1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến thắng Điện biên và cuộc chiến Việt Pháp

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi datvn, 06/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Chuyện của người bắt sống tướng De Castrie
    50 năm trước, người lính ***** tên Hoàng Đăng Vinh quê ở Hưng Yên, đã có được niềm vinh dự mà lịch sử mãi ghi danh. Ông là một trong bốn chiến sĩ ở tiểu đoàn 130, trung đoàn Sông Lô, sư đoàn Chiến Thắng tham gia bắt sống tướng De Castrie cùng toàn bộ chỉ huy quân Pháp, kết thúc chiến dịch 56 ngày đêm của quân và dân ta ở Điện Biên Phủ.
    Đến bây giờ, đại tá Hoàng Đăng Vinh vẫn không thể quên được thời điểm lịch sử ấy. Ông bồn chồn nhớ lại: "Chiều 7/5, chúng tôi tiến tới một cửa hầm chỉ huy của địch. Cùng lúc đó có 4 xe tăng địch vừa chạy vừa bắn, nhưng lập tức bị ta tiêu diệt ngay. Khi bộ đội ta hạ gục xe tăng của địch, thì có hai hàng binh cho biết đây chính là hầm của Bộ chỉ huy cứ điểm Điện Biên Phủ: hầm của tướng De Castrie". Chúng tôi hơi sững sờ một giây. Cuối cùng cái đích của chiến dịch 56 ngày đêm đang ở trước mắt. Chúng tôi ném lựu đạn, bắn tiểu liên xuống miệng hầm, nhưng vẫn không thấy địch ra hàng. Lúc này, chiến sĩ Nhỏ rút thủ pháo định liệng vào hầm thì tôi kịp cản lại: "Đừng ném vào bên trong, để bắt sống địch hơn". Ngay sau khi quả thủ pháo nổ tại miệng hầm, một tên sĩ quan Pháp lóp ngóp chui ra, lắp bắp bằng tiếng Việt: Mời sĩ quan ********* vào để toàn bộ Bộ chỉ huy xin đầu hàng.
    [​IMG]
    Người lính Hoàng Đăng Vinh hôm nay
    Chúng tôi: đại đội trưởng Tạ Quốc Luật cùng các chiến sĩ Nhỏ, Hiếu, Lam, Vinh tiến vào trong hầm. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là đám sĩ quan Pháp quần áo tề chỉnh, lon, phù hiệu vàng choé đứng chờ, khác hẳn với đám binh lính đầu xù, tóc rối, ăn mặc lôi thôi khi ra hàng. Anh Luật ra lệnh bằng tiếng Pháp: "Tất cả giơ tay lên!". Các sĩ quan Pháp đều giơ tay xin hàng, riêng De Castrie vẫn ngồi trước một cái bàn, không đứng dậy. Đại đội trưởng bèn ra lệnh: "Chiến sĩ Vinh vào bắt De Castrie". Y lệnh, tôi đặt tay lên cò súng, mắt trừng trừng tiến thẳng tới phía De Castrie. De Castrie đứng dậy, định chìa tay ra bắt. Tôi nghĩ: "Không thể bắt tay giặc" và lập tức chĩa khẩu K50 về phía hắn, hô to câu nói mà mỗi chúng tôi ai cũng thuộc lòng khi xông trận: "Haut les mains!" (giơ tay lên). De Castrie vội lùi lại, giơ hai tay lên và nói một tràng tiếng Pháp. Sau này, anh Luật dịch lại là: "Các ông đừng bắn, tôi xin đầu hàng". Trước khi ra cửa hầm, De Castrie bằng một giọng run rẩy qua bộ đàm, thông báo với toàn bộ cứ điểm về việc Ban chỉ huy đã xin hàng.
    Khi chúng tôi rong tướng De Castrie ra, khắp lòng chảo Điện Biên Phủ đâu đâu cũng thấy lính Pháp ra hàng, tựa như một đàn mối xông lên sau trận mưa. Lạ nhất là khi thấy De Castrie đi qua, đám binh lính địch lại vỗ tay hoan hô rất to, khiến chúng tôi không khỏi ngạc nhiên. Khi gặng hỏi một tên lính người Việt, tên này vội nhanh nhảu trả lời: "Các anh bắt được tướng của chúng em, thì chúng em không phải đi chiến đấu, có nghĩa là chúng em được sống. Chúng em rất vui vì điều đó"?
    [​IMG]
    Bác Hồ gắn huy hiệu Điện Biên cho chiến sĩ Hoàng Đăng Vinh.
    Sau khi nộp tướng De Castrie cho Chỉ huy quân đội ta, anh em chúng tôi lại quay trở lại và leo lên hầm De Castrie ngồi uống nước lã, vì đã thấm mệt. Sau này đại đội trưởng Luật kể lại, tại Ban chỉ huy quân đội ta, De Castrie khai nhận rằng biết tin quân Pháp đã rơi vào thế thất thủ khi thua các trận tại đồi Him Lam, A1, các tướng chỉ huy của Pháp tại Đông Dương là Navarre, Cogni đã ra lệnh cho De Castrie: "Bộ chỉ huy không được kéo cờ trắng, không được đầu hàng, phải tự sát ngay tại chỗ". Thế nhưng các chiến sĩ cách mạng đã cho y được sống.
    Đại tá Vinh kể tiếp: "Một tháng sau, đoàn làm phim của Liên Xô có đạo diễn nổi tiếng Roman Cacmen, sang giúp Việt Nam xây dựng một bộ phim về chiến thắng Điện Biên Phủ. Tôi gặp lại De Castrie tại một chiếc lán làm bằng tre, lợp lá cọ tại chiến khu Việt Bắc. Tôi và De Castrie lại đối mặt với nhau với sự chứng kiến của các nhà điện ảnh quốc tế và một vài đạo diễn, phiên dịch Việt Nam. Một đồng chí chỉ vào tôi và hỏi De Castrie: "Ông có nhận ra ai đây không?". De Castrie nhìn tôi chăm chú, hơi nhíu trán và trả lời: "Trông quen quen, hình như tôi đã gặp ở đâu rồi!". Người phiên dịch lại nói tiếp: "Đây chính là chiến sĩ đã bắt sống ông!". Đôi mày giãn ra, De Castrie "à" một tiếng rồi nói tiếp: "Tôi rất lấy làm vinh dự nếu được chỉ huy những người lính như thế này!".
    Chuyện xảy ra hơi bất ngờ. Mọi người nhìn tôi chăm chú, chờ câu trả lời, máy quay phim vẫn chạy rè rè. Khi ấy, máu trong người tôi sôi lên. Một người lính mới biết đọc biết viết như tôi đâu có nghĩ mình phải đối đáp thế này thế nọ. Tôi nói luôn: "Ông thật láo toét, ông không thể chỉ huy được tôi mà chính tôi đã vào hầm lôi cổ ông ra!". Rồi tôi quay sang nói với các bạn trong đoàn làm phim: "Tôi chỉ là người lính, nhưng là người lính chiến thắng. Còn hắn mặc dù là tướng, nhưng là tướng bại trận!".
    [​IMG]
    Tướng De Castrie (dấu X) cùng Bộ chỉ huy quân Pháp tại chiến dịch Điện Biên Phủ
    Người phiên dịch cho De Castrie biết câu nói của tôi, hắn gục mặt xuống bàn. Sau đó, đạo diễn Roman Carmen đã đến ôm hôn tôi. Ông nói rằng các chiến sĩ Việt Nam không những chiến đấu gan dạ mà còn trả lời thông minh, mưu trí. Ông còn lấy chiếc huy hiệu Liên Xô của mình tặng lại tôi. Rồi Bộ chỉ huy mặt trận đã quyết định cử tôi đi báo cáo thành tích của đơn vị và cá nhân, vào dịp kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ. Dịp này, chúng tôi được Bác tặng Huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ. Tôi trẻ nhất (khi ấy vừa tròn 19 tuổi) nên được Bác gắn huy hiệu trước. Tim tôi đập dồn dập, sung sướng và tự hào".
    [​IMG]
    Vợ chồng bác Hoàng Đăng Vinh và cháu ngoại
    Bây giờ, trong ngôi nhà nhỏ chỉ cách thị xã Bắc Ninh gần 3km, người lính già về hưu, cựu đại tá Hoàng Đăng Vinh vẫn bận rộn với những chuyện "đời", chuyện "lính". Ông được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh thị xã Bắc Ninh đã 6 năm nay. Từ việc giúp các hội viên vay vốn, tăng gia sản xuất, xoá đói giảm nghèo đến việc vận động nhân dân phòng chống các tệ nạn xã hội, ông đều xông xáo. Dù bận rộn thế nào, hàng năm ông vẫn về thăm Điện Biên. Đối với ông, kỷ niệm về Điện Biên ngày càng sâu nặng.
    Đã nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày ấy. Lòng chảo Điện Biên ngày nay đã thay da, đổi thịt trở thành đô thị mới. Xuân về, khắp các con đường mà bộ đội, dân công hoả tuyến từng kéo pháo năm xưa, nay khoác màu hoa ban trắng./.
    Yên Hà

  2. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Nguồn : http://www.vov.org.vn/chuyenmuc/50namdienbien/hoiky.htm#4
    Từ bản Mường Phăng đến hầm Đờ Cát
    Kỳ I
    Khách đến thăm Điện Biện Phủ ngày nay thuận tiện hơn trước rất nhiều. Vào Nhà bảo tàng để có một cái nhìn khái quát lịch sử, lên đồi A1 ngay trước mặt để thấy tận mắt một vài di tích cho trí tưởng tượng dễ hình dung cuộc chiến đấu của cha anh ta, viếng nghĩa trang liệt sĩ đốt một nén nhang tưởng niệm, rồi vòng qua hầm Đờ Cát đã được phục chế gần với nguyên bản thời xưa..., thật là cơ hội tốt cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay được sống lại những ngày tháng hào hùng nhất của dân tộc năm mươi năm về trước.
    Tôi lại muốn bắt đầu cuộc hành hương của mình từ điểm xa nhất: Mường Phăng, nơi đặt sở chỉ huy của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Tư lệnh chiến dịch Điện Biên. Mường Phăng, tiếng Thái có nghĩa là "Bản Lạnh". Điểm cao này nằm ở rặng núi phía đông cánh đồng Mường Thanh. "ở đây, ngoài cảnh đẹp - lời đại tướng kể lại - chỉ cần trèo lên đỉnh núi phía sau là nhìn thấy cánh đồng Mường Thanh và tập đoàn cứ điểm của địch". Đối với ông, người chịu trách nhiệm cao nhất, người được Bác Hồ và Bộ chính trị cho phép xử sự như "tướng quân tại ngoại", khi nảy sinh việc quan trọng và cấp thiết có thể toàn quyền quyết định rồi báo cáo sau, điều đó không chỉ là nhu cầu mà còn là một niềm vui thật sự. Bởi, theo ông, "hạnh phúc lớn nhất của người cầm quân là được ở bên bộ đội ngay tại mặt trận"*.
    Nhìn lên bản đồ tưởng gần, nhưng đường từ thị xã Điện Biên Phủ đến Mường Thanh khá xa. Theo quốc lộ 279 (con đường độc đạo nối liền Tuần Giáo trên quốc lộ 6 với Điện Biên, ngày trước gọi là đường 42) đi ngược trở lại mười lăm kilômét rồi quặt về hướng tây thêm gần mười cây số nữa mới đến địa phận xã Mường Phăng. Ngày nay xe hơi bon bon trên con đường tráng nhựa, nhưng qua những dốc đèo uốn lượn quanh co, có thể hình dung đường đến sở chỉ huy chiến dịch năm xưa chẳng dễ chút nào. Từ điểm dân cư, leo lên sườn núi một quãng thì gặp "Trạm gác bảo vệ Sở chỉ huy chiến dịch" - nay được đánh dấu bằng tấm bia lưu niệm khắc chữ vàng, chung quanh trang trí vòng hoa nguyệt quế.
    Đường vào hầm chỉ huy của Đại tướng tổng tư lệnh chênh vênh bên sườn núi Mường Phăng nay đã được sửa sang thoai thoải và lát đá, làm cầu phục vụ khách thăm. Con chạy qua rừng dẻ với những thân cây cao vút xưa hẳn rậm rịt lắm, nay đã thưa thớt đi nhiều. Nơi đây - đại tướng viết - "khí hậu núi cao, quanh năm có sương, mây, mát mẻ trong lành". Nhưng tôi cố nhìn mà chẳng thấy đâu những cây lan rừng, những cây lan nhà cầm quân mô tả, "hoa không rực rỡ nhưng có mùi hoa đặc biệt, khi thì thoang thoảng đến bất chợt, chú ý tìm không thấy, khi thì nồng nàn"*.
    Đến ngã ba, nơi có tấm bia kỷ niệm chữ đục vào một tảng đá rất to: "Khu Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ 21/1/1954 ?" 8/5/1954", chúng tôi gặp một tốp thiếu nhi Thái, chắc các cháu đi học về, ngồi chơi trên hai khúc thân cây dài (thật ra là đúc bằng xi măng nhưng làm giả cây thật khéo) dùng làm ghế cho du khách nghỉ chân. Ven đường, mấy chị phụ nữ trong bản mang bày bán củ hà thủ ô, cây thuốc, những con ong đất ngâm rượu và mật ong rừng đựng trong chai nước suối La Vie. Có cả những khúc sắn mới luộc còn bốc hơi nóng ngon lành, cứ ba khúc trắng nõn gói làm một trong tàu lá dong rừng xanh tươi và buộc lại bằng sợi lạt mảnh mai. Từ đây có các lối rẻ lên hầm của Đại tướng Tổng tư lệnh, hầm của Trung tướng Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng chiến dịch, (về sau ông được phong hàm đại tướng), hầm giao ban tác chiến ... "Tại Mường Phăng, - đại tướng nhớ lại - (vào hạ tuần tháng Hai năm 1954 - PQ) đã xuất hiện một hệ thống đường hầm nhỏ. Nó chia thành ba nhánh đồng tâm, hình rẻ quạt, chạy xuyên vào trái đồi dài khoảng ba trăm mét. Một nhánh có đường giao thông hào nối liền với cơ quan tham mưu của anh Thái. Một nhánh chạy tới nơi tôi ở... Hầm được tính toán chống sức ép của bom đạn khi nổ gần. Trong hầm có nơi hội họp, phòng chỉ huy tác chiến, nơi liên lạc thẳng tới các đơn vị đang chiến đấu ở mặt trận cũng như với chỉ huy trưởng chiến dịch, có điện, bảo đảm làm việc bình thường ngay cả khi máy bay địch oanh tạc"*.
    Tôi leo lên một cái dốc khá cao (may thay nay đã có bậc cấp) đến cái lán làm dưới tán cây, sát bên miệng hầm riêng của đại tướng đào vào sườn núi. Đây là "ngôi nhà" của ông ở Mường Phăng. "Mỗi lần đi chiến dịch, tôi lại trở về "ngôi nhà" quen thuộc. Vật liệu gồm cây, tre, luồng, lá móc, lá gồi kiếm được tại chỗ. Giữa nhà có một chiếc bàn, mặt bàn đủ rộng để trải bản đồ. Hai bên là hai ghế dài, mặt ghế thường ghép bằng những cây vầu bổ đôi. Hai đầu có hai chiếc giường lát nứa, một của tôi, một của đồng chí vệ sĩ"*.
    Tôi vào trong "ngôi nhà" được phục chế có lẽ từ hồi kỷ niệm bốn mươi năm Chiến thắng Điện Biên (1994), nay tre vầu nhiều cây bắt đầu mục, xông lên mùi ẩm mốc, vắng lạnh. Mùa này thưa vắng khách thăm, và hình như các đoàn du lịch đi theo tua ít chịu khó tới đây. Tôi rón rén ngồi ghé xuống đầu chiếc ghế, khẽ tì tay lên mặt bàn, chân bàn là những ống bương chôn xuống đất, mặt bàn đan bằng nứa chẻ. Trong ngôi nhà hôm nay lạnh lẽo, trong cái Bản Lạnh" này đã từng làm nên những trang sử tưng bừng khói lửa. Ngày 6 tháng Năm 1954, ngày ta giải quyết dứt điểm đồi A1 (Eliane 2, theo cách gọi của người Pháp), để hôm sau, tấn công những cứ điểm cuối cùng của địch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp rời căn hầm lên đỉnh núi Mường Phăng: "Buổi trưa, trời hửng nắng. Tôi trèo lên đỉnh núi Mường Phăng sau sở chỉ huy, quan sát trận địa. Gần một tháng qua, từ vị trí này, với một chiếc ống nhòm có bội số quang học lớn, tôi theo dõi sự tiến triển của chiến hào ta. Thời gian đầu, sự tách biệt giữa ta và địch rất rõ (...) Nhưng từ cuối tháng Năm, rất khó phân biệt trận địa ta và trận địa địch. Vì hầu hết những mũi chiến hào của ta đã cắm sâu vào tập đoàn cứ điểm"*.
    Từ sườn non cao, đại tướng không nhận ra hầm chỉ huy của Đờ Cát. Bản doanh của tướng chỉ huy tập đoàn cứ điểm địch không hẳn là một cao điểm. Nó là điểm duy nhất trong tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ - nguời Pháp gọi là GONO, viết tắt bốn từ Binh đoàn tác chiến Tây-Bắc - cứ điểm duy nhất được mang cái tên có chút hơi hướng binh đao là Chim Ưng (Epervier), trong khi tất cả mọi cứ điểm khác đều được đặt theo tên con gái: Gabrielle (Đồi Độc lập), Béatrice (Him Lam), Anne Marie (Bản Kéo), Eliane (A1, C2...) Con Chim Ưng kiêu hãnh giờ đây ngập ngụa ở đâu đó trong lầy lội mưa bùn đỏ quạch lẫn với máu mủ thương binh Pháp không được chạy chữa...
    xxxx
    Hầm chỉ huy của Đờ Cát đã được phục chế giống như xưa, có phần "khang trang" hơn tôi hình dung khi đọc các sách viết về trận Điện Biên Phủ. Sự thật có lẽ đúng như tôi nghĩ. Anh bạn nhà báo tỉnh Lai Châu cùng đi cho biết: "Khi phục chế, ta đã nâng độ cao của hầm lên hơn hai mét, mới được khô ráo thế này. Hầm của Đờ Cát là hầm ngầm vào nơi đồng đất khá trũng, cho nên dễ ngập trong nước mỗi lần có trận mưa to..."
    Chín năm sau khi Điện Biên Phủ "sụp đổ", nhà văn nổi tiếng Jules Roy, mới ngày nào còn là đại tá trong quân đội viễn chinh Pháp, cất công từ thủ đô Paris trở lại tận đây. Giống như tôi hôm nay, ông cũng làm một cuộc hành hương nhưng theo kiểu của ông. Và ông đã ghi lại: "...Có con đường mòn lên sở chỉ huy của phân khu trung tâm. ở đó, các vòng thép làm đà cho cấu trúc bên trên hầm Đờ Cát giờ đang rỉ sét. Trên tấm bảng gắn ở đầu chiếc cọc, có dòng chữ: "Tại đây, ngày 7 tháng Năm 1954, Quân đội nhân dân đã bắt sống bại tướng Đờ Cát và toàn ban tham mưu"**.
    Tôi theo lối đi, thật ra là cái dốc dựng đứng, bước xuống hầm. Chính xác là ba căn hầm khá rộng, thông nhau bằng con hào hẹp và sâu, đi không phải cúi đầu. Gian giữa là nơi Đờ Cát ở. Nơi đó có sẵn chiếc bàn sắt vuông và mấy chiếc ghế xếp lưng tựa cũng bằng sắt hoen rỉ. Không rõ đây có đúng là chiếc bàn nhà văn Pháp đã nhìn thấy ở bảo tàng và mô tả ba mươi năm về trước hay không: "Người ta đã để tại bảo tàng Điện Biên Phủ cái bàn vuông bằng sắt của ông ta, một chiếc điện đài và chiếc máy đánh chữ... Chiếc ghế bành trong văn phòng của Đờ Cát được trưng bày tại Hà Nội, với tay vịn màu xanh lá cây bị mốc lỗ chỗ vì ẩm"**.
    Dù sao, tôi vẫn cứ ngồi lên chiếc ghế đằng sau chiếc bàn sắt vuông để làm một pô ảnh. Anh bạn trong đoàn nhanh nhẩu chạy lại đứng sau lưng tôi: "Em xin làm vệ sĩ cho thiếu tướng chỉ huy trưởng tập đoàn".
    Ba mươi năm trước, nhà văn tác giả Trận Điện Biên Phủ không thể chui xuống hầm. Nhìn những đà sắt hoen rỉ, ông cảm nhận: "Là kẻ chiến bại cô đơn và câm lặng giữa những người chiến thắng đang ân cần chăm sóc tôi, tôi ngồi xuống bên cạnh cái hố gần như bị lấp đầy, nơi Đờ Cát từng chơi bài brít để giải buồn trong những ngày chờ đợi dài dằng dặc trước các cuộc tiến công, tôi ngồi xuống cạnh đó mà ghi chép..." Và ông cay cú mỉa mai viên bại tướng (mà ông đã phản ứng khi được người Việt Nam gọi đúng bằng hai từ ấy): "Sĩ quan kỵ binh Christian de Castries tự phong toả mình trong thành luỹ và tự chôn mình trong hang ổ của hầm chỉ huy... Cứ như thể trong con người ông, cái lò xo đã gãy mất rồi"**. Quả không được công bằng cho lắm, nếu chỉ đổ mọi thảm bại lên đầu viên tướng ấy. Vì chính Jules Roy cũng nhận ra: "ở đây người ta cảm thấy bị đè bẹp dưới những con người tầm vóc thì nhỏ bé nhưng lòng dũng cảm thật là vĩ đại, những con người ấy đã đưa đại bác của mình lên những đỉnh cao nhất, bắn hạ máy bay và nghiền nát các tiểu đoàn của ta".
    ( to be continued )
  3. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo trên )
    Kỳ II
    Có lẽ bất công nếu mọi sự đổ lên đầu viên tướng ấy cùng mấy tay phó và ban tham mưu của họ. Đại tá Langlais, phó chỉ huy thứ nhất, tuy cộc cằn, thô bạo thật đấy, nhưng đã trải qua đào tạo có bài bản tại Học viện quân sự Saint Cyr nổi tiếng. Sau cuộc chiến, nhiều người nói y mới đúng là người chỉ huy thực sự ở Điện Biên Phủ. Bigeard, phó thứ hai, khi bắt đầu chiến dịch chỉ là một viên tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 (6 è BPC). Ấy thế mà sau khi thất trận có mấy năm, đã trở thành vị Bộ trưởng Quốc phòng nước Cộng hoà Pháp. Sao bảo họ không phải là những người tài? Còn bản thân Đờ Cát? Lúc Navarre quyết định hình thành cụm cứ điểm Điện Biên Phủ ở vùng Tây Bắc Việt Nam xa xôi hẻo lánh, bất kỳ ai có chút kiến thức quân sự cũng thấy là rồi sẽ rất khó khăn cho việc tiếp tế, hậu cần, và viên sĩ quan quý tộc vào binh chủng kỵ binh theo truyền thống dòng họ này cũng mới mang lon đại tá. Khi có người thắc mắc, sao không cử một sĩ quan cấp tướng để giao phó trách nhiệm nặng nề, Navarre đáp: "Tôi cũng như tướng Cogny không nhìn số sao để trao nhiệm vụ". Một câu nói thật xứng đáng được chép vào từ điển bách khoa quân sự thế giới. Còn người Mỹ? Báo New York Times số ra ngày 25-3-1954 chẳng đã đăng bài ngợi ca Đờ Cát là "vị anh hùng Đông Dương, là nhà quý tộc và người chiến binh hăng hái" đó sao? Còn nhà báo Pháp Robert Guillain thì đánh giá: "Ngay cả trong đại chiến thế giớ thứ hai, quân đội Pháp cũng chưa bao giờ dựng lên một hệ thống phòng ngự dã chiến lớn mạnh như ở Điện Biên Phủ"***.
    Cái tên dòng họ De Castries đã mấy thế kỷ nay hầu như hiện diện trong mọi cuốn từ điển tên riêng ở nước Pháp. Từ thế kỷ XVIII, một vị tổ của viên tướng ngày nay thua trận, tên khai sinh là Charles Eugène Gabriel de la Croix, hầu tước De Castries, đã lập nhiều chiến công hiển hách được phong hàm Thống chế, tuy xuất thân kỵ binh mà rất nổi tiếng khi làm bộ trưởng hải quân, rồi thống đốc toàn quyền xứ Flandre và xứ Hainaut miền Bắc nước Pháp. Người viết bài này, trong những dịp thơ thẩn đường phố Paris, đã đôi lần dừng chân ngắm toà dinh thự lớn ẩn mình kín đáo sau bức tường cao vời vợi, toạ lạc đường Varenne,không mấy xa Dinh Matignon (Hotel Matignon) trụ sở Thủ tướng chính phủ Pháp. Toà nhà này - đã được nhà nước Pháp mua lại và nay thuộc tài sản quốc gia, vẫn mang tên là Dinh Đờ Cát (Hotel De Castries). Cạnh cái cổng sắt rộng sơn màu lá cây xẫm với những chấn song lực lưỡng chóp hình lưỡi giáo mạ vàng, có gắn tấm biển khắc chữ son kể lai lịch toà nhà gắn với dòng họ vị tướng lừng danh. Viên sĩ quan hậu duệ của Thống chế De Castries vào thời đại cộng hoà không còn mang tước hầu, nhưng cái tên quý tộc thì vẫn dài lòng thòng: Christian Marie Ferdinand de la Croix de Castries. Tháng Tư năm 1940, đầu chiến tranh thế giới thứ hai, với sáu mươi binh sĩ, viên sĩ quan trẻ De Castries đã cầm cự suốt ba ngày chống một tiểu đoàn quân Đức và chỉ chịu trở thành tù binh khi đã bị thương và bắn hết đạn. Ông đã ba lần tìm cách trốn trại giam, và thành công lần cuối bằng cách cùng với hai mươi sĩ quan khác đào một đường hầm. Ông đã vượt một chặng đường dài đầy gian nan thử thách từ Đức trở về Pháp để sang Bắc Phi tiếp tục tham gia kháng chiến chống phát xít...
    Thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ đâu có phải là thất bại của một nhóm người nào đó, mà là điểm đỉnh của quá trình sụp đổ chủ nghĩa thực dân trước sức chiến đấu của dân tộc Việt Nam anh hùng. Mặc dù cay cú, mặc dù "trái tim tôi tan nát", mặc dù "đối với tôi tất cả đều là đau thương", Jules Roy vẫn không thể không thừa nhận một cách đúng đắn: "Trên toàn thế giới, Waterloo trước đây (trận thảm bại của Napoléon trước liên quân Anh Đức năm 1815 - PQ) không gây tiếng vang bằng. Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn nhất của phương tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo chung của một nền cộng hoà (nền cộng hoà thứ tư của Pháp - PQ). Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn hãy còn vang vọng"**.
    Tôi không ngồi xuống cạnh cái hố để ghi chép như Jules Roy ngày trước. Tôi leo lên đỉnh hầm, nhờ anh bạn bấm cho một pô ảnh nữa làm kỷ niệm. Tấm ảnh lịch sử chụp lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Quân đội nhân dân tung bay năm nào trên nóc hầm này đã đi vòng quanh thế giới. Đứng trên nóc hầm, tôi phóng tầm mắt nhìn cánh đồng Mường Thanh đã bị che khuất đi nhiều vì những toà nhà cao mới xây của thị xã Điện Biên Phủ nay là tỉnh lỵ tỉnh Lai Châu. Tôi đứng lâu trên nóc hầm để cố hình dung cảnh oai hùng trận đánh dứt điểm chiến dịch Điện Biên, qua nhiều trang sách tôi từng được đọc.
    xxxx
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể: "Năm giờ rưỡi chiều (ngày 7 tháng 5, đại đoàn) 312 báo cáo: "Toàn bộ quân địch tại khu trung tâm đã đầu hàng. Đã bắt được tướng De Castries".
    Cả khu rừng cơ quan chỉ huy mặt trận, từ xưa đến nay rất nghiêm mật, bỗng sôi lên trong những tiếng ầm ào như biển động. Cán bộ, chiến sĩ hò reo, khua chân múa tay, ôm nhau nhảy nhót, biểu lộ sự vui mừng như những em nhỏ. Có người chỉ hét. Có người mồm há to. Có người mặt tái ngắt.
    Sự vui mừng chưa đến với tôi... Tôi hỏi anh Lê Trọng Tấn (tư lệnh đại đoàn 312):
    - Có đúng là đã bắt được De Castries không?
    ...Lát sau, anh Lê Trọng Tấn gọi điện thoại báo cáo, đúng là ta đã bắt được De Castries cùng toàn bộ bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm:
    - Báo cáo anh, De Castries cùng với cả bộ chỉ huy Pháp ở Điện Biên Phủ đang đứng trước mặt tôi. Hắn vẫn còn cả can và mũ đỏ*.
    Về phía quân đội Pháp, từ tháng Ba, mọi người đều hiểu tình thế quân đồn trú của họ trong cánh đồng Mường Thanh vô vọng rồi. Ngày 15 tháng Ba, viên đại tá Piroth chỉ huy pháo binh tự sát bằng một quả lựu đạn, sau khi thấy lực lượng pháo binh Pháp mà y vẫn huênh hoang bị đại bác ta vô hiệu hoá ngay những giờ đầu. "Trong cái hốc của mình, Piroth nằm dài, đầu và ngực nát nhừ, bàn tay còn lại cũng bị văng ra... De Castries quyết định giấu biến đi. Các linh mục tuyên uý và đại uý quân y Le Damary đích thân đào một cái hố ngay dưới gầm giường. Kèm theo vài lời cầu hồn và chút ít vôi bột, người ta vùi vào đó cái thi hài làm người ta xấu hổ, rồi lấp kín công sự của Piroth.
    Một bức điện đánh đi Hà Nội: "Đại tá Piroth đã anh dũng hy sinh". Navarre chuyển bức điện về Paris, không một lời bình luận"**.
    Là những người chịu trách nhiệm cao nhất, Navarre và Cogny hiểu hơn ai hết số phận nào đang chờ đợi quân đội họ ở Điện Biên. Hai viên tướng cãi nhau như mổ bò về chuyện điều thêm quân tiếp viện. Viên tướng cấp dưới nổi khùng: "Nếu ông không phải là tướng bốn sao, tôi đã cho ông một cái tát rồi". Vào dịp này, khi đại tá Fleuret, trưởng phòng tình báo quân đội ghé thăm y, Navarre nói: "Anh đừng có ảo tưởng gì nữa, ta thua rồi".
    Ngày 4/5/1954, Cogny lệnh cho De Castries tự lực mở đường tháo chạy sang Lào, bỏ thương binh và vũ khí nặng lại. "ở Điện Biên, người ta gọi cuộc hành quân này là "mở con đường máu" để chứng tỏ người ta không có chút ảo tưởng nào. Ta (Pháp) sẽ mất chín trên mười người"**. Cuộc tháo chạy sẽ tiến hành theo ba lối, và cùng bắt đầu lúc 20 giờ ngày 7 tháng Năm 1954.
    Nhưng muộn quá rồi.
    Ngày 7 tháng Năm, Cogny từ Hà Nội điện thoại cho De Castries, ra lệnh không được kéo cờ trắng đầu hàng: "Đừng làm hỏng tất cả bằng cách kéo cờ trắng... Anh không đầu hàng. Anh không giương cờ trắng".
    Nhưng muộn quá rồi. Ngăn sao được dòng chảy khi nước đã tràn bờ? Đối với phần đông quân Pháp ở Mường Thanh lúc này, - Jules Roy viết - "không còn có chuyện đánh chác gì nữa. Trên bờ trái, đã có những mảnh vải trắng phất lên... Quân Việt mặc quân phục màu xanh lá cây, cài những mảnh vải dù trên mũ cát, quần vải xắn đến gối. Họ hiện ta từ khắp mọi nơi... Nghe tiếng chửi thề của tiểu đoàn trưởng, trung sĩ Kubilak quay nhìn về phía hầm chỉ huy của De Castries: ở đó phấp phới một lá cờ trắng rõ to"**.
    "Khi quân Việt vào hầm chỉ huy và vạch cửa ra, De Castries đứng sẵn đợi họ, không vũ khí. Ông đã thay quần áo như thường lệ, ngực áo mang cuống huân chương. Trung sĩ lính dù Paseerat de Silans thuộc phòng 3 của Langlais xúc động thấy, khi tiểu liên chỉa vào người, De Castries kêu lên: "Đừng bắn tôi".
    Grauwin (bác sĩ quân y) đưa mắt nhìn xuống đường hào, thấy De Castries mặt tái xám dưới chiếc mũ ca lô đỏ, chói mắt vì nắng. Một chiếc xe jeep lập tức đưa ông về cơ quan tình báo địch..."**.
    xxxx
    Hai hôm sau ngày toàn thắng, đại tướng Võ Nguyên Giáp rời Bản Lạnh Mường Phăng đi thăm chiến trường Điện Biên Phủ. Đại tướng quan sát nhiều nơi. Đến điểm Chim Ưng, - đại tướng kể - "đồng chí Cao Văn Khánh, tư lệnh phó đại đoàn 308, người phụ trách tiếp quản Mường Thanh, đưa tôi vào xem sở chỉ huy của De Castries. Nó khá rộng, nằm không sâu dưới mặt đất, được bảo vệ bên trên bằng một vòm những thanh sắt uốn cong và rất nhiều bao tải cát... Trong hầm, giấy tờ ngổn ngang. Có cả một bức thư của vợ De Castries...
    "Đêm hôm đó , tôi ở lại Điện Biên Phủ trong sở chỉ huy của De Castries, nơi đã thành trụ sở của Ban tiếp quản"*.
    Đại tướng từng viết: "Hạnh phúc lớn nhất đối với người cầm quân là được ở bên bộ đội ngay tại mặt trận". Xin phép Anh Văn cho tôi được nói leo: "Có niềm vui nào lớn hơn đối với vị tư lệnh chiến trường, sau ngày toàn thắng được nghỉ qua đêm trong bản doanh của tư lệnh đội quân đối địch?"./.
    Phan Quang
  4. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Những hình ảnh chuẩn bị và tấn công trong chiến dịch Điện Biên Phủ​
    [​IMG]
    Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lãnh đạo Đảng họp ngày 6/12/1953 tại Việt Bắc quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ.
    [​IMG]
    Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ họp bàn dưới sự chủ tọa của Đại tướng - Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển phương châm ?oĐánh nhanh, thắng nhanh" sang "Đánh chắc, tiến chắc" (26/1/1954).
    [​IMG]
    Quân Pháp với sự trợ giúp của Mỹ gấp rút xây dựng Điện Biên Phủ thành một Tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
    [​IMG]
    Đơn vị pháo phòng không 12,7mm (Đại đoàn 351) khống chế địch trên không cho quân ta vây lấn áp sát địch.
    [​IMG]
    Bộ đội ta đang vượt qua cầu Mường Thanh tiến về Sở chỉ huy của quân Pháp.
    [​IMG]
    Bộ đội Đại đoàn 351 và 312 kéo pháo vào trận địa
    [​IMG]
    17 giờ 40 phút ngày 7/5/1954, bộ đội ta đã cắm lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" trên nóc hầm Tướng De Castries.
    [​IMG]
    Hơn 20.000 xe đạp thồ phục vụ mặt trận
    [​IMG]
    Xe tăng địch do quân ta thu được ở Điện Biên Phủ
    [​IMG]
    Tướng De Castries cùng toàn bộ Bộ chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt sống
    [​IMG]
    Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ" cho các chiến sĩ tiêu biểu của chiến dịch (từ phải sang): Bạch Ngọc Giáp, Hoàng Đăng Vinh, Nguyễn Văn Thuận, Lê Thế Nhận.
    Được tbm sửa chữa / chuyển vào 22:16 ngày 07/05/2004
  5. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Và Điện Biên Phủ hôm nay
    [​IMG]
    Nhân dân Mường Phăng đón mừng Đại tướng về thăm
    [​IMG]
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm công trình xây dựng Tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ trên đồi D1.

    [​IMG]
    Trên đường phố Điện Biên Phủ hôm nay
    [​IMG]
    Người cựu chiến binh Pháp trước cửa hầm tướng De Castries
    [​IMG]
    Sân bay ĐBP
    [​IMG]
    Công trình thuỷ điện Nà Lơi.
    [​IMG]
    Trường Phổ thông Trung học Điện Biên Phủ
    [​IMG]
    Trên cánh đồng Mường Thanh

    Được tbm sửa chữa / chuyển vào 22:35 ngày 07/05/2004
  6. corbetti

    corbetti Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2003
    Bài viết:
    941
    Đã được thích:
    1

  7. corbetti

    corbetti Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2003
    Bài viết:
    941
    Đã được thích:
    1
    TP Hồ Chí Minh: Một Việt kiều đoạt giải nhất cuộc thi "Đường tới Điện Biên Phủ"
    Báo Người Lao Động đã tổ chức buổi lễ Tổng kết phát giải cuộc thi "Đường tới Điện Biên Phủ" nhằm kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Cuộc thi đã diễn ra từ ngày 1/3 - 15/4 với tổng trị giá giải thưởng là 38,8 triệu đồng.
    Vượt qua 1.307 bài dự thi, ông Dinh Van Mai (Việt kiều tại Pháp) đã đoạt giải nhất cuộc thi trên Báo Người Lao Động điện tử. Ngoài ra, chị Nguyễn Thị Thanh Huyền (thứ 3 từ trái sang - ảnh) cũng đã đoạt giải nhất trong tổng số 15.521 bài dự thi trên Báo Người Lao Động. Hai thí sinh đoạt giải nhất này đã nhận được bộ sách Hồi ký Điện Biên có chữ ký tặng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng với số tiền thưởng 5 triệu đồng. Ngoài ra, Ban tổ chức cũng đã trao 4 giải nhì, 6 giải ba, 10 giải khuyến khích và 2 giải phong trào cho các cá nhân xuất sắc khác của cuộc thi.
    (
    http://www.thanhnien.com.vn/TinTuc/CuocSong/2004/5/3/15939/)

  8. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Thấy có chủ đề về anh hùng Tô Vĩnh Diện (đã bị khóa), có vấn đề nêu ra về khẩu pháo của Tô Vĩnh Diện. Xin phép đưa về đây để sáng tỏ vấn đề. Hy vọng các mod cho phép.
    ---------
    quote-henryvuong viết lúc 08:58 ngày 14/05/2004:
    Chào các bác. Nhân bài "Anh Hùng Phan Đình Giót" tớ cũng trích dẫn câu chuyện anh hùng Tô Vĩnh Diện. Đoạn dưới đây tớ cóp lại của một bác trong diễn đàn này:
    <BLOCKQUOTE id=quote><font size=1 face="Arial" id=quote>Trích từ: ... Trước hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Tô Vĩnh Diện hô anh em: "Thà hy sinh quyết bảo vệ pháo" và đồng chí buông tay lái xông lên phía trước, lấy thân mình lao vào chèn bánh xe pháo. Pháo bị vướng, nghiêng dựa vào sườn núi, nhờ đó đơn vị kịp ghìm giữ được pháo dừng lại.
    [/QUOTE]
    ...
    Một giả thuyết nữa là có thể khẩu pháo được để lên một chiếc xe kéo bốn bánh. Nhưng trong các bài viết về TVD không thấy nhắc tới chi tiết này. Hơn nữa người ta luôn nói rằng anh TVD chèn bánh xe pháo chứ không nói "chèn bánh xe chở pháo".
    Hay là khẩu pháo của anh TVD có bốn bánh? Cái này thì hơi khó nghĩ vì tớ chưa được nhìn thấy khẩu pháo bốn bánh. Có bác nào biết khẩu pháo đó ra sao không?
    [/QUOTE]
    ------------------
    - Khẩu pháo của Tô Vĩnh Diện là pháo cao xạ 37mm, thuộc khẩu đội 3, Đại đội 827. Pháo do Liên Xô sản xuất năm 1939, viện trợ cho cho Việt Nam xây dựng trung đoàn pháo cao xạ đầu tiên (1-4-1953) gồm 6 tiểu đoàn pháo 37mm, được đặt phiên hiệu đoàn 367..
    - Sự kiện TVD hy sinh cứu pháo sảy ra ở giai đoạn " kéo pháo ra" ngày 1-2-1954 . Khi dây bị đứt "Nguyễn Văn Chi cúi gập lưng lấy vai đẩy càng gỗ vào phía trong. Tô Vĩnh Diện dùng hết sức kéo đòn lái lôi vào phía núi. Bánh trước bên phải húc trúng cây cụt, bật cả bộ rễ ra mặt đường, cuốn vào gầm pháo, đòn pháo bật mạnh trở lại, hất Chi xuống vực sâu. Diên bị va đập ngã lộn, vùng dậy nắm lấy càng lái hất mạnh vào bên núi, thét vang : "phải cứu lấy pháo". Khẩu pháo chồm lên rồi cuốn anh vào gầm xe ..." (Phan Lâu - Khẩu đội 3 Tô Vĩnh Diện).
    - Tô Vĩnh Diện đã không chủ động lấy thân chèn pháo, dù sao sự hy sinh cứu pháo cũng rất trân trọng, xứng danh anh hùng. Chính trong 1 buổi giao lưu trên TV gần đây, 1 đồng đội của TVD đã kể lại chi tiết sự việc và đề nghị : "thay đổi cách nói xưa nay TÔ VĨNH DIỆN LẤY THÂN CHÈN PHÁO thành TÔ VĨNH DIỆN QUÊN MÌNH HY SINH CỨU PHÁO.
    - 1 điều đáng tiếc là Nguyễn Văn Chi bị hất xuống vực, và bị thương nặng. Hành động quên mình cứu pháo của anh không kém gì Tô Vĩnh Diện, thế nhưng đã không được khen thưởng kịp thời.

    Pháo cao xạ 37 mm thuộc khẩu đội 3 - do Trung đội phó Tô Vĩnh Diện làm đội trưởng.
    (Hình đã được post 1 lần ở topic này)
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 22:45 ngày 14/05/2004
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    ...
    Một giả thuyết nữa là có thể khẩu pháo được để lên một chiếc xe kéo bốn bánh. Nhưng trong các bài viết về TVD không thấy nhắc tới chi tiết này. Hơn nữa người ta luôn nói rằng anh TVD chèn bánh xe pháo chứ không nói "chèn bánh xe chở pháo".
    Hay là khẩu pháo của anh TVD có bốn bánh? Cái này thì hơi khó nghĩ vì tớ chưa được nhìn thấy khẩu pháo bốn bánh. Có bác nào biết khẩu pháo đó ra sao không?
    [/QUOTE]
    ------------------
    - Khẩu pháo của Tô Vĩnh Diện là pháo cao xạ 37mm, thuộc khẩu đội 3, Đại đội 827. Pháo do Liên Xô sản xuất năm 1939, viện trợ cho cho Việt Nam xây dựng trung đoàn pháo cao xạ đầu tiên (1-4-1953) gồm 6 tiểu đoàn pháo 37mm, được đặt phiên hiệu đoàn 367..
    - Sự kiện TVD hy sinh cứu pháo sảy ra ở giai đoạn " kéo pháo ra" ngày 1-2-1954 . Khi dây bị đứt "Nguyễn Văn Chi cúi gập lưng lấy vai đẩy càng gỗ vào phía trong. Tô Vĩnh Diện dùng hết sức kéo đòn lái lôi vào phía núi. Bánh trước bên phải húc trúng cây cụt, bật cả bộ rễ ra mặt đường, cuốn vào gầm pháo, đòn pháo bật mạnh trở lại, hất Chi xuống vực sâu. Diên bị va đập ngã lộn, vùng dậy nắm lấy càng lái hất mạnh vào bên núi, thét vang : "phải cứu lấy pháo". Khẩu pháo chồm lên rồi cuốn anh vào gầm xe ..." (Phan Lâu - Khẩu đội 3 Tô Vĩnh Diện).
    - Tô Vĩnh Diện đã không chủ động lấy thân chèn pháo, dù sao sự hy sinh cứu pháo cũng rất trân trọng, xứng danh anh hùng. Chính trong 1 buổi giao lưu trên TV gần đây, 1 đồng đội của TVD đã kể lại chi tiết sự việc và đề nghị : "thay đổi cách nói xưa nay TÔ VĨNH DIỆN LẤY THÂN CHÈN PHÁO thành TÔ VĨNH DIỆN QUÊN MÌNH HY SINH CỨU PHÁO.
    - 1 điều đáng tiếc là Nguyễn Văn Chi bị hất xuống vực, và bị thương nặng. Hành động quên mình cứu pháo của anh không kém gì Tô Vĩnh Diện, thế nhưng đã không được khen thưởng kịp thời.

    Pháo cao xạ 37 mm thuộc khẩu đội 3 - do Trung đội phó Tô Vĩnh Diện làm đội trưởng.
    (Hình đã được post 1 lần ở topic này)
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 22:45 ngày 14/05/2004
    [/QUOTE]
    Còn có trường hợp Nguyễn Văn Chức ở trung đoàn lựu pháo 45 hy sinh khi kéo pháo vào và được truy tặng anh hùng, rất tiếc là cũng rất ít được nhắc đến.
  10. mechua155

    mechua155 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/03/2003
    Bài viết:
    69
    Đã được thích:
    0
    Sao bác TVL không nói rõ thêm là khẩo cao xạ 37mm đó có 4 bánh
    Các bác nên phân biệt, cũng là pháo nhưng pháo cao xạ 37mm, 57mm trở lên có cấu tạo là một cái chassi có 4 bánh, ở đầu có càng kéo để móc vào xe kéo, nói chung cái chassi này giống y như cái rơ móc,và bên trên nó lắp mâm pháo quay tròn được

Chia sẻ trang này