1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến thắng Điện biên và cuộc chiến Việt Pháp

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi datvn, 06/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. masktuxedo

    masktuxedo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    1.625
    Đã được thích:
    1
    Hoan hô bác B40 - bác nói hết cả những điều mà người khác định nói rồi :) - và còn nói rất hay, rất thuyết phục nữa. Vote cho bác 5 *!
    Tôi chỉ hơi thắc mắc ko hiểu sao mấy ông VNCH lại cố gắng tìm cách chứng minh rằng bộ đội miền Bắc là kém nhỉ? VNCH khi ko có lính Mỹ bên cạnh thì thua nhanh đến mức ngay cả các chỉ huy bên mình cũng ko thể ngờ nổi (chiến dịch HCM hồi 75 ban đầu hoạch định là 2 năm). Mà vũ khí cũng như quân số của "bên mình" thì ít nhất cũng ko hơn được bên Nguỵ, thế mà Nguỵ còn có ưu thế phòng thủ, trong khi ta phải tấn công, mà Nguỵ lại thua. Vậy nếu mấy ông VNCH cố gắng chứng minh rằng bộ đội ta là kém thì phải chăng họ cũng chứng minh là họ ..... quá quá quá quá kém chăng?
  2. hungsheva2004

    hungsheva2004 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/01/2004
    Bài viết:
    2.415
    Đã được thích:
    0
    Bác cho em hỏi là bác kiếm tài kiệu về sự giúp đỡ của Tàu ghẻ với Vn là ở đâu ạ?
    Nhìn lại Lịch sử thì có nhìn dưới nhiều phương diện,em thấy cách viết của bác phiến diện quá!
    Ở đây có nhiều cao thủ,xin các bác tiếp tục ạ!
    Em trình kém,nếu có tài liệu thì đưa lên cho mọi người cùng xem chứ không dám bàn luận nhiều!
    u?c lonesome s?a vo 17:19 ngy 28/03/2004
  3. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Chào các bác, cám ơn các đã động viên
    Tôi cũng vừa đi công tác Điện biên hôm 13/3 rồi, bay một lúc thấy máy bay nghiêng mấy vòng rồi được thông báo sắp hạ cánh xuống ...Nội bài vì trời mù không xuống ĐB được. Uh, thế là sang hôm sau 4h sáng cả đội lên xe đi đường bộ 6 h tối mới lên đến nơi vừa kịp lễ khai mạc năm du lịch ĐB, nghe nói hôm ấy chỉ có 1 chuyến bay hạ cánh liều, bánh xe suýt chạm đầu mấy người đứng trên nóc hầm đờ cát, chắc cố phải đưa bác Trương Quang Được lên dự lễ, nếu không thì có chủ nhà với bà con dân tộc. Lần đầu đi tây bắc vào mùa xuân nên mới tận mắt thấy HOA BAN thế nào, thỉnh thoảng có vạt núi trắng hoa ban, Ghé vào nhà tù Sơn la có cây hoa ban cổ thụ nở trắng hoa rất đẹp, tôi thấy nó chẳng kém Anh đào của nhật là mấy, chẳng hiểu sao họ không mang về Hà nội trồng nhỉ. Hôm sau tôi dẫn cả đoàn đi Sapa chơi qua Mường lay ?" TX Lại châu cũ ?" Phong thổ-Cổng trời. Đường bám theo sông Nậm na mùa này nhỏ như con suối, sâu hút hiểm trở còn hơn đường Sơn la ?" ĐB nhưng cảnh thì đẹp hơn nhiều, phong cảnh hai bên đường tuyệt vời, hùng vỹ với những vách núi dựng đứng, bên kia núi cũng trắng Hoa ban, bạt ngàn chuối rừng lốm đốm đỏ hoa chẳng kém mấy cảnh trong natural discovery, đất nước mình cũng đẹp đấy chứ. Đến Phong Thổ thì trời tối, mịt mù mây, bật hết các loại đèn đi sương mà lái xe cũng dò dẫm mấy tiếng mới lên đến Sapa. Ngày xưa các cụ lái xe kéo pháo toàn đi đêm mà lên đến nơi không mất khẩu nào thì siêu thật, mà lúc đó 1 khẩu 105 hay 37mm thì quý còn hơn cả vàng.
    Và cũng lần đầu tôi gặp bảo tàng chiến thắng ĐB mở cửa, khi xem tài liệu nói Pháp ném xuống ĐB hơn 100 ngàn chai rượu thì cả lũ suýt văng tục, đúng là bọn nhà giàu. Nghĩa trang ĐB ngào ngạt khói hương, trừ 4 anh hùng liệt sỹ còn lại toàn mộ vô danh. Hôm đó rất nhiều đoàn cựu binh, không nói nhưng nhìn các cụ ai cũng ngưỡng mộ. Nhớ lúc gần đến đỉnh Pha đin thì tắc đường, tụi tôi xuống xe leo bộ chừng hơn 1Km lên đến đỉnh là thở ra đằng tai rồi, nhìn đường đèo dài 38 km một bên vực sâu hút, một bên vách đá dựng đứng lơ thơ cỏ lau, ngày trước ô tô đang qua đây mà gặp máy bay Pháp thì chắc chỉ chờ nó bắn trượt thôi chứ tránh vào đâu được.
    Theo tôi nhớ thì hình như trước ĐB chưa có một nước thuộc địa nào đánh thắng được một đội quân viễn chinh thực dân, nên chiến thắng Đb có tiếng vang rất lớn trong các nước thuộc địa, nó cổ vũ niềm tin chiến thắng của các phong trào giải phóng dân tộc. Người Algeri có câu ?o Điện biên là nhát búa đóng lên quan tài chế độ thực dân còn người Algeri đưa nó ra nghĩa địa?.
    Các bác nên đi ĐB mùa này, đẹp lắm, nếu đi ô tô thì nhớ mang kẹo cao su nhai cho đỡ ù tai.
    Chát chít tí, các bác mod thông cảm

    Thần Tiễn

    Được B.40 sửa chữa / chuyển vào 11:54 ngày 24/03/2004
    Được B.40 sửa chữa / chuyển vào 11:55 ngày 24/03/2004
  4. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Hoá ra chuyến bay 13/3 có bác B.40 ở trên đó à thế mà em không biết, chuyến đó em đứng dưới thấy máy bay của các bác đến nơi đang mừng thầm thì thấy lại phải quay về, còn hôm sau thì báo cáo bác là cả 3 chuyến đều phải hạ cánh liều, riêng chuyến thứ hai thì hạ sắp xuống phải bốc lên mới hạ xuống được( nghe kể là ngồi trên máy bay thấ nghĩa trang rõ mồn một). Hôm sau bọn em cung chay sang Sapa có khi đi chung đường với bác không biết, đoạn đường chạy dọc sông Nậm Na bây giừo không còn đẹp như hồi xưa nhưng vẫn đẹp lắm, đoạn này ngày xưa em đi gà rừng đâm đầu cả vào otô.Cầu Hang Tôm thì trông vẫn to như cũ tranh thủ làm kiểu ảnh không thì sau này nó nằm dưới nước không còn cơ hội. Hoa ban mùa này cũng nở khá nhiều trên đường ra Mưòng Phăng cũng có đoạn hoa nở trắng. Hoa ban ở Hà Nội cũng có nhiều đấy chứ(nhất là ở đường Bắc Sơn). Lúc lên đèo Ô Quy Hồ cũng thấy hú vía lên đến đỉnh đèo sương mù mờ mịt chẳng thấy gì bao nhiêu xe dừng lại riêng xe mình vẫn cắm đầu đi tiếp lái xe thì chưa quen đường chỉ sợ rơi tòm xuống thì .Bố khỉ đang định lên Oquy hồ để chụp ảnh con đương ngoằn nghèo thì nó lại mù mit chả thấy gì .Tiếc thật có khi nhìn thấy bác B.40 ở ngoài mà không biết, nếu biết trước có phải mời bác đi uống rượu Sán Lùng ở Sapa không.
    Life is a box of chocolate
  5. duckhang

    duckhang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/06/2003
    Bài viết:
    468
    Đã được thích:
    0
    Nghe các bác nhắc đến giòng sông Nậm Na ,cầu Hang Tôm tôi lại thấy nhớ quê hương, tôi đã có một thời gian sống ở đó.sau 16 năm nay chắc thay đổi nhiều, hy vọng sẽ có dịp về thăm vùng tây bắc yêu thương. Hình như đoạn đường chạy theo dòng sông Nậm Na là đường hữu nghị 12
    Được duckhang sửa chữa / chuyển vào 16:47 ngày 24/03/2004
  6. duckhang

    duckhang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/06/2003
    Bài viết:
    468
    Đã được thích:
    0
    Về cuốn sách "Cách đây 50 năm Điện Biên Phủ", xuất bản ở Pháp
    Sự thật và những điều xuyên tạc
    --------------------------------------------------------------------------------
    Kỷ niệm 50 năm Điện Biên Phủ, tại nhiều nước trên thế giới, người ta đã và đang tổ chức nhiều cuộc hội thảo, xuất bản nhiều cuốn sách nói về trận đánh lịch sử này. Khoảng cách thời gian nửa thế kỷ đã cho phép nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu, nhà chính trị có cái nhìn khách quan về sự kiện ?ochấn động địa cầu?. Nhưng cũng không phải không còn có một số ít người luyến tiếc một thời vàng son của chủ nghĩa thực dân và tìm cách biện hộ cho sự thất bại của quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ. Cuốn sách ?oCách đây 50 năm Điện Biên Phủ? của Jean Pierre Bernier, Nhà xuất bản Michel Lafon, Paris, rất tiếc lại là một cuốn sách như vậy.
    Với rất nhiều bức ảnh chụp từ góc nhìn của quân đội viễn chinh Pháp, cung cấp cho người đọc nhiều tư liệu quý về trận đánh, cuốn sách 155 trang, khổ lớn này (25x30cm) ngay từ Lời nói đầu đã không che giấu nỗi luyến tiếc về một xứ Đông Dương vốn là ?othuộc địa đẹp nhất và là viên ngọc của đế chế?. Nêu ?omục đích? của Điện Biên Phủ chỉ là để ?ongăn ngừa việc xâm lược nước Lào?, tác giả cay chua thừa nhận rằng ?oTrận Điện Biên Phủ là biểu tượng đau đớn của bước ngoặt lịch sử, báo trước sự cáo chung của một đế chế và sự khởi đầu của một trang mới?.
    Ai là thủ phạm?
    Tác giả dành phần lớn cuốn sách để vạch ra ai là thủ phạm dẫn đến thảm bại của quân đội viễn chinh Pháp ở Điện Biên Phủ.
    Theo tác giả, trước hết đó là Chính phủ Pháp mà Thủ tướng lúc ấy là ông René Mayer, chính phủ thứ 10 kể từ khi Pháp phát động chiến tranh Đông Dương. Mùa xuân năm 1953 Chính phủ này muốn tìm một viên Tổng tư lệnh mới cho quân đội Pháp ở Đông Dương, với sứ mạng ?otăng cường tình hình quân đội Pháp-Việt đang đương đầu với các binh đoàn của đối phương?, nhằm ?otìm ra một lối thoát trong danh dự cho cuộc chiến tranh Đông Dương đang sa lầy?. Người được là chọn là đại tướng Henry Navarre, ?omột viên tướng tình báo và chiến lược châu Âu, không biết gì về Đông Dương?, lúc ấy đang là tham mưu trưởng của Thống chế Juin tại Bộ chỉ huy Trung Âu của Tổ chức NATO ở Fontainebleu.
    Henry Navarre đổ bộ xuống Sài Gòn ngày 19-5-1953, ?ogiữa không khí ra đi?. Thời điểm đó, tướng Salant, tổng tư lệnh tiền nhiệm, và hầu như toàn bộ bộ tham mưu của ông ta, cùng với nhiều sĩ quan trực thuộc, những người rất am hiểu Đông Dương, đã quyết ra đi. Chỉ có một người chấp nhận kéo dài thời hạn phục vụ và ở lại, đó là tướng Cô-nhi, ?omột viên tướng pháo binh, đầy bằng cấp, một kẻ hãnh tiến, ham chuộng hư danh?. ?oỞ Hà Nội ông ta đi lại luôn có một đội mô-tô hộ tống Cô-nhi ve vãn Navarre, cam kết hoàn toàn tận tụy, nhưng đặt điều kiện là phải được có thêm một ngôi sao và phải là tư lệnh Bắc Kỳ. Nhưng Navarre biết chọn ai khác? Để làm phó tổng tư lệnh Navarre đưa từ Fontainebleau sang Việt Nam đại tướng không quân Bô-đê. Tham mưu trưởng của ông ta sẽ là viên tướng Gam-bi-ê với hai phụ tá chính, các đại tá Béc-tây và Búp-phin, những kẻ sẽ gây tai họa cho mọi người?. Tướng Lô-din một con người ?osáng suốt nhưng kém thuyết phục?, được cử làm tư lệnh không quân, thay cho tướng Sa-sin. Tướng Navarre trở thành viên ?otư lệnh cô đơn?.
    Kế hoạch Navarre
    Sau một vòng thị sát tình hình Đông Dương, gặp tướng Tráp-nen, trưởng đoàn cố vấn quân sự Mỹ và được Chính phủ mới ở Pháp, lúc này do La-ni-en làm Thủ tướng, phê duyệt chức vụ Tổng tư lệnh, Tướng Henry Navarre trình bày bản ?oBị vong lục về Đông Dương?, dày 25 trang, sau này thường được gọi là Kế hoạch Navarre với một giải pháp ba phần. Về cơ bản kế hoạch này chỉ lặp lại kế hoạch của Tướng Salant trước đây: Trong chiến dịch 1953-1954 Pháp sẽ giữ thái độ phòng thủ chiến lược ở Bắc kỳ trong khi chuyển sang phản công ở Nam kỳ và Trung kỳ, nhất là tìm cách ?othanh toán liên khu V?; tăng cường quân đội ngụy để thu hồi các đơn vị quân Pháp bị án binh bất động vì nhiệm vụ phòng thủ. Sau đó, từ mùa thu năm 1954, chuyển sang phản công ở Bắc kỳ và giành thế mạnh cho phép tìm một giải pháp chính trị cho cuộc xung đột. Kế hoạch này rất ?ohấp dẫn về mặt trí tuệ?, nhưng lại có nhiều kẽ hở, chủ quan về lực lượng Pháp, nhưng lại coi nhẹ các binh đoàn ********* ?ohiện đang chiếm ưu thế? và được viện trợ tốt. Kế hoạch Navarre không tính đến các thất bại lớn có thể xảy ra, tình trạng thiếu sĩ quan nghiêm trọng của quân Pháp và tình trạng yếu kém của quân ngụy, trong khi phải đương đầu với một đối phương được ?otôi luyện qua nhiều năm chiến tranh?. Mặc dầu Kế hoạch là như vậy, nhưng ?ođược cố vấn tồi và tiền hậu bất nhất?, Navarre đã ?ophá bỏ điều kiện thắng lợi tiên quyết của Kế hoạch của ông ta, bằng cách chấp nhận trận đánh Điện Biên Phủ?.
    Chiến dịch Castor
    Ngày 16 tháng 11, tại Hà Nội, tướng Navarre triệu tập một cuộc họp, có tướng Cô-nhi, tư lệnh Bắc kỳ, tướng Din, Tư lệnh lính dù và tướng Dechaux, Tư lệnh không quân. Các sĩ quan trực thuộc họp ở một phòng cách biệt. Tướng Cô-nhi, kẻ khởi xuất ý kiến, chủ trương thiết lập một tập đoàn cứ điểm mạnh ở Điện Biên Phủ kết hợp với Lai Châu. Tướng Din biết rằng, thung lũng Điện Biên khác với Nà Sản, giữ thái độ dè dặt. Tướng Dechaux thì phản đối, dẫn ra khoảng cách quá xa với Hà Nội, sự thiếu thốn các phương tiện không quân, tình hình thời tiết bất lợi ở thượng du, những nguy hiểm quá lớn nếu sân bay trở nên không dùng được. Tại phòng bên cạnh, đại tá Ni-cót, chỉ huy không quân vận tải cũng đưa ra những ý kiến phản đối tương tự. Nhưng Navarre tin tưởng vào cố vấn của mình là Béc-tây đã quyết định mở chiến dịch chiếm đóng Điện Biên Phủ kể từ 20 tháng 11. Chiến dịch này sẽ mang tên Castor (tên của một trong hai người con sinh đôi của thần Jupiter trong thần thoại Hy Lạp).
    Đại tá Béc-tây, Phó tư lệnh chiến dịch tại Bộ tham mưu liên quân đã từng chỉ huy căn cứ Nà Sản sau cuộc chiến là một ?onhà chiến lược xa rời thực tế?, không thấy gì các trận đánh nhưng lại đã ?olý thuyết hóa đến mức giáo điều? quan niệm về tập đoàn cứ điểm phòng thủ kiểu con nhím. Theo ông ta, ?oĐiện Biên Phủ cũng là một lòng chảo, có đồi núi vây quanh, nhưng ?onếu tin theo đồ bản? thì ********* sẽ không thể xây dựng đường bao vây và không có khả năng đưa đến đủ pháo và đạn để bao vây dài ngày?.
    Đó là chưa kể viện trợ ồ ạt của Mỹ về thiết bị chiến tranh, vũ khí và một sự đóng góp quan trọng bằng đô-la (từ 292 tỷ quan năm 1953 đã tăng lên 475 tỷ quan năm 1954, bằng 80% tổng chi phí chiến tranh).
    Lấy ai chỉ huy chiến dịch Castor?
    Tác giả dành trọn chương hai để viết về chiến dịch Castor, mở đầu ngày 20-11-1953 bằng cuộc không vận lớn nhất trong chiến tranh đổ quân xuống Điện Biên Phủ. Một chiến dịch lớn như vậy lẽ ra phải do một viên tướng chỉ huy. ?oTướng thì ở Đông Dương không thiếu, nhưng không ai chịu nhận chức chỉ huy. Tướng Din, một tay thủ đoạn và am hiểu ********* đã nói toẹt rằng: ?oĐây là một cái bẫy cho những thằng ngốc, phải nhanh chóng cao chạy xa bay?. Đại tá Va-nu-xem, viên chỉ huy các cuộc hành quân cơ động cừ nhất cũng từ chối vì những lý do tương tự. Chỉ có đại tá De Castries chấp nhận. Ông này là một sĩ quan đã nhiều lần được tuyên dương, ba lần bị thương, nhưng lại là ?omột nhân vật bị nhiều ý kiến nhận xét trái ngược?, một viên ?okỵ sĩ xuất sắc trong các cuộc tranh tài đua ngựa, một con người nổi tiếng về nợ nần cờ bạc và trai gái?. Ông này chấp nhận làm Tư lệnh Tập đoàn chiến dịch Tây Bắc (GONO), tức Điện Biên Phủ. Ông ta đến Điện Biên Phủ ngày 7 tháng chạp, mang theo nữ thư ký riêng Pô-lơ Buốc Gát và thiếu tá Lăng-gơ-le, một sĩ quan ?ocứng đầu, hay trả thù, hành động theo cảm tính và suy xét vội vã?, một con người ?ocan đảm và kiên nhẫn nhưng lại thiếu tầm nhìn tổng quát?, một con người ?ochỉ cầm cự được nhờ rượu Cô-nhắc?. Phó tư lệnh thứ hai của De Castries là thiếu tá Xơ-ghanh Pat-di, nguyên huấn luyện viên trường võ bị, một con người ?ocó học vấn hoàn hảo nhưng thiếu quyết đoán? và không phải là ?ocon người của chiến tranh?. Những đơn vị đầu tiên đến nơi ?ođóng quân gặp đâu hay đấy, không theo ý kiến chỉ đạo?.
    Tập đoàn cứ điểm hình thành
    Chỉ huy sở, pháo binh và kho tàng đóng ở vị trí làng Mường Thanh. Một vành đai các cứ điểm kháng cự bảo vệ các đơn vị này và sân bay được thành lập. De Castries lấy tên phụ nữ đặt cho các cứ điểm này: Bê-a-tri-xơ (Him Lam), An-nơ Ma-ri (Bản Kéo), Đô-mi-ních (các đồi E1, D1, D2, D3), E-li-an (đồi C1, A1, A3, C2), Huy-ghét (các đồi 105, 106, 206, 311a), Cơ-lô-đin (đồi 310), Phơ-răng-xoa (đồi 311), Ga-bri-en (Hồng Cúm) v.v.. Ngoại lệ có căn cứ Ê-péc-vi-ê (Chim cắt) và khi tình hình trở nên tồi tệ thì có thêm cứ điểm O-pê-ra (Nhà hát nhạc kịch).
    Chiến dịch Castor, chiến dịch không vận lớn nhất trong chiến tranh Đông Dương, huy động 67 máy bay Đa-cô-ta, tất cả những gì không quân vận tải có được. Lính dù chiếm đóng các cao điểm với nhiệm vụ ưu tiên sửa chữa và bảo vệ sân bay. Cũng vào lúc này Chính phủ Pháp thông báo cho Navarre là ?oông ta sẽ không nhận thêm được viện trợ nào? và ông ta phải ?oliệu cơm gắp mắm? với những gì có trong tay.
    Như vậy là một chiến dịch hùng hậu nhưng ?ođược quyết định vội vã và không nằm trong một mục tiêu dài hạn?. Chính phủ Pháp cũng cho rằng ?oviệc bảo vệ Lào không phải là mục đích ưu tiên?. Navarre liền cho rằng đây là ?omột cuộc hành quân chiến lược nhưng thứ yếu?. Trong khi ở Hà Nội, Cô-nhi huênh hoang đưa ra ?onhững tuyên bố chiến thắng?, rằng Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm ?okhông thể nào chiếm được?, và ?ocác sư đoàn ********* sẽ gãy răng ở đây?. Ngày 13-1-1954, Cô-nhi trả lời phỏng vấn của nhà báo Mỹ A-len đã khẳng định: ?oBộ tư lệnh Pháp chắc chắn sẽ giáng một đòn thất bại nặng nề cho ********* ở Điện Biên Phủ. Chúng ta sẽ thắng?.
    Tác giả cuốn sách mỉa mai: "Giá mà tổng tư lệnh có được kinh nghiệm chiến tranh Đông Dương thì ông ta đã không chui vào cái guồng máy chết người này... Do sự tự mãn trí thức và sự dốt nát về chiến tranh cách mạng, một cuộc chiến tranh không có chiến tuyến cố định, do không hiểu biết về các cuộc chiến mà họ không hề tham gia, các nhà quan liêu đầy bằng cấp tiếp tục đánh giá thấp sự lớn mạnh và khả năng thực tế của *********, tiếp tục khẳng định rằng ********* "không thể nào đưa đến nơi và duy trì được một sư đoàn tăng cường xa căn cứ của mình". Rằng "********* sẽ không có khả năng xây dựng trong rừng nhiệt đới các con đường để cho hơn một nghìn xe tải Molotova kéo đại pháo 105 ly và súng phòng không 37 ly". Họ coi nhẹ sự viện trợ quan trọng của Trung Quốc cho *********. Họ cũng không rút ra bài học từ chiến tranh Triều Tiên. Đi ngược với kế hoạch của mình mà không giải thích tại sao, Navarre đã "quyết định số phận của Điện Biên Phủ, chấp nhận cuộc chiến ở Tây Bắc và giao cho Cô-nhi trực tiếp chỉ huy. Tướng Giáp đáp lại bằng cách tung ra các Sư đoàn 304, 312 và Sư đoàn trọng pháo 351".
    Trong khi các cứ điểm được xây dựng qua loa, xa cách nhau và không thể ứng cứu cho nhau thì sở chỉ huy của Castries được phòng thủ vững chắc. Ông ta đã cho đưa lên một bồn tắm, nhà vệ sinh thì lấy từ máy bay DC3. Trong tình hình ấy, ngay từ giữa tháng 12 những sự "vỡ mộng đầu tiên" đã diễn ra, trong khi "gọng kìm các sư đoàn của Tướng Giáp ngày càng kẹp chặt chung quanh Điện Biên Phủ".


    "còn nữa"
  7. duckhang

    duckhang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/06/2003
    Bài viết:
    468
    Đã được thích:
    0
    Chiến dịch Át-lan-tơ, "dùng gươm chém nước"
    Song song với chiến dịch Castor, đầu năm 1954, Navarre tung ra chiến dịch Át-lan-tơ một trong ba cấu thành quan trọng của Kế hoạch của ông ta, với mục tiêu là "tái chiếm liên khu V", một chiến dịch mà tác giả đánh giá là "lấy gươm chém vào nước". Lại "thêm một lần vỡ mộng". Do tướng Bô-pho, chỉ huy chiến dịch mở đầu "không gặp chống cự", tập trung càn quét phía nam cao nguyên đi kèm với một "chiến dịch báo chí rùm beng khoa trương chiến thắng". "Nhưng rồi từ đầu tháng hai, các trung đoàn Việt đã ra khỏi các sào huyệt ở Quảng Ngãi và không bao lâu đã đến cửa ngõ Kon Tum do Tập đoàn quân cơ động GM100 bảo vệ. Quên đi sứ mạng là "diệt quân Việt ở Liên khu V", tướng Bô-pho đã tránh trận đánh và ra lệnh một cuộc rút lui thảm hại. Ngày 24 tháng 6, GM100 rơi vào bẫy ở đèo An Khê trên đường 19, không còn xoay xở được, đã để mất toàn bộ chiến xa và đại bác cùng với một phần ba quân số 3.500 người. (Ở đây, chúng ta biết rằng chính quân và dân liên khu V đã chiến đấu anh dũng, làm thất bại chiến dịch Át-lan-tơ giải phóng Kon Tum và Bắc Tây Nguyên và đã tiêu diệt tập đoàn quân GM100 trên đèo An Khê, phối hợp nhịp nhàng với trận Điện Biên Phủ).
    Điện Biên Phủ, "điểm hẹn du lịch"
    Trong khi đó "Điện Biên Phủ đã trở thành một "điểm hẹn du lịch" cho các nhân vật chính trị, quân sự". Các bộ trưởng, các chính khách, các nghị sĩ, các tướng Pháp, Anh và Mỹ, các nhà báo thay nhau đến Điện Biên Phủ, hơn nữa cũng vì Castries khéo tiếp khách và rượu vang của ông ta lại ngon tuyệt. Các "tua" đi thăm các cứ điểm được tổ chức hoàn hảo và luôn kết thúc bằng một cuộc trình diễn pháo. "Giữa tiếng nổ ầm ầm, các quan khách tin tưởng như đinh đóng cột rằng, tập đoàn cứ điểm này là không thể nào chiếm được". Trong khi đó, "các đơn vị trinh sát ********* nấp trên các ngọn đồi hoặc đã đột nhập vào các làng trong thung lũng, nhìn thấy tất cả. Sự thiếu ngụy trang và rừng ăng-ten của Sở Chỉ huy cho phép họ vẽ ra sơ đồ chính xác tất cả các vị trí. Ngày mùng một Tết, năm ấy của người Việt Nam, rơi đúng ngày 3-2. Để ăn Tết, quân Việt bắn một quả pháo vào sân bay, sơn pháo 75 hay 77 ly gì đó. Người ta vội thấy đó là bằng chứng quân Việt "không có gì hơn thế". Có ai đó còn tìm ra cái tên "khẩu pháo Nhật" để đặt cho khẩu pháo *********.
    "Quân Việt còn tăng cường các thủ đoạn kỹ thuật để đánh lừa các lính quan sát Pháp: họ tạo ra các ánh lửa giã phát pháo, các cột khói, các tiếng nổ, mỗi khi người ta tưởng đã khóa mõm được một khẩu pháo Việt, nó lại xuất hiện nơi khác. Có một lần, người ta phát hiện được vị trí một khẩu pháo nấp trong một khe núi. Đại tá Pi-rốt chỉ huy pháo binh ở Điện Biên Phủ, trực tiếp ra tay, dùng lựu đạn pháo 155 ly để diệt nhưng không kết quả. Sẽ phải dùng quá nhiều đạn trong khi dự trữ không có đủ. Ông ta hiểu rằng, ngược với những tuyên bố lạc quan của ông, ông "sẽ không thể nào thắng được pháo binh Việt".
    Những ngọn đồi đẫm máu
    Trong bối cảnh "tướng bất tài, quân bất lực" ấy, những trận đánh ác liệt đã diễn ra. Tác giả cuốn sách dành chương ba nhan đề "Trận tấn công" để tường thuật khá chi tiết diễn biến quá trình này mà ông tóm tắt như sau:
    "Quân Việt đã chôn các khẩu pháo của họ trong lòng các hang đào trong núi. Pháo binh và không quân Pháp tỏ ra bất lực, không diệt được chúng. Các cuộc hành quân được tổ chức để đi tìm và vô hiệu hóa chúng đều thất bại, với tổn thất nặng nề. Hàng nghìn quân Việt đào các giao thông hào để tiến gần lại các vị trí Pháp. Người ta tìm cách lấp chúng lại, nhưng vô vọng. Dàn cảnh của trận đánh đã được dựng lên. Ngày 13 tháng 3 Tướng Giáp tung ra trận xung phong. Ông để lộ lực lượng pháo hạng nặng nện vào quân phòng thủ. Hai trung đoàn tràn ngập lính lê dương ở căn cứ Bê-a-tri-xơ (Him Lam). Ngày hôm sau, đến lượt Ga-bờ-ri-en (Độc Lập) thất thủ. Sân bay, lá phổi sống còn của Điện Biên Phủ, từ nay không còn sử dụng được nữa. Sở chỉ huy của Đờ Cát rạn nứt và sụp đổ. Lăng-gơ-le và lính dù của ông đứng ra đảm nhiệm việc bảo vệ tập đoàn cứ điểm. Tăng viện được thả dù xuống. Quân Việt cũng bị tổn thất nặng, họ phải mất mười lăm ngày để phục hồi quân số và dự trữ đạn pháo... Ngày 30 tháng 3 các đơn vị của Tướng Giáp bước vào trận đánh sẽ phải chiếm được Điện Biên Phủ (những chữ đậm là của tác giả).
    Tác giả cuốn sách cố gắng vẽ lại cảnh tượng các trận đánh đẫm máu, ở đó quân Pháp chiến đấu gan dạ nhưng hoảng loạn và thất bại vì những mệnh lệnh trái ngược và sai lầm. Còn đối phương thì áp dụng chiến lược "thắt thòng lọng", bằng một mạng lưới giao thông hào và hầm hố để giam hãm mỗi cứ điểm và bóp nghẹt nó theo cung cách một con bạch tuộc khổng lồ"... Bị nghẹt thở, tập đoàn cứ điểm mỗi ngày lại co lại thêm một ít. Binh lính bị thương dồn đống lại hàng trăm, hàng nghìn người. Những người bị thương nhẹ trở lại chiến đấu, nhưng một số đại đội chỉ còn mươi người cầm súng được. Mưa và bùn đã biến các giao thông hào thành vũng lầy. Đầu tháng 5, tập đoàn cứ điểm đã đạt đến giới hạn của sự kiệt sức. Ngày 7-5 cứ điểm cuối cùng phải ngừng chiến đấu".
    Những nuối tiếc muộn mằn và sự xuyên tạc
    Theo tác giả Jean Pierre Bernier thảm bại của quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ không phải là do quân đội này chiến đấu kém mà là do những lý do khác như Chính phủ Pháp yếu đuối, không có đường lối nhất quán, tướng tá chỉ huy tồi, chủ quan, khinh địch, quân số không đủ thiếu tăng viện, Mỹ hứa cho máy bay ném bom hạng nặng B-29 và máy bay chiến đấu từ các tàu sân bay để "ứng cứu Điện Biên Phủ" (cuộc hành quân Vautour) nhưng rồi không thực, hiện thời tiết khắc nghiệt... Ông lại còn dẫn lời của viên tướng Bi-giê-a nói với ông năm 1988 rằng: "Nếu chúng ta đã có được 10.000 lính dù thay vì 1.500-2.000 quân ở tuyến đầu thì quân Việt đã không bao giờ lấy được Điện Biên Phủ": Ông ta còn khẳng định: "Điện Biên Phủ là một thất bại nhưng đã hoàn thành mục tiêu ban đầu là ngăn cản sự xâm lược nước Lào, nước này giữ được tự do và độc lập của mình". Và "Điện Biên Phủ là cụ thể hóa cuộc chiến đấu cho tự do chống ách áp bức cộng sản".
    Tuy nhiên, cách phân tích, đánh giá và nhìn nhận nguyên nhân thất bại của quân đội Pháp trong chiến dịch Điện Biên Phủ của tác giả cuốn sách chưa đầy đủ và có phần phiến diện vì nó chưa xuất phát từ bản chất cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa mà Pháp tiến hành chống lại nhân dân Việt Nam. Ngay ở thời điểm cuộc chiến đang diễn ra rất nhiều người Pháp tiến bộ đã lên án cuộc chiến tranh phi lý này.
    Trong khi hầu hết các nhà chính trị, quân sự, các nhà sử học toàn thế giới đều công nhận rằng, chiến thắng Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam là "một kiệt tác chiến lược", một trận thắng vĩ đại của thế kỷ 20, đạt được nhờ đường lối tài tình của ban lãnh đạo cách mạng Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhờ tinh thần chiến đấu ngoan cường, anh dũng và thông minh vô song của quân đội và nhân dân Việt Nam, dưới sự chỉ huy tài tình của vị tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, thì tác giả cuốn sách "Cách đây 50 năm Điện Biên Phủ" lại đưa ra những xuyên tạc ngớ ngẩn chứng tỏ đã không hiểu biết lịch sử lại ngoan cố phủ nhận sự thật, như cho rằng:
    - "Một viên tướng Tàu, Li Cheng Ho (?), chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ" và Giáp (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) vì không thể vượt qua sự trợ giúp của người anh lớn nên đã để cho viên tướng Tàu đứng đầu các cố vấn chỉ đạo đường lối trận đánh. Cũng "vì sự phủ quyết của viên tướng Tàu cố vấn nên Giáp đã phải nhượng bộ và hủy trận đánh vào cứ điểm An-nơ Ma-ri (Bản Kéo) dự định vào đêm 25 tháng giêng 1954" và "vì tức giận và để khỏi mất mặt, Giáp đã rút một sư đoàn khỏi Điện Biên Phủ tung vào một cuộc hành quân sang Lào" (!)
    - Về hệ thống hậu cần của quân ta tại Điện Biên Phủ, tác giả cho là do một đội quân gồm "hàng trăm nghìn con kiến đảm nhiệm", những "con kiến" này là "những cu-li và lao công bắt buộc" do Giáp huy động. Điều này không ngăn tác giả tường thuật chi tiết về những điều kỳ diệu mà "đạo quân cu-li khổ sai" này làm được, như "mở rộng các con đường hiện có để cho các xe tải Molotova kéo rơ-moóc và đại pháo, xây dựng trong rừng rậm một hệ thống dàn ngụy trang không thể nhìn thấy mà các cành cây kéo sát đến tập đoàn cứ điểm... Hơn 80.000 "cu-li" tải lương thực, dựng cụ và đạn dược buộc trên những cành tre hoặc thồ trên những chiếc xe đạp chở được đến 200kg. Cứ mỗi chặng 5 hoặc 10km lại xây dựng những kho tàng, nhà để xe, nhà xưởng, trạm chuyển tiếp cách xa trục đường và dưới tán rừng, không thể nhìn thấy được từ trên không.
    - Và sau cùng, là những sự thêu dệt ác ý về số phận các tù binh bị bắt ở Điện Biên Phủ. Cố tình phủ nhận sự thật thực tế và làm ngơ trước hoàn cảnh của nhân dân và quân đội ta, tác giả "tố cáo" ta đã buộc tù binh phải đi bộ, ngủ rừng, nằm trên nền đất, uống nước ao, mỗi ngày chỉ một nắm cơm, không đủ số ca-lo cần thiết, thiếu chăm sóc y tế và thuốc men, bị tra tấn, tù đày v.v.
    Năm mươi năm đã qua, chiến thắng Điện Biên Phủ của nhân dân ta ngày càng tỏa sáng. Sự thật về chiến công này ngày càng được làm rõ. Những người đối đầu nhau ngày nào nay đang bắt tay nhau trong sự cảm thông và tình hữu nghị. Mảnh đất chiến trường ngày nào nay đang phát triển và dang rộng hai tay đón bè bạn năm châu. Mọi sự đóng góp cho lịch sử và tình hữu nghị đều được chúng ta hoan nghênh và trân trọng tiếp nhận. Những điều xuyên tạc chắc chắn không thể che lấp được sự chiếu rọi của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chiến thắng của trí thông minh, lòng quả cảm và lòng nhân đạo của quân đội và nhân dân Việt Nam.

    LÝ VĂN SÁU
    Theo Quân đội nhân dân
  8. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Phần tiếp theo: Cố vấn Trung Quốc va? đươ?ng đến Điện Biên
    Vì có nhiều chi tiết nhạy cảm nên tớ không thể post lên được. Các bác chịu khó vào đọc nhé. Dạo này BBC đâu có bị firewall đâu.
    http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2004/03/040321_chineseadviserstwo.shtml
     
  9. Quake3Arena

    Quake3Arena Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/01/2004
    Bài viết:
    926
    Đã được thích:
    0
    Đọc thấy bọn Tàu ghẻ kể lể nhiều quá, cứ làm như ko có chúng thì VN ta không có chúng cố vấn cho thì ko làm ăn gì được. Nhưng dù sao cũng có thêm tư liệu để tham khảo. Ý bác mót Spirou về bài này thế nào ?
     
  10. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Cũng nên thông cảm chút với họ, thử nghĩ xem người Cam Bốt nghĩ sao khi họ đọc sách của VN viết về sự trợ giúp của ta với nước họ giai đoạn trước.
     

Chia sẻ trang này