1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến thắng Điện biên và cuộc chiến Việt Pháp

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi datvn, 06/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. cuc_culao

    cuc_culao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/05/2003
    Bài viết:
    189
    Đã được thích:
    6
    Một bài báo ở một tạp chí của Việt kiều tại Pháp:
    ĐIỆN BIÊN
    Nhớ lại từ nước ngoài ​
    Đặng Tiến
    Hiện nay tại Việt Nam và Pháp, sách báo và các cơ quan truyền thông đang nhắc nhở nhiều đến trận đánh Điện Biên Phủ, kết thúc cách đây đúng 50 năm : ngày 7.5.1954, sau 55 ngày đêm ác chiến.
    Công chúng thường nghe : trận Điện Biên Phủ chấm dứt chiến tranh Đông Dương. Đây là cách nói tượng trưng và tổng quát, không chính xác.
    Trận Điện Biên không kết liễu chiến tranh. Bằng cớ là hai bên tham chiến, Pháp và Việt Nam còn đánh nhau ác liệt non ba tháng sau, và còn khả năng đánh nhau lâu hơn ; Pháp mỗi ngày một yếu thế, nhưng trên toàn bộ chiến cuộc Đông Dương, sẽ không thua ngay. Tuy nhiên, trận Điện Biên đã tác động mạnh đến hòa hội Genève, bắt đầu ngay hôm sau đó, và đưa đến hiệp định đình chiến ngày 20.7.1954. Như vậy, hòa hội đã thành công trong việc chấm dứt chiến tranh, trong không khí hòa hoãn đang ngự trị trên thế giới lúc đó, giữa các cường quốc đồng thuận « chung sống hòa bình ». Ngược lại, cũng không thể loại trừ khả năng là cuộc đàm phán thất bại, chiến tranh tiếp tục và biến dạng, chuốc lấy một chiều hướng và chiều kích khác : trong giả thiết này, trận Điện Biên Phủ sẽ không kết thúc chiến tranh.
    Năm mươi năm sau, đọc lại sử liệu, các tư liệu ngoại giao, hồi ký và chứng từ chúng ta có thể có cái nhìn uyển chuyển hơn.
    Điện Biên Phủ là một sự cố quân sự và chính trị, có tác dụng lịch sử khách quan, không cần gì phải bàn đi bàn lại. Đối với Quân Đội Nhân Dân, đó là toàn thắng nhưng trong toàn bộ chiến tranh giải phóng và thống nhất đất nước, nó là một chiến công dang dở, vì chỉ đưa đến một nền hòa bình khập khiễng, chia đôi đất nước, dẫn đến một chiến cuộc khác, gian lao hơn về mặt vật chất, tổn thương hơn về mặt tinh thần. Một chi tiết đáng lưu ý : cho đến 1975, Điện Biên Phủ chỉ là một thị trấn nhỏ với 3.000 dân, xa xôi, hẻo lánh : từ Hà Nội đi bốn năm ngày đường mới đến. Và ngày nay, là một trung tâm du lịch với 70.000 dân, có sân bay, đường sá hiện đại? Nói khác đi, ví von một chút, thì phải đợi đến ngày thống nhất đất nước, hai mươi năm sau, thì Điện Biên mới hoàn tất nhiệm vụ lịch sử của nó.
    *
    Tùy cảm quan từng người, Việt cũng như Pháp, hai chữ Điện Biên gây những âm vang khác nhau. Người Việt có thể có nhiều cảm giác : với người kháng chiến chống Pháp, đây là niềm kiêu hãnh, « lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu » ; và năm nay, họ kỷ niệm rộn ràng, là điều dễ hiểu - và nhà nước thừa cơ hội đẩy mạnh du lịch, tổ chức năm du lịch Điện Biên, lại càng dễ hiểu hơn.
    Đối với người Việt bàng quan, không có công trạng hay thành tích gì, đó cũng là niềm tự hào, vì đồng bào mình đánh bại một đạo quân xâm lược hùng mạnh, đã tấn công và đô hộ mình suốt một trăm năm - kể từ ngày nổ súng vào Đà Nẵng.
    Cuối cùng có người Việt ham lịch sử quân sự, xem Điện Biên Phủ như chuyện Xích Bích thời Tam Quốc, hay trận nọ trận kia thời Đông Chu, Tây Hán, và với họ trận chiến Tây Bắc 1954 không phải là không hấp dẫn.
    Về phía dư luận người Pháp, phản ứng cũng phức tạp và lắm khi đáng phục. Họ có thành ngữ « gloire aux vain-queurs, honneur aux vaincus » mà nhà thơ di tản Cao Tần đã diễn ca đại khái « thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng ». Ngay khi chiến trận đang tơi tả, thì những tướng tá de Castries, Langlais, Bigeard? đã xuất hiện như những người hùng bi tráng. Hình ảnh đại tá Piroth, chỉ huy pháo binh, cụt một tay, tay kia cầm lựu đạn, cắn răng tháo chốt để tự sát vì không làm tròn nhiệm vụ ngăn chặn hỏa lực đối phương, là một hình ảnh tiêu cực, nhưng cảm khái. Và ngay sau khi Pháp thất trận, khóa sĩ quan Saint Cyr 1954 mang tên « Những kẻ Điện Biên », cũng là việc nghịch lý.
    Sĩ quan Pháp anh dũng nhất có lẽ là đại tá Langlais, chỉ huy binh chủng Dù, điều khiển tiểu khu Trung Tâm, « người thật sự chỉ huy trận địa Điện Biên » theo lời tướng Võ Nguyên Giáp ; ông đã để lại một hồi ký trung thực và chính xác (1963) và khẳng định mình thua trận vì ? đánh dở ! (tr. 264). Về sau, ông lên tướng, chán đời, uống rượu và? tự sát ! Đồng đội của ông, hơn 50 người lên cấp tướng, đô đốc, nhiều người đã trở lại chiến địa, để « hành hương ». Nhưng cũng lắm kẻ sa cơ bị tù tội, bãi chức vì tham dự cuộc phiến loạn 1961 tại Algérie.
    Về phía người Việt chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Pháp, có Phạm văn Phú thuộc Tiểu Đoàn 5 Dù, thăng cấp đại úy tại mặt trận, về sau lên tướng chế độ Sài Gòn, tư lệnh vùng II chiến thuật và cũng tự sát (Langlais nhầm là ông chết tại Điện Biên, ngày cuối, tr. 232).
    Tổng thống Pháp Mitterrand là nguyên thủ phương Tây đầu tiên chính thức viếng thăm Việt Nam, năm 1993, đã tuyên bố « chiến tranh Việt-Pháp là một nhầm lẫn » và đã lên trận địa Điện Biên Phủ để truy niệm, cùng với đại tướng Schmitt, cựu Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, thời ấy là trung uý.
    Năm nay tại Pháp, nhân cuộc hội thảo kỷ niệm 50 năm Điện Biên, có người đã đếm được 73 đầu sách viết về trận chiến, đầu tiên là hồi ký ghi lại sự cố, của những tướng tá trách nhiệm, khi lên án, khi thanh minh. Người bị lên án nhiều nhất là tướng Navarre, Tổng Tư lệnh Đông Dương, sớm nhất là qua những bài báo của Lucien Bodard, chuyên viên về Đông Dương, sau đó là sách Trận đánh Điện Biên Phủ, của Jules Roy (1963), tư liệu súc tích, đã được dịch ra tiếng Việt. Có thể nói Jules Roy là người phê phán Navarre gay gắt nhất. Và người biện hộ nhiều lần cho Navarre là? tướng Võ Nguyên Giáp. Ngay khi sách mới xuất bản, tướng Giáp, khi trả lời ký giả Úc W. Burchett, đã cho rằng Jules Roy khe khắt quá mức, vì « Navarre có óc chiến lược, nhưng không biết gì về chiến tranh nhân dân » (1964). Trả lời báo Etudes Viet-namiennes (1965), ông nói thêm « bảy Tướng Tổng Tư Lịnh tiền nhiệm, đã thay nhau, và đã vi phạm cùng một sai lầm. Bất cứ tướng tư bản nào cũng sẽ sai lầm như vậy, trong vị thế của Navarre. Bằng cớ là ngay sau Đông Dương, họ đã khai chiến ở Algérie. Sau đó, là người Mỹ ? » Trong hồi ký Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử, tướng Giáp còn nói rõ « Công bình mà nói, tới lúc này (đầu 1954) Navarre không đáng chê trách như nhiều người sau đó đã lên án » (tr. 80).
    Người lên án tiếp theo là tướng Cogny, tư lệnh quân Pháp ở Bắc Bộ, người trực tiếp điều khiển mặt trận, quy mọi tội vào Navarre. Ông này phản pháo, lời qua tiếng lại nặng nề. Tướng Cogny, tốt nghiệp Trường Bách Khoa, Cao học Chính Trị, Tiến sĩ luật khoa, năm 1963, còn nói rằng « pháo binh của kĩ sư Bách Khoa đã bị các ông giáo làng và thợ cả đánh bại » (Alors, l''artillerie : les polytechniciens battus par les instituteurs et contremaîtres d''en face ? ) (thư cho Jules Roy, tr. 618). Tướng Giáp đánh giá Cogny ?o là pháo thủ mà không biết cả cách sử dụng pháo ?, tr. 265. Tướng Langlais nhận xét ?o cấp tư lệnh, có hai phương thức can thiệp : phối hợp tác chiến và điều động quân trừ bị. Cả hai việc, tướng Cogny đều thực hiện rất xoàng ? (très médiocrement) tr. 254.
    Nhưng lời bình phẩm chung, thường nghe nhất là : tướng Navarre dồn quân vào lòng chảo để lãnh đạn đại bác ! Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuối tháng 4.1954, khi trả lời nhà báo W. Burchett, đã lật ngửa một cái mũ để trên bàn, đưa mấy ngón tay quanh vành mũ và nói : ?o đây là lực lượng chúng tôi ?. Rồi ông nắm tay, đấm vào lòng mũ và tiếp : ?o đây là quân Pháp. Họ không thể thoát khỏi chỗ này ?. Sự thật không đơn giản như vậy.
    Quân đội Nhân Dân Việt Nam mà có thắng đoàn quân viễn chinh Pháp, thì cũng phải nhiều gian lao và lắm hy sinh, chứ không dễ dàng như trở bàn tay. Tư liệu lịch sử, cả hai bên, đều chứng tỏ điều đó.
    Về phần mình, Navarre đã lý giải nguyên do thất bại, là tình hình chính trị và quân sự, đầu năm 1954 đã thay đổi. Khi quyết định mở mặt trận Tây Bắc thì Điện Biên chỉ là một điểm chiến lược nhắm bảo vệ Lào, và giải tỏa đồng bằng Bắc Bộ, vào cuối năm 1953. Lúc đó lực lượng Pháp Việt cân tài cân sức và hai bên ngầm thỏa thuận giao chiến. Nhưng trận đánh đã không xảy ra như dự liệu : ngày 25/1/1954, tướng Giáp đã ra lệnh ?o kéo pháo ra ? - ?o một quyết định khó khăn nhất trong đời chỉ huy của tôi ? (tr. 112). Theo tướng Vương Thừa Vũ, nếu tấn công lúc đó ?o cuộc kháng chiến có thể lui lại mười năm ?.
    Thời điểm này, các cường quốc Anh Nga Mỹ Pháp tại Berlin, ngày 18/2/1954, đã quyết định triệu tập một hoà hội chấm dứt chiến tranh Đông Dương, với sự tham dự của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Bên ********* dồn toàn lực cơ động - 5 đại đoàn, 50.000 quân chủ lực - vào mặt trận, với sự yểm trợ của toàn dân qua 30 vạn người dân công, và viện trợ gia tăng ồ ạt của Liên Xô và Trung Quốc ; cộng với quyết tâm toàn thắng cuối cùng. Cán cân lực lượng lệch sang một phía. Pháp biết, nhưng đầu năm 1954, không còn cách nào rút quân ra khỏi cứ điểm. Pháp thua, không phải vì Navarre ngu, Cogny dốt, de Castries, Langlais, Lalande, Bigeard hèn, mà ván cờ thế giới đã đổi thay.
    Còn Việt Nam anh hùng và tài ba thì điều này đã rõ, nhiều người đã nói, không cần chi nhắc lại.
    Tướng Võ Nguyên Giáp gần như đồng tình với hồi ký Navarre về lý giải nói trên :
    ?o Trước khi đi vào Đông Xuân 1953-1954, cả địch và ta đều chưa nghĩ tới một không gian và thời gian cho trận quyết chiến chiến lược. Đây chính là điểm hẹn của lịch sử, chung cục định mệnh của cuộc chiến, sớm muộn rồi phải diễn ra ở một nơi nào đó trên đất nước ? (tr.399).
    Điểm hẹn lịch sử? một hình ảnh văn hoa, súc tích, tế nhị, qui định điểm nhỏ bé trong sự lớn lao, gợi lên điều tình cờ trong quy luật, và điều phôi pha trong vĩnh cửu.
    Hào quang kẻ này là bùi ngùi của người kia : lịch sử đã hẹn với những ai ai ? Những người được hẹn và đúng hẹn, sau này, bây giờ, đã ra sao ?
    Những người không được hẹn, hay sai hẹn, giờ này, hôm nay, trôi dạt về đâu ?
    Nơi hẹn hò, có khi, nhiều khi, là điểm chia tay.
    Đặng Tiến
    24/4/2004
    --------------------------------------------------------------------------------
    Thư mục chính :
    Võ Nguyên Giáp : Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử, nxb Quân Đội Nhân Dân, 2000, Hà Nội
    Henri Navarre : Le Temps des Vérités, nxb Plon, 1979, Paris.
    Jules Roy, La Bataille de Dien Bien Phu, nxb Julliard, 1963, Albin Michel 1989, Paris
    Colonel Langlais, Dien Bien Phu, nxb France Empire, 1963, Paris.
    Journoud & Tertrais, Paroles de Dien Bien Phu, les Survivants témoignent, nxb. Tallandier, 2004, Paris.
    Tạp Chí Carnets du Vietnam, số đặc biệt Điện Biên Phủ, Février 2004, Lyon.
    Ghi chú :
    Bài hát Le Déserteur (Kẻ Đào Ngũ), của Boris Vian, do tác giả và Mouloudji trình bày, đã được sáng tác sau tin Điện Biên thất thủ. Bài hát bị cấm trong thời chiến tranh Algérie (1954-1962) và thời chiến tranh vùng Vịnh, trên các phương tiện truyền thông công cộng Pháp. Nhạc phẩm phản chiến bi thiết và dữ dội, nói lên tâm trạng thanh niên thời đó.
  2. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    ---------------
    Bác chiangshan có chắc chắn Nguyễn Văn Chức được truy tặng anh hùng không? Trong danh sách 16 anh hùng ĐBP không thấy tên. Tôi cũng đã tra cứu những lần truy tặng sau này cũng chưa tìm thấy. (có thể tôi nhìn không kỹ).
    Hành động của Nguyễn Văn Chức có thể nói ?ogiống hệt? như Tô Vĩnh Diện, nghĩa là quên mình chèn pháo và hy sinh.
    Nguyễn Văn Chức thuộc đại đội 806, Trung đoàn 45, Đại đoàn 351 là đơn vị pháo lớn đầu tiên của quân đội ta. Trong chiến dịch ĐBP, biên chế của Đại đội gồm 2 khẩu pháo 105 mm, chiến lợi phẩm thu được của Pháp ở Đông Khê trong chiến dịch Biên Giới 1950, 2 khẩu thu được ở Nghĩa Lộ trong chiến dịch Tây Bắc 1952.
    Khẩu pháo ta sẽ nói đến (sau này Nguyễn Văn Chức hy sinh cứu được) là loại pháo kiểu M2A2 do Mỹ chế tạo viện trợ cho Pháp, ta thu được ở Nghĩa Lộ.
    Sự kiện ?ochèn pháo? xảy ra tháng 1-1954, giai đoạn ?okéo pháo vào?.
    Khẩu đội 3 của Đại đội 806, trong 1 pha đổ dốc từ từ của pháo thì dây tời bị đứt, kéo luôn cả chùm người xềnh xệch trên đường. Các pháo thủ Nguyễn Văn Chức, Cừ, Ngói ? cố bám giữ nhưng không sao kìm nổi, các anh đã rượt theo để cứu pháo. Cừ và Ngói bị bật ra, chỉ còn 1 mình Chức ôm chèn lao vào chèn pháo. Khẩu pháo chồm qua người anh, đâm quật vào 1 gốc cây trên dốc đứng khựng lại. Pháo cứu được, còn Nguyễn Văn Chức đã anh dũng hy sinh.
    Sau khi đã hoàn thành kỳ công bí mật đưa pháo vào trận địa thì ngày 25-1 được lệnh ?okéo pháo ra?.
    Sau này, ngày 13-3-1954, Đại đội 806 được Bộ chỉ huy Mặt trận giao nhiệm vụ nổ súng vào Him Lam mở màn chiến dịch ĐBP và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
    (Tư liệu dựa theo ?oTrần Duy Thành ?" Khẩu pháo mang dấu ấn Điện Biên Phủ)
    Nhờ bác chiangshan xem lại giúp việc truy tặng Anh hùng cho Nguyễn Văn Chức. Cảm ơn trước.
    Trong 2 cuộc kháng chiến, có nhiều trường hợp thật sự anh hùng nhưng vì nhiều l?Zý?Z do đã không được khen thưởng kịp thời (kể cả truy tặng).
    Nên chăng, chúng ta mở riêng 1 topic cho vấn đề này?

    Khẩu pháo Đại đội 806 của Nguyễn Văn Chức
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 15:49 ngày 15/05/2004
  3. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Vâng, cám ơn bác TLV. Đúng là em nhầm thật. Trường hợp hy sinh của Nguyễn Văn Chức được ĐT VNG nhắc đến trong ĐBP-ĐHLS, nhưng lại ít được nhắc đến trong các sách sử khác. Dường như đây là một sự bất công.
  4. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Thưa bác Mod và các bác
    nhân kỷ niệm những sự kiện lịch sử lớn vừa rồi, có rát nhiều thắc mắc về những tấm gương anh hùng mà chúng ta được học, được nghe từ bé. Theo tôi việc thắc mắc đó là hợp lý vì phần lớn chúng ta đều chưa qua chiến tranh, hiểu biết về chiến tranh, vũ khí rất ít, các sự kiện lại diễn ra đã lâu được mô tả theo kiểu tuyên truyền, và cũng nên tự hỏi sự thật những gì mình được dạy là gì, có đúng như vậy không? và nên tìm câu trả lời.
    Tuy nhiên trước khi tìm hiểu cũng nên nhắc lại rằng dù sao đó là những người hy sinh vì nước, vì một lý do nào đó mà sự hy sinh đó được mô tả chưa chính xác thì không nên vì thế mà không kính trọng những người bỏ mình vì độc lập tự do của dân tộc. Sự không chính xác đó không phải lỗi ở họ. Theo tôi các bác Mod cũng nên để mọi người tìm hiểu chuyện này nhưng chỉ nên tìm hiểu khía cạnh kỹ thuật và lịch sử của sự việc, không nên kèm theo những bình luận xúc phạm quá khứ.
    Trong lần đi Điện biên mới đây, trên xe anh em cùng đi với tôi cũng bình luận rôm rả chuyện này, hoặc lúc trà dư tửu hậu người ta cũng hay bình luận mà tôi gọi là ?oluận anh hùng?. Nhiều người còn cải biên thành chuyện tiếu lâm hiện đại, nghe hơi nhẫn tâm dù rằng trong số họ nhiều người chỉ cho là chuyện nói cho vui.
    Trong quân đội tinh thần binh sỹ là vô cùng qua trọng, nên việc nâng cao tinh thần, ý chí, niềm tin chiến thắng cho binh sỹ là việc mà bất cứ đội quân nào cũng phải làm từ xưa đến giờ. Chuyện tuyên truyền những hành động anh hùng thành tấm gương ( mặc dù có khi nói hơi quá sự thật) hoặc dùng những hiện tượng, hình ảnh, thần linh, trời đất không có thật để khích lệ binh sỹ thì người Trung quốc đã làm từ ngàn xưa, và cũng không quá hiếm trong các đội quân khác, nhất là khi đó quân đó đang gặp khó khăn, hay bất lợi so với đối phương.Các bác thử đọc Tam quốc mà xem, kiểu như Tào tháo lừa quân sỹ đang khát là có rừng mơ trước mặt ấy. Người Mỹ hình như cũng bắt đầu ý thức chuyện xây dựng nhân vật anh hùng nhưng làm có vẻ vụng, chuyện cô trung sỹ Jessica Lynx ở Iraq mới đây được xây dựng thành ?o người hùng kiểu Hollywood? bị báo chí phanh phui ra đấy thôi.
    Chuyện anh Phan Đình Giót bác mechua155 nói nghe hợp lý, mới đây tôi thấy một bức tranh vẽ anh PĐG cũng nằm đè lên cái lô cốt chìm. Còn anh Tô Vĩnh Diện bác TVL nói rồi
    Còn tôi giải đáp thắc mắc về anh Nguyễn Viết Xuân, cũng là một cựu binh ĐBP, và trả lới bác MDB hỏi về phòng không
    Trước hết nói về kỹ - chiến thuật phòng không (ít nhất là phòng không VN như tôi biết)
    Về pháo cao xạ trừ các loại pháo nhỏ như 12,7 mm, 14,5mm là người bắn ngắm bắn trực tiếp. Còn pháo từ 37mm trở lên đều có một kíp pháo thủ, để bắn được thì phải ?onhìn thấy? máy bay bằng 2 cách: máy ngắm quang học hoặc ra đa. muốn bắn trúng phải xác định được các thông số phương vị, góc tà và đặc biệt là cự ly để điều chỉnh ngòi nổ của đạn, khi chưa có rađa thì cự ly xác định bằng máy đo xa quang học, là cái kính ngắm có 2 đầu là ống kính giống như cái đòn gánh mà một trắc thủ vác ngang vai như trong các ảnh thường thấy về cao xạ trong trận ĐBP.
    Trong kỹ thuật phòng không người ta chỉ bắn ?ovung tàn tán? trong các trường hợp sau: do ra đa bị nhiễu, không nhìn thấy máy bay bằng khí tài quang học do bị che chắn ( trời mù, trời tối v.v..)
    Tuy nhiên dù với điều kiện trên người ta cũng chỉ bắn ?ovung tàn tán? với điều kiện
    - Muc tiêu được bảo về là ?ođiểm? như một cây cầu nhỏ, hay một nhà máy, còn mục tiêu ?odiện? như một thị xã thì không đạn nào bắn cho đủ
    - Với pháo 37mm trở lên của PK chuyên nghiệp thì dù không nhìn thấy máy bay nhưng họ cũng được mạng rađa cảnh giới thông báo về số luợng máy bay, độ cao, tốc độ, đường bay và mục tiêu dự kiến và cũng chỉ bắn khi máy bay đang trên mục tiêu cần bảo vệ, bay ở độ cao trong tầm hiệu quả của cao xạ để tạo thành một màn đạn ngăn cản. Ngay cả khi xác định được máy bay bay cao hơn tầm hiệu quả của pháo thì họ cũng ít khi bắn
    - Bắn đón lõng theo hướng thường dành cho pháo 14,5mm trở xuống chủ yếu là của dân quân, tự vệ hay phòng không lục quân khi bắn ban đêm, họ được phân công canh một hướng mà qua theo dõi thường máy bay địch bay vào ( ví dụ dọc theo lòng sông, sườn các dãy núi, điểm mà máy bay địch thường lấy làm vật chuẩn), kết hợp với các đài quan sát bằng mắt đặt dọc theo đường bay đó (để quan sát bằng kính quang học hoặc nghe tiếng động cơ). Các khẩu pháo này cũng thường được đặt liên hoàn dọc theo đường bay đó, Nếu thấy mục tiêu thì ngắm bằng mắt thường, không thấy thì bắn theo hiệu lệnh , thấy khẩu đội trước bắn thì phía sau cũng bắn. đây là trường hợp của khẩu đội pháo 14,5mm của dân quân cơ khí Mai động bắn rơi f111A. hoặc họ cũng có thể canh một hướng và cứ thấy tiếng độ cơ là bắn
    - Bắn cản theo tiếng động: để bắn máy bay bay dưới âm như pháo cao xạ 100mm của tự vệ trong 12 ngày đêm năm 1972 bắn B.52. Tầm bắn của 100mm đạt đến tầm bay của B.52.
    Nói chung việc bắn mà không thấy mục tiêu là rất hãn hữu, nhất là bộ đội PK chuyên nghiệp. Mục đích của cao xạ là bắn rơi máy bay địch để bảo vệ mục tiêu, và cao xạ ngày càng được cải tiến khí tài ngắm bắn sao cho có thể ?obắn rơi máy bay địch ngay từ loạt đạn đầu?. Chứ bắn vung tàn tán thì làm sao bảo vệ được mục tiêu và bảo vệ chính mình. Trong chống mỹ, cao xạ 37mm và 57 mm thường được điều khiển bắn bằng phần tử rađa ngắm bắn của cao xạ, khí tài quang học chỉ bổ trợ thôi
    Hơn nữa Việt nam không sản xuất được đạn cao xạ, lại có nhiều pháo cao xạ thế thì đạn đâu mà đủ để bắn, hơn nữa nếu bắn lung tung sẽ lộ trận địa, lộ cách bố trí hoả lựa thì dễ ăn đòn lắm. Nhất là khi máy bay bay cao hơn tầm đạn thì chỉ làm trò cười cho phi công địch. Tháng 5/1972 khi B.52 ném bom cầu Hàm rồng, ra đa cao xạ 57mm thấy rõ mục tiêu nhưng không bắn được vì tầm pháo cao xạ 57mm còn lâu mới với được tầm bay của B.52
    Bộ đội cao xạ VN khi bắn có 3 kiểu
    - Điểm xạ ngắn: bắn 2 đến 3 viên : bắn trong điều kiện bình thường.
    - Điểm xạ dài: 3 đến 5 viên: bắn khi máy bay ném bom mục tiêu
    - Điểm xạ ?othùng?: bắn hết cả thùng đạn đã nạp vào pháo:bắn khi máy bay bổ nhào ném bom vào trận địa trận địa cao xạ
    Thông thường chỉ dùng 2 kiểu bắn đầu thôi cũng vì lý do tiết kiệm đạn
    Chỉ có cao xạ TQ khi sang bảo vệ mấy đơn vị TQ làm đường ở Thái nguyên, Lạng sơn hay Yến bái thì luôn có 1 kiểu bắn là điểm xạ thùng vì TQ thiếu gì đạn và còn vì lý do sau: Lúc đầu sang họ thấy cao xạ VN đào hào, nguỵ trang cẩn thận thì chê bộ đội vn hèn, cao xa TQ là cứ phải bày ra, dụ máy bay Mỹ đến mà bắn.Thế là họ đem cao xạ ra chỗ dễ thấy nhất, cho pháo thủ mặc áo sơ mi trắng bóc để dụ máy bay, máy bay mỹ bu vào đánh cho tan nát, mặc dù họ luôn bắn xả láng và trước đó đã tụng Mao tuyển. Sau vài trận chết nhiều quá rồi họ cũng lặng lẽ làm giống VN. Trong mấy đơn vị phòng không TQ đó còn có cả tên lửa Hồng kỳ ( Hongqi) nhái theo mẫu SAM 2 nhưng sản xuất rất tồi, bắn lên quả nổ quả không. Nhưng hễ trận nào họ có tham dự cùng PK VN và có máy bay Mỹ rơi là họ nhận của họ bắn mặc dù các trắc thủ tên lửa VN ở cùng khu vực nhìn rõ qua màn hình ra đa quả tên lửa Hồng kỳ bay đến hết tầm mà không nổ hoặc mới phóng được một đoạn đã rơi xuống đất.
    Trong phòng không một điều cơ bản được dạy ( trong điều kiện ban ngày) là khi máy bay ném bom vào trận địa nếu thấy quả bom rời máy bay lúc đầu là chấm đen, sau đó to và dài ra thì bom sẽ rơi trước mặt hoặc bay qua đầu thì cứ tiếp tục bắn, nhưng nếu chấm đen đó lớn dần thành hình tròn thì bom sẽ rơi vào trận địa, lúc đó bộ đội có thể rời pháo đi ẩn nấp để tránh thương vong.
    Tuy nhiên thực tế một trận đánh phòng không rất phức tạp, thường máy bay sẽ chia thành nhiều tốp, từ nhiều hướng có độ cao khác nhau vừa nghi binh đồng thời đánh vào mục tiêu và trận địa PK, do đó việc bắn tốp đang đánh mục tiêu hay vào tốp đang ném bom vào chính mình để tự vệ, tiếp tục bắn hay ẩn nấp chỉ là quyết định trong tích tắc, tuỳ thuộc vào quyết tâm, lòng dũng cảm của cả tập thể. Và với các hố bom quanh trận địa việc bỏ pháo đi ẩn nấp cũng khó quy kết là hèn nhát nhưng không bảo về được mục tiêu bị
    Trong trường hợp anh NVX theo tôi biết một trận đánh trong điều kiện ngắm bắn bình thường, khi đó máy bay Mỹ đang đánh vào trận địa gây thương vong nhiều, anh NVX là chính trị viên , trong trận đánh có nhiệm vụ động viên mọi người dũng cảm chiến đấu, thì việc hô khẩu hiệu ?onhằm thẳng quân thù mà bắn? là để động viên tinh thần các chiến sỹ trong điều kiện bản thân bị thương nhưng không chịu rời trận địa thì cũng đáng coi là hành động anh hùng chứ sao, và câu nói đó được lấy làm khẩu hiệu cho cao xạ VN cho đến tận bây giờ vì không có khẩu hiệu nào chính xác và thuyết phục hơn thế. Các bác thử nghĩ xem việc đối đầu với máy bay đang bổ nhào vào đầu mình là hành động rất dũng cảm, có phải dễ dàng ai cũng làm được đâu. Nói chung thì trong đánh Mỹ cao xạ VN dũng cảm đối đầu với MB Mỹ hiện đại và đông đảo hơn, nhiều phi công mỹ cũng thừa nhận pháo thủ VN dũng cảm đối đầu ngay cả khi máy bay bổ nhào ném bom vào trận địa, thế mới bắn rơi được MB mỹ chứ cứ thấy nó ném bom vào trận địa là chuồn thì làm sao thắng được Mỹ. Và chính khẩu hiệu của NVX đã khích lệ họ nhiều đấy.
    Được B.40 sửa chữa / chuyển vào 17:03 ngày 15/05/2004
  5. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Tôi rất đồng ?Z với bác B.40 và xin bổ xung :
    Khẩu hiệu ?oNhằm thẳng quân thù, bắn!? có ?Zý nghĩa :
    - Là khẩu hiệu tiến công, khí phách cách mạng, cổ vũ mọi người quyết đánh và quyết thắng bọn giặc trời Mỹ.
    - Khái quát cách đánh máy bay có hiệu quả nhất : Đợi lúc máy bay đang bổ nhào tới. Chỉ có thế hiệu quả của những viên đạn mới cao được. (Và rõ ràng khoảnh khắc đó cũng dễ bị thương vong nhất.)
    Về quân đội TQ giúp ta bấy giờ, tôi nghe nói, khi máy bay Mỹ bổ nhào, họ lao xuống hầm trú ẩn. Khi máy bay bay qua, họ bắn theo đuôi. Do vậy, không có hiệu quả. Mặt khác, trước đó máy bay Mỹ được dịp oanh tạc thoải mái, thương vong vẫn lớn.
    Bộ đội VN từ những trận đầu đã dám đối mặt với máy bay địch, chấp nhận hiểm nguy, chấp nhận hy sinh để sẵn sàng giáng trả những đòn đích đáng. Trận đánh của đơn vị Nguyễn Viết Xuân cũng là 1 trong những trận đánh như vậy. Nó trở nên điển hình do câu khẩu hiệu nổi tiếng của Nguyễn Viết Xuân. Trận đánh diễn ra ngày 18-11-1964. Đại đội 3 pháo cao xạ đã bắn rơi 1 chiếc RF 101 và 2 chiếc T28. Nguyễn Viết Xuân là chính trị viên đại đội đã hô : ?oMáy bay Mỹ chẳng có gì đáng sợ. Các đồng chí hãy nhằm thẳng quân thù, bắn!?. Nguyễn Viết Xuân bị thương, 1 chân bị giập nát đã nhờ đồng đội cắt hộ khỏi vướng tiếp tục động viên đơn vị chiến đấu.
    Khẩu hiệu ?oNhằm thẳng quân thù, bắn!? đã mở đầu cao trào thi đua, sáng tạo cách đánh hạ máy bay địch trong tất cả các lực lượng vũ trang nhân dân ta nhằm đánh thắng không quân của Mỹ.
    Gần đây, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cho tìm gặp bằng được 1 cô gái năm xưa đã một mình mày mò, tìm ra cách bắn rơi máy bay bằng súng bộ binh, và đã thành công. ( tôi đã đọc nhưng rất tiếc, không nhớ tên cô gái, cũng như chi tiết sự kiện này)
  6. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Múa chút, các bác đừng đánh mạnh.
    Phản biện Cúc Cu nước Lào tí.
    Xem lại đại thế 1952 trở đi thấy ngay, để chứng tỏ điều này, nhà ta trước đây có cả bộ phim tài liệu mà. Điện Biên, là đối phó của Pháp, khi ta tiến công Tây Bắc, cùng du kích uy hiếp thượng Lào. Lúc đầu, Pháp chỉ định đây là một cứ điểm, bảo vệ thay thu dung bại quân, cho Lai Châu. Nhưng Lịch sử boiến nó thành cuộc đồi đầu.
    Thật đúng là cuộc đấu kiếm Trung Cổ, hai bên hẹn nhau đến một chỗ. đánh, rồi hết. Pháp nhanh chóng tăng viện, nghĩ rằng không có gì đánh được chỗ đó (hay, tướng Pháp thuyết phục được mọi người thế). Ta thì...............
    Bác trích có một điểm nhầm, về quyết định quan trọng. Theo em, đây là thời điểm, Tầu muốn gây ảnh hưởng (vừa thắng được vài năm đã ti toe). Khi đi , Đai tướng xin được câu lớn nhất, và cổ nhất : tướng ngoài tự quyết. Và đuổi tướng Tầu.
  7. masktuxedo

    masktuxedo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    1.625
    Đã được thích:
    1
    Nhân nói về chuyện anh Viết Xuân. Vì chủ đề kia khoá tôi ko nói gì. Nhưng khi nói đến vấn đề đó bác MDB quá khích quá. Chuyện hô khẩu hiệu trên chiến trường là chuyện đương nhiên trong trường hợp anh Xuân, nhất là anh lại là chính trị viên. Thôi thì anh Giót, hay anh Diện ... ko hô khẩu hiệu cũng ko sao, hành động của các anh là những chỗ khác. Nhưng anh Xuân nhiem vụ chính của anh là động viên tinh thần bộ đội. Vả lại chuyện nhằm thẳng quân thù bắn đã được giải thích và nhắc lại nhiều lần ở nhiều nơi (như bác B40 mô tả, là bắn thẳng khi máy bay địch bổ nhào). Bác MDB xem xét nhé.
  8. MDB

    MDB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2003
    Bài viết:
    947
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn bác B40 và mask đã làm rõ thêm vấn đề về trường hợp hô khẩu hiệu của anh Nguyễn Viết Xuân.
    Em xin trình bày sau đây vài bằng chứng sơ sài để chứng minh cho luận điểm chính của em là đơn vị cao xạ của anh Nguyễn Viết Xuân không thể nào "nhằm thẳng quân thù mà bắn được như là người ta tuyên truyền trên sách báo. Bác B40 đã đưa ra các thông tin rất hay về lực lượng cao xạ của ta nhưng đã không nhấn mạnh đến điểm chính: mức độ phản xạ của pháo ta khi máy bay Mỹ chúi xuống cắt bom. Đơn vị của anh Xuân chỉ có 3 giây đồng hồ để quay nòng cao xạ 37 ly nhằm phản ứng lại máy bay Mỹ mà thôi:

    Ở trên là sơ đồ phi lộ cắt bom của một máy bay Mẽo. Máy bay bắt đầu chúi xuống ở cao độ 4000 độ Anh (1 bộ Anh = 12 phân Anh, 1 phân Anh = 2.54 centimét) và cắt bom ở 1,200 bộ Anh. Như thế là quãng đường từ lúc máy bay bắt đầu chúi xuống cho tới lúc cắt bom là 2800 bộ (853 mét tây). Trong sơ đồ trên, vận tốc cần thiết để máy bay lao xuống cắt bom là 535 KIAS (knot indicated airspeed) bằng 0.514m mỗi giây đồng hồ. Định nghĩa của KAIS được lấy từ nguồn dưới đây:
    http://en.wikipedia.org/wiki/Knot_(nautical)
    Lấy 535 KIAS nhân cho 0.514 m/giây = 267 mét/giây
    Lấy khoảng cách cắt bom là 853 mét chia cho 267 mét/giây = 3, 2 giây đồng hồ.
    Nguồn về sơ đồ trên cũng như thông tin về điểm chúi mũi máy bay và điểm cắt bom có thể tham khảo thêm tại trang nhà sau
    http://www.simhq.com/_air/air_055a.html
    Nói túm lại là khẩu đội pháo của anh Nguyễn Viết Xuân chỉ có 3 phẩy 2 giây đồng hồ để "nhằm thẳng quân thù mà bắn"
    Theo tư liệu từ viện bảo tàng quân sự dưới đây thì cao xạ của tiểu đoàn anh Nguyễn Viết Xuân là loại 37 ly:
    http://vnmilitaria.com/museum1.htm
    Theo nguồn sau đây thì pháo 37 ly của đơn vị anh Nguyễn Viết Xuân không có ra đa mà chỉ dùng kính nhắm thường.
    http://www.fas.org/man/dod-101/sys/land/row/m1939.htm
    Ba giây đồng hồ phù du thì nó nhanh lắm các bác ạ: tích tắc, tích tắc, tích tắc. Xong! Đợi cho chiến sĩ ta quay bánh xe tay để kéo nòng pháo đón đầu máy bay chúi xuống e rằng không kịp.
    Bằng chứng rõ ràng nhất là đơn vị của anh Nguyễn Viết Xuân đã có thể áp dụng câu nói trên nhưng đã không bắn rơi được máy bay nào trong trận đánh ngày anh hy sinh (18/11/1964) ở tỉnh Quảng Bình - Thời điểm trận đánh được em lấy từ trang nhà sau:
    http://home.vnn.vn/chuyen_de/2603/tu_lieu/lop_truoc/phu_luc.htm#bai_11
    Em có vào trang nhà đài tưởng niệm liệt sĩ của tụi Mẽo trong chiến tranh Việt Nam để tra khảo thì vào ngày trên, chỉ có 1 máy bay Mẽo bị rớt ở bên Lào. Tay phi công bị chết là đại úy William Reynolds Martin (vị trí trên đài tưởng niệm: Panel 1E, Row 72 - Bia số 1E, dòng 72). Đơn vị anh Nguyễn Viết Xuân đánh máy bay Mỹ ở tỉnh Quảng Bình vào ngày này:
    http://www.vvmf.org/index.cfm?SectionID=110&AdvancedForm=true
    Với các bằng chứng trên, em nghiêng về giả thiết của bác mask: trước trận đánh, anh hùng NVX có hô vài câu khẩu hiệu với anh em. Anh bị thương nặng và hy sinh sau đó. Anh em trong đơn vị nhớ lời dặn dò của anh mà nhắc nhở nhau. Cán bộ tuyên huấn thêm mắm thêm muối vào câu chuyện và chuyện thần thoại "Nhằm thẳng quân thù mà bắn ra đời".
    Được MDB sửa chữa / chuyển vào 07:01 ngày 16/05/2004
    Được MDB sửa chữa / chuyển vào 07:29 ngày 16/05/2004
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Thứ nhất là máy bay Mĩ có thể đã bổ nhào nhiều lần vào trận địa NVX, và vì lí do nào đó (khí tượng, địa hình trận địa) mà nó phải bổ nhào theo một hướng xác định và đơn vị có điều kiện căn nòng pháo theo hướng đó.
    Ngoài ra máy bay Mĩ khi đánh mục tiêu nào đó vẫn thường phải bay theo một vài hướng xác định, đơn vị pháo nếu đã qua một vài trận có thể nắm được điều này.
    Thứ 2 là Mẽo có thể nhẹm đi vài chiếc rơi (như trong Linebecker2). Nhưng khả năng ta nhầm không phải không có. Thời kì đầu chống chiến tranh phá hoại, ta thiếu kinh nghiệm, khi máy bay Mĩ bỏ thùng dầu phụ tăng tốc đột ngột, quân ta nhìn đuôi lửa lại tưởng là máy bay bị bắn cháy.
    Thứ 3 là giữa trận chiến ác liệt, việc người lính hô lên khẩu hiệu nào đó để củng cố tinh thần của bản thân là đồng đội là chuyện thường, tất nhiên là lúc đó nó không bóng bẩy, nhưng không phải không có.
    Vì thế giả thuyết của em như sau : đơn vị NVX đang chiến đấu chống máy bay địch bổ nhào, anh NVX bị thương nặng, tức giận và căm thù giặc, anh hét lớn, đại loại : bắn chết mẹ nó đi, nhằm giữa mặt nó mà bắn...v...v... Sau đó anh hy sinh, đồng đội kể về sự hy sinh anh dũng của NVX : đ/c chính trị viên bảo chúng tôi phải nhằm thẳng vào bọn giặc mà bắn... Cấp trên tuyên dương gương của anh, đồng thời chỉnh câu nói đi một tí cho lịch sự và có ý nghĩa hơn.
    Dẫu thế nào, không thể phủ nhận được NVX đã rất anh hùng.
  10. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    Em ngoại đạo, thấy thế này,
    -Trước đó, anh NVX đã bị thương, chứng tỏ máy bay Mỹ đã đánh phá trận địa, thời điểm bổ nhào không còn bất ngờ nữa.
    -Nhìn thấy máy bay nên hướng tấn công hay đường bay đã được xác định.
    -Mặt khác, để tấn công đúng trận địa, góc bổ nhào cũng không thể khác nhiều được.
    3 yếu tố, thời gian, hướng, góc bổ nhào không còn bất ngờ, và có thể tính toán trước. Nên hoàn toàn có thể trong khoảng thời gian 3 giây là quả đủ cho một cuộc đối đầu.

    Và cho dù anh hùng Nguyễn Viết Xuân không nói câu nói bất hủ đó trên mâm pháo, thì thực tế cũng vẫn chứng minh rằng bộ đội phòng không Việt Nam đã thực hiện câu nói đó bằng cả sự gan dạ, thông minh của mình, và đã lập nên những chiến công. Biết bao nhiêu chiến sỹ đã đối đầu với những cú bổ nhào của Không lực Hoa Kỳ mà tự nhắn nhủ với mình rằng " Nhằm thẳng quân thù mà bắn! ". Khẩu hiệu "nhằm thẳng quân thù mà bắn! " không phải là một câu hô khẩu hiệu xuông như ".......... muôn năm!" hay gì khác mà là một câu nói của lòng quả cảm và sự thông minh, được đúc kết từ xương máu qua thực tế chiến đấu. Đó là thực tế.
    Còn chuyện thêm thắt, có thể lắm, nhưng theo em, đó không phải nội dung ta phải bàn luận.

Chia sẻ trang này