1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến thắng Điện biên và cuộc chiến Việt Pháp

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi datvn, 06/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Bác nào có thông tin về cứ điểm Hồng Cúm không ạ? (Địa điểm, vị trí, diện tích)
    Ngoài ra còn có tài liệu về văn học, thơ ca liên quan đến Hồng Cúm không ạ?
    Giúp em với.
    Tấm lòng son!
  2. phandong

    phandong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/04/2003
    Bài viết:
    114
    Đã được thích:
    0
    Các bác cho em post nhờ lên đây để copy fim nhé:
    http://203.162.1.217/ASX/VTV1%20Cuoc%20chien%20biet%20hai.asx
    http://203.162.1.217/ASX/sao%20thang%20tam.asx
    http://203.162.1.217/ASX/040226aixuoivanlytapcuoi.asx
    http://203.162.1.217/ASX/Muahoasenno.asx
    Được phandong sửa chữa / chuyển vào 22:21 ngày 18/03/2004
  3. phandong

    phandong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/04/2003
    Bài viết:
    114
    Đã được thích:
    0
    Phim tài liệu về Điện Biên Phủ và biên giới VN:
    http://203.162.1.217/ASX/040301phimtailieu.asx
    http://203.162.1.217/ASX/040312truyenhinhdiaphuong.asx
    http://203.162.1.217/ASX/040304phimtailieudienbienphu.asx
    http://203.162.1.217/ASX/Dan%20la%20goc_%20tap%2012.asx
    Có bác nào copy được hẳn clip thì share với, em save được có mỗi cái link...
    Được phandong sửa chữa / chuyển vào 22:29 ngày 18/03/2004
  4. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    A, kiếm được cái này hay quá.
    Cố vấn Trung Quốc ơ? Việt Nam (1950-1952)
    Vi? sao lực lượng Việt Minh chiến thắng quân Pháp với đi?nh điê?m la? chiến thắng Điện Biên Phu? 1954?
    http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2004/03/040318_chineseadvisers.shtml
     
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Phù hiệu đơn vị quân Pháp tham chiến tại Điện Biên Phủ
    (Theo vnn)
    Trong và sau chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội ta thu được nhiều loại phù hiệu tại các cứ điểm Him Lam, Độc Lập, Hồng Cúm, đồi A1, C1? Các phù hiệu này đã trở thành hiện vật bảo tàng. Nghiên cứu bước đầu cho thấy: đây là những phù hiệu của 46 đơn vị lính Pháp tham chiến tại Điện Biên Phủ. Một cựu chiến binh Pháp đã giúp bổ sung thông tin chi tiết cho các hiện vật này.
    Tấm lòng của một cựu binh Pháp
    Năm1990, một đoàn làm phim của Pháp sang Việt Nam quay bộ phim về Điện Biên Phủ để tham gia liên hoan phim thế giới. Trong số những người làm phim có ông Jacques Allare, người phụ trách về cung cấp phù hiệu cho các diễn viên đoàn làm phim. Ông vốn là lính thuộc Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 dưới sự chỉ huy của Bigia nhẩy dù xuống Điện Biên Phủ lần đầu vào ngày 20 tháng 11 năm 1953. Ngay khi tiếp đất tại Bản Kéo, tiểu đoàn này chạm trán với Trung đoàn 174, sư đoàn 316 bộ đội Việt Nam từ 10h sáng đến 16h30 chiều. Sau đó, Jacques Allare được quay về và đến ngày 15 tháng 3 năm 1954, lại nhẩy dù xuống đóng quân cố thủ ở đồi C1, C2. Rất may là ông không bị chết trận tại Điện Biên Phủ như nhiều đồng đội của mình mà được về đoàn tụ cùng gia đình.
    36 năm sau, Jacques Allare quay lại Việt Nam. Lần này ông lên Điện Biên Phủ không phải bằng dù mà bằng máy bay của hãng Hàng không Việt Nam.
    Từng là nhân chứng của các cuộc giao tranh ác liệt ở Bản Kéo, đồi C1, C2, khi quay lại chiến trường xưa, lòng ông không khỏi ngổn ngang tâm tư và hoài niệm. Mọi thứ giờ đây thay đổi quá nhiều, đến mức thật khó nhận ra đây chính là một bãi chiến trường khủng khiếp. Điện Biên Phủ giờ đây đã thành một thị trấn đông đúc, cánh đồng Mường Thanh lúa chín trĩu vàng. Tuy nhiên, những chiếc xe tăng hoen rỉ, những hầm ngầm, lô cốt vẫn còn đó như in dấu những ngày "khủng khiếp như dưới địa ngục" ấy. Tất cả đã ăn sâu vào trong trí nhớ của người cựu binh Jacques Allare. Nhưng lần này đến Điện Biên Phủ ông không chỉ mang theo những hoài niệm. Ông muốn tham gia làm một bộ phim có thể giúp cho mọi người hiểu được sự vô nghĩa của cuộc chiến tranh mà những người cầm quyền nước Pháp tiến hành ở Việt Nam hồi ấy, hiểu được vì sao quân đội Pháp lại phải chịu thất bại ở Điện Biên Phủ.
    Công việc làm phim đã đưa Jacques Allare đến nghiên cứu các hiện vật tại các bảo tàng. Những phù hiệu lính Pháp được Jacques Allare đặc biệt quan tâm. Qua nghiên cứu ông đã giúp Bảo tàng Quân đội xác minh thông tin từng loại phù hiệu trên cở sở bảng 46 loại phù hiệu của các đơn vị lính Pháp tham chiến ở Điện Biên Phủ. Nhờ sự giúp đỡ của ông mà nhiều thông tin về từng loại phù hiệu được sáng tỏ dần.
    Bảng 46 phù hiệu đơn vị lính Pháp tham chiến tại Điện Biên Phủ
    Số1: phù hiệu của tiểu đoàn 1, 2 trung đoàn Lê Dương số 2 thuộc binh đoàn cơ động số 9 (GM9) đóng ở trung tâm đề kháng sân bay (Huguette) gồm các cứ điểm 311; 311A; 206; 209; 307 phòng ngự bảo vệ sân bay.
    Số 2: phù hiệu của tiểu đoàn 3 trung đoàn Lê Dương số 3 (3/3REI), thuộc binh đoàn cơ động số 6 (GM6) đóng tại trung tâm đề kháng đồi D (Dominique) gồm các cứ điểm D1; D2; E1; D3; 203; 204; 507; 508.
    Số 3: phù hiệu của Tiểu đoàn 1, bán lữ đoàn Lê Dương 13 (1/13 DBLE), phòng ngự ở hướng Tây nam thuộc trung tâm đề kháng nam sân bay Mường Thanh (Claudine) gồm các cứ điểm 309; 310; 311B; 305; 322; 603; 604; 607 và phù hiệu của Tiểu đoàn 3 bán lữ đoàn Lê Dương 13 đóng tại Him lam (Beatrice). Đây là những đơn vị thiện chiến của Pháp gồm 4 đại đội do thiếu tá Diego chỉ huy.
    Số 4: phù hiệu của tiểu đoàn Thái số 2(BT2), phòng ngự hướng Đông Nam đóng tại trung tâm đề kháng đồi A (Eliane), gồm các cứ điểm C1; C2; A1; A3; 512; 506; 511.
    Số 5: phù hiệu của tiểu đoàn Thái số 3(BT3), đóng giữ tại các cứ điểm 104A; 104B; 105; 106 phòng ngự ở hướng tây bắc, trực tiếp bảo vệ phía bắc sân bay Mường Thanh thuộc trung tâm đề kháng Bản Kéo (Anne Maria).
    Số 6: phù hiệu của tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn Bắc Phi Algeria số 1(2/1 RTA) thuộc binh đoàn cơ động số 6 đóng ở trung tâm đề kháng phía Nam, tức phân khu Hồng Cúm (Izabell), cách Mường Thanh 7 km.
    Số 7: phù hiệu của tiểu đoàn 3 trung đoàn Bắc Phi Algeria (số 3/3 RTA) thuộc binh đoàn cơ động số 9 đóng ở đồi E.
    Số 8: phù hiệu tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn Bắc Phi Marốc số 4 (1/4RTM), đóng ở trung tâm đề kháng đồi A (Eliane) và C1.
    Số 9: phù hiệu tiểu đoàn 5 thuộc trung đoàn Bắc Phi Algeria số 7 (5/7RTA) thuộc binh đoàn cơđộng số 6 đóng ở trung tâm đề kháng Độc Lập (Gabrielle) ở phía Bắc cách Mường Thanh 4km.
    Số 10: phù hiệu tiểu đoàn 2 Tabor Marốc.
    Số 11: phù hiệu tiểu đoàn 4.
    Số 12: phù hiệu tiểu đoàn 5 xung kích.
    Số 13: phù hiệu tiểu đoàn dù số 2 trung đoàn 1 dù ( 2E BPC)
    Số 14: phù hiệu tiểu đoàn nguỵ quân 501.
    Số 15: phù hiệu phân đội Africas).
    Số 16: phù hiệu tiểu đoàn dù Lê Dương số 1 (LER-BEP).
    Số 17: phù hiệu tiểu đoàn dù Lê Dương số 2 (2E BEP).
    Số 18: phù hiệu tiểu đoàn dù thuộc địa số 1( LRE-BPC).
    Số 19: phù hiệu tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 (6 E -BPC) đóng ở C1, C2.
    Số 20: phù hiệu tiểu đoàn nhẩy dù thuộc địa số 8 ( 8 E- BPC).
    Số 21: phù hiệu đại đội Âu Phi súng cối hạng nặng.
    Số 22: phù hiệu trung đoàn 5 bộ binh thuộc địa (5E R.F1), đại đội cối số 2.
    Số 23: phù hiệu tiểu đoàn dù nguỵ Việt Nam số 5 (5E.BPVN).
    Số 24: phù hiệu tiểu đoàn dù Lào số 1.
    Số 25: phù hiệu trung đoàn kỵ binh xung kích 1.
    Số 26: phù hiệu phân đoàn pháo phòng không thuộc địa.
    Số 27: phù hiệu trung đoàn pháo binh thuộc địa số 4 (4E. RAC) gồm 48 khẩu pháo loại 155, 105mm và một tiểu đoàn pháo 120mm.
    Số 28: phù hiệu trung đoàn pháo binh thuộc địa số 10.
    Số 29: phù hiệu trung đoàn kỵ binh pháo.
    Số 30: phù hiệu biên đội 21 không quân ( thám không) pháo binh.
    Số 31: phù hiệu biên đội pháo binh 23 tiếp nhận, biên đội thám không số 3.
    Số 32: phù hiệu đại đội 3 vận tải trực thuộc cơ quan bộ.
    Số 33: phù hiệu đại đội giao thông 71.
    Số 34: phù hiệu đại đội 3 thông tin.
    Số 35: phù hiệu đại đội 2 sửa chữa thiết giáp Lê Dương
    Số 36: phù hiệu đại đội 5 sửa chữa trang bị kỹ thuật Lê Dương
    Số 37:Phù hiệu tiểu đoàn 31 công binh Đại đội 2, 3
    Số 38: phù hiệu đại đội dù 342 thông tin liên lạc.
    Số 39: phù hiệu tiểu đoàn thông tin liên lạc.
    Số 40: phù hiệu đơn vị hậu cần hải ngoại, phân đội 1.
    Số 41: phù hiệu đơn vị quân y.
    Số 42: phù hiệu binh đoàn cận vệ cộng hoà số 3.
    Số 43: phù hiệu biệt động Cômăngđô.
    Số 44: phù hiệu đơn vị cơ yếu.
    Số 45: phù hiệu đơn vị xăng dầu, đại đội 730.
    Số 46:Phù hiệu hòm thư binh sỹ- Hòm thư 403.
    Các phù hiệu được trang trí bằng các biểu tượng, màu sắc khác nhau thể hiện đặc điểm riêng của từng đơn vị tham chiến. Các phù hiệu do nhiều hãng tại một số địa phương trên nước Pháp, chủ yếu là hãng Drago (địa chỉ: phố Berango) sản xuất. Hầu hết các phù hiệu trong số đó đều có hình mỏ neo, một dấu hiệu của biển (hải, hải ngoại). Dấu hiệu đó cho thấy các đơn vị này đóng ở nước ngoài. Phù hiệu của các đơn vị lính Lê dương và bộ binh có hình cây 5 lá, phù hiệu các đơn vị lính dù có cánh chim, phù hiệu lính người dân tộc Thái có hình bông hoa tượng trưng cho hoa cây thuốc phiện trồng ở các khu vực Tây Bắc.
  6. haidang_7

    haidang_7 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/08/2003
    Bài viết:
    34
    Đã được thích:
    0
    Giới thiệu với các bác một bài cũng hay về Điện Biên Phủ:
    Điện Biên Phủ, có cần ai cũng phải mừng vui?
    Đoan Hùng
    Có nhất thiết là phải tuyệt đối rằng mọi người Việt Nam phải reo hò, vui mừng trước chiến thắng ấy thì nó mới là chiến thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam, và nói xa hơn là chiến thắng của tất cả mọi dân ?othuộc địa??

    Đọc bài tường thuật của Jeanne Mai về hội thảo ở Paris ?o50 năm Điện Biên Phủ ?o, tôi thấy có một đoạn hay hay khi một nhà ngoại giao Pháp ?osửa gáy? phái đoàn Việt Nam (VN):
    ?oNói toàn dân VN vui mừng cũng không đúng sự thật ;tôi ở Sàigòn những ngày ấy, tôi thấy rõ những người VN buồn bã ra sao; họ chia buồn với chúng tôi và sau hiệp định Genève họ đau khổ thấy nửa nước họ bị đặt dưới sự cai trị của đảng CS.Chỉ một bộ phận người VN coi Điện Biên Phủ (ĐBP) là chiến thắng của họ.?T?T
    Ở điểm này thì tôi thấy ?oông tây? nói hoàn toàn đúng!
    Có phải ai cũng vui mừng trườc chiến thắng Điện Biên Phủ đâu.
    Nói cho ngay, chính bản thân kẻ viết bài này lúc biến cố này xảy ra đã được bố mẹ bế chạy long tóc gáy vào Nam!
    Thế nhưng 50 năm sau, Điện Biên Phủ đã trở thành ?olịch sử?. Có bị ?osửa gáy? hay không... thì cũng không thay đổi được lịch sử!
    Vì sao? Có nhất thiết là phải tuyệt đối rằng mọi người Việt Nam phải reo hò, vui mừng trước chiến thắng ấy thì nó mới là chiến thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam, và nói xa hơn là chiến thắng của tất cả mọi dân ?othuộc địa??
    Đọc lại lịch sử chúng ta sẽ thấy chẳng bao giờ không có... kẻ khóc!
    Đọc lịch sử chúng ta tưởng tượng rằng chiến thắng Nguyên-Mông thời Trần là chiến thắng của toàn dân tộc.
    Đối với ta đó là ?osự thật lịch sử?, còn đối với người đương thời thì sao? Đối với ta thì thời Trần toàn dân như một nhất quyết đánh bọn ngoại xâm. Binh sĩ thì xâm tay hai chữ ?osát thát?, cậu bé Trần Quốc Toản thì bóp nát trái cam khăng khăng đòi ra trận! Các cụ bô lão thì chống gậy đến ?oDiên Hồng? đồng lòng hô hai chữ ?oquyết chiến?!
    Đối vời ta đó là hình ảnh, như trong bài hát ?ohội nghị Diên Hồng?: ?oThế nước yếu lấy gì lo chiến tranh? Hi sinh! Thề liều thân! Cho sông núi... Muôn năm lừng uy?.
    Đối vời ta, tất hẳn toàn dân reo mừng khi quân xâm lược Nguyên-Mông phải cút về nước. Thoát Hoan chui ống đồng, Ô Mã Nhi bị bêu đầu.
    Người đương thời có suy nghĩ như chúng ta?
    Có ai mà ?obuồn bã?, có kẻ nào ?ochia buồn? với quân Nguyên không? Vô lý! Thế mà có đấy!
    Đọc trong ?oAn Nam Chí Lược? của Lê Tắc, một ?ongười Việt? thủa ấy, ta thấy ông chẳng thể nào mà ?ovui? nổi. Xin trích ra một đoạn ?otâm sự? của ông như sau:
    ?oAn-nam từ đời Trung-Thống (1260-1263), trở về trước, trải bao năm thần-phục Thiên-Triều, cống-hiến phương-vật. Niên-hiệu Chí-Nguyên (1283), năm Quý-Mùi, có chiến dịch ở Chiêm-Thành, Hoàng Thượng khiến sứ dụ An-nam cho mượn đường và cấp quân, vận lương giúp Hữu-Thừa Toa-Đô. Thế-Tử chẳng chịu nghe theo. Qua mùa đông năm Giáp-Thân (1284), Trấn-Nam-Vương cùng quan Bình-Chương A-Lý-Hải-Nha, phụng mệnh tiến binh. Tháng 12, quân đến biên-cảnh, Thế-Tử [ từc là vua Trần Nhân Tông, Chút thìch của ĐH] cự địch bị đại bại. Mùa xuân tháng giêng năm Ất-Dậu (1285), Hoàng-thượng lại khiến Toa-Đô từ Chiêm-Thành tiến binh, Thế-Tử quẩn bách, khiến con người anh là Chương-Hiến-Hầu Trần-Kiện đem bọn Tắc và mấy vạn người, chống cự với Toa-Đô ở Thanh-Hóa. Đánh bị thua, Chương-Hiến bảo rằng: "Nước nhỏ chẳng địch nước lớn, kẻ yếu phải thua kẻ mạnh, cũng vì lẽ ấy mà Vi-Tử phải theo về nhà Chu; ta là cháu nhà vua, há nỡ ngồi nhìn cảnh nhà tan nước mất?". Bèn cùng bọn Tắc đem quân đầu hàng, được Trấn-Nam-Vương khen thưởng. Tháng 4, Vương khiến Minh-Lý-Tích-Ban đem bọn Chương-Hiến vào bệ-kiến Thiên- Tử. Đi đến trại Chi-Lăng, bị nam-quân chận đánh rất gấp. Đang đêm, quan-quân chiến đấu đột xuất vòng vây, viên quan hướng-dẫn gặp Chương Hiến đương kịch-chiến, bị địch-quân dồn ém giết chết trên lưng ngựa. Tắc ôm thây ruổi chạy mấy mươi dặm, ra Khâu-ôn an-táng. Những thuộc-lại đi theo Chương- Hiến, bị giết gần một nửa. Tắc theo Tích-Ban về đến Đế-Kinh, ở Hội-Đồng-Quán. Vua khiến dẫn vào điện Đại-Minh ban yến và cho tất cả mọi người một số tiền 5.000 quan, chia phần Tắc được 500 quan.
    Mùa xuân năm Bính-Tuất (1286), Hoàng thượng thương lòng trung-thành của quốc-đệ Trần-Ích-Tắc, đặc ân phong làm An-nam quốc-vương. Các quan-viên đầu hàng đều được phong chức-tước theo thứ bậc. Tắc được phong sắc Tòng-Thị-Lang, lãnh chức Chỉ-Huyện-Lệnh-Doãn. Năm Đinh-Hợi (1287), các thuộc-quan của An-nam quốc-vương đều được cấp nguyệt-bỗng, ban cho cung tên, yên ngựa và khiến đưa về nước.
    Hoàng-thượng khiến Trấn-Nam-Vương cùng Bích-Chương Áo-Lỗ-Xích-Khê đem binh tiến thảo. Mồng ba tháng chín, quân khởi hành từ tỉnh Ngạc, tháng 11 đến An-nam. Thế-Tử nghênh-chiến, quân bị thua tan chạy. Lúc ấy Tắc đương bệnh phải ở lại Tư-Minh, kế sau quân bị tan vỡ. Ngày 28 tháng 12, Vương-sư phá ải Nội-Nha, tiến giữ sông Bình-Giang, An-nam, day lưng ra sông dàn trận, đốt hết nhà cửa, bắn tên thuốc loạn xạ. Lúc canh năm, quân bị tan vỡ, Sảnh-Đô-Sự bọn Hầu-đô mấy nghìn người chạy lạc đường đều bị vây hãm. Một mình Tắc dẫn Đạt-Vạn-Hộ, Tiều-Thiên-hộ (tên gì chưa tường) và Thiêm-Sự-Viện Lĩnh-Phủ-Phán Lê-Yến. Yến, trên ngựa bồng cậu bé chín tuổi, con của An-nam quốc-vương, tước-hiệu Đại-Thúc-Hầu, cộng tất cảo hơn sáu mươi kỵ-mã-quân, giết lính giữ ải, chạy về phương bắc. Ngựa Lê-Yến sức yếu, chạy thụt đường sau, gần bị nam-quân đuổi theo bắt kịp, Tắc thương hại, đổi ngựa khỏe của mình cho Yến, mình cỡi ngựa đi sau quất ngựa Yến chạy tới để thoát nạn. Khốn nỗi, đường trước cũng bị nam-quân đón đánh, hai mặt giáp công vất vã muôn lần suýt chết, giong ruổi suốt mấy trăm dặm, từ nửa đêm đến mờ sáng, đến ải Châu-Chiếu lạy mừng..
    Thế ra lắm kẻ ?okhóc? thật. Có kẻ ?ochia buồn? thật! Cuộc chiến nào không thế? Cho dù là một cuộc chiến ?ogiữ nước?!
    Mà biết đâu kẻ khóc cũng.. có lý! Biết đâu Trần Kiện, Trần Ích Tắc quả là vì ?othương dân? vì ?oyêu nước? mà hàng giặc! Biết đâu! Biết đâu?
    Làm thế nào mà có thể ?otoàn dân? cùng vui mừng được?
    Không lẽ Lê Chiêu Thống và những kẻ ?otrung quân? theo ông hớt hơ hớt hải chạy sangTàu có thể ?ovui mừng? trước trận Đống Đa? Ông hẳn đã tỏ lờI ?ochia buồn sâu sắc? vờI Tôn Sĩ Nghị!
    Thế nhưng lịch sử quả là ?otàn nhẫn?! Nó mặc kệ kẻ ?okhóc?. Nó mặc kệ kẻ ?ochia buồn? với giặc, bất chấp rằng họ có .. tốt, hay ?oyêu nước? hay không.
    Vị thế của các Trần Ích Tắc, Trần Kiện, Lê Chiêu Thống đã được ?oxác lập? trong lịch sử. Một lịch sử của một dân tộc nhất quyết không làm nô lệ (cho dù không phải trăm phần trăm ai cũng đồng lòng như thế!).
    Bạch Đằng, Tốt Động, Chúc Động, Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa đã đi vào Lịch Sử. Điện Biên Phủ cũng đi vào Lịch sử như thế.
    Khóc cũng không đổi được!
    Mà ?osửa gáy? thì càng.. chẳng đi đến đâu!
  7. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    -----------------------
    ISABELLE CÔ ĐƠN​
    Phân khu Hồng Cúm, theo tên gọi của Pháp là Isabelle. Sau đây là miêu tả Isabelle trong cuốn sách của Bernard B. Fall :
    ? Xa về phía nam và hoàn toàn tách biệt riêng ra, lờ mờ trong màn sương phía cuối thung lũng là trung tâm đề kháng Isabelle. Được đặt trong 1 khúc uốn lượn của dòng sông Nậm Rốm, Isabelle có 4 điểm tựa bên phía tả ngạn sông và một điểm tựa thứ 5 bên hữu ngạn về phía nam của cái lẽ ra sẽ là sân bay phụ của tập đoàn cứ điểm. Được bố trí giữa 1 vùng đầm lầy, với mục đích duy nhất là làm nhiệm vụ yểm hộ pháo, chiều dài lớn nhất chưa đến 700 mét, Isabelle sẽ bị chìm trong nước ngay từ những ngày đầu trận đánh. 2 tiểu đoàn bộ binh của nó, tiểu đoàn pháo, trung đội chiến xa và các đơn vị lính dự bị Thái sẽ sống ở đó 40 ngày đêm hoàn toàn cô lập, như những con vật trong cũi.
    Isabelle chẳng được miễn cho cái gì cả, pháo địch oanh tạc, ẩm ướt, người bị thương, người chết, nó sẽ phải lãnh đủ. 4 điểm tựa bên phía tả ngạn của nó được bố trí quanh 1 điểm tựa trung tâm. Ở phía đông, có cây cầu nổi tiếng mà tiểu đoàn trưởng Sudrat đã xây dựng bằng cách lấp bớt dòng sông đi, và phía bên kia cầu là thế giới kỳ lạ của Isabelle 5, 1 vệ tinh phụ còn bị cô lập hơn ?
    Tuy nhiên ngày 13-3, ngày chính thức nổ ra trận đánh, đội quân trấn giữ Isabelle còn lâu mới nghĩ được rằng rồi đây nó sẽ phải chiến đấu một mình
  8. hungsheva2004

    hungsheva2004 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/01/2004
    Bài viết:
    2.415
    Đã được thích:
    0
    Điện Biên Phủ - chiến thắng của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam

    Sau 7 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã bị thiệt hại hơn 30 vạn binh lính và sĩ quan. Các kế hoạch Lơ-cơ-léc, Va-luy đến Đắc-giăng-li-a, Bô-la, Phi-nhông, Rơ-ve, Ta-ti-xi-nhi theo nhau bị phá sản. Người Pháp lúc nào cũng như phải làm lại từ đầu. Cuộc chiến tranh không trận tuyến của thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam đánh cả ở đằng trước mặt địch và đằng sau lưng địch; cả ở nông thôn và thành phố đã làm cho quân Pháp mệt mỏi, suy yếu. Chính phủ Pháp theo đó mà dựng lên đổ xuống 17 lần, năm Cao ủy và sáu viên Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương lần lượt bị triệu hồi.
    Nhờ có đường lối chiến tranh nhân dân trong sự kiện kết hợp hai phương thức tiến hành chiến tranh là: Chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, từ thế bị động quân và dân ta đã chuyển dần sang thế chủ động, liên tiếp giành được nhiều thắng lợi.
    Trước những thất bại liên tiếp đó ở Đông Dương, dư luận Pháp ngày càng chán ngán với cuộc chiến tranh này. Bế tắc và lúng túng, Chính phủ Pháp không còn muốn tiếp tục cuộc chiến tranh quá tốn kém và vô vọng, nhưng cũng chưa muốn nhường chỗ cho người Mỹ nhảy vào. Họ cho rằng một giải pháp tốt nhất lúc này là với sự giúp đỡ tiền bạc và vũ khí của Mỹ, và rút ra khỏi cuộc chiến tranh bằng một "lối thoát danh dự", trên bàn đàm phán.
    Ngày 7-5-1953 với sự thỏa thuận của Mỹ, Thủ tướng Pháp Rê-nê May-e đã cử tướng bốn sao Na-va thay tướng Xa-lăng sang cầm đầu đạo quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Kế hoạch Na-va được ra đời trong hoàn cảnh đó nhằm cứu vãn danh dự cho nước Pháp.
    Chọn Điện Biên Phủ là chọn địa bàn chiến lược rồi trở thành điểm quyết chiến chiến lược là chính xác.
    Để hạn chế các lực lượng cơ động của địch-một thủ đoạn tác chiến lợi hại có hiệu lực của địch-thì ta phải phân tán các lực lượng cơ động đó của địch ra các chiến trường khác, bảo đảm không có thể cơ động nhiều lực lượng ứng cứu cho Điện Biên Phủ, có thế mới bảo đảm chắc thắng cho Điện Biên Phủ.
    Kế hoạch chiến lược của ta là nhằm chia địch, phân tán hoạt động mạnh ở các chiến trường khác ở những chỗ địch sơ hở, không thể bỏ, tất phải cứu. Muốn mưu kế được thực hiện thì phải nghi binh, lừa địch, điều động địch.
    Nhờ mưu kế đó ta đã điều động khoảng 70 tiểu đoàn cơ động trên tổng số 84 tiểu đoàn cơ động địch ra chiến trường trên toàn Đông Dương.
    Tại chiến trường chính Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy chiến dịch (bộ phận đi trước) đề ra kế hoạch với phương châm "đánh nhanh, thắng nhanh" quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ chỉ 2 ngày 3 đêm trong điều kiện địch còn đang phòng ngự lâm thời.
    Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp chỉ huy trưởng chiến dịch đi sau. Nhưng vì mới đến, sau khi nghe báo cáo, Ông mặc dù rất phân vân, chưa có đủ yếu tố để thay đổi phương án đã chọn của bộ phận đi trước, bởi nó rất khác với suy tính của Ông trước đó đã báo cáo gửi lên Bộ Chính trị và Hồ Chủ tịch.
    Trước tình hình đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quả cảm quyết đoán nhạy bén nắm bắt tình hình đề nghị thay đổi phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc", sau đó chuyển đổi đội hình bố trí lại lực lượng, Ông đã được Thường vụ Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch phê chuẩn.
    Mặc dù trận địa đã được bố trí, pháo lớn đã kéo lên vị trí chiến đấu với bao công sức xương máu. Nhưng Ông vẫn quyết tâm cho đưa pháo xuống, rồi lại kéo lên vào vị trí tác chiến mới.
    Trong chiến dịch Điện Biên Phủ địch đã ở vào thế cô lập, cố thủ trong một thung lũng bị ta bao vây tiến công từ bốn phía ở trên cao. Ta đã xây dựng cả một hệ thống giao thông hào, một hệ thống trận địa tấn công và bao vây tạo điều kiện cho quân ta triển khai vận động tiến công: Đây là lần đầu tiên quân ta tiến hành bao vây, tiến công một tập đoàn cứ điểm trong điều kiện quân Pháp có vũ khí, trang bị hiện đại hơn ta. Cùng với việc triệt phá các nguồn lực của địch: pháo binh, xe tăng và máy bay chi viện, bằng hệ thống hầm hào trận địa với chiến thuật "vây, lấn, triệt, phá" quân ta từng bước thắt chặt vòng vây, tạo thành ưu thế ở từng không gian và thời gian chiến dịch đã tạo nên sức mạnh to lớn trong quá trình tiến công để tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm, giành thắng lợi.
    Cách đánh chiến dịch là đột phá lần lượt, liên tục kết hợp với vây lấn. Nghệ thuật tác chiến đó phù hợp với điều kiện Việt Nam. Do ta kém địch về vũ khí đột phá như máy bay, xe tăng, pháo binh nên phải dùng cách đánh đó. Cách đánh đó phải kéo dài thời gian. Sau này trong chiến dịch Hồ Chí Minh, sức đột phá, chọc sâu của ta mạnh, nên ta chỉ đánh có mấy ngày là giải phóng Sài Gòn. Giải quyết mâu thuẫn trong mối liên hệ giữa các sự vật và hành động phù hợp với thực tế là biện chứng, là sáng tạo, là chỉ huy có phương pháp luận. Một điều rất hay và rất sáng tạo là lần đầu tiên ở Việt Nam và cũng là rất hiếm ở trên thế giới, ta đã cho kéo pháo lên núi cao vào hầm chĩa thẳng pháo xuống đầu kẻ địch ở dưới thấp mà chế áp. Với cách đánh này, vừa bảo vệ được pháo, vừa nâng cao được uy lực và mức chính xác, hiệu quả đến mấy khiến cho viên chỉ huy pháo binh của Pháp là Pi-rôt bất ngờ hoảng loạn mà phải tự sát.

    Thượng tướng - Giáo sư HOÀNG MINH THẢO
  9. hungsheva2004

    hungsheva2004 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/01/2004
    Bài viết:
    2.415
    Đã được thích:
    0
    Pháo... ngựa kéo
    Sau chiến dịch Cao-Bắc-Lạng, trung đoàn sơn pháo 675 đang trú quân tại huyện Quảng Uyên (Ngày nay là Quảng Hòa, Cao Bằng) thì nhân được lệnh lên đường hành quân đi chiến dịch Trung Du. Địa bàn tác chiến của trung đoàn kéo dài suốt từ Tiên Yên cho tới tận Vĩnh yên. Làm thế nào để vận chuyển hàng chục khẩu pháo, cùng hàng tấn đạn dược đi một chặng đường xa như thế là một câu hỏi chẳng dễ trả lời. Ngày ấy phương tiện cơ giới rất hiếm và đã được ưu tiên toàn bộ cho đơn vị lựu pháo. Thế là trung đoàn 675 quyết định dùng ngựa, lừa để kéo pháo và thồ đạn. Lần đầu tiên các pháo thủ được thong dong hành quân bên đàn lừa, ngựa và những khẩu pháo thân yêu của mình. Nhưng cũng có một phức tạp nảy sinh, đó là cứ đến mỗi chặng nghỉ, các chiến sĩ pháo binh lại vừa phải đào hầm tránh máy bay địch, vừa phải lo tìm nơi cho lừa, ngựa nghỉ ngơi. Để tránh cho chúng khỏi hoảng sợ khi gặp bom đạn, anh em đã chọn những con đường hẻo lánh để cơ động. Tuy có vất vả một chút, nhưng tất cả các khẩu pháo đều tránh được sự phá hoại của bom đạn địch. Khi gặp phải trời mưa, đường đèo vừa trơn, vừa dốc, anh em pháo thủ lại tháo pháo khỏi lưng ngựa và vác qua đèo. Cứ thế, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 675 đã hành quân hơn 400 cây số đường rừng núi, từ Cao Bằng về mãi vùng Đông Bắc của Tổ quốc, để giáng cho quân địch những trận mưa pháo tơi bời...

    Vũ Mạnh Cường


  10. MaChienSon

    MaChienSon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/03/2004
    Bài viết:
    9
    Đã được thích:
    0
    Thông tin trong bài viết trên rất hay, trả lời được thắc mắc lâu nay của tôi! Cộng thêm các tư liệu mà chúng ta được biết trong chuyên mục Sự kiện và Nhân chứng trên trang nhà báo Quân Đội Nhân Dân thì chúng ta có được bức tranh hoàn chỉnh về quá trình di pháo của quân ta từ Việt Bắc vào ĐBP:
    1) Từ Việt Bắc tới Tuần Giáo: dùng lừa ngựa (nguồn: bài đăng của bác hungsheva)
    2) Từ Tuần Giáo vào cách ĐBP 15km: dùng xe vận tải Motolova 2 tấn rưỡi (nguồn: Quân Đội Nhân Dân và Điểm hẹn Lịch sử)
    3) Từ 15km vào lòng chảo Mường Thanh: kéo pháo bằng tay với tốc độ 3km/ngày (nguồn Quân Đội Nhân Dân)

Chia sẻ trang này