1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến thắng Điện biên và cuộc chiến Việt Pháp

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi datvn, 06/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0

    Trước hết tôi đồng ý với bác về việc cán bộ tuyên huấn có thể thêm bớt chi tiết cho sự việc sinh động thêm, bới đó là ?oxây dựng điển hình?mà. Ví dụ lúc chiến đấu khẩn trương thì việc quát tháo, hò hét văng tục loạn xạ là chuyện bình thường, làm gì mà ăn nói hay như trong sách. Nhưng chắc chắn một điều khẩu hiệu đó không phải do anh tuyên huấn nghĩ ra, vì nếu thế thì anh ta sẽ nhận lấy chứ chẳng tội gì phải nhường cho anh NVX. Có rất nhiều khẩu hiệu được phổ biến rộng rãi là do các cán bộ chính trị nêu ra chứ chẳng phải do anh hùng nào hô cả
    Việc chứng minh của bác về thời gian bổ nhào của máy bay có 3 giây cũng chính xác.
    Nhưng điều không chính xác là ở chỗ một trận đánh phòng không không chỉ có mấy giây đó, và không chỉ có 1 cú bổ nhào đó. Trừ trường hợp máy bay đánh lén, là có 1-3 chiếc bay thấp luồn lách tránh ra đa hoặc đài quan sát, bất ngờ bổ nhào đánh một mục tiêu cụ thể nào đó như cây cầu hay nhà máy điện chẳng hạn, rồi chuồn thẳng thì lúc đó cao xạ không kịp phản ứng.
    Một trận đánh phòng không như tôi đã nói thường rất phức tạp, có thể kéo dài từ vài phút đến vài giờ. Máy bay thường từ vài tốp đến vài chục tốp, mỗi tốp thường có 3 chiếc thay nhau đánh, bay từ độ cao vài trăm mét đến vài nghìn mét, bay bằng ném bom hoặc bổ nhào. Ví dụ một trận đánh với cx 37mm của anh NVX thường xảy ra như sau:
    Các trận địa phòng không thường được giao phụ trách bảo vệ 1 mục tiêu nào đó, nếu không có ra đa cảnh giới thì thường có nhiều đài quan sát ở trên chòi cao hoặc đỉnh núi, gồm các đài quan sát xa cách trận địa vài chục km, đến đài gần trận địa ( kiểu đài quan sát của anh Thái Văn A trên đảo Cồn cỏ ấy )dùng kính TZK để phát hiện máy bay . Khi phát hiện được máy bay ( thường cách trận đia trên 10 km đến vài chục km) sẽ báo động, đơn vi cao xạ sẽ vào cấp 1, các pháo thủ từ hầm sẽ chạy về vị trí tại mỗi khẩu đội. Lúc đó đài quan sát gần (thường gọi là trinh sát) sẽ báo tiếp cho chỉ huy bắn (thường là đại đội trưởng hay tiểu đoàn trưởng) Hướng X, cự ly Y mục tiêu Z chiếc ( có thể nói rõ mấy tốp, gốm bao nhiêu chiếc F8, A4, A7 v.v) bay vào. Có thể có vài hướng như vậy. Chỉ huy bắn lúc đó sẽ phải lựa chọn tốp mục tiêu ở hướng nào, tốp thứ mấy và chỉ thị cho các khẩu đội ( thông thường một đại đội cao xạ được chỉ thị bắn vào một mục tiêu để tập trung hỏa lực, có khi cả tiểu đoàn cùng bắt một mục tiêu, chứ không phải mạnh ai nấy bắn)
    - Hướng X,phương vị XX cự ly Y1 bắt tốp đi đầu (hoặc tốp thứ mấy, chiếc thứ mấy)
    lúc đó các nòng pháo sẽ quay về hướng được chỉ thị để bắt mục tiêu, khi bắt được mục tiêu các pháo thủ sẽ hô để khẩu đội trưởng biết giơ cờ báo sẵn sàng . Trong khi đó trắc thủ đo xa của đại đội sẽ liên tục đọc cự ly để các khẩu đội điều chỉnh, khi mục tiêu vào đến tầm hiệu quả của pháo ( dưới 2500 mét) chỉ huy bắn sẽ phất cờ để đơn vị bắn vào máy bay, khi máy bay ra khỏi tầm hỏa lực chỉ huy bắn sẽ dương cờ dừng bắn. Chỉ huy bắn lại chỉ thị mục tiêu tiếp theo để đơn vị bắt mục tiêu..
    Nói dài thế để bác MDB biết rằng để nhằm thẳng quân thù mà bắn thì từ lúc bắt được mục tiêu đến khi bắn là thời gian khá dài. Lúc nó bắt đầu bổ nhào rồi mới quay nòng pháo thì còn bắn chác gì nữa .Bắn lúc nào phụ thuộc vào máy bay có vào vùng bắn hiệu quả của pháo chứ không phải nó có ném bom hay bổ nhào hay không, nếu máy bay bay cao thì có khi bổ nhào một đoạn mới đến tầm bắn của cao xạ, tức là các pháo thủ sẽ thấy chiếc máy bay lao thẳng vào mặt mình một lúc rồi mới đạp cò được. hoặc nó bay cao hoặc xa trận địa quá thì nó có ném bom hay bắn tên lửa vào đầu mình thì cũng chịu.
    Tôi không biết cụ thể độ cao cũng như đường bay, số lượng các tốp đánh vào trận địa của anh NVX. Nhưng chắc chắn có nhiều tốp lần lượt đánh vào vào trận địa, bằng chứng là anh NVX đã bị thương mà máy bay vẫn tiếp tục vào đánh, tức là các pháo thủ liên tục bắt mục tiêu trong lúc máy bay mỹ đang bổ nhào vào đầu mình, hoặc đang bắt mục tiêu này thì máy bay khác ném bom hoặc bắn rockét, đạn 20mm vào trận địa, đây là một trò thử thách thần kinh ghê gớm. Mà trong đánh Mỹ chuyện này là thường xuyên, nhiều ngày có hàng chục trận đánh liên tục từ sáng đến tối . Nên anh chính trị viên NVX có thừa thời gian hô cả chục khẩu hiệu, động viên các pháo thủ vững tay quay bắt mục tiêu chứ đừng thấy máy bay nó lao vào đầu mình mà bỏ chạy hoặc bắn loạn xạ mạnh ai nấy bắn.
    Việc động viên là một chuyện, còn bắn rơi máy bay hay không là chuyện khác phụ thuộc vào nhiều yếu tố, còn việc bác MDB so tài liệu để khẳng định ngày đó có máy bay rơi hay không ư, bác thử so mà xem, suốt cả cuộc chiến có lẽ chẳng mấy ngày mà số liệu 2 bên giống nhau đâu (ấy là số liệu trên internet). Ngay cả Korean war cũng vậy mà, chuyện này đã tranh luận nhiều rồi.
  2. masktuxedo

    masktuxedo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    1.625
    Đã được thích:
    1
    To bác MDB: Tôi có giả thiết về thời gian lúc nào thì anh Xuân hô khẩu hiệu đâu . Tôi chỉ nói chung chung rằng anh sẽ phải hô thôi mà. Có thể anh hô lúc máy bay chưa tới, cũng có thể anh hô lúc anh bị thương đang nằm trên mặt đất ... Cám ơn bác về mấy cái link, nhất là dữ liệu về chuyện "cắt bom trong 3 giây" :).
    Về ý nghĩa thì việc "nhằm thẳng quân thù, bắn" ko phải là ở chỗ "đợi nó bổ nhào thì bắn cho chắc ăn", mà là ở chỗ "lúc nó bổ nhào thì cứ bắn tiếp chứ đừng chạy" - vì như mọi người đã nói, lúc máy bay bổ nhào (cắt bom, phóng rocket, bắn canon ...) là thời điểm nguy hiểm nhất cho xạ thủ cao xạ, và thông thường thì máy bay chiếm ưu thế hơn do nó chuyển động với tốc độ cao, thiết bị ngắm bắn tốt, trong khi đó cao xạ lại nằm chết dí một chỗ mà ko "né đạn" được. Theo như tôi nghe giảng trong các khoá học quân sự thì bộ đội cao xạ các nước (TQ, LX ... và có lẽ cả ở VN nữa) khi thấy máy bay bổ nhào thì phải nhảy vào hầm trốn để tránh thương vong, chỉ bắn trước khi bổ nhào là chính. Anh Xuân đề nghị kiểu đánh mới, đòi hỏi lòng dũng cảm cao độ là bắn đấu đầu trực tiếp với máy bay, khi nó bắn mình cũng bắn trả. Điều này có 2 lợi thế:
    - Một là xác suất bắn trúng cao, do máy bay đang chuyển động thẳng vào trận địa pháo, khi đó việc chỉnh/ngắm sẽ dễ dàng hơn (dù chỉ là 3 giây) - lưu ý là theo như bác B40 thì việc chỉnh/ ngắm đã thực hiện trước đó rất lâu, và chỉ đợi máy bay vào đúng tầm là bắn. Ngoài ra do máy bay bay thẳng vào trận địa thì sẽ khỏi phải bắn đón đầu :). Có điều tôi ko hiểu là khi đó thì điều chỉnh khoảng cách nổ của đầu đạn như thế nào nhỉ?
    - Hai là tạo áp lực lên phi công địch. Nếu quả là các xạ thủ cao xạ nói chung thường vào hầm tránh khi máy bay bổ nhào, thì phi công đương nhiên có tâm lý rất tự tin và an tâm khi bổ nhào cắt bom. Nếu bây giờ đột nhiên xuất hiện các xạ thủ ko chịu đi trốn, mà lại bắn thẳng vào máy bay thì đương nhiên phi công địch sẽ hoảng hốt, ko đó cắt bom/bắn canon sẽ ko chính xác. Theo chỗ tôi biết thì đây là một trong những nguyên do mà phía ta đưa ra cho việc bảo vệ thành công cầu Hàm Rồng trong một thời gian dài. KHi Mỹ thực hiện đánh cầu Hàm Rồng theo kiểu bổ nhào thì ta thường bố trí cao xạ ngay trên cầu, do đó phi công địch thường ko thể cắt bom đúng độ cao, mà thường phải cắt bom vội cho nên dù cầu bị trúng bom nhưng ko chạm vào chỗ yếu. Sau này Mỹ có bom laze, cắt bom từ tít xa, ngoài tầm cao xạ thì cầu Hàm Rồng bị đánh sập.
  3. hungsheva2004

    hungsheva2004 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/01/2004
    Bài viết:
    2.415
    Đã được thích:
    0
    Điện Biên Phủ nhìn từ phía Pháp: Nước Pháp bàng hoàng


    Cả nước Pháp như chết lặng. Im lặng trên chiến trường và im lặng trên chính trường. Đối với người Pháp, Điện Biên Phủ (ĐBP) là một đốm đen trong lịch sử, một bước ngoặt khởi đầu cho sự tan rã của đế chế thực dân.
    50 năm nhìn lại, người Pháp vẫn tự hào họ có những tướng giỏi, những chiến binh dũng cảm, những phương tiện hùng hậu. Thứ duy nhất mà họ thiếu là chính nghĩa. Tờ Le Point kể lại sự bàng hoàng của người Pháp sau thảm bại ở ĐBP.

    Chết lặng

    Một sự im lặng khó tin, phi thực. Ngày 7-5-1954, sau 57 ngày bom đạn ầm ào khủng khiếp, máu lửa, những trận chiến giáp lá cà trong một khung cảnh bi thương, sự yên lặng chết chóc đột ngột bao phủ xuống lòng chảo ĐBP. Chết lặng trong lòng, Christian de La Croix de Castries - tổng tư lệnh tập đoàn, được nâng hàm tướng trong thời kỳ bị bao vây - đã ra lệnh ngưng bắn lúc 17g30 kèm theo lệnh phá hủy tối đa trang thiết bị quân sự.

    Trong các chiến hào ngập bùn đất vì mưa phùn, những binh sĩ mỏi mệt, bơ phờ, cạn kiệt đạn dược, ngột ngạt vì mùi tử thi xung quanh mình, chờ đợi những con người nhỏ bé mặc quân phục xanh và đội nón cối đã đánh bại họ, nay đến bắt họ làm tù binh.

    Ở Paris, lúc xế chiều, Thủ tướng Joseph Laniel đăng đàn, gương mặt tái nhợt và căng thẳng. Trong bầu không khí ảm đạm, ông thông báo cái tin khủng khiếp bằng một giọng nhợt nhạt: "Cứ điểm trung tâm ĐBP đã thất thủ sau 20 ngày đêm chiến đấu khốc liệt". Sảng sốt, các nghị sĩ đồng loạt đứng bật dậy như một người duy nhất. Chỉ trừ những nghị sĩ cộng sản vẫn ngồi lại tại chỗ.

    Làm sao nước Pháp lại đi đến thảm họa này? Thảm bại ở ĐBP không chỉ làm vỡ toang sự hiện diện Pháp ở Đông Dương mà còn báo hiệu những bi kịch tương lai của sự sụp đổ chủ nghĩa thực dân. Nó báo hiệu tấn thảm kịch Algeria trên nền sự tan rã chính trị của một Đệ tứ cộng hòa đang bước vào giai đoạn hấp hối.

    Sự khởi đầu của kết thúc

    (...) Pierre Mendès France được bầu làm thủ tướng như một biện pháp chữa cháy (ngày 17-6-1954, tức năm ngày sau khi Joseph Laniel từ chức - ND). Được triệu tập khẩn cấp đến Matignon, ông không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc tăng tốc các thương lượng với ********* vốn đã được khởi đầu tại Genève bởi ngoại trưởng dưới trào Laniel là Georges Bidault. Trong bài diễn văn nhậm chức, Thủ tướng Mendès France tuyên bố: "Mục tiêu của tôi là hòa bình". Hòa bình để có thời gian tập trung giải quyết các vấn đề ở Tunisia và Morocco và để bảo toàn "an toàn cho những khu lãnh thổ ở Algeria của chúng ta".

    Nước Pháp chẳng còn gì trong tay để thương lượng. (Hội nghị Genève về Đông Dương khai mạc ngày 8-7 và Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết ngày 21-7- ND). Đông Dương thuộc Pháp đã tiêu tùng và đoàn quân lê dương cúi gằm mặt trở về. Trong năm đó, cuộc chiến Algeria bắt đầu (ngày 1-11). Và trong các vùng núi Bắc Phi, nhiều sĩ quan Pháp lại thề rằng lần này họ sẽ không đầu hàng. Một tấn bi kịch khác lại hình thành...

    Tuổi trẻ (Trích dịch từ bài viết của Pierre Beylau trên tuần báo Le Point số 1648)

  4. hairyscary

    hairyscary Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/10/2003
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    1
    Không thể đồng ý với cách diễn giải của MDB
    Thứ nhất: cao xạ 37 ly dùng kính ngắm thường, vậy thì pháo thủ buộc phải nhìn thẳng vào máy bay địch qua kính ngắm để bắn. Không lẽ lại nhìn cong hay quay mặt đi chỗ khác?!! Cứ vậy mà nói thì máy bay Pháp ở Điện Biên Phủ nó tự rơi chứ chẳng phải do cao xạ 37 ly của *********. Đã đành đường đạn đi không thẳng vì trọng lực, nhưng kính ngắm được thiết lập với phần bù tính cho độ rơi của quả đạn.
    Thứ hai: MDB dịch sai sơ đồ của MDB đưa ra. Theo chỉ dẫn trên sơ đồ đó thì tốc độ tiếp cận mục tiêu trước khi bổ nhào là 475 knts (fly the approach straight and level at 475 knts). Máy bay bắt đầu bổ nhào từ cách mục tiêu 3 nm (when range to the target is 3 nm push the nose over) và thả bom khi cách mục tiêu 0.9 nm ở độ cao 4000 feet (release the bomb at 4000 feet; the distance to the target will be 0.9 nm) và tốc độ lúc thả bom là 535knts (approximately 535 knts). Như vậy 535 knts chỉ là tốc độ lúc cắt bom. 4000 feet là độ cao lúc cắt bom, chứ không phải là lúc bổ nhào. Tốc độ khi bổ nhào là 475 knts, và khoảng cách theo phương nằm ngang kể từ khi bổ nhào đến lúc cắt bom là 3nm-0.9nm=2.1nm. Đây chỉ là khoảng cách theo phương nằm ngang, khoảng cách thực thể máy bay phải đi là cạnh huyền của tam giác vuông có góc nhỏ là 27 độ (nose over, dive angle at approximately 27 degree) là góc mũi máy bay chúi xuống để bổ nhào. Vậy xin MDB tính lại là 3 giây hay bao nhiêu giây.
    Nếu độ cao lúc bổ nhào là 4000 feet như MDB dịch, thì với tốc độ 535knts mà MDB tính, thì độ cao lúc cắt bom còn bao nhiêu? Giả sử như thế thật thì chẳng cần đến cao xạ 37 ly vì 4000 feet bằng khoảng 1300 mét, với tốc độ như thế thì lúc cắt bom chắc còn cách mặt đất vài chục mét, ta cứ lấy súng cao su ra mà bắn cho nó rẻ. Nếu không thì cứ để kệ vì khi bom rơi, bom sẽ nổ ngay dưới đít máy bay, miểng bom dư sức găm vào máy bay luôn, mỡ nó rán nó, khoẻ! Thực tế thì bổ nhào với những thông số tốc độ và độ cao như thế thì máy bay dễ lao xuống đất thành kamikaze luôn vì khó lòng ngóc đầu lên nổi.
    Thứ 3 là chẳng anh pháo phòng không nào đợi đến khi máy bay địch bổ nhào mới chỉnh pháo để bắn. Lúc nào cũng có trinh sát pháo dùng kính quang học hay radar báo trước. Và các pháo phải giữ máy bay trong kính ngắm từ xa, bám sát mục tiêu cho tới khi mục tiêu vào tầm bắm hay vào điểm bắn hiệu quả nhất. Chẳng ai đợi để chỉ cho mình có 3 giây để phản ứng cả.
    Anh MDB lôi cái sơ đồ ra dịch lung tung loè thiên hạ hay không biết tiếng Anh thật vậy?!!!!
    Câu nói ''''''''Nhằm thẳng quân thù mà bắn'''''''' không chỉ là một khẩu lệnh kỹ thuật máy móc. Ai chẳng biết là phải ngắm thẳng vào máy bay (qua kính ngắm), không lẽ đợi tới lúc ra trận rồi mới dậy nhau. Phải hiểu là với cương vị chính trị viên, NVX động viên anh em dũng cảm đối mặt với quân thù. Đó chính là lý do mà câu nói này nổi tiếng.
    Mà tui có thắc mắc nhỏ: Câu nói nổi tiếng này của NVX được nói vào ngày anh hy sinh. Trước đây tôi vẫn tưởng anh NVX hy sinh khi bảo vệ cầu Hàm Rồng, dưng mà ở đây thì MDB lại nói là ở Quảng Bình. Bác nào làm ơn chỉ giáo giùm.
    Được HairyScary sửa chữa / chuyển vào 04:54 ngày 20/06/2004
  5. thichatoz

    thichatoz Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    118
    Đã được thích:
    0
    Tôi có 1 thắc mắc nhỏ mong các cao thủ chỉ giáo trong topic này: mọi người đều biết chúng ta đã chiến thắng quân Pháp tại Điện Biên Phủ một cách oai hùng và bắt sống toàn bộ Ban Chỉ Huy và tưóng Đờ Cát.,khắp thế giới đều kính phục
    Tuy nhiên, trong một số tài liệu hiện nay có mâu thuẫn tại địa điểm bắt Đờ Cát ( riêng trong 31 trang tranh luận tại đây cũng có 2 trang kể về sụ kiện này, có ngưòi tự nhận là bắt sống Đờ Cát tại hầm chỉ huy và có một số đồng đội chứng kiến,người khác lại kể là bắt sống tại bờ sông khi Đờ Cát cùng các tướng lĩnh khác kéo ra.
    Còn gì vinh quang hơn khi chính tay mình bắt sống đuợc tướng giặc,tuy nhiên không nên nhận bừa lung tung nếu mình không làm được điều đó ( cũng giống như chiếc xe tăng nào đầu tiên tiến vào Dinh Độc lập năm 75,điều này mãi gần đây mới đưọc chính xác nhờ các nhà báo nước ngoài,người trong cuộc thì.....) mặc dù tất cả các sự kiện đều là quân ta đánh thắng,quân ta thực hiện nhưng tôi muốn biết chính xác ai là người đã làm được điều này?bây giờ nhưng người lính này còn sống không giải đáp chính xác thì liệu 15,20 năm nữa ai trả lời được?
  6. corbetti

    corbetti Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2003
    Bài viết:
    941
    Đã được thích:
    1
    Tôi tình cờ đọc một đoạn trích về tuyên bố của dân Gò Công với thực dân Pháp, đăng lại cho các bạn đọc để biết thêm chí khí của người dân Nam Bộ cũng như người Việt ta.
    Your country belongs to the Western seas, ours to the seas of the East. Just as the horse and the buffalo differ between themselves, so do we differ by our language, our writings and our customs.... Everywhere man has the same value, but his nature is not the same.
    (Taken from an 1862 declaration, by the inhabitants of Go-Cong province in southern Vietnam, to the French, "warning the invaders that they would fight to the death for the return of the territory ceded the previous years" - Vietnam and the West. - Smith, Ralph (1968) - London, Heinemann.),
  7. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Nhân nói về chuyện này, em nghe kể khi giặc tây chiếm được lục tỉnh, triều đình nhất quyết phản chiếm lại và nhất là vùng Gò Công là vì đức Từ Dũ mẹ của vua Tự Đức là người vùng này. Sau đó, khi Phan Thanh Giản phải ký hoà ước nhường lục tỉnh lại cho tây, ở Gò Công có 1 vùng bọn Tây không được bén tới. Đó chính là làng Hoàng Gia, quê của bà Từ Dũ. Ngày nay bác nào đi chơi Gò Công, cũng nên ghé qua làng Hoàng Gia (nó nằm ngay trên đường Sài Gòn - Gò Công, qua đò Mỹ Thuận chứ không phải cầu), để hiểu tại sao dân Nam Bộ lại tôn sùng đức bà Từ Dũ như thế...
  8. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Đồ hay :
    Từ Điện Biên tới Genève ​
    [​IMG]
    Phái đoàn Việt Nam tiếp thủ tướng Pháp tại Genève, tháng 7-54.
    Từ trái sang phải : Tạ Quang Bửu, Trần Công Tường, Phạm Văn Đồng, Mendès France, Phan Anh.
    Cách đây đúng 50 năm, Hội nghị Genève đã kết thúc cuộc «chiến tranh Đông Dương ». Người ta vẫn lấy 20.7 làm ngày kí kết Hiệp định. Thực ra, đến nửa đêm ngày hôm đó, cuộc đàm phán vẫn chưa ngã ngũ. Đến 2 giờ sáng ngày 21, hiệp nghị đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và Lào mới hoàn thành, mang chữ kí của ông Tạ Quang Bửu, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, và thiếu tướng Delteil, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên hiệp Pháp tại Đông Dương. Hiệp nghị ngưng chiến ở Campuchia phải đến cuối buổi sáng mới kí xong. Và buổi chiều ngày 21, Hội nghị mới họp phiên bế mạc để thông qua văn bản « Tuyên bố cuối cùng ». Hai văn kiện này (Tuyên bố cuối cùng và Hiệp nghị đình chỉ chiến sự) hợp thành « Hiệp định Genève » năm 1954 về Việt Nam, đều ghi ngày 20.7.1954. Để hình thức công pháp quốc tế được tôn trọng, vào lúc nửa đêm ngày 20.7, hai chiếc kim đồng hồ ở phòng lớn Palais des Nations đã được giữ bất động ở con số 12. Thủ thuật ngoại giao hiếm có này được sử dụng để « giữ lời » cho trưởng đoàn Pháp, thủ tướng Pierre Mendès-France :đêm 19-6, trước quốc hội Pháp, « PMF » (được cử thay thế Joseph Laniel) đã cam kết sẽ tái lập hoà bình ở Đông Dương trong vòng một tháng, muộn nhất là ngày 20.7.1954, nếu không ông sẽ từ chức.
    Chi tiết đó không phải là điều « bất thường » duy nhất của Hội nghị và Hiệp định Genève. Chúng ta còn nhớ trong suốt hai thập niên sau đó, chính quyền Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hoà vẫn một mực khăng khăng là họ không hề « ký » hiệp định (đồng thời họ lại tố cáo « bên kia » đã « vi phạm hiệp định ») do đó họ không bị hiệp định « ràng buộc ». Luận điểm này, về mặt hình thức, không hoàn toàn sai : văn bản Tuyên bố cuối cùng không mang chữ ký của ai cả (khi bắt đầu hội nghị, ngoại trưởng Hoa Kỳ Foster Dulles đã thề thốt không bao giờ kí chung một văn bản nào với đại diện « Trung Cộng »), nhưng các trưởng đoàn (kể cả trưởng đoàn Mĩ, Bedell Smith) đã đọc tuyên bố « ghi nhận » hiệp định. Trưởng đoàn « Quốc gia Việt Nam », ông Trần Văn Đỗ, phản đối việc chia cắt đất nước, nhưng đó chỉ là lời phản đối suông. Về mặt chính trị, Tuyên bố cuối cùng khẳng định « giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi là một ranh giới về chính trị hay về lãnh thổ » (điều 6), « việc giải quyết các vấn đề chính trị, thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những tự do căn bản bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín (...) cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7 năm 1956 ». Thái độ tránh cam kết của chính quyền Eisenhower và lời phản đối của chính quyền Ngô Đình Diệm thực ra là nhằm chống tổng tuyển cử thống nhất đất nước (sau này, tổng thống Mĩ đã thẳng thắn thừa nhận trong hồi kí rằng nếu tổ chức bầu cử thì « các nhà quan sát đều cho rằng Hồ Chí Minh sẽ giành được 80 % phiếu bầu »).Việc chia cắt đất nước (mà Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị phủ nhận về mặt nguyên tắc) theo vĩ tuyến 17, như mọi người đều biết, là kết quả của sự từ chối tổng tuyển cử. Về mặt văn bản, hai miền Bắc và Nam chỉ là vùng tập kết quân sự và quản lí tạm thời. Mà văn bản hiệp nghị đình chỉ chiến sự lại được kí kết hẳn hoi : hai năm sau, khi quân đội Pháp rút khỏi miền Nam theo một sự thoả thuận giữa Pháp và chính quyền VNCH, thì đương nhiên chính quyền này là người kế tục chữ kí của tướng Delteil.
    Nói dông dài về câu chuyện « kí kết » như vậy để dứt điểm một cuộc cãi chày cãi cối hết sức vô duyên và 50 năm sau trở thành vô nghĩa. Về thực chất, sự chia cắt đất nước là do sự áp đặt quốc tế trong bối cảnh chiến tranh lạnh (sẽ đề cập trong phần sau). Ngay ở đây, thiết tưởng chỉ cần kể lại một sự việc mà ít người biết chính xác : tối 22-7 (một ngày sau khi Hội nghị Genève bế mạc), trưởng đoàn Trung Quốc Chu Ân Lai mời cơm tối 5 người : Sananikone (đại diện Chính phủ Hoàng gia Lào), Tep Phan (Chính phủ Hoàng gia Cam-puchia), Phạm Văn Đồng và Tạ Quang Bửu (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà), Ngô Đình Luyện (Chính phủ Quốc gia Việt Nam, em trai út của thủ tướng Ngô Đình Diệm). Theo lời kể của luật gia Hoàng Nguyên (thành viên phái đoàn VNDCCH) :
    « Như vậy là có cả bốn đoàn đại biểu Đông Dương. Chu Ân Lai đề nghị mọi người nâng cốc chúc Bảo Đại, vua Lào và vua Campuchia mà không hề nhắc tới việc Việt Nam bị chia cắt. Chu Ân Lai nói : Chủ nghĩa Mác chỉ là một cách làm, người ta gắn bó với nó vì nó mang lại những kết quả tốt đẹp, nhừng điều mấu chốt đối với Trung Quốc vẫn là thống nhất đất nước (mà không nói đến thống nhất Việt Nam). Chu Ân Lai xếp Ngô Đình Luyện và Tạ Quang Bửu ngồi gần nhau, và gợi ý cho hai người cùng nhau ôn lại kỉ niệm của thời gian hai người học chung một trường [trường Quốc học Huế, chú thích của DĐ]. Khi Ngô Đình Luyện nhận xét rằng chiến tranh đã phá hoại nhiều di tích cổ truyền của Việt Nam, Chu nói luôn rằng Luyện có thể tới Bắc Kinh để xem những cổ tích nguyên mẫu. « Nhưng tôi sẽ đi với tư cách gì ? », Luyện hỏi. « Tại sao các ông không đặt một cơ quan đại diện ngoại giao ở Bắc Kinh ? ». Câu trả lời làm Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu giật bắn người lên. » (xem [HN] trang 45, lời tường thuật này phù hợp với tư liệu của nhà sử học Pháp François Joyaux, nhưng đầy đủ chi tiết hơn).
    Giai thoại vừa kể trên cho ta hiểu ý kiến của ông Phạm Văn Đồng nhiều năm sau :
    « Tổng kết hội nghị Genève năm 1954 sau này, Phạm Văn Đồng nói : ''''Mĩ-Anh Pháp dần dần đi đến nhất trí về việc chia cắt Việt Nam (đây là nói chia cắt lâu dài). Liên Xô, Trung Quốc rất tán đồng giải pháp ấy và ép ta. Vấn đề này đối với tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Ta chưa độc lập, tự chủ, ta cả tin bạn'''' » (sđd, tr. 52).
    Trước khi trở lại tình thế của phái đoàn Việt Nam ở Genève, phân tích tương quan lực lượng ngoại giao quốc tế tại Hội nghị, cũng cần trở lại sự kiện lịch sử diễn ra một ngày trước trước khi Hội nghị về Đông Dương mở đầu : chiến thắng Điện Biên Phủ 7-5-1954. « Đấu tranh quân sự gắn liền ngoại giao », như câu thơ ứng khẩu của luật sư Phan Anh tối ngày 8-5 (sđd, tr.17). Lần đầu tiên và cho đến nay, lần duy nhất trong lịch sử, một nước thực dân và một nước thuộc địa ngồi vào bàn đàm phán sau một đại bại như vậy. J.-P. Chévenement, trước khi lên làm bộ trưởng quốc phòng Pháp, có lí khi ông gọi Điện Biên Phủ là chiến thắng « Valmy của các dân tộc thuộc địa ».
    (còn tiếp)
    Được panzerlehr sửa chữa / chuyển vào 22:13 ngày 08/07/2004
  9. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo)
    Điện Biên Phủ, nhà sử học Phan Huy Lê nhận xét rất đúng, « là một trận quyết chiến mà cả hai phía đều chấp nhận, biết trước và ra sức chuẩn bị, quyết tâm giành thắng lợi » (Xưa và Nay, số 210, 4-2004, tr 3). Chỉ cần nói thêm : mỗi phía đều muốn giành thắng lợi quyết định trước khi bước vào bàn hội nghị.
    Hồi kí của tướng lĩnh và chiến sĩ hai bên cũng như các công trình sử học Âu-Mĩ đã kể lại tường tận diễn biến trận đánh 55 ngày đêm lịch sử này (*). Điều đáng ngạc nhiên là các hồi kí của hai bên không hề mâu thuẫn nhau, mà phù hợp và bổ sung nhau (chỉ cần đối sánh hồi kí của thiếu tướng Langlais và hồi kí của đại tướng Võ Nguyên Giáp, xem [L] và [G1] trong thư mục ở cuối bài). Mâu thuẫn và bất nhất chỉ có trong thành kiến của người ta về Điện Biên Phủ. Đó là những thành kiến hoặc ngộ nhận một phần xuất phát từ những tin tức báo chí tuyên truyền ở thời điểm 1954 (thí dụ : không ít người vẫn tin rằng ở Điện Biên Phủ, ********* dùng chiến thuật « biển người »), một phần vì trong một thời gian dài, phía Việt Nam không công bố về sự viện trợ của Trung Quốc (và đến khi Việt Nam và Trung Quốc xung đột, thì phía Trung Quốc thổi phồng vai trò của mình ở Điện Biên Phủ), đó là không kể những định kiến có tính chất « ý thức hệ » (thí dụ : một vài nhà báo Pháp muốn biến ĐBP thành một trận giao tranh giữa quân đội Pháp và quân đội Trung Quốc, hình như đối với họ, như vậy thất bại đỡ « ê chề » hơn ; tương tự, một vài nhà « nghiên cứu » không ngần ngại ngồi an toạ ở Orange County năm 2004 mà kể vanh vách chuyện ĐB, phong cho tướng Trần Canh vai trò chỉ huy, trong khi chỉ cần đọc tài liệu Âu Mĩ hay các hồi kí Việt Nam và Trung Quốc, cũng biết rằng Trần Canh làm cố vấn ở chiến dịch biên giới, năm 1950, rồi về nước, không hề có mặt ở ĐBP).
    Vì vậy, trong bài này, chúng tôi không nhắc lại diễn biến trận đánh (có thể tìm thấy trong các sách) mà chỉ đề cập đến một vài điểm mấu chốt thường được hiểu sai, hoặc cho đến gần đây, mới có thể biết rõ thực hư.
    Trước hết, là tương quan lực lượng giữa đôi bên. Quân số và vũ khí, thiết bị của mỗi bên, cả hai bên đều biết ngay từ những ngày đầu một cách khá chính xác :
    Trên toàn bộ chiến trường Đông Dương, quân số Liên hiệp Pháp lớn hơn hẳn quân đội kháng chiến : 445 000 người (1/3 là lính Âu Phi, 2/3 lính Việt Nam) ?" 193 000. Tính theo đơn vị : phía Pháp có 267 tiểu đoàn (mỗi tiểu đoàn có từ 800 đến 1000 người), phía kháng chiến 127 tiểu đoàn (trung bình 635 người). Tuy nhiên, phía kháng chiến có 2 lợi thế lớn : ngoài chủ lực quân, có khoảng 2 triệu dân quân ; đại bộ phận quân Pháp phải phân tán, đóng chốt, dàn mỏng khắp các địa bàn còn chủ lực quân của kháng chiến có thể tập trung đánh ở những những địa bàn có chọn lựa.
    Tại Điện Biên Phủ, Pháp tập trung 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo 105 li (24 khẩu), 2 tiểu đoàn súng cối 120 li (24 khẩu), 1 đại đội pháo 155 li (4 khẩu), 1 đại đội xe tăng 18 tấn (10 chiếc). Không quân : ngoài số máy bay tại chỗ (2 sân bay), Pháp huy động 2/3 lực lượng máy bay chiến đấu ở toàn Đông Dương và hầu hết máy bay vận tải, về sau có thêm cả máy bay vận tải của Mỹ. Tổng số quân Pháp tại chỗ : 12 000 quân (trước khi vào trận, tướng Navarre đề nghị đưa thêm 3 tiểu đoàn, nhưng de Castries phải từ chối vì... không còn chỗ). Kể cả các đợt tiếp viện trong 2 tháng, tổng số quân Pháp lên tới 16 000 người.
    Phía kháng chiến : 27 tiểu đoàn (với quân số trung bình bằng 2/3 tiểu đoàn Pháp) thuộc 9 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn sơn pháo 75 li (24 khẩu), 2 tiểu đoàn pháo 105 li (24 khẩu), 4 đại đội súng cối 120 li (16 khẩu), 1 trung đoàn cao xạ pháo 37 li (24 khẩu) và 2 tiểu đoàn công binh.
    Như vậy là về mặt quân số, tỉ lệ phía tiến công so với phía phòng thủ thấp hơn 3/1 (là tỉ lệ bình thường của một cuộc bao vây tấn công). Vũ khí phía Việt Nam được trang bị tốt hơn trước (do viện trợ của Trung Quốc), song vẫn còn thua Pháp, nhất là về đạn dược. Chỉ tính riêng đạn 105 li, Pháp đã bắn khoảng 130 000 trái, phía Việt Nam chỉ có tổng cộng 20 000 trái, gồm : 11 000 viên chiến lợi phẩm của chiến dịch biên giới, 3 600 viên do Trung Quốc viện trợ kèm theo pháo, 440 viên chiến lợi phẩm ở mặt trận Trung Lào, 5 000 viên do Pháp thả dù xuống Điện Biên Phủ (khoảng 1/3 vũ khí và vật dụng thả dù rơi vào tay kháng chiến)(xem [G1], trang 348).
    Thoạt trông, sự chênh lệch về đạn dược có vẻ như khó tin, nhất là khi ta đọc cảm tưởng của binh sĩ Pháp thoát chết trong trận « mưa pháo » đêm 13.3 ở đồi Béatrice (Him Lam) và Gabrielle (Độc Lập) : 2000 viên đại bác rót tập trung và chính xác vào hai ngọn đồi này đã đạt hiệu quả tối đa và gây kinh hoàng cho toàn bộ tập đoàn cứ điểm, trong khi đại bác của phía Pháp cấp tập bắn ra tứ phía, không tìm ra mục tiêu (như ta biết, Piroth đã tự sát 24 giờ sau).
    Điều mà gần đây người ta mới biết là ở thời điểm 1953-54, kho vũ khí của Trung Quốc cũng gần cạn sau 3 năm chiến tranh Triều Tiên (xem [Z]). Hồi kí của tướng Giáp cũng xác nhận : Trung Quốc đã vét ở các đơn vị pháo binh được thêm 7 400 viên đại bác 105 li (cho đủ số 10 000 đã hứa), nhưng số đạn này tới nơi vào trung tuần tháng 5.54 khi trận đánh đã kết thúc. Tướng Pierre Langlais, « người chỉ huy thực sự » ở Điện Biên Phủ (lúc đầu là trung tá, rồi được phong đại tá tại trận) đã viết trong hồi kí của ông : « Et si l''on veut bien regarder les choses en face, l''aide chinoise au Vietminh n''était qu''une goutte d''eau à côté du torrent du matériel américain qui coulait dans nos rangs. » ([L], tr.150, tạm dịch : « Nếu phải nói sòng phẳng, thì viện trợ của Trung Quốc cho ********* chỉ là một giọt nước so với dòng suối vật liệu Hoa Kì chảy tràn trề trong hàng ngũ chúng ta »).
    Nếu chỉ căn cứ vào tương quan lực lượng (quân số và vũ khí, tiếp tế) nói trên, không thể nói trước ai sẽ thắng ai, càng không thể nói thắng lợi đó là « tất yếu ». Tất nhiên, tướng Navarre và Bộ chỉ huy Pháp đã mắc nhiều sai lầm, trong đó nghiêm trọng nhất không phải là họ không biết đối phương có bao nhiêu lực lượng, mà vì họ tin chắc rằng ********* không thể mở ra một trận đánh dài quá 7 ngày tại một địa điểm cách hậu phương từ 300 đến 500 km (đường tiếp tế lại đi qua rừng sâu núi cao). Tuy vậy, họ hoàn toàn có cơ sở để nghĩ rằng ********* sẽ « gãy răng » khi muốn tiêu diệt « con nhím » Điện Biên (49 cứ điểm, 12 tiểu đoàn) phòng thủ kiên cố : năm 1953, ********* không tiêu diệt được nổi cứ điểm Nà Sản (chỉ có 2 tiểu đoàn). Tấn công và tiêu diệt một tập đoàn cứ điểm như Điện Biên Phủ vào mùa xuân năm 1954 là một bài toán mà tướng Giáp chưa có lời giải, không có kinh nghiệm. Và Navarre có thể hi vọng « bẻ gãy xương sống » đối phương trong trận này để giành thế thượng phong trên bàn đàm phán. Đầu năm 1954, Navarre chỉ sợ một điều : ********* không sa vào bẫy Điện Biên. Sau này, Navarre và Cogny (chỉ huy chiến trường Bắc Bộ) sẽ đổ lỗi cho nhau, nhưng đầu tháng 3, trước giờ nổ súng, Navarre bắt đầu lung lay, muốn điều thêm 3 tiểu đoàn, thì de Castries từ chối vì « hết chỗ », còn Cogny phản đối vì « làm như vậy nhỡ Giáp sợ, không dám tấn công nữa thì hỏng kiểu ». Không riêng bộ chỉ huy Pháp mà các quan chức Pháp (bộ trưởng Pleven, Jacquet, de Chevigné, tướng Ely, đô đốc Auboyneau) và Anh Mĩ (Sir Malcolm MacDonald, các tướng Mĩ O''Daniell, Trapnell, tướng Anh Spear và Lowell) đi thăm « con nhím » về đều lạc quan và tin tưởng.
    Về phía Việt Nam, lạc quan và tin tưởng cũng thể hiện rõ trong kế hoạch « đánh nhanh thắng nhanh » trong vài ngày mà bộ chỉ huy tiền trạm đã thông qua từ tháng 12.53 với sự « gợi ý » của cố vấn Trung Quốc Mai Gia Sinh (Mei Jiasheng), đảo lộn hẳn kế hoạch « đánh chắc tiến chắc » của Tổng quân uỷ (dự kiến kéo dài khoảng 45 ngày, bắt đầu vào trung tuần tháng 2). Pháo được « kéo vào » trận địa để chuẩn bị nổ súng ngày 25.1 trước khi « nhân hải » (biển người) tràn ngập cứ điểm của quân địch như Giải phóng quân Trung Quốc đã làm ở Triều Tiên mấy năm trước.
    Ngày 12.1, đại tướng Võ Nguyên Giáp ra tới mặt trận. Tướng Vi Quốc Thanh (Wei Guoqing), trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, cũng tới nơi vào thời điểm này. Thấy kế hoạch « đánh nhanh thắng nhanh » không ổn, không bảo đảm chắc thắng (và vượt khả năng của bộ binh, pháo binh, lại gây ra những thương tổn quá mức chịu đựng của quân đội), tướng Giáp muốn tranh thủ sự đồng tình của Vi Quốc Thanh trước khi quyết định đổi kế hoạch, nhưng cố vấn Trung Quốc vẫn một mực : « Qua bài học Nà Sản, tất cả đều nhất trí là ở Điện Biên Phủ lần này ta nên tranh thủ đánh sớm đánh nhanh và có nhiều khả năng đánh thắng » (xem [G1] và các bài của Phan Huy Lê và Hoàng Minh Phương, Xưa và Nay, số 208 và 210).
    Bây giờ, chúng ta biết rõ tướng Giáp, sau một đêm không ngủ, nhức đầu, sáng 26.1.1954, trên trán buộc một bó ngải cứu, đã đi tới « một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình » như thế nào. Ông phải một mình quyết định, rồi tranh thủ sự đồng ý của Vi Quốc Thanh và thuyết phục các tướng lĩnh trong bộ chỉ huy trong cuộc họp buổi sáng 26. Lần này, trưởng đoàn cố vấn đã nhanh chóng ủng hộ ý kiến của « Võ Tổng » vì bản thân ông cũng đã thấy vấn đề từ mấy ngày trước. Theo tài liệu của Trung Quốc, thì ngày 24.1, ông đã gửi điện về Bắc Kinh. Một vài bài báo Trung Quốc đã hé ra ý rằng chính lãnh đạo Bắc Kinh đã đề ra việc đổi kế hoạch. Nhưng nay mọi sự đã minh bạch : bức điện của Bắc Kinh, theo tài liệu của hồ sơ lưu trữ Trung Quốc, đề ngày 27.1, và đến mặt trận một ngày sau khi Bộ tư lệnh Việt Nam đã quyết định, pháo đã được « kéo ra », và đại đoàn 308 của tướng Vương Thừa Vũ đã rời trận địa, tiến quân « nghi binh » sang Thượng Lào (xem bài của Phan Huy Lê đã dẫn). Về phía Việt Nam, để bảo mật, báo cáo của tướng Giáp gửi chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban thường vụ Đảng Lao động không dùng đường vô tuyến và do giao liên cầm tay, phải nhiều ngày mới về tới An toàn khu.
    Chiến thắng Điện Biên tất nhiên là công lao của bao nhiêu chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu và hy sinh, của hàng trăm ngàn dân công gánh bộ hay đẩy xe thồ hàng trăm kilômét từ Việt Bắc, từ Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, ra mặt trận. Nhưng bao nhiêu công lao ấy rất có thể đã không trở thành chiến thắng nếu không có quyết định ngày 26.1.1954. Quyết định ấy biểu lộ bản lĩnh của một bậc đại tướng. Ý nghĩa hơn cả, nó là một bài học quý báu về tinh thần độc lập và trách nhiệm. Trách nhiệm đối với vận mạng dân tộc. Độc lập, phải giành lấy từ kẻ thù. Và độc lập đối với cả đồng minh cồng kềnh mà hào quang chiến thắng một phần là thực tế khách quan, song một phần cũng do sự ngây thơ cả tin.
    Trong phần sau về hội nghị Genève, chúng ta càng thấm thía bài học đó. Và hiểu tại sao, 20 năm sau, Việt Nam đã cương quyết và kiên định thương lượng trực tiếp, tay đôi với Hoa Kì, từ chối mọi « hội nghị Genève ».
    Nguyễn Ngọc Giao
    (*) Phát súng khai hoả trận ĐBP nổ vào lúc 17g05 ngày 13.3.1954 ; quân Pháp hạ súng đầu hàng vào lúc 17g30 ngày 7.5. Trận ĐBP kéo dài đúng 55 ngày 25 phút. Nếu tính 13.3 là ngày thứ nhất, thì 7.5 là ngày thứ 56. Tuy nhiên, các sách báo vẫn thường viết tuỳ tiện 55, 56, thậm chí 57 ngày.
    Thư mục :
    [G1] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ĐIỆN BIÊN PHỦ Điểm hẹn lịch sử, hồi ức, Hữu Mai thể hiện, nxb Quân đội Nhân dân, 2000.
    [G2] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đường tới ĐIỆN BIÊN PHỦ, hồi ức, Hữu Mai thể hiện, nxb Quân đội Nhân dân, 2001.
    [G3] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, hồi ức, Hữu Mai thể hiện, nxb Quân đội Nhân dân, 1995.
    [HN] Hoàng Nguyên, Hội nghị Genève năm 1954 về Đông Dương, tài liệu nội bộ, 2002, 84 trang.
    [L] Général Pierre LANGLAIS, DIEN-BIEN-PHU, e***ions France-Empire, Paris, 1963.
    [PR] Pierre ROCOLLE, Pourquoi DIEN BIEN PHU ?, Flammarion, 1992.
    [R] Alain RUSCIO, DIEN BIEN PHU La fin d''une illusion, Coll. Racines du Présent, L''Harmattan, 1987.
    [YG] Général Yves GRAS, Histoire de la guerre d''Indochine, Coll. L''Aventure coloniale de la France, Denoël, 1992.
    [Z] Qiang ZHAI, China & The Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, Chapel Hill and London, 2000.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sắp đến ngày kỷ niệm 51 năm, em đã tổng kết các đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Em liệt kê tới mức các đại đội! Vẫn còn thiếu nhiều, mong các bác bổ sung!
    Các đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ
    1.Đại đoàn 308-Quân Tiên Phong (mật danh Việt Bắc):
    -Trung đoàn 36-Bắc Bắc (mật danh Sa Pa)
    +Tiểu đoàn 80
    +Tiểu đoàn 84-Đại đội 43
    +Tiểu đoàn 89-Đại đội 395-397-399
    -Trung đoàn 88-Tu Vũ (mật danh Tam Đảo)
    +Tiểu đoàn 23
    +Tiểu đoàn 29-Đại đội 209-213-217
    +Tiểu đoàn 322-Đại đội 211-229
    -Trung đoàn 102-Trung đoàn Thủ đô (mật danh Ba Vì)
    +Tiểu đoàn 18-Đại đội 263-265 (trợ chiến)
    +Tiểu đoàn 54-Đại đội 267
    +Tiểu đoàn 387-Đại đội 78
    Đại đội 895, 281(trung đoàn 102), 219 (trung đoàn 88)
    2.Đại đoàn 304-Vinh Quang (mật danh Nam Định):
    -Trung đoàn 57 (mật danh Nho Quan)
    +Tiểu đoàn 265-Đại đội 17-18-19
    +Tiểu đoàn 346
    +Tiểu đoàn 418-Đại đội 54-59
    -Trung đoàn 9 (mật danh Ninh Bình)-Có mặt vào ngày 25-4-1954
    +Tiểu đoàn 353-Đại đội 87
    +Tiểu đoàn 375-Đại đội 71-73-138
    +Tiểu đoàn 400-Đại đội 83
    3.Đại đoàn 312-Chiến Thắng (mật danh Bến Tre):
    -Trung đoàn 141-Ba Vì (mật danh Đầm Hà)
    +Tiểu đoàn 11 (Tiểu đoàn Phủ Thông)-Đại đội 243-241
    +Tiểu đoàn 16-Đại đội 20
    +Tiểu đoàn 428-Đại đội 58-77
    -Trung đoàn 165-Lao Hà (mật danh Đông Triều)
    +Tiểu đoàn 115-Đại đội 503
    +Tiểu đoàn 564
    +Tiểu đoàn 542
    -Trung đoàn 209-Sông Lô (mật danh Hồng Gai)
    +Tiểu đoàn 130-Đại đội 360-366
    +Tiểu đoàn 154-Đại đội 606-618
    +Tiểu đoàn 166
    Đại đội 203, 209, 670,
    4.Đại đoàn 316-Việt Bắc: 3 trung đoàn
    -Trung đoàn 98-Tây Bắc (mật danh Ba Đồn)
    +Tiểu đoàn 439: Đại đội 81-82-83-1481 (trợ chiến cối 81,84-mật danh chiến dịch)
    Đại đội 56
    -Trung đoàn 174-Cao Bắc Lạng (mật danh Sóc Trăng)
    +Tiểu đoàn 249: Đại đội 317-316-315
    +Tiểu đoàn 255: Đại đội 924-925-926-653
    +Tiểu đoàn 251: Đại đội 671
    -Trung đoàn 176-Việt Bắc (mật danh Lạng Sơn): chỉ có 1 tiểu đoàn tham gia chiến dịch
    Tiểu đoàn 888-Đại đội 811
    5.Đại đoàn 351-Công-Pháo (mật danh Long Châu): 3 trung đoàn
    -Trung đoàn sơn pháo 675: ---Đại đội 753-755
    -Trung đoàn cao xạ 367 (mật danh Hương Thuỷ):
    +Tiểu đoàn 381
    +Tiểu đoàn 383-Đại đội 815-817-818
    +Tiểu đoàn 384
    +Tiểu đoàn 394-Đại đội 827, 828, 829
    +Tiểu đoàn 392
    +Tiểu đoàn 396-Đại đội 831, 832, 833, 834
    Trong đó 2 tiểu đoàn 383 và 394 tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ ngay từ đầu còn các tiểu đoàn khác thì bắt đầu tham gia chiến dịch từ giai đoạn 2.
    Trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Điện Biên Phủ là tiểu đoàn 383 và 394. Sau đó, đại đội 833 của tiểu đoàn 396 thay cho đại đội 827 của tiểu đoàn 394 đã mất sức chiến đấu.
    Còn các tiểu đoàn khác có nhiệm vụ bảo vệ đường giao thông, những con đèo quan trọng, bến phà Tạ Khoa.
    -Trung đoàn lựu pháo 45 (mật danh Tất Thắng)
    +Tiểu đoàn 632-Đại đội 801-802-803
    Đại đội 804, 805, 806
    -Trung đoàn công binh 151
    Đại đội 130
    Ngoài ra còn có 3 tiểu đoàn súng cối và 1 tiểu đoàn hoả tiễn 6 nòng.
    Em nói thêm một tẹo về tiểu đoàn Katysha này. Cái này thì nhiều bác đã biết là đến ngày 6 nó mới tham và bắn 2 loạt (144 viên). Tuy nhiên, chỉ bắn được loạt đầu thôi, còn đến loạt thứ 2 thì có 1 khẩu teo vì vỡ nòng!
    Cả chiến dịch, Trung đoàn pháo Tất Thắng là an toàn nhất, chỉ có 2 đồng chí "buồn" thôi, trong đó cũng chỉ có 1 người là do phía bom địch, còn 1 đồng chí khác là do tiếc chiếc áo mưa, giật vội khi đồng đội bắn nên bị áp suất đầu nòng và...

    Như vậy, có 9 trung đoàn bộ binh của 4 đại đoàn khác nhau và 1 đại đoàn công-pháo tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.
    Hai đại đoàn tác chiến ở các hướng phối hợp
    1.Đại đoàn 320-Đồng Bằng (mật danh Thẩm Dương): 3 trung đoàn
    -Trung đoàn 64 (mật danh Quyết Thắng)
    -Trung đoàn 48 (mật danh Thăng Long)
    -Trung đoàn 52 (mật danh Hồng Giang)
    2. Đại đoàn 325-Hương Giang (mật danh Hoành Sơn): 3 trung đoàn
    -Trung đoàn 101: hoạt động hướng Trung, Hạ Lào
    -Trung đoàn 18: hoạt động ở chiến trường Trị Thiên và Trung Lào
    -Trung đoàn 95: làm dự bị của Bộ, đứng chân trên địa bàn Liên khu 4
    Ngoài ra còn có 1 trung đoàn bộ binh thiện chiến trực thuộc Bộ là Trung đoàn 148.
    Em biết tên đại đội nhưng không biết nó thuộc tiểu đoàn, trung đoàn nào:
    Đại đội 38: 18h ngày 30-3-1954: chiếm xong C1
    Đại đội 812: ngày 11-4 chiến đấu ở C1
    Tiểu đoàn 426(?)
    --------------------------------------------------
    Em cũng đã thống kê được một số đơn vị tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh (cái này chỉ liệt kê đến cấp tiểu đoàn vì nó đông quá), bác nào có tài liệu thì gửi cho em với.

Chia sẻ trang này