1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến thắng Điện biên và cuộc chiến Việt Pháp

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi datvn, 06/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Vâng, nó có thể bị sửa bác Cavalry, nhưng theo bác thì nó bị sửa theo hướng nào?. Tôi cũng cho nhiều đoạn không chính xác lắm, vì tôi đã nghe băng buổi nói truyện của ông HT vào khoảng năm 88-89 gì đó, chính vì vậy tôi chỉ đưa nhưng đoạn tôi cho là hợp lý, trên cơ sở so sánh với các tài liệu khác, ví dụ như cuốn ?o DBP điểm hẹn lịch sử ?o của DT VNG phần cuối cũng nói rất nhiều về quan hệ LX-TQ-VN, còn về nội bộ đảng giai đoạn 30 - 45 thì lịch sử đảng cũng có nói sơ bộ, còn trong các buổi nói chuyện thời sự hay dạy chính trị, người ta còn nói toạc móng heo ra kia. Hay trên tờ Feer thỉnh thoảng cũng có bài về chủ đề này.
    Tài liệu tôi đưa có tính tham khảo, Ngoài hồi ký của ông HT còn có khá nhiều hối ký khác như ông TQ chẳng hạn. Bác nào có ý kiến hay tài liệu khác thì xin chỉ giáo.
  2. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Vâng, nó có thể bị sửa bác Cavalry, nhưng theo bác thì nó bị sửa theo hướng nào?. Tôi cũng cho nhiều đoạn không chính xác lắm, vì tôi đã nghe băng buổi nói truyện của ông HT vào khoảng năm 88-89 gì đó, chính vì vậy tôi chỉ đưa nhưng đoạn tôi cho là hợp lý, trên cơ sở so sánh với các tài liệu khác, ví dụ như cuốn ?o DBP điểm hẹn lịch sử ?o của DT VNG phần cuối cũng nói rất nhiều về quan hệ LX-TQ-VN, còn về nội bộ đảng giai đoạn 30 - 45 thì lịch sử đảng cũng có nói sơ bộ, còn trong các buổi nói chuyện thời sự hay dạy chính trị, người ta còn nói toạc móng heo ra kia. Hay trên tờ Feer thỉnh thoảng cũng có bài về chủ đề này.
    Tài liệu tôi đưa có tính tham khảo, Ngoài hồi ký của ông HT còn có khá nhiều hối ký khác như ông TQ chẳng hạn. Bác nào có ý kiến hay tài liệu khác thì xin được chỉ giáo.
  3. fanlong74

    fanlong74 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/06/2002
    Bài viết:
    346
    Đã được thích:
    0
    B.40 nên cẩn thận, đây là bản tài liệu giả, văn phong của nó có vẻ như đang kể chuyện, cách đề cập vấn đề, cách khai thác dữ kiện tình tiết có vẻ như là của cán bộ lão thành nhưng thật ra là không phải, chú ý cách sử dụng, và nhấn các dữ liệu có liên quan đến góc khuất (ít được nói tới). Tôi đã đọc những bản tương tự như thế này, 1 là của 1 nhân vật tự xưng là thân cận Mao viết về Mao và CM TQ qua các thời kỳ, một là của nhân vật tự xưng là có vị trí trong ĐCS VN viết về giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Văn phong và cách dẫn dắt vấn đề giống hệt nhau lần nhưng lần đầu tiên đọc khá ngạc nhiên. Bác có thể tham khảo hồi ký của các Đảng viên lão thành khác (như Nguyễn Lương Bằng...) để tham khảo. Mấy ông nói toạc móng heo đôi khi cũng bị mắt lỡm, dùng tài liệu giả để làm dẫn chứng. Bác cứ so sánh các nội dung về quan hệ VN - LX-TQ của cụ Giáp với cái gọi là hồi ký của ông HT sẽ thấy khác biệt. Còn Feer thì bị cấm đặt phóng viên ở VN (và hình như cả ở Malai) bởi cách viết bài của họ
    Được fanlong74 sửa chữa / chuyển vào 15:25 ngày 14/04/2004
  4. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    sửa hay không thì tui không biết, chỉ nghe có người nói thế thôi, nhưng đọc mấy đoạn đấy thì thấy ít tập trung xoay quanh vô người viết hồi ký là ông HT, mà đi vào mô tả các việc khác; và có vẻ như toàn đưa ra những điểm tiêu cực, không nói gì đến điểm tích cực! Trừ khi chính ông HT có chủ ý như thế, nếu vậy thì đọc hồi ký HT có khác gì đọc hồi ký Bùi Tín!
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mời các bác đọc bài này:
    Máy bay Mỹ tiếp tế cho... *********
    Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam (1946-1954) toàn bộ lực lượng không quân vận tải của Pháp đều là những máy bay do Mỹ chế tạo, chủ yếu là loại Đa-cô-ta C46, C47, C54 dùng để vận chuyển, tiếp tế, thả dù và cũng có thể thả bom. Mãi đến tháng 5 năm 1953, khi tướng Na-va được cử làm tổng chỉ huy quân đội Pháp tại Đông Dương mới có thêm... 5 chiếc Pac-ket C119, năm 1954 tăng lên 29 chiếc.
    Máy bay C119 của Mỹ đang chuẩn bị cất cánh giúp thực dân Pháp tham gia chiến đấu ở Điện Biên Phủ.
    Theo đại tá không quân Pháp Mac Bec-tanh, thời kỳ Điện Biên Phủ là trung úy phi công lái Pac-ket C119, viết trong cuốn hồi ký nhan đề ?oMáy bay Pac-ket trên vùng trời Điện Biên Phủ?, Pac-ket C119 là loại vận tải đường không hiện đại nhất và đắc dụng nhất đối với Pháp hồi đó. Nếu mỗi chiếc Đa-cô-ta chỉ chở được khoảng 2,5 tấn hàng hoặc 24 lính và 3 nhân viên tổ lái thì Pac-ket chở được những 6 tấn hàng hoặc một tổ lái 5 người và 78 lính, gấp hơn 3 lần Đa-cô-ta. Hơn nữa, khoang chứa của Pac-ket không chỉ to, cao, rộng, dài hơn Đa-cô-ta mà việc đưa hàng lên hoặc thả hàng xuống đều tiến hành qua cửa mở phía đuôi, rất thuận tiện.
    Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, để đưa xe tăng lên yểm trợ cho binh lính, mỗi chiếc xe tăng 18 tấn phải tháo rời thành từng mảnh, đưa lên bằng nhiều chuyến Đa-cô-ta, tới nơi mới lại lắp ráp từng chiếc cho hoàn chỉnh, rất lâu công và phiền phức. Trong khi đó, Pac-ket có thể chở nguyên vẹn một chiếc xe tải Doclge, hoặc một khẩu pháo nhỏ trong khoang. Tuy nhiên, máy bay Mỹ Pac-ket C119 cũng gây ra tai họa không ít cho Pháp, đồng thời cũng ?otiếp tế? cho ********* một lượng hàng không nhỏ. Dưới đây chỉ nêu vài thí dụ thuộc loại điển hình:
    Ngày 21-12-1953, tức ngay sau khi vừa mới chiếm xong sân bay Mường Thanh, Pháp lập tức đưa luôn một chiếc xe ủi đất nặng 7 tấn lên để sửa sang lại sân bay. Hai chiếc Pac-ket được cử đi làm nhiệm vụ. Chiếc thứ nhất chở nguyên vẹn chiếc máy ủi. Chiếc thứ hai chở lưỡi xẻng xúc đất nặng hơn một tấn. Vùng trời Điện Biên lúc này chưa có cao xạ *********. Chiếc Pac-ket đi đầu bình tĩnh lượn vòng rồi thả chiếc máy ủi đã buộc sẵn vào 6 chiếc dù. Nhưng, một dây chằng bị đứt, hệ thống dù không mở, chiếc xe ủi đất rơi xuống vỡ tan. Mác-tanh cho biết, đấy không phải chỉ một lần máy bay Pac-ket Mỹ gặp ?osự cố?. Nhiều lần sau đó, hệ thống chuyển hàng từ trong khoang chứa ra phía đuôi máy bay đều gặp trục trặc kỹ thuật, có lần hàng bị tắc nghẽn không thả được, đành phải đưa trở lại Cát Bi, sửa chữa thiết bị thả hàng rồi lại quay lên Điện Biên.
    Sau một số lần gặp rắc rối trong việc thả dù, nhân viên kỹ thuật Mỹ đưa ra sáng kiến, không buộc các kiện hàng vào dù nữa, cứ việc thả nguyên si cho rơi tự do xuống đất. Dĩ nhiên, đây là những mặt hàng không thể bị rơi vỡ như: cuộn dây thép gai, bao tải (để đựng đất, cát củng cố công sự), chăn, đệm cho lính Pháp... Có lần, cả một bó dây thép gai to đùng, nặng gần 6 tấn, rơi... trúng đầu, vỡ mặt gần một tiểu đội lính Pháp đang ngửa mặt lên trời xem máy bay Mỹ thả hàng! Lại có lần, toàn bộ 6 tấn bao tải đựng gạo rơi sang... trận địa *********, cung cấp cho ********* vật liệu rất cần để vận chuyển gạo.
    Từ tháng 3 năm 1954, ********* bố trí lưới lửa phòng không cao xạ tại Điện Biên Phủ, buộc các loại Pac-ket và Đa-cô-ta phải bay cao tránh đạn. Mỹ lại đưa ra sáng kiến: trang bị cho Pac-ket loại dù có thiết bị ?otự động mở dù theo chương trình đã ấn định sẵn?: nghĩa là máy bay cứ việc bay tít trên cao vứt hàng xuống, cách đất khoảng 300 mét dù đỡ mới tự động mở, các kiện hàng sẽ rơi chậm, tránh rơi vỡ và cũng tránh được tai nạn cho những người đứng dưới đất, trong khu vực thả dù.
    Nhưng, chiến dịch càng kéo dài, trận địa của Pháp càng bị ?oco lại như miếng da lừa trong truyện cổ tích?. Sân bay Mường Thanh thường dùng làm bãi thả dù cũng bị thu hẹp, đường băng dài hơn 1.160 mét bị phá hủy, cắt đứt, chỉ còn 300 mét. Những kiện hàng từ máy bay Pac-ket và Đa-cô-ta thả xuống, rơi vãi lung tung. Cuốn ?oNhật ký chiến sự? của Giăng Pu-giê ghi nhận: ?oDù có thiết bị mở dù tự động, vẫn có tới 50% kiện hàng rơi ngoài bãi thả?. Ngày 1-4, hơn một nửa số hàng thả rơi ngoài vị trí. Ngày 6-4, hơn mười khẩu pháo không giật 75mm do Pac-ket thả xuống Điện Biên, lính Pháp chỉ thu được hai khẩu, số còn lại coi như làm quà cho *********. Ngày 9-4, trong tổng số 195 tấn hàng tiếp tế đã thả chỉ thu được... 6 tấn. Ngày 13-4, máy bay C119 Mỹ ?otrút toàn bộ số đạn pháo 105mm xuống trận địa *********, coi như tiếp tế đạn cho đối phương!?. Ngày 18-4, hơn 30 tấn hàng ?orơi lạc? sang trận địa *********. Ngày 27-4, ?ocó tới 70% số dù hàng rơi lạc mục tiêu?. Ngày 5-5, ?ohầu hết số hàng do C119 thả xuống đều rơi xuống trận địa *********?...
    Tính ra, các mặt hàng mà Pac-ket C119 và Đa-cô-ta C47 ?otiếp tế không công? cho *********, theo như cách nói mỉa mai chua chát của Pháp, gồm đủ loại: lương thực, thực phẩm (đồ hộp, rượu mùi, nước ngọt), thuốc men, chăn đệm, súng đạn... ?okhông sao thống kê hết?. Những thứ này không chỉ ?ocủng cố sức khỏe? cho ********* mà còn ?ogiúp *********? bắn lại quân Pháp. Theo Guyn Roa, đại tá không quân Pháp tiết lộ trong cuốn ?oTrận Điện Biên Phủ?, riêng đội ngũ máy bay Pac-ket Mỹ sử dụng trên vùng trời Mường Thanh là 29 chiếc thì 27 chiếc bị trúng đạn, một số máy bay trở về chưa kịp hạ cánh xuống Cát Bi đã bị rơi.
    Tờ ?oQuyết thắng? của trung đoàn 36, đại đoàn 308, in trên đá li-tô, phát hành ngay tại mặt trận, số ra ngày 1-5-1954 có bài ?oMáy bay Mỹ tiếp tế cho ta đánh Tây?, kết luận bằng bốn câu thơ:
    Trên mặt trận Điện Biên
    Tây đoảng đủ mọi thứ
    Riêng tiếp tế cho ta
    Mỹ làm... thừa nhiệm vụ!
    Các bác cho ý kiến về việc quân ta thu được nhiều chiến lợi phẩm của quân Pháp đi!
  6. hungsheva2004

    hungsheva2004 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/01/2004
    Bài viết:
    2.415
    Đã được thích:
    0
    Chiến thắng Điện Biên - đỉnh cao của chiến công giữ nước

    Hôm qua, 500 nhà khoa học, cựu chiến binh đến từ 15 nước trên thế giới đã tham gia hội thảo quốc tế về Điện Biên Phủ, tổ chức tại Hà Nội. Các tham luận khẳng định, chiến thắng này mang dáng vóc thời đại, là biểu tượng sức mạnh chiến tranh nhân dân VN thế kỷ 20.
    Phát biểu khai mạc, Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm nhấn mạnh: ?oChiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc bị áp bức. Thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ là một minh chứng về sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, của tinh thần độc lập, sự phối hợp trên cùng một chiến hào của nhân dân Lào, Campuchia, sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp?.
    GS.TS người Pháp Charles Fourniau đã đánh giá, trận Điện Biên Phủ đã mở ra một thời kỳ lịch sử mới. Chiến thắng này là do sự chiến đấu dũng cảm của dân tộc Việt Nam, sự tài tình trong chỉ huy chính trị, quân sự và sự ủng hộ mang tính chất quốc tế của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Theo ông Charles Fourniau, sự thất bại của Pháp không đơn thuần là do yếu kém trong chỉ huy chính trị quân sự hay thiếu ủng hộ của nhân dân Pháp. "Theo tôi, thất bại đó dường như là kết quả của chế độ đô hộ thuộc địa, mà một trong những đặc tính sâu sắc nhất là không có khả năng thấy rõ người khác".
    Dựa vào nguồn tư liệu từ hai cuốn sách Chiến dịch Điện Biên Phủ của đại tướng Võ Nguyên Giáp và Những nhân tố quyết định của 20 chiến dịch lớn trên thế giới của nhà sử học quân sự người Anh William Simo, ông Li Zhenwu (Viện Khoa học xã hội Quảng Đông, Trung Quốc) lý giải khá chân xác những nguyên nhân giành chiến thắng của quân đội Việt Nam với 3 yếu tố cơ bản: chiến lược, chiến thuật rõ ràng; quân đội anh dũng thiện chiến; công tác hậu cần được bảo đảm vững chắc.
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hy vọng cuộc hội thảo lần này sẽ là cơ hội để bạn bè quốc tế, trong đó có cả những chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam hiểu rõ hơn chân lý lịch sử vĩ đại của chiến dịch Điện Biên Phủ. Trên cở sở sự hiểu biết lịch sử đó, sẽ xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.
    Trong hai ngày hội thảo, các nhà khoa học sẽ đi sâu nghiên cứu về điều kiện Việt Nam và bối cảnh quốc tế trước trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ; áp lực của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới đòi chấm dứt cuộc chiến tranh; nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của chiến thắng Điện Biên Phủ.
    Hội thảo quốc tế này sẽ bế mạc vào chiều nay.
    Thiên Đức - Việt Anh
  7. cuc_culao

    cuc_culao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/05/2003
    Bài viết:
    189
    Đã được thích:
    6
    Không khí tại Pháp sau ngày ĐBP thất thủ
    (trong hồi ký của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện):
    Đáng nhớ nhất là những ngày lịch sử tháng 5-1954. Trong cả tháng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ấy, báo chí Pháp ngày nào cũng nói về Việt Nam, lúc đầu đưa tin như quân Pháp sẽ thắng, diệt hết *********. Nhưng dần dần thì giảm đi, nên phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày càng dâng cao. Song bọn thực dân cực đoan lại đề cao tinh thần dân tộc ca ngợi những chiến binh Pháp ngã trên chiến trường là anh hùng... Vì vậy cả thủ đô Paris luôn sôi nổi, căng thẳng. Ngày 7 tháng 5, tin ta thắng ở Điện Biên Phủ làm náo động cả thủ đô nước Pháp. Anh em Việt kiều đồng ý với bên Đảng Pháp không làm gì rầm rộ để tránh khiêu khích. Nhưng các đảng viên Pháp và các bạn bè Pháp gặp người Việt Nam thì mời đến hoan hô, cho uống sâm banh... Các bạn châu Phi, Algéria... mang những tờ báo to đề lên "Điện Biên Phủ đã thất thủ" dán trước ngực rồi đi đi lại lại trên các đường phố rất vui vẻ. Có sinh viên Việt Nam đi chữa giày. Chữa xong, hỏi: "ông tính bao nhiêu?". Người thợ Pháp không quen biết, nói: "Thôi, thôi, thôi, Việt Nam... Điện Biên Phủ... thì không lấy tiền".
  8. cuc_culao

    cuc_culao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/05/2003
    Bài viết:
    189
    Đã được thích:
    6
    Phỏng vấn nhà thơ Hoàng Cầm về những ngày tham gia trận ĐBP (của báo Văn Nghệ Trẻ):
    Nhà thơ Hoàng Cầm - người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, nay đã 82 tuổi, sức khoẻ yếu (nhà thơ Hoàng Cầm mới bị ngã gãy chân - Một bên chân trái vẫn còn bó bột và nằm bất động). Xin giới thiệu buổi trò chuyện giữa phóng viên Văn nghệ trẻ và Nhà thơ Hoàng Cầm.
    PV: Thưa nhà thơ Hoàng Cầm, được biết nhà thơ đã được tham gia vào chiến dịch Điện Biên Phủ, vậy có những kỷ niệm nào đáng ghi nhớ nhất của nhà thơ trong những ngày đặc biệt ấy. Có phải chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tặng Huân chương Chiến sĩ Điện Biên cho nhà thơ ngay trong Chiến dịch với bài thơ ?oGiữ lấy tuổi trẻ?.
    Nhà thơ Hoàng Cầm: Lúc mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ tôi là đoàn trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị. Bắt đầu làm đoàn trưởng từ tháng 7-1952. Trước khi mở chiến dịch một tháng, nghe phong thanh là sắp sửa mở chiến dịch thì tôi có làm ngay bài thơ ?oGiữ lấy tuổi trẻ?. Đề là thư của em gái - bài thơ này tôi viết dưới hình thức thư của người em gái nông thôn hậu phương gửi người anh ngoài tiền tuyến tố cáo tội ác của giặc Pháp bắt phụ nữ làm lính. Bài thơ viết vào tháng 3-1954. Bài thơ này tôi ký tên là Em Vân chứ không ghi là Hoàng Cầm. Tôi có viết thư riêng cho anh Từ Bích Hoàng và anh Trần Dần phụ trách báo Quân đội ở mặt trận - lúc ấy mặt trận mình có chuyển lên một bộ phận in, in được tờ báo cũng bằng khổ to như báo Nhân Dân bây giờ nhưng có 2 trang thôi. Hàng ngày vẫn ra báo ở ngay mặt trận, có nhà in có công nhân in hẳn hoi. Khi mà họ đăng thì họ chẳng cho ai biết là của Hoàng Cầm cả, chỉ ghi tác giả là Em Vân thế thôi. Ông Lê Quang Đạo lúc bấy giờ là Cục trưởng Cục Tuyên huấn và đồng thời là Cục trưởng Cục Tuyên huấn mặt trận Điện Biên. Khi bài thơ ấy được đăng thì ngay hôm sau, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở hầm chỉ huy thấy ông Lê Quang Đạo lên báo cáo việc gì đó, thế là Đại tướng hỏi ngay: Này ông Đạo ơi, ông có đọc cái bài thơ sáng nay ở báo Quân đội không? - Có, tôi có đọc - Anh có biết bài đấy của ai không? Ông Đạo thì tỏ ra ta có quan tâm săn sóc đến quần chúng lắm - Không, bài ấy của quần chúng, bây giờ quần chúng gửi nhiều thơ về báo lắm. Quần chúng họ phong phú lắm, họ hay lắm. Đại tướng mới cười nói: - Tôi với anh đánh cuộc nhé! Bài thơ này không phải của quần chúng, bài thơ này là của anh Hoàng Cầm, anh có biết không? Ông Đạo cãi ngay: - Không, làm gì có, đăng ở báo thì tôi biết chứ. Không, bây giờ thơ của quần chúng nhiều bài hay lắm. Bài đấy là của một cô Vân nào ở miền Trung du ấy. Đại tướng cười: - Tôi cược với anh nhé! Bài thơ này anh về hỏi lại biên tập xem có phải của anh Hoàng Cầm không. Ông Đạo vẫn cãi: - Anh Hoàng Cầm anh ấy viết thì anh ấy ký t ên anh ấy, chứ việc gì anh ấy phải lấy tên em Vân - Không, đấy anh về hỏi lại xem, tôi đọc thì tôi thấy giọng thơ này là giọng thơ của Hoàng Cầm. Đại tướng tinh lắm. Ông Đạo nhận lời về hỏi Từ Bích Hoàng và Trần Dần và họ bảo là: - Vâng cái này là của anh Hoàng Cầm. Ông Đạo mới cự nự: - Tại sao các anh không chúthích hoặc ghi tên Hoàng Cầm - Không nhưng anh ấy yêu cầu là ký tên này, chúng tôi tôn trọng anh ấy và đề tên như thế. Anh ấy có viết thư riêng cho chúng tôi đây này và bảo là các cậu để nguyên tên tác giả là Em Vân cho mình. Ông Đạo thua cuộc và lên xin lỗi, ông Giáp cười và bảo: Đấy phải đọc một tác giả mà biết thơ, và phải đọc bài thơ mà biết tác giả - chẳng cần gì phải ghi tên. Chuyện đầu tiên về bài thơ là như thế.
    PV: Đấy là những ngày chuẩn bị cho trận đánh. Còn khi vào trận đánh thì bài thơ ?oGiữ lấy tuổi trẻ? cùng với những bài hát như ?oTiến quân ca? của Văn Cao, ?oHành quân xa? của Đỗ Nhuận đã tham gia chiến dịch như thế nào?
    Nhà thơ Hoàng Cầm: Sau tôi cũng ở mặt trận chỉ 1 tháng, t hời kỳ chuẩn bị đánh chứ chưa tấn công. Lúc đầu Pháp ném bom dữ lắm. Tôi ở đấy chuẩn bị. Tôi có đoàn văn công lúc bấy giờ là 200 người. Đem ra mặt trận 1/10. Chọn những cô cậu ưu tú nhất đưa ra Điện Biên khoảng 20 người. Thùy Chi, Kim Ngọc, Mạnh Thắng ra mặt trận hết. Đại bộ phận ở nhà thì chuẩn bị cho đại hội văn công toàn quốc, nên tôi phải về. Nhưng đến khi chiến dịch thì đi đến cuối cùng.
    Lúc này Đại tướng Võ Nguyên Giáp chuyển chiến thuật sang đánh đường hầm. Cố vấn Trung Quốc là ông Trần Canh - Đại tướng Trần Canh luôn đi sát với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lúc đầu khẩu hiệu của chiến dịch là: Đánh nhanh thắng nhanh. Đến giữa chừng ông Giáp thấy không thể đánh nhanh thắng nhanh được mới chuyển chiến thuật: Đánh chậm thắng chậm tức là đánh kéo dài. Ông Trần Canh thì ủng hộ việc đánh nhanh thắng nhanh, ý ông ấy là giục ông Giáp cứ cho pháo vào, có bao nhiêu pháo thì cho vào hết đi, thiếu thì Trung Quốc sẽ cho hết, từ pháo cho đến đạn đầy đủ. Ông Giáp không những không nghe mà còn hạ lệnh cho những pháo nào kéo vào rồi thì cứ để lại đủ cần dùng, còn lại thì kéo pháo ra. Sở dĩ chiến dịch Điện Biên Phủ vất vả vì nó phải kéo pháo vào, kéo pháo ra. Cái hôm mà có lệnh kéo pháo ra thì bộ đội chửi om lên cơ. Nó chửi kiểu nông dân, chửi vung cả lên, om sòm. Ông Giáp bèn mới viết một cái thư tay, đánh máy gửi tới các chiến sĩ từ tiểu đội. Ông giải thích tại sao lại phải kéo ra. Kéo pháo ra xong rồi thì ta đánh thế nào, phải đánh chậm nhưng đánh chắc, đánh đâu thắng đấy. Ông Giáp cho chuyển sang đào hầm, từ những mảng đồi quanh đấy, từ cánh đồng Mường Thanh dài 5 km rộng 4 km rồi sông, suối, ông cho đào hầm từ các vách núi và đào cho đến tận hầm Đờ Cát-tơ-ri, đào ngang, xẻ dọc để vừa trú quân ban ngày và lúc đánh thì ở đấy đánh luôn, gần lắm. Lúc ấy tôi mới làm bài thơ mà ông Giáp cũng thích lắm. Đó là bài ?oTiếng cuốc trên chiến trường?? Đại ý bài thơ là: Trong đêm nay những ai nghe thấy tiếng cuốc, từ người lính đã đành, nhưng mà từ quê nhà, người vợ, bố mẹ anh em cũng nghe thấy. Còn ở trên Trung ương Bác Hồ cũng nghe thấy tiếng cuốc của chiến dịch. Thì có một câu thế này là các ông khoái lắm: ?oNó nghe tiếng cuốc rộn mau, như nghe đóng cá hai đầu áo quan?. Bởi vì thằng địch nghe thấy tiếng cuốc lúc đầu còn xa xa nhưng về sau nó dồn dập, lúc nào nó cũng nghe thấy tiếng cuốc thình thịch suốt cả cánh đồng Mường Thanh. Cứ như thế nó trông thấy cái chết cứ đến dần dần. Tiếng cuốc gần đến đâu thì cái chết gần đến đó. Thế còn mình, khi cuốc thì nấp trong hầm cuốc có ra ngoài đâu mà nó bắn được, nó cũng bắn nhưng mà thỉnh thoảng lắm mới có người bị thương. Đào cho đến hầm Đờ Cát-tơ-ri. Đến khi đến gần hầm rồi thì có lệnh tổng phản công là các đơn vị đánh hết đồi này đến đồi khác, từ A1 đến Him Lam, Độc Lập, đồi B1, G1, G2? Có đến chục thứ hầm ý? lúc bấy giờ có những chiến sĩ còn hăng hái đến nỗi: xuất phát là 5 giờ chiều chẳng hạn, mới 5 giờ kém 20 đã xuất phát đánh luôn. Cho nên ta mới xiết chặt vòng vây xung quanh Đờ Cát-tơ-ri chặt thế.
    Lệnh ở trên bảo tôi cử một số văn công ưu tú để tham gia mặt trận, thì tôi chọn được 18-19 người, toàn cô hát thật hay, múa giỏi. Múa hát ngay bãi pháo, trước cảnh bãi pháo, trong hầm, thành ra bộ đội họ thích lắm mà cũng không bị mất mát người nào. Đến lúc kết thúc anh em về cả rồi thì mới nhắc lại chuyện như thế này: Cái lúc mà bộ đội ta bất mãn về chuyện kéo pháo ra thì ông Giáp biết lắm. Biết tâm lý bộ đội đi chiến dịch Điện Biên đường xá vất vả, ăn uống khổ lắm. Cái lúc bộ đội gần như làm reo, bực lắm rồi, bao nhiêu công mới kéo pháo vào đến nơi, ngày hôm trước, ngày hôm sau ông bảo chuyển nó ra có uất không? Phẫn nộ lắm. Thế mà ông Giáp làm dịu được. Viết một lá thư tay nói với bộ đội như tâm sự với nhau: Thôi thì các đồng chí nên nhớ: đất nước chúng ta đánh giặc là đánh lâu dài. Chỗ nào có giặc thì ta cứ đánh thôi. Ta có kéo pháo vào thì cũng để đánh giặc, mà kéo pháo ra cũng để đánh giặc chứ không phải kéo pháo ra để đùa đâu. Dù cả bộ đội có rút khỏi Điện Biên Phủ đi nữa cũng vẫn là đánh giặc, tùy theo chiến lược chiến thuật ở trên thì các đồng chí vui vẻ tuân lệnh trên mới thật sự là bộ đội *****. Quả nhiên, lá thư đó có tác dụng. Anh nào cũng thấy im lặng cảm động. Cánh đồng Mường Thanh lúc đó là mùa mưa, nước trong hầm có khi lên đến rốn, thỉnh thoảng trong hầm phải khoét một chỗ vào tường để còn khô mà đứng. Hôm sau nước rút được một ít, rồi lại mưa, lại dềnh lên. Nhưng chiến thắng được Điện Biên là nhờ hầm như thế đấy.
    Lúc ấy ông Giáp mới yêu cầu tôi: anh phải bảo mấy ông nhạc sĩ trong đoàn của anh làm thế nào sáng tác ngay đi, hôm nay hoặc ngay ngày mai một bài hát để giữ vững tinh thần quân đội. Lệnh ở trên, bảo thế nào thì cứ thế mà làm thì mới chiến thắng chứ đừng có thắc mắc, anh cứ thắc mắc với lệnh ở trên thì không bao giờ chiến thắng được. Cậu phải làm một bài hát như thế!
    Và tôi mới gặp Đỗ Nhuận - Lúc bấy giờ là đoàn phó của tôi: Cậu phải nghĩ ra một bài hát nào để cho bộ đội hát. Nó đơn giản thôi nhưng để nó thấm đậm tư tưởng là cứ ở chỗ nào có giặc là đến, chỗ nào có lệnh là mình đến, bộ đội là chỉ có thế thôi, cứ làm theo đúng lệnh và không thắc mắc gì cả. Thế là Đỗ Nhuận cũng phấn khởi lắm. Và cũng nhanh và rất tài. Bài hát Hành quân xa đâu có giặc là ta cứ đi ra đời rất nhanh. Sau đó đưa mấy cô lên hát ở hầm chỉ huy của ông Giáp thì ông mới bắt tay khen khá lắm và cho phổ biến ngay dạy cho tất cả các đơn vị bộ đội hát bài này. Thế là các đơn vị thuộc hết, vì cũng đơn giản. Nhờ bài hát đó bộ đội phấn khích lắm thành ra bài hát đó là một đóng góp lớn trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Bài hát đó rất có tác dụng mà chính tôi cũng chịu sự tác dụng ấy, mình cũng thấy phấn chấn, ừ thì đi đâu thì đi, đi đâu chả là đánh giặc, có thế thôi, nó đơn giản như vậy nên xúc động và có tác dụng lớn. Thế là từ khi có bài hát đó toàn thể bộ đội lúc nào cũng hát bài hát đó trong chiến dịch.
    Đến đợt tổng phản công Chiến dịch (55 ngày đêm) thì cứ đến 5 giờ chiều là bắt đầu đánh. Bộ đội cứ nấp trong các hầm suốt, xung quanh cánh đồng Mường Thanh, xuất phát từ lúc 4 giờ 30 chiều ra ở cửa hầm. Thì ở mỗi cửa hầm như thế có một anh cán bộ tuyên huấn, một anh hát bài Tiến quân ca bên kia cách độ mấy mét thì hát bài Hành quân xa còn một hầm bên kia thì cứ đọc bài thơ ?oGiữ lấy tuổi trẻ?. Đọc đi đọc lại, hát đi hát lại đến khi bộ đội ra hết khỏi hầm thì thôi. Đến sát trận địa có lệnh là đánh luôn. 3 bài này đã góp phần vào việc động viên bộ đội vào giai đoạn cuối cùng của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngay sau đó ông Giáp khen thưởng ngay tại trận - Đỗ Nhuận được thưởng Huân chương Chiến thắng hạng Nhì, tôi cũng thế. Còn Văn Cao thì thêm một giấy khen thôi chứ ông ấy lắm huân chương rồi?
    PV: Xin cảm ơn nhà thơ!
  9. cuc_culao

    cuc_culao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/05/2003
    Bài viết:
    189
    Đã được thích:
    6
    Một bài viết trên trang http://home.netnam.vn:
    Chuyện hai người lính Điện Biên già nhất và trẻ nhất ​
    Các bạn trẻ, rất trẻ. Các bạn có tin rằng, vào tuổi các bạn nửa thế kỷ trước, đã có những người tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ - một chiến dịch ác liệt và gian khổ, mà một người lính già - một vị tướng - khi kể cho tôi nghe đã nói rằng, trong đời lính của ông, từ năm 1946, đến Điện Biên, sau Điện Biên, sau chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam, đến cả mặt trận biên giới phía Bắc năm 1979, cũng không có trận nào gian khổ như thế.
    Một trong hai người lính ít tuổi nhất khi tham gia trận Điện Biên năm ấy mới 16 tuổi. Một chị văn công còn ít tuổi hơn (15 tuổi). Tiếc rằng tôi không tìm được hai người kia để hỏi chuyện. Nhưng đố ai tìm được trường hợp cả ông và cháu cùng tham gia trận Điện Biên, ông là người cao tuổi nhất trên toàn mặt trận; 55 tuổi, cháu là một trong 2 người lính trận ít tuổi nhất, 16 tuổi. Đây là hai ông cháu cụ Hoàng Đạo Thuý và cháu ngoại Lưu Anh Tuấn.
    Đại tá Lưu Anh Tuấn, hàm răng trắng lấp lóa mỗi khi cười, gương mặt quá trẻ so với tuổi, nhất là mái tóc, thừa hưởng gien ông ngoại, vẫn đen nhánh, chỉ một vài sợi bạc như tóc sâu thôi. Hỏi chuyện ông, nhưng ông toàn nói về ông ngoại mình. Bởi với ông, ông ngoại vừa là ông ngoại vừa là người cha nuôi nấng dạy dỗ từ năm ông 6 tuổi (khi cha mẹ ông qua đời trong cùng một năm), vừa là thủ trưởng. Đến công tác ở vùng nào cụ Hoàng Đạo Thuý cũng mang theo vợ con và đàn cháu mồ côi (con của người con gái đầu lòng mệnh yểu). Cụ là vị Hiệu trưởng đầu tiên của trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (trường sĩ quan đầu tiên của quân đội ta- nay là trường Sĩ quan Lục quân 1), và là người được giao trọng trách tổ chức, xây dựng nhiều cơ quan đầu ngành của quân đội như: thông tin , công binh, vận tải, bản đồ, mật mã, quân huấn mà thông tin là binh chủng cụ làm việc lâu hơn cả. Cụ tham gia chiến dịch ĐBP với tư cách Cục Trưởng Cục Thông tin, vì thông tin là đầu mối vô cùng quan trọng phục vụ công tác chỉ huy, thêm nữa, vì tuổi cao nên tháng 1/1954 cụ được ngồi cùng chiếc xe Zep của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi chiến dịch.
    Ngày 23/8/2003, đại tá Lưu Anh Tuấn cùng đoàn cựu binh Bộ Tư lệnh 559 đến chúc sức khoẻ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân dịp sinh nhật thứ 93 của ông (25/8/1911). Đại tá thưa với vị Đại tướng rằng, ông được ông ngoại mình kể rằng, chắc việc Đại tướng thuyết phục vị trưởng đoàn chuyên gia quân sự nước bạn (về việc lùi ngày nổ súng lại, thay đổi hẳn phương châm chiến dịch, từ đánh nhanh, thắng nhanh sang đánh chắc, tiến chắc) cũng không dễ dàng gì, và chắc thái độ của ông ta lúc đầu cũng không dễ chịu gì, nên Đại tướng có bảo ông ngoại anh, tối nay anh sang kể chuyện cho họ nghe cha ông ta đã đánh thắng quân Nguyên như thế nào. Ông ngoại anh có chút phân vân, thế thì quá bằng chửi họ còn gì. Đại tướng bảo, anh cứ kể cho họ nghe ...
    ĐBP toàn thắng có một phân đóng góp không nhỏ của việc tổ chức hệ thống thông tin liên lạc vô tuyến, hữu tuyến, thông tin vận động và tín hiệu thông suốt trên toàn mặt trận, giữa mặt trận ĐB với các mặt trận khác trong toàn quốc, với chiến trường toàn Đông dương, giữa Bộ Tư lệnh chiến dịch với Bác Hồ và Trung ương. Sau này, chuyển ngành, cụ được điều về làm Hiệu trưởng trường Cán bộ Dân tộc Trung ương, chính là cụ được trở về nghề cũ của mình - nghề dạy học. Trong cuốn sách Nghề thầy, cụ nói rõ quan niệm của mình về giáo dục: con người phải được tôn trọng, không phải tôn trọng chung chung, con người chung chung mà là tôn trọng cụ thể, từng người cụ thể một. Con người càng được tôn trọng thì càng tự trọng. Có tự trọng thì mới biết giữ mình, biết xấu hổ, biết làm việc thiện, việc tốt, không làm việc xấu.
    Về nghỉ hưu, cụ viết sách, ngoài những cuốn hồi ký về các ngành cụ đã góp phần xây dựng trong quân đội, cụ viết nhiều về Hà nội như: Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, Người và cảnh Hà Nội, phố phường Hà Nội... Nhà Hà Nội học này đã nhận được giải thưởng Thăng Long về những đóng góp này. Cụ mất năm 1994, thọ 95 tuổi.
    Đến bây giờ Lưu Anh Tuấn mới khám phá ra những điều kỳ lạ ở ông ngoại mình, mới hiểu vì sao ông ngoại anh lại được giao nhiều trọng trách đến như thế. Không phải không làm được việc này, mới phải phân công việc khác đâu, mà làm xong, làm tốt việc này, lại giao ngay việc khác. Các trọng trách ấy đều bắt đầu từ số không, từ việc đầu tiên là xác định chức năng nhiệm vụ, rồi đến chọn người cho khung cán bộ chủ chốt. Bắt đầu vận hành được, lại lập tức được giao trọng trách khác. Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn là một ví dụ. Đầu kháng chiến, cán bộ quân sự thiếu ghê gớm. Phải tổ chức đào tạo. Cụ Hoàng Đạo Thuý không phải là cán bộ quân sự, không qua một lớp quân sự nào, cũng không phải là một trong 34 chiến sĩ của đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Chỉ là người được ***** chọn mời đi dự Đại hội quốc dân Tân Trào thôi, sao làm Hiệu trưởng trường quân sự được ? Vấn đề là năng lực tổ chức.
    Cụ vốn là người sáng lập ra Hội Hướng đạo sinh từ đầu những năm 40, được thực dân Pháp cho hoạt động công khai, nhưng thực chất nó là một hoạt động giáo dục thanh thiếu niên sống phải trọng danh dự, giúp đỡ mọi người, là bạn thân của mọi người, kể cả súc vật (điều này đến nay ta mới có ý thức giáo dục trẻ em), phải trong sạch trong cả ý nghĩ, lời nói, việc làm, phải thành thật với lương tâm, và trên hết là trung thành với Tổ quốc và cha mẹ. Trường thành lập được ít lâu, Bác Hồ đến thăm, huấn thị và tặng nhà trường sáu chữ: Trung với nước - Hiếu với dân. Sáu chữ này đã được các tướng tá cựu học sinh võ bị Trần Quốc Tuấn khoá I, thêu thành bức trướng kính viếng vị Hiệu trưởng đầu tiên khi cụ nằm xuống, giờ vẫn treo trong nhà thờ cụ. Hướng đạo sinh có tính tổ chức và kỷ luật rất cao, còn người tử tế hay không tử tế thì biết chứ, họ lại là những thanh thiếu niên có học, đã dám "bỏ đô thành nghi ngút cháy sau lưng", "người ra đi đầu không ngoảnh lại" đi kháng chiến. Cụ chọn những người khá nhất trong số họ, giao nhiệm vụ cho họ. Và thực tế chứng minh, họ đã làm tốt. Ngày đầu kháng chiến, ta đã mời cả một số hàng binh Nhật, cả một số sĩ quan trong đội quân "lính khố đỏ" của chính quyền phong kiến ra làm việc. Chính bác họ người viết bài này là Nguyễn Ngọc Chiểu, thầy đội - quan một quân đội cũ, cũng được trọng dụng, làm tới chức Chánh văn phòng Bộ Tổng tham mưu, là một dẫn chứng. Bạn đọc trẻ tuổi cần biết cái ngoắt ngoéo này trong lịch sử. Sau này, có một thời gian ngắn, do tầm nhìn hạn chế, do bệnh ấu trĩ và máy móc học người khác, nên ta đã đánh giá lại quá khứ của họ mà cư xử không đúng. Trong kháng chiến chống Pháp đã có lần Bác Hồ giới thiệu cụ Hoàng Đạo Thuý rồi vị cố vấn nước bạn. Nghe nói cụ là trùm Hướng đạo sinh, vị kia tròn xoe mắt hỏi lại: - Sao lại để cho một người như thế giữ trọng trách này. Bác quay lại nói với mấy người của mình, bằng tiếng mình: "Cái chú này chả hiểu gì cả". Mà vị này chả hiểu gì thật!
    Vào thời điểm ấy cụ Hoàng Đạo Thuý đã là Đảng viên Đảng cộng sản (kết nạp từ năm 1947). Đã được thực tế chứng minh là nếu chỉ căn cứ vào thành phần mà giao việc là không đúng. Ngược thời gian đến những ngày Đại hội quốc dân Tân Trào, ***** nói với cụ Thuý: "Tôi giới thiệu cụ là đại diện cho giơí trí thức nhớ". Cụ Thuý từ chối: - "Cụ cho tôi đại diện cho thanh niên thôi ạ". -"Thế thì đêm nay cụ phải làm "trùm lửa trại" đấy. - Vâng, xin y lệnh. Nhưng thưa cụ, quyền của "Trùm lửa" to lắm đấy ạ". ***** cười, biết cụ Thuý muốn nói gì rồi. Đến phần vui lửa trại, lấy quyền "Trùm lửa trại", cụ Thuý mời cụ chủ tịch Lâm thời ... hát một bài. ***** chấp hành luật chơi của Hướng Đạo Sinh và thật bất ngờ, cụ hát chính bài hát truyền thống của Hướng đạo Sinh, "Anh hùng xưa, nhớ hồi là hồi niên thiếu, dấy binh lấy lau làm cờ, quên mình là vì đất nước ..."
    Lưu Anh Tuấn được một người ông như thế dạy dỗ. Anh vẫn nhớ những đêm sao sáng, hai ông cháu ngước nhìn bầu trời đầy sao. Ông chỉ cho Tuấn biết đâu là sao bắc đẩu, đâu là chòm sao thần nông hình cái gầu sòng, đâu là ngưu lang là chức nữ là sao hôm, sao mai ... những câu chuyện dân gian, những sự tích và ... phải tìm được các ngôi sao ấy để xác định phương hướng. Hôm sau lại nhìn trời, lại kiểm tra. Thế nếu tối trời không trăng sao thì làm thế nào hở ông? - Cháu rửa tay sạch, ngậm ngón tay một chút cho ấm, rồi dơ ngón tay lên, thấy phía nào mát tức là hướng ấy có gió, đang là mùa đông thì đấy là gió mùa đông bắc, đang là mùa hè thì đó là gió nồm nam ... Thế đang đi trong rừng sâu không gió máy thì làm thế nào? cháu hãy sờ quanh gốc cây, phần hướng về phía đông bao giờ cũng mát hơn có thể là ẩm ướt, có thể có dây leo, hoặc cây ký sinh phía ấy ...
    Tuổi trẻ của Tuấn diễn ra vào thời gian diễn ra cuộc kháng chiến. Trừ năm đầu của cấp tiểu học ra, anh đều phải học bập bõm, ngắt quãng, do phụ thuộc vào điều kiện công tác của ông ngoại, mà ông ngoại thì thuyên chuyển công tác luôn, di chuyển chỗ ở cũng không ít, nên việc học của Tuấn luôn bị gián đoạn. Sự học do đó chỉ là chắp vá và chủ yếu chỉ là một số kiến thức không hệ thống của mấy môn tự nhiên. Hoàn cảnh ấy buộc ông anh phải ném anh vào cuộc kháng chiến, theo tinh thần "tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ theo sức của mình / Đi tham gia kháng chiến / Để gìn giữ hoà bình..." như Bác Hồ dạy. Thế là anh trở thành liên lạc Cục Quân huấn, nơi ông ngoại làm Cục trưởng. Tôi hình dung ra anh ngày ấy, đúng như Tố Hữu đã miêu tả Chú bé loắt choắt / Cái xắc xinh xinh / Cái chân thoăn thoắt /Cái đầu nghiêng nghiêng. Bây giờ anh cao 1m59 thì 56 năm trước, lúc 11 tuổi anh cao bao nhiêu? ở vùng ATK (an toàn khu) nên việc chạy công văn giấy tờ giữa cơ quan này với cơ quan kia, cách dăm bảy cây số là chuyện thường - anh chạy nhẵn chân vùng chợ Giã, chợ Đồn, Đồng Hỷ, Khác Trìu, Tân Cương (Thái Nguyên). Hai năm sau, anh về vừa học vừa làm nghề khắc gỗ ở nhà in văn phòng Bộ Quốc phòng (gọi tắt là ấn 2). Chiến dịch nào mở là ấn 2 phải tháo rời máy, khênh đến in tài liệu tại chỗ.
    Đi phục vụ chiến dịch Tây bắc về anh được theo học lớp báo vụ (vô tuyến điện) chính quy đầu tiên của Cục Thông tin. Chưa kịp làm lễ tốt nghiệp đã được chọn cùng với 19/120 người nữa đi chiến dịch ĐBP. Rất oai là do yêu cầu công tác, phải hành quân gấp lên trước để xây dựng đường dây liên lạc hữu tuyến, các trạm tổng đài vô tuyến, nên lính thông tin được cưỡi xe tải quân sự (tức là xe không mui) môlôtôva hẳn hoi. Đến km 65, Cục trưởng Thông tin Hoàng Đạo Thuý ra đón cả đoàn, phân công về các chỉ huy sở Đại Đoàn. Tuấn được đưa về Đại đoàn bộ Đại đoàn 312 của Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn, (sau này là Đại tướng), Đại đoàn phó là đồng chí Đàm Quang Trung (sau này là Thượng tướng; Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước), đồng chí Trần Độ làm Chính uỷ (sau này có thời gian làm Phó Chủ tịch Quốc hội).
    Anh được lên trực máy đúng 2 phiên. Nửa thế kỷ rồi, không còn nhớ được đã nhận hay đánh đi mấy bức điện hay chỉ... chầu trực xuông ? Rồi các báo vụ đàn anh lên trực tất cả, số lần trực dầy lên để dồn người cho nhiệm vụ trung tâm trên toàn mặt trận. Sau khi kéo pháo ra, về vị trí tập kết, để thực hiện phương châm đánh chắc tiến chắc, chúng ta dùng chiến thuật đánh lấn với 6 từ cụ thể hoá: vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt. Vì thế nhiệm vụ trung tâm là: đào hào. Hào vừa là nơi trú ẩn, vừa là nơi sinh hoạt, vừa là công sự chiến đấu, vừa làm nhiệm vụ giao thông, để còn đi lại, tránh nhau được, cáng được thương binh, gánh cơm ra cho bộ đội, cũng lại là nơi nghỉ lấy sức và ngủ, họp tổ bà người, họp tiểu đội... Vì thế nó phải sâu ngập đầu anh cao nhất, cỡ 1,5m, thêm đất hất lên hai bên là vừa. Phải đủ rộng đến gần một mét, phải có ngách, phải có hầm cho thương binh, hầm ngủ... Vậy là anh cùng đồng đội chỉ có mỗi việc đào hầm hào. Mỗi người một cuốc chim, một sẻng đào cả ngày, hết ngày ấy sang ngày khác. Đào phồng rộp tay, thì quấn giẻ cho đỡ rát. Mãi rồi tay thành chai, chai tay cứ dầy lên, phải gọt bớt đi. Mấy ngày đầu, sức trẻ mà còn ê ẩm mình mẩy, rồi quen dần. Cứ nhớ đến các anh thương binh nặng từ các đơn vị phải đưa về trạm phẫu thuật Đại đoàn để cắt chân, tay, để mổ, lại quên đi cái nhọc cái mệt. Tuấn thương nhất các anh lính bộ đàm trong đơn vị thông tin của mình. Vừa đêm qua còn nằm ghếch chân lên đùi nhau, sáng nay đã hy sinh rồi. Các anh phải khoác những chiếc máy to tổ bố sau lưng, chạy đứt hơi theo cán bộ để kịp dùng tiếng lóng truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu. Thằng địch rất thích nhè vào các anh nhả đạn để cắt đứt thông tin chỉ huy đối phương. Trong lực lượng thông tin thì lính bộ đàm hy sinh nhiều nhất...
    Tuấn ít tuổi nhất, nhưng các anh cũng chỉ hơn Tuấn vài ba tuổi, bốn năm tuổi, cũng cá mè một lứa. Ngoài mặt trận ngày ấy, mặt ai cũng lấm lem bùn đất, có được rửa mặt, tắm giặt như ở hậu cứ đâu, tóc tai râu ria mọc tự do, vô tổ chức; xuất kích hay đi đào hào đều căng thẳng mệt nhọc nên mặt mũi ai hình như đều già trước tuổi. Chỉ có tính cách mỗi người, ý chí mỗi người là mỗi ngày rắn rỏi thêm. ở Đại đoàn bộ cũng nắm được nhiều thông tin dưới đơn vị, chỉ tức là không được cầm súng chiếu đấu nên Tuấn rất thèm làm lính bộ binh. Nhiều tối, anh lẻn khỏi hầm, trèo lên một cây to, quan sát trận chiến trên đồi A1 chỉ cách chỗ anh khoảng cây số đường chim bay. Tôi hỏi, thế ngày sinh sang tuổi 17 của ông (29/3) ông có biết không? Định hỏi "có làm gì không" nhưng kịp hãm lại. Tươi ấy làm gì có lịch, làm gì có đồng hồ lịch, làm gì có chuyện kỷ niệm sinh nhật, nên chả biết ngày sinh nó qua lúc nào.
    Lưu Anh Tuấn không được vui niềm vui chiến thắng lúc 17h30 ngày 7/5/1954. Còn ít ngày nữa mới đến ngày ấy, anh đã được lệnh về trung du Phú Thọ hậu cứ của Đại đoàn, nhận nhiệm vụ mới.
    Tôi quen biết anh đã hai mươi năm nay, lúc anh từ Bộ Tư lệnh Thông tin về giúp trường cấp 3 Chu Văn An của tôi xây dựng Câu lạc bộ Vô tuyến điện. Anh với dì ruột mình - Chị Hoàng Hương Liên đã từng vô địch báo vụ miền Bắc đến dạy cho các em học sinh. Anh không được đào tạo chính quy từ trường Đại học, nhưng bằng nhiều con đường, với lòng khao khát học anh có được một trình độ chuyên môn giỏi. Không phải chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, mà lúc Mỹ đã cút, ngụy đã nhào, để lại cả một hệ thống trang thiết bị viễn thông hiện đại, nhiều cán bộ kỹ thuật có học vị cao hẳn hoi cũng lắc đầu chịu, thì anh và một số anh em cán bộ khác, có sự giúp đỡ tận tình của một số nhân viên kĩ thuật trong hàng ngũ địch ở lại, đã nắm được kỹ thuật và khai thác thành công tính năng của chúng.
    Sau nhiều năm xoay sở ki cóp, giờ căn nhà lợp giấy dầu đơn vị phân cho ở 44 Quan Nhân - Trung Hoà - Cầu Giấy - Hà Nội đã thay bằng toà nhà ba tầng. Hai cậu con trai, người thì đã có một công ty, người có một cửa hàng Internet. Anh không còn phải phụ cho cửa hàng bán dấm, nước mắm và than tổ ong của vợ nữa. Anh nghiên cứu kinh dịch, tin học, thỉnh thoảng viết một bài báo và ... chơi đàn organ.
    Tôi đề nghị anh mặc quân phục ngồi cạnh chị cho tôi chụp một bức ảnh ... ơ kìa! ông không được thưởng cái huân chương nào à ? Anh cười - Có đấy, 8-9 chiếc cả thảy, nhưng đeo một cái huy hiệu chiến sĩ Điện Biên này thôi.
    NetNam - Ghi chép của Nguyễn Bắc Sơn
  10. hungsheva2004

    hungsheva2004 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/01/2004
    Bài viết:
    2.415
    Đã được thích:
    0
    VN ghi nhớ sự giúp đỡ quốc tế trong chiến dịch ĐBP

    (VietNamNet) - "VN luôn ghi nhớ sự giúp đỡ, ủng hộ chí tình của bạn bè quốc tế trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp và chiến dịch Điện Biên Phủ". Ông Vũ Xuân Hồng, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam khẳng định.

    Chiều 6/5, nhân dịp các đại biểu quốc tế sang dự kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam đã tổ chức buổi giao lưu "Điện Biên Phủ và tình đoàn kết quốc tế".
    Buổi giao lưu có sự tham gia của 40 đại biểu đã có nhiều gắn bó với Việt Nam trong suốt cuộc kháng chiến, đến từ 14 nước Trung Quốc, Liên bang Nga, Cuba, Thụy Điển, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào, Campuchia, Angieria, Ba Lan, Mozambique... Trong số các đại biểu có những người từng tham gia đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc trực tiếp sang giúp Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ; nhà báo Ba Lan Wladislaw Gocralski từng chứng kiến và có nhiều bài báo về chiến dịch lịch sử này.
    Các đại biểu đã cùng nhau ôn lại kỷ niệm về những năm tháng không thể nào quên của chiến dịch Điện Biên Phủ; về tình đoàn kết, ủng hộ chí tình và sự giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế, trong đó có sự giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần của nhân dân Trung Quốc, nhân dân Liên Xô (cũ), sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân Lào, Campuchia và nhiều nước ở châu Âu, châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh.
    Ông Trương Đức Duy, nguyên Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, người có mặt trong đoàn cố vấn quân sự sang giúp Việt Nam từ năm 1950 đã bồi hồi kể lại những ngày sống xa nhà, sát cánh chiến đấu cùng nhân dân Việt Nam. Ông nhớ lại ngày Mao Chủ tịch gặp đoàn cố vấn, dặn dò: đến Việt Nam phải phát huy tinh thần quốc tế chủ nghĩa, thành tâm thành ý giúp đỡ, tôn trọng tuyệt đối sự lãnh đạo của người Việt Nam.
    "Trong suốt thời gian ở Việt Nam, quan hệ giữa đoàn cố vấn và các đồng chí Việt Nam luôn thân mật như anh em trong cùng một nhà. Đặc biệt, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, mối quan hệ đồng chí - anh em đó luôn được thể hiện, là biểu hiện sinh động mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước Việt - Trung". Ông Duy nói.
    Nhiều đại biểu đã xúc động nói lên những tình cảm đoàn kết, gắn bó với nhân dân Việt Nam trong suốt những ngày tháng gian khó nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ cho đến ngày thắng lợi. Nửa thế kỷ sau chiến thắng Điện Biên Phủ, các đại biểu quốc tế trở lại Việt Nam hay mới đến Việt Nam lần đầu đều có những ấn tượng tốt đẹp về sự đổi mới và phát triển của Việt Nam.
    Cùng ngày, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tiếp đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do Phó Chủ tịch Quốc hội Lý Thiết Ánh dẫn đầu và đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc sang dự kỷ niệm 50 năm ngày chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Đại tướng đã bày tỏ niềm vui được gặp lại các cố vấn từng giúp đỡ Việt Nam, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ. "Nhiều đồng chí đã cùng chúng tôi chiến đấu với tinh thần anh em". Đại tướng nói.
    V.Lâm

    Dù ghét chúng nó đến mấy cũng không thể phủ nhận những đóng góp của TQ trong chiến dịch ĐBP được!
    Được hungsheva2004 sửa chữa / chuyển vào 21:27 ngày 07/05/2004

Chia sẻ trang này