố vấn giới thiệu, chúng ta đã xây dựng một hệ thống đường kéo pháo bằng cơ giới và các trận địa pháo có hầm đào sâu vào vách núi; xây dựng một hệ thống trận địa bao vây và tiến công qui mô chiến dịch, với hàng trăm kilômét hào giao thông để cơ động tiếp cận địch, với hàng vạn công sự chiến đấu, công sự ẩn nấp cho người và vũ khí, có hầm nghỉ ngơi, sinh hoạt, cấp cứu thương binh trong lòng đất, bảo đảm cho bộ đội chiến đấu liên tục ngày đêm trên cánh đồng Mường Thanh, dưới sự đánh phá ác liệt của không quân và pháo binh địch.
    Trải qua một quá trình chiến đấu dài ngày, chúng ta đã lần lượt tiêu diệt từng cụm cứ điểm của địch, xiết chặt vòng vây, vận dụng chiến thuật đánh lấn, bắn tỉa, chia cắt sân bay, triệt đường tiếp tế... làm cho tập đoàn cứ điểm ngày càng bị bóp nghẹt, không phận ngày càng bị thu hẹp, khó khăn ngày càng chồng chất, tinh thần chiến đấu của địch ngày càng sa sút. Cuối cùng, ta mở đợt tiến công quyết định đánh vào sở chỉ huy đầu não, bắt sống tướng Đờ Cát và Bộ chỉ huy, buộc toàn bộ quân địch đầu hàng, giành toàn thắng cho chiến dịch.
    Như vậy, quân đội ta từ chỗ mới tiêu diệt được từng tiểu đoàn địch phòng ngự trong công sự vững chắc và thường chỉ đánh trong đêm, đã tiến lên tiêu diệt 21 tiểu đoàn phòng ngự trong một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, với 8 trung tâm đề kháng, 49 cứ điểm và đánh liên tục trong 56 ngày đêm, đã tiêu diệt, bắt sống hơn 1 vạn 6 nghìn quân địch, đại bộ phận là lính Âu Phi tinh nhuệ.
    Đây là trận tiêu diệt chiến lớn nhất, tiêu biểu nhất, một bước trưởng thành vượt bậc về trình độ tác chiến của quân đội ta.
    Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP
    (nguồn: www.sggp.org.vn)
    BE COOL!
  7. duckhang

    duckhang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/06/2003
    Bài viết:
    468
    Đã được thích:
    0
    Kỷ niệm 50 nZm chiến thắng Điện Biên Phủ - Sự ra đời "Con nhím khổng lồ"
    Đã nghe mãi tên "Con nhím", tôi xin kể vài chuyện xung quanh nguồn gốc ra đời của nó.
    1. Con nhím? Điện Biên Phủ?
    Ngày đầu sang Đông Dương, Nava tiếp nhận "cơ nghiệp" quân sự của tướng Xa LZng để lại: Thế trận tam giác "Lai Châu - Nà Sản - Điện Biên Phủ", Xây dựng những "con nhím" (Hérisson) cố thủ hi vọng nắm xứ Thái, che chở xứ Lào, khống chế Việt Bắc (!) Nava nghi ngờ hiệu quả ý tưởng chiến thuật thiếu linh hoạt này. Hơn nữa tin tình báo mỗi lúc thêm dồn dập về các kỹ thuật viên ********* đã nghiên cứu cải tạo con đường 13 kéo dài 160 km nối lên Yên Bái với Cò Nòi, Tuần Giáo trên tỉnh lộ 41 (Lai Châu - Sơn La). Họ lại mở vô số đường xe thồ đến Tạ khoa cách Nà Sản khoảng 30km...(!) Họ cặm cụi như đàn kiến tha mồi với mục đích gì? Khai thác kinh tế miền núi ư? Không phải. Tướng Nava chợt liên tưởng con đường vượt đèo Saint Bernard của Napoléon, mà lo sợ cho số phận "con nhím" Nà Sản sắp chết trong cái lòng chảo nhỏ hẹp. Nava vội tZng quân cho cứ điểm, đồng thời mở cuộc hành binh "con nhạn" (Hirondelle) tập kích Lạng Sơn. Rồi đột nhiên dùng máy bay rút hết quân ở Nà Sản và phá huỷ kho vũ khí không chở đi được. Thủ tướng Lanien rất mừng, khen Nava mưu trí táo bạo đánh lừa được đối phương để bảo toàn lực lượng. Quả thật, hai đại đoàn chủ lực của ta đã sổng mất con mồi.
    Điện Biên Phủ là gì, ở đâu? Trước khi có Pháp chiếm đóng, không mấy ai biết đến. Viên phi công Molinier thả dù về nói "hãy tưởng tượng đến một sân bay giữa cánh đồng rộng...". Viên kỹ sư địa lý miêu tả: "Điện Biên Phủ có nghĩa là thủ phủ ở biên giới, gồm 5 châu như Tuần giáo, Luân Châu, Nà Sản...". Chẳng sao hình dung nổi. Tướng Gilles phải cho quân dù thám sát, báo cáo mới rõ đấy là một cái lòng chảo lớn nhất ở Tây Bắc, dài khoảng 20km, rộng 8km, là cánh đồng phì nhiêu giữa vùng núi non xứ Thái. Địa bàn này tiếp giáp hai nước Lào, Trung Quốc, còn là cái chợ của các dân tộc Thái, Mèo, Xá, Puộc... tụ họp trao đổi mua bán thuốc phiện. Nếu nắm được cuộc sống kinh tế thì sẽ chi phối được họ...
    Tướng Nava nghĩ đến sứ mệnh được giao, nhân thế đất thế núi hiểm yếu, chấp nhận thiết lập: Binh đoàn tiến công vùng Tây Bắc (Groupement offensif du Nord Ouestz: Gono) quyết thắng quân đội ********* tại đây. Vậy là, từ chỗ nghi ngờ tính tích cực của "con nhím", Nava lại tái hiện nó lớn hơn.
    2. Véc-đoong (Verdun) châu á (!)
    Được Thủ tướng Lanien tán thành, Bộ quốc phòng Pháp huy động mỗi ngày vài trZm chuyến bay, vận tải khẩn cấp những chiến cụ, sắt thép, công sự bê tông đúc sẵn... lên Điện Biên Riêng dây thép gai hàng rào đã tới 3000 tấn. Dưới sự chỉ huy của đại tá Đờ Cát, thung lũng ĐBP được xây dựng thành lập đoàn 49 cứ điểm, phân làm tám cụm liên hoàn. Mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng, có chiến hào cơ động ngang dọc. Những cứ điểm kiên cố được xây dựng hầm ngầm, có hàng rào thép gai các kiểu, bao quanh cứ điểm từ 4-5 lớp. Với cứ điểm trọng yếu được lắp rào gai điện. Giữa các lớp rào đều cài mìn các loại dầy đặc.
    Tám cụm cứ điểm hợp thành 3 phân khu:
    - Phân khu bắc gồm các cứ điểm Độc lập, Bản kéo hợp với cụm Him Lam bảo vệ mặt bắc tập đoàn.
    - Phân khu trung tâm nằm giữa thung lũng, gồm: Hệ thống cứ điểm trên các ngọn đồi phía đông sân bay Mường Thanh, trận địa pháo và chỉ huy sở tập đoàn.
    - Phân khu Nam gồm trận địa pháo, sân bay Hồng Cúm với hệ thống cứ điểm bảo vệ mặt Nam và Tây Nam.
    Lực lượng ĐBP gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 2 tiểu đoàn pháo 155mm, 1 tiểu đoàn 155mm và cối 120mm (40 khẩu), 1 đại đội súng phun lửa, 1 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn tZng, 1 đại đội ô tô vận tải, 1 phi đội chiến đấu (12 máy bay). Tổng quân số 16200 người. Việc đánh ngZn chặn xa, không quân các cZn cứ Gia Lâm (HN), Cát Bi (HP), và tầu sân bay Mỹ ở Vịnh Hạ Long đảm nhiệm. Không quân của tập đoàn ĐBP chỉ chiến đấu tại chỗ.
    Lương dự trữ tại tập đoàn đã có 2000 tấn lương thực vũ khí. Sân bay Gia Lâm, Cát Bi lập cầu hàng không với 2 sân bay Điện Biên.
    Các Bộ trưởng chiến tranh, Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng, đô dốc hải quân đã đến kiểm tra đánh giá "Một pháo đài bất khả xâm phạm". Tư lệnh không quân Pháp và tướng O Danien Mỹ cũng lên xem bài binh bố trận ĐBP đều tỏ ý nể phục "Một tập đoàn cứ điểm đáng sợ", "Một véc đoong Đông Nam á".
    3. Hai nhà quân sự danh tiếng nước Pháp với Điện Biên Phủ việt Nam
    Suốt 8 nZm kháng chiến, dân VN chưa biết, bây giờ mới chợt nghe "Tướng 4 sao Henri Navarre tới Sài Gòn trưa 19-5-1953". Ông tướng 55 tuổi nguyên tham mưu trưởng (TMT) lục quân Pháp thuộc khối Bắc Đại Tây dương đóng ở Trung Âu. Nava đã là tư lệnh thiết giáp trong chiến tranh thế giới thứ II và từng phụ trách tình báo quân đội Pháp. Ông được báo chí phương tây ca ngợi là danh tướng có tài xoay chuyển tình thế.
    Ngày 3/7 Nava trở lại Paris lập chương trình kế sách hành động, được Hội đồng TMT và Hội đồng Q.P thông qua, đánh giá cao. Kế hoạch gây được ấn tượng tốt trong các quan chức, chính khách cao cấp. Mỹ đặc biệt tán dương một nhà chiến lược có tài. Ngày 2-8-1953, Nava trở lại Sài Gòn triển khai thế trận. Trước hết cần bổ nhiệm tư lệnh tập đoàn GONO kịp nhậm chức. Ngày 8 tháng 12, ông chọn đại tá Đờ Cát tơri, tên gọi đầy đủ Christian Ferdinand de la croix Descastries, sinh 11-8-1902 thuộc dòng quí tộc từ thời thập tự chinh, tổ tiên đã làm tướng. Dòng họ Đờ Cát có 1 thống chế, 1 bộ trưởng, 4 thống đốc, 1 đô đốc, 5 trung tướng. Những nZm Minh Mạng ở ngôi, dòng họ Đờ đã có người cầm quân đánh VN.
    Đờ Cát tốt nghiệp sĩ quan võ bị sanmure, 1939 chiến đấu chống phát xít bị thương phải đầu hàng, nZm 1941 trốn khỏi trại giam ở Silesie. Đờ Cát lánh sang Alger theo lực lượng kháng chiến đổ bộ lên đất Pháp. NZm 1949, Đờ Cát tham gia chiến tranh tái xâm lược VN, làm chỉ huy trưởng lữ đoàn cơ giới, bị trọng thương. Sau khi lành, Đờ lại theo tướng Tatxinhi sang Đông Dương, chỉ huy lực lượng cơ động, chiến trận nhiều, nhưng cũng chưa nổi lên cho tới ngày được Nava trọng dụng.
    Lần đầu nắm trong tay lực lượng hùng mạnh quá cỡ, lại được bao nhiêu lời ca ngợi chúc tụng, Đờ Cát cùng bộ tham mưu say sưa kiến tạo thế trận hoả lực, danh xưng "Máy nghiền thịt". Và, cao hứng cho máy bay rải truyền đơn thách thức: "V.M đợi gì nữa mà không tiến công?".
    Đờ Cát được phong tướng vào những ngày sắp kết thúc cuộc đời "con nhím" khổng lồ. Cũng từ đấy tên tuổi hai vị tướng Pháp gắn liền với sử tích Điện Biên Phủ Việt Nam.
    4. Điềm báo trước
    Ngày 15-10-1953, đột nhiên Marc Jarquet đến Sài Gòn nói với Nava: "... Sự sụp đổ của Luang Prabang sau chiến dịch Thượng Lào (5/1953) sẽ phải kết thúc chiến tranh... Hãy để cho xứ Lào chịu với số phận của nó, mới có thể chấm dứt cuộc chiến làm ta kiệt quệ theo...".
    Ngày 18-11, đô đốc Cabanier lại sang VN với sự uỷ nhiệm ngầm thông tin cho Nava tình hình ngân sách, đừng nên mưu tính gì quá lớn, hãy để các nhà chính trị tự liệu... Nhưng Nava lại đi Hà Nội rồi và cũng ngại tiếp đô đốc, e bị phân tâm, vì ĐBP đang bắt đầu vào cuộc.
    24-1-54, đại uý thông tin báo cáo: Những bức điện của đối phương qua mã thám từ 20-1-54 trở đi không còn lệnh chuyển "khẩu phần đặc biệt" lên cZn cứ chỉ huy mặt trận nữa (!)... Đó là khẩu phần của các cố vấn Trung Hoa. Vì sao vậy?
    26-1, không hề có dấu hiệu V.M tấn công GONO (?!) Tin điệp báo "...các cố vấn Trung Hoa không còn ở ĐBP...". Cuộc họp Đảng mặt trận của V.M 25-1-54 ở hang Thẩm Pua vắng mặt Vi Quốc Thanh và đồng sự... (?)
    28-1 - Điệp báo "... Đại đoàn 308 đã xuất hiện ở tuyến Nậm Hu... Nó đã không theo kế hoạch đã định tiến vào trung tâm GONO đêm 25-1...".
    4-2- GONO vẫn không có cuộc tấn công. V.M đang kéo pháo về sau (!) ... 15 phi vụ đánh, diệt được ít nhất là 3 khẩu...
    8-2-54, Điện khẩn cấp "... Kông tum thất thủ... GM100 dự bị cơ động cho GONO đã mất hết ở đèo An Khê...)
    13-2, vẫn chưa có cuộc tấn công dự tính..., nhưng xung quanh tập đoàn ĐBP, suốt ngày đêm vZng vẳng tiếng thình thịch liên tục trong lòng đất mỗi lúc xít lại hơn... (?!)
    Có phải đấy là những điềm gở? Tướng Nava bắt đầu cảm nhận sự bất an, nhưng lên mình hổ rồi. Triển vọng "con nhím" ra sao chỉ có Chúa biết được thôi.
    Nguyễn Việt Phương -

    --------------------------------------------------------------------------------
    duckhang
  8. masktuxedo

    masktuxedo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    1.625
    Đã được thích:
    1
    Các bác cho hỏi một chút với:
    - Theo như bài của bác "ducsnipper", trích bài "Một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của tôi" của ĐT, thì Đại Tướng VNG ngay từ trước khi nổ súng đã quyết định đánh theo phương pháp chậm mà chắc. Do đó theo tôi việc chuyển sang đánh lấn theo kiểu chiến hào phải chăng là một bước phát triển rất logic, theo đúng mạch tư duy của Đại Tướng (mặc dù sáng kiến đào hào có thể ko phải Đại Tướng đích thân nghĩ ra, nhưng chắc chắn vào thời điểm đó có rất nhiều ssáng kiến khác nhau - người quyết định là ĐT)?
    - Chính nhờ đánh chậm - đánh từng cứ điểm nhỏ nên ta có cơ hội tập trung lực lượng (cả quân lẫn pháo) vào một chỗ, trong khi đó Pháp phải dàn quân ra bảo vệ khắp nơi trong ĐBP. Đó có phải là một ví dụ về "tập trung lực lượng giành thế áp đảo" ko nhỉ? (Mặc dù quân ta đông hơn, pháo ta cũng dồi dào hơn Pháp chút ít (theo lời các bác) mặc dù theo tôi ko thể tinh nhuệ bằng, nhưng ta ko có xe tăng, máy bay, súng bộ binh theo tôi là yếu hơn, mà Pháp thì còn có cả bonke lô cốt chắc chắn nữa.)
    - To bác MDB: Bác rất muốn đánh giá về vai trò của ĐT Võ Nguyên Giáp - vậy bác đánh giá thế nào về quyết định hoãn trận đánh của ĐT? Như vậy liệu có đủ để chứng minh rằng ĐT có vai trò quyết định trong thắng lợi ĐBP? Hơn nữa theo lời ĐT thì đa số các chỉ huy đều đồng ý với việc đánh nhanh thắng nhanh, duy có mình ĐT VNG đã tỏ ra rất biết người biết mình: (1) Biết rõ lực lượng Pháp rất mạnh, hoả lực (súng máy, xe tăng, máy bay, pháo ...) áp đảo và (2) biết rõ rằng lực lượng của ta chưa đủ (3) biết rõ rằng hậu cần của ta có thể đảm bảo đánh chậm thắng chắc (trong khi nhiều người lo ngại về vấn đề này - rất có lý vì Pháp có máy bay hỗ trợ hậu cần, còn ta thì chỉ có xe đạp thồ là chính, một ít ô tô cũng ko ăn thua gì).
  9. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Pháp đúng là đóng quân dàn trải trong thung lũng (chắc cũng phải thế thôi nếu không muốn bị kê pháo vào cổ- sân bay) tuy nhiên pháo Pháp đặt ở giữa bắn đâu cũng được.
  10. MDB

    MDB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2003
    Bài viết:
    947
    Đã được thích:
    0
    Quyết định "Gượm đã!!" của Đại tướng rất sáng suốt và đúng lúc, một vị tướng yếu bóng vía hơn tí thì đã ngả theo ý kiến của tập thể mà phát lệnh tấn công rồi. Tuy nhiên, với tính khiêm tốn cố hữu của ông, Đại tướng đã không nói rõ cống hiến của mình trong tư duy chiến thuật mới. Đại tướng chỉ nhắc tới vai trò chủ đạo của các cố vấn Tàu trong việc hoạch định các chi tiết chiến thuật mới cho chiến dịch. Thế các bác nghĩ sao?
    Trung với Đảng - Hiếu với Dân - Khó khăn nào cũng vượt qua - Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành - Kẻ thù nào cũng đánh thắng!

Chia sẻ trang này