1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến thắng Điện biên và cuộc chiến Việt Pháp

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi datvn, 06/05/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Mới kiếm ra thêm được 1 vài tài liệu trên báo QĐND về trận tấn công đồi A 1. Em vẫn không thấy nhắc đến việc E102 tham gia đợt cuối cùng (nhầm do thời gian về phía các cựu chiến binh chăng?). Nhưng có nhắc đến tổn thất của E 174 trong đợt 1 và 2 :
    Bão lửa đồi A1​
    Tôi được Quân y dìu về hậu cứ băng bó lại hai bàn chân, vì suốt đêm giẫm vào bùn đất có dính máu của đồng đội nên đã sưng tấy, phải chống gậy mới đi lại được. Chiều tối hôm đó nằm ở hậu cứ, tôi vừa đau vừa buồn, không hiểu anh em mình chiến đấu ra sao? Đang suy nghĩ mông lung thì có một đồng chí thương binh nhẹ về qua kể chuyện rằng: Lúc buổi chiều khi đi quan sát vị trí địch có một cán bộ của đơn vị bạn đã nói rằng: ?oCái đồn này chỉ cần hỉ mũi một cái là xong, thế mà không đánh được!?.
    Tôi cảm thấy xấu hổ vì đã không hoàn thành nhiệm vụ, lại bị đơn vị bạn coi thường. Tôi cảm thấy buồn quá, nhưng cũng giật mình nghĩ: lúc đầu anh em ta cũng chủ quan, cho rằng việc tiêu diệt A1 là không có gì khó khăn. E rằng đơn vị bạn cũng đi theo vết ấy thì sẽ bị vấp nặng đấy! Và đúng như vậy, đơn vị bạn cũng bị tiêu hao một bộ phận và không diệt được địch.
    Các trận chiến đấu kéo dài đến 4-4 thì dừng, địch tiếp tục chiếm đóng và củng cố công sự tại đây.
    Mấy ngày sau nữa, trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An, chính ủy trung đoàn Trần Huy và các tiểu đoàn trưởng lên Mường Phăng dự hội nghị sơ kết đợt hoạt động.
    Không khí cuộc họp thật nặng nề. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phân tích khuyết điểm của các đơn vị, phê bình đồng chí Nguyễn Hữu An và đồng chí Trần Huy: Một trung đoàn phó bị cách chức, một cán bộ tiểu đoàn thuộc trung đoàn 102 bị kỷ luật vì dao động trong chiến đấu. Tôi đã nín thở, lạnh người chờ nghe tuyên bố kỷ luật đối với mình, nhưng may quá, không có chuyện gì xảy ra nữa! Dọc đường về, tôi hỏi Dũng Chi: ?oCậu nghĩ thế nào về vấn đề thi hành kỷ luật này??. Dũng Chi nói: ?oÚi trời! Còn nghĩ nữa! Sợ bỏ mẹ ấy chứ! May cho mày đấy! Hôm nọ tao nghe lỏm mấy ông bàn thi hành kỷ luật cả lũ trong đó có mày, người bảo phải cảnh cáo, người nói phải cách chức?. Tôi hỏi: ?oTại sao người ta khép tội tớ, còn cậu thì bỏ qua??. Dũng Chi cười khà khà nói đùa: Tại cậu là tiểu đoàn trưởng chủ công nên tội lớn hơn cả! Tôi cũng bật cười vì tính vô tư và câu nói đùa đó, nhưng cảm thấy ấm ức trong lòng.
    ... Đại đoàn lại giao cho trung đoàn 174 nhiệm vụ tiếp tục đánh A1. Đối với d9 vấn đề quân số lúc này là rất khó khăn, 4 đại đội trưởng chỉ còn một đại đội trưởng trợ chiến, đại đội phó không còn ai; cấp trung đội, tiểu đội mất hơn 80%, chiến sĩ chỉ còn khoảng hơn 20 người.
    Anh Học Hải và trợ lý chính trị của tiểu đoàn phải đến các trạm quân y tìm và động viên anh em bị thương nhẹ và các bệnh binh mau trở về đơn vị. Một số anh em bị ốm, bị lạc đơn vị trong quá trình hành quân từ Thanh Hóa ra cũng dần dần về tập trung, đến cuối tháng 4 tiểu đoàn đã tổ chức được đủ 4 đại đội nhưng quân số không được đủ như biên chế.
    ... Khi trao đổi về cách đánh, nhiều người có ấn tượng khá nặng về sự nguy hiểm của chiếc hầm ngầm. Thậm chí có người còn cho rằng nếu không diệt được hầm ngầm thì không thể chiếm được A1. Tôi suy nghĩ khác, vì được trực tiếp chiến đấu suốt đêm 30-3 nên tôi thấy rõ địch đã phát huy có hiệu quả các thế mạnh của chúng là pháo, cối và quân phản kích (có xe tăng yểm trợ trực tiếp). Ngược lại, ta không có cách đánh phù hợp để làm giảm hoặc vô hiệu hóa các thế mạnh của chúng khiến bị thương vong nặng ngay từ đầu, tiếp sau đó càng ngày càng bị động, dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ. Theo sự suy nghĩ của tôi thì việc bắn pháo và phản kích có liên quan đến nhau: địch phản kích vì thấy có hy vọng cứu bọn bị đánh. Muốn phản kích thì phải dùng pháo bắn để tiêu hao ta, dọn đường cho quân tiến lên. Nhưng nếu thấy vì lý do nào đó không bắn pháo được hoặc bắn không hiệu quả (ví dụ: ta và địch xen kẽ cao độ, không có khoảng cách an toàn, quân phản kích có thể bị ngăn chặn lại trước khi đến đích v.v.) thì khả năng phản kích cũng như bắn pháo có thể giảm đi. Vì vậy nghiên cứu cách đánh phải đề xuất được các biện pháp làm giảm các thế mạnh của chúng.
    Hôm được Tư lệnh đại đoàn gọi lên bàn việc, tôi cũng báo cáo về suy nghĩ đó. Khi đồng chí đó hỏi cách đánh, tôi đề nghị Trung đoàn vẫn đột phá theo hai hướng. Hướng chính vẫn như cũ, nhưng phải thực hiện việc thọc sâu chia cắt, nhanh chóng áp sát, tạo thế xen kẽ ngăn chặn không cho địch co cụm hoặc rút về phía A3 hay chui xuống hầm ngầm. Hướng chia cắt nên thực hiện đột phá cách cửa mở cũ của d1 khoảng 50-60m về phía Tây phát triển nhanh lên hướng Tây Bắc, cắt 1/3 cứ điểm A1 về phía Tây, vừa có thể chặn đường rút của A1 có thể chặn quân phản kích từ A3 lên. Nếu ta, địch ở trung tâm A1 trong thế cài răng lược trong từng khu vực nhỏ thì pháo địch khó phát huy hiệu quả. Không có hỏa lực chi viện mạnh thì quân phản kích của chúng dễ bị chặn lại. Còn đối với hầm ngầm, tôi báo cáo thực là chưa nghĩ ra cách đánh, nhưng theo tôi, nếu có cách nào đó phá được cũng tốt. Nếu không thì cũng không phải là trở ngại lớn vì đó không phải là công sự chiến đấu.
    Nghe xong, Tư lệnh gật đầu nói: ?oĐã có một số ý kiến tương tự như thế này. Đại đoàn sẽ cùng Trung đoàn trao đổi rồi quyết định sau?.
    Vài hôm sau, Trung đoàn triệu tập cán bộ tiểu đoàn lên phổ biến kế hoạch tác chiến đã được trên xét duỵệt, đại ý như sau:
    - Sẽ đào một hầm sâu vào lòng núi để đặt thuốc nổ phá hầm ngầm của A1. Lực lượng do Đại đoàn bố trí, Trung đoàn cử lực lượng bảo vệ và giúp đỡ khi cần.
    - D9 đột phá từ hướng Đông, sau đó tiến hành hai mũi thọc sâu, một mũi phát triển thẳng sang hướng Tây, một mũi chếch theo hướng Đông-Đông Nam vừa diệt địch vừa bảo vệ sườn bên phải cho d1 phát triển.
    - D1 đột phá theo hướng Đông Nam-Tây Bắc chia cắt 1/3 của điểm A1 về phía Tây và chặn quân tiếp viện của địch từ A3 lên A1, tạo điều kiện cho d9 tiêu diệt gọn quân địch ở A1.
    - D5 trước mắt làm nhiệm vụ bảo vệ bộ phận đào hầm, chốt giữ Đồi Cháy bảo vệ các đoàn cán bộ đi trinh sát thực địa. Khi chiến đấu làm dự bị cho d9, sẵn sàng phát triển xuống A3 sau khi ta diệt A1.
    Nghe xong, tôi đề nghị nên để d5 làm dự bị cho d1 bị uy hiếp từ ba phía (trước mặt và hai bên sườn) nên có sẵn lực lượng phía sau đề phòng lúc khó khăn. Nếu địch phản kích mạnh, d5 có thể nhanh chóng cùng d1 đánh chặn, một khi quân phản kích địch không tiến lên được thì d9 có thể một mình tiêu diệt phần còn lại của A1. Trường hợp d9 gặp khó khăn thì d5 vẫn có thể từ hướng đột phá của d1 đánh ngược sang phía Đông tạo thành 2 mũi giáp công (d5+d9) bao vây tiêu diệt địch. Và sau khi diệt xong A1, nếu d5 ở phía sau d1 có điều kiện nhanh chóng phát triển sang A2-A3.
    Công tác chuẩn bị của d9 có phần nhẹ hơn d1, nhưng so với lần trước thì Dũng Chi cũng có nhiều thuận lợi vì ta đã làm chủ Đồi Cháy nên công việc trinh sát được tiến hành cả đêm lẫn ngày sát ngay hàng rào địch. Vất vả hơn cả có lẽ là Đôn Tự. D5 vừa phải giúp đỡ về nhân lực, vừa phải bảo vệ tổ công binh đào hầm ngay dưới tầm ném lựu đạn và cối của địch, suốt hơn 20 ngày đêm ròng rã. Và cũng khoảng thời gian đó các anh phải chịu đựng không biết bao nhiêu bom, đạn địch trút xuống khu vực bố trí tại Đồi Cháy, nơi phải bố trí và bảo đảm cho các đoàn cán bộ đi trinh sát.
    Mọi công tác chuẩn bị được tiến hành khẩn trương. Anh em tuy vất vả nhưng không ai kêu ca phàn nàn, tất cả tin tưởng vào thắng lợi sắp tới vì thấy sự chuẩn bị lần này rất chu đáo.
    Tư lệnh và Chính ủy Đại đoàn cũng đích thân đến Đồi Cháy và chân đồi A1 để quan sát tình hình và động viên chúng tôi. Một lần đến thăm chúng tôi, Tư lệnh hỏi: ?oD9 thế nào??. Câu hỏi hơi trừu tượng nhưng tôi cũng báo cáo: ?oThưa anh, thực lực không bằng lần trước nhưng thế mạnh lại gấp nhiều lần ạ!?. Ông cười gật đầu rồi nói: ?oCố gắng nhé!?. Chính ủy Đại đoàn trước ngày ?oN? cũng gọi điện động viên chúng tôi.
    Cuối cùng mọi công việc đã xong và ngày ?oN? đã đến. Ngày 5-5 anh An thông báo: đồng chí Nguyễn Đức Y trung đoàn phó, tham mưu trưởng Trung đoàn sẽ tăng cường cho chỉ huy d9 (lại tăng cường) đồng thời nhắc nhở tiểu đoàn một số điều cần chuẩn bị để đơn vị khỏi bị ảnh hưởng của khối thuốc nổ phá hầm ngầm.
    Theo ý kiến của các chuyên gia, với trọng lượng 1.000kg, khối thuốc này sẽ có tiếng nổ rất lớn, sức chấn động cực mạnh, có thể làm vỡ mang tai, tức ngực, thậm chí đứt mạch máu não của những người lộ trên mặt đất trong khoảng cách 300m. Ánh lửa chớp của nó có thể làm mù mắt các sinh vật gần đấy khoảng 200-300m. D9, đơn vị gần khu vực nổ nhất, cần phải thực hiện các yêu cầu sau:
    - Tất cả phải ở dưới giao thông hào cách xa tâm nổ 300m trở lên.
    - Nằm quỳ gối, chống tay, nhắm mắt, há mồm, chổng mông về hướng nổ.
    Nghe phổ biến xong, chúng tôi rất lo, nếu khối thuốc không nổ, tổ bộc phá sẽ khó khăn vì khoảng cách 300m quá xa, anh em dễ bị thương vong khi lên phá hàng rào. Anh Lê Sơn đề nghị cho bố trí cách 100m thôi vì ta nằm dưới hào, tâm nổ lại tận trên lưng chừng đồi cao hơn ta tới 10m chắc không ảnh hưởng mấy, nhưng Trung đoàn không đồng ý vì không bảo đảm. Vì vậy chúng tôi phải cấp tốc tăng thêm bộc phá viên dự bị.
    19 giờ 00 tối 6-5, toàn tiểu đoàn đã triển khai đội hình hàng dọc dưới giao thông hào, trừ tổ canh gác còn tất cả quay lưng về A1; 19 giờ 30 phút rồi 20 giờ 00. Tôi suốt ruột hỏi anh Y ?oSắp đến giờ ?oG? chưa??. Anh đáp: ?oSắp rồi đấy?. 20 giờ 15 phút vẫn chưa nghe thấy bộc phá nổ. 20 giờ 30 phút, bỗng có tiếng chân người lao xao chạy từ phía A1 lại, phía trước có người hỏi: ?oCái gì thế??. Tôi cũng hỏi tiếp: ?oAi đấy?? thì có tiếng trả lời khẽ: ?oCông binh đây! Điểm hỏa rồi! Sắp nổ rồi!?. Anh Y gọi điện về Trung đoàn, còn tôi vội hạ lệnh: ?oChống tay, nhắm mắt, há mồm!?. Hô xong, tôi cũng vội phục xuống hào, chống tay, há mồm, chổng mông về phía A1. Lúc này thần kinh tôi căng thẳng, chờ đợi tiếng nổ kinh thiên động địa mà thầm lo không biết mình có chịu đựng nổi không. Nếu xảy ra chuyện gì thật tiếc cho bao nhiêu ngày chuẩn bị mà không được chiến đấu. Một phút rồi hai phút trôi qua, sao thời gian chậm thế? Sao mấy ?othằng cha? để dây cháy chậm dài thế? Miệng khô, họng rát mà không dám ngậm lại để nhấp nước bọt, đầu ngứa, cổ ngứa cũng không dám bỏ tay ra để gãi, (chống bằng khuỷu tay còn bàn tay bịt tai) chỉ sợ mình vừa ngậm mồm vào hay rời bàn tay khỏi tai mà nó nổ thì bỏ mẹ. Cứ thế khoảng 4-5 phút mới nghe thấy ?oỤc? một tiếng nặng nề kèm theo một làn chấn động nhẹ làm rung rinh mặt đất. Khoảng 1 giây đồng hồ và một ít đất đá vụn bắn xuống chân đồi (chưa đến chỗ đơn vị bố trí).
    Có tiếng Lê Sơn quát: ?oNổ rồi!?. Tôi không ngờ sự việc lại kết thúc quá nhẹ nhàng so với dự kiến, đồng thời cũng lo lắng vì chưa hiểu kết quả của cái ?otác phẩm? này ra sao. Tôi hét to: ?oBáo cáo anh Y, cho bộ đội lên nhé!? và ra lệnh ?oTiến lên?.
    Khi bàn kế hoạch, chúng tôi nhất trí nếu khối thuốc nổ phá hầm ngầm thành công thì không cần tổ bộc phá lên phá hàng rào nữa, song với tình hình này không rõ, tiếng nổ như vừa rồi có phá được hầm ngầm không và nhất là hàng rào có còn không? (sau đợt chiến đấu trước địch đã tu sửa lại công sự tiền duyên nhưng mới kịp làm một hàng rào rộng khoảng 3-4m thôi). Nhưng anh Lê Sơn phát hiện thấy một số đất đá văng xuống chân đồi thì phán đoán khu vực ta định mở cửa đã bị phá, khả năng không còn hàng rào nữa nên đã hạ lệnh xung kích theo sau ngay tổ bộc phá. Khi đại đội 317 bắt đầu xuất kích thì các loại pháo của mặt trận, Đại đoàn, Trung đoàn đã bắn dồn dập vào cửa điểm địch để yểm trợ cho chúng tôi tiến lên.
    Khối thuốc nổ đã tạo thành hình phễu trên mặt đất có đường kính khoảng 10m, sâu chừng 3m, tâm nổ cách lô cốt đầu tiên khoảng 15m, hàng rào dây thép gai bị biến mất. Theo kế hoạch từ trước, đại đội 317 từ phía Bắc hố bộc phá đánh chiếm lô cốt đầu cầu rồi chọc thẳng vào trung tâm cứ điểm. Sức chống cự của địch ở hướng này không mạnh lắm.
    Đại tá Vũ Đình Hoè
  2. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Về cuốn "cao điểm cuối cùng" của Hữu Mai, báo QĐND ngày 15/5/2004 :
    Gặp người chỉ huy đánh ?oCao điểm cuối cùng? ​
    Biết ông lần đầu trong buổi gặp gỡ những nhân chứng Điện Biên Phủ do Thư viện Quân đội tổ chức, tôi bị cuốn hút và có ấn tượng mạnh về một vị tướng có lối nói chuyện thẳng thắn với vốn hiểu biết rất sâu rộng. Ông là Thiếu tướng Dũng Chi - nguyên mẫu của nhân vật tiểu đoàn trưởng Quế Vinh trong tiểu thuyết ?oCao điểm cuối cùng? của nhà văn Hữu Mai, cuốn tiểu thuyết tái hiện lại cuộc chiến sống còn trên đồi A1. Và nghe nói cũng vì những chi tiết truyện ?okhông như ý? mà gần bốn chục năm từ khi tiểu thuyết ra đời, hai ông mới gặp lại nhau. Tôi quyết định phải gặp bằng được để hiểu tường tận về con người này.
    Chuyện cổ tích về những ba lô vàng vượt Trường Sơn ra Bắc
    Một buổi chiều nắng vàng oi ả, như đã hẹn, tôi đến nhà ông nằm ở khu tập thể Bộ tổng tham mưu 38A Trần Phú. Ngôi biệt thự xây kiểu cũ, trong sân có cây nhãn xòe tán che mát. Hai ông bà đang ngồi ngoài thềm đọc sách. Tôi có cảm giác như ông lão điềm đạm, mảnh khảnh, tóc bạc, mặc sơ mi trắng, quần tây đang chăm chú lật từng trang sách phải là một vị học giả uyên bác nào kia - chứ không phải là một chiến tướng lão luyện đã từng chỉ huy nhiều trận đánh ác liệt của quân đội ta từ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đến chiến tranh biên giới.
    Nhắc đến nhân vật Quế Vinh trong tiểu thuyết ?oCao điểm cuối cùng? ông cười: ?oNhà văn Hữu Mai xây dựng nhân vật Quế Vinh với một số đặc điểm của tôi, nhưng không hoàn toàn giống tôi. Tiểu thuyết mà, phải có hư cấu, phải tổng hợp đặc điểm của vài người thậm chí của rất nhiều người thì mới ra được mẫu nhân vật theo ý của nhà văn?. Bằng lối nói chuyện bộc trực, đầy chất nhà binh, vị chiến tướng dạn dày trận mạc đã lôi cuốn tôi vào mạch những câu chuyện lạ kỳ như trong cổ tích về cuộc đời của ông...
    Cuối năm 1945, chàng thanh niên xứ Huế Nguyễn Dũng Chi đã theo tiếng gọi của Cách mạng ?oxếp bút nghiên? gia nhập đoàn quân Nam tiến khi vừa mới tốt nghiệp tú tài và đang có ý định thi vào đại học để trở thành kỹ sư thủy lâm. Cách mạng mới thành công, vũ khí, lương thực vô cùng thiếu thốn. Nhiều lúc lương thực cạn kiệt, đơn vị ông phải ở lẫn vào trong dân để nhân dân đùm bọc, tiếp tục chiến đấu.
    Một đêm đầu năm 1946, tại một cánh rừng thuộc chiến khu D, ông được ông Đàm Minh Viễn lúc ấy là Tư lệnh miền Nam Việt Nam bất ngờ giao cho nhiệm vụ tối quan trọng là chỉ huy một trung đội áp tải số vàng mà đồng bào Nam Bộ đóng góp ủng hộ kháng chiến ra Bắc nộp cho Chính phủ. Nhìn những ba lô chất vàng đủ loại từ nhẫn vàng, trâm vàng, dây chuyền vàng, vàng nén... xếp đầy trên mặt đất, người chỉ huy trẻ tuổi không khỏi lo lắng về nhiệm vụ được giao. Giữa thời loạn lạc, giặc đói đang hoành hành, giặc ngoại xâm rình rập, việc hành quân bộ vượt một chặng đường dài dằng dặc mang một lượng vàng lớn từ Nam ra Bắc tưởng chừng là ?onhiệm vụ bất khả thi?. Đơn vị đi bộ ngày đêm, vượt thác, leo đèo, men theo dải Trường Sơn còn rất hoang sơ, hiểm ác. Ngoài ba lô chất đầy vàng, hành lý hầu như chẳng có gì, việc ăn ngủ đều trông chờ vào công văn hỏa tốc do Bộ trưởng Quốc phòng Chu Văn Tấn ký, đề nghị các địa phương mà đoàn đi qua hết sức giúp đỡ. Dọc đường họ được đồng bào Ê-đê, Ba-na... giúp đỡ nhiệt tình và vô tư. Nhưng những lúc không gặp được dân, trung đội đã phải chịu đói và những cơn sốt rét hành hạ, người xanh rớt chỉ còn da bọc xương, quần áo tơi tả.
    Tháng 6-1946, trung đội đến Hà Nội trong bộ dạng bơ phờ, ăn mặc hết sức kỳ dị: tóc dài rối bù, áo gai đen, quần đùi đen, chân ai cũng bị ăn trắng dã. Họ ngơ ngác, tìm đường đến trụ sở Quân sự ủy viên hội. Lúc đến nơi, vì không biết, suýt nữa họ trao số vàng cho Vũ Hồng Khanh- một nhân vật của Quốc Dân đảng. Nhờ cảnh giác, cẩn thận, cuối cùng Dũng Chi đã trao mấy chục ba lô vàng đến tận tay người của cách mạng. Ông cười khà khà: ?oCái thời ấy thật kỳ lạ. Tôi nhận vàng rồi đi ngay, không hề đếm, trao vàng cũng không hề ký nhận, cũng chẳng ai kiểm tra lại. Thế nhưng ai cũng tin tưởng, biết vàng đã đến nơi an toàn và không hề suy suyển một phân. Sau khi nhận vàng xong, họ bắt tay từng người, hỏi sơ qua về lý lịch rồi cho về. Nghĩ lại cứ như chuyện cổ tích?. Theo ước tính của ông, số vàng ấy phải được hàng trăm ki-lô-gam.
    Huyết chiến trên ?ocao điểm cuối cùng?
    Từ một thanh niên trí thức, Dũng Chi đã trưởng thành rất nhanh trong chiến đấu. Ông tham gia nhiều chiến dịch lớn của quân đội ta như chiến dịch Trung Du, chiến dịch Hòa Bình, chiến dịch Hà Nam Ninh. Đầu năm 1952, nhờ có nhiều thành tích xuất sắc, ông được đề bạt làm tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 251, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316. Tháng 12-1953, ông chỉ huy tiểu đoàn diệt nhanh gọn cứ điểm Mường Pồn do một đơn vị quân Thái chiếm giữ. Chiến sĩ liên lạc thân cận của ông là Bế Văn Đàn đã lấy thân làm giá súng bắn máy bay rồi anh dũng hy sinh, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra vô cùng ác liệt. Tiểu đoàn của Dũng Chi được giao nhiệm vụ kết hợp với một tiểu đoàn nữa hình thành hai mũi tiến công đồi A1. Nhìn quả đồi không cao lắm chẳng ai nghĩ là trận chiến sau này lại cam go như vậy. Các loại súng địch từ nhiều vị trí bắn dữ dội vào đội hình đơn vị. Tiểu đoàn trưởng Dũng Chi luôn theo sát các chiến sĩ từng bước. Khi vượt qua cửa mở vào được bên trong thì đơn vị thương vong gần hết. Hơn bốn trăm con người giờ đây chỉ còn lại khoảng gần 20 người... Nói đến đây giọng ông trầm hơn: ?oNhìn anh em hằng ngày gắn bó với mình như ruột thịt nằm rải rác dọc đường, lòng tôi quặn đau. Nhưng vì nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà trên đã tin cậy giao phó, tôi động viên chiến sĩ tiếp tục lao lên thật nhanh, quyết tiêu diệt cứ điểm?.
    Khói mù đen kịt, bóng đêm phủ trùm lên quả đồi khét lẹt mùi thuốc súng và tanh lợm mùi máu người. Đã trải qua nhiều trận đánh nhưng ít khi Dũng Chi cảm thấy mình đơn độc đến vậy. Một mình tiểu đoàn trưởng cố thủ trong một lô cốt, tay lăm lăm khẩu tiểu liên của Liên Xô, bên cạnh là thùng lựu đạn lấy được của Pháp. ?oNhiều lúc không gian tĩnh lặng đến ghê người. Tôi bỗng thèm được nghe tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ gần để biết rằng xung quanh mình vẫn còn sự sống?.
    Sau nhiều trận tử chiến, cuối cùng ta cũng chiếm trọn đồi A1. Hơn 15 giờ chiều 7-5-1954, từ điểm cao nhìn xuống, Dũng Chi bắt đầu thấy lác đác những mảnh vải trắng cắm trên các vị trí của địch. Vải trắng mỗi lúc một nhiều, thành một rừng trên cánh đồng Mường Thanh. Địch đầu hàng! Dẫn theo một trung đội, Dũng Chi lội qua sông tìm sở chỉ huy của tướng Đờ Cát. Gặp một phụ nữ Pháp, ông hỏi: ?oSở chỉ huy ở đâu??. Người phụ nữ chỉ tay về phía trước. Người phụ nữ đó là Giê-nơ-vi-e Đờ Ga-la, được mệnh danh là ?ohoa hồng Điện Biên Phủ?, sau này được phong anh hùng của nước Pháp. Dũng Chi chạy đến hầm Đờ Cát và nhảy xuống. Sở chỉ huy sâu hút, trống hoác, viên thiếu tướng chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã ra hàng trước đó vài phút. Quan sát xung quanh ông thấy trên chiếc bàn tròn để quyển sách ?oĐịa dư? của Liên Xô, trên giường của Đờ Cát có một khẩu súng lục chỉ huy, một con dao găm sắc lẹm. Dũng Chi lấy khẩu súng lục về nộp cho cấp trên.
    Quay trở lại đồi A1, một người Pháp cao lớn, đầu đội mũ bêrê màu xanh, ngực đeo Bắc đẩu Bội tinh, đánh gót đưa tay chào: ?oThiếu tá Bi-gia thuộc quyền ngài. Quân số chỉ còn 150. Đợi lệnh ngài.?. Dũng Chi thấy lâng lâng hãnh diện. Tên quan tư khét tiếng của nước Pháp - một nước vẫn tự xưng là ?omẫu quốc? - đang chào và đợi lệnh của ông theo đúng nghi lễ của lục quân Pháp.
    Trận hiệp đồng binh chủng bộ binh, pháo binh, xe tăng lừng lẫy ở làng Vây
    Những ngày đầu năm 1968, Mỹ điên cuồng cho B52 đánh phá ác liệt ở mặt trận Quảng Trị. Trung tá, tham mưu phó Sư đoàn 304 - Dũng Chi được giao một nhiệm vụ vô cùng khó khăn: phải tìm Trung đoàn bộ binh 24 (thuộc sư đoàn 304) và Tiểu đoàn tăng PT 76 đang ở đâu đó trên chiến trường để tạo thành một cánh quân phía bắc đường 9, phối hợp với cánh quân ở phía Nam đường 9 gồm bộ phận ít ỏi còn lại của Sư 325 và đặc công hình thành thế gọng kìm tiêu diệt một cứ điểm biệt kích ác ôn của ngụy ở làng Vây. Biết tìm các đơn vị ở đâu giữa chiến trường chết chóc đầy B52 rải thảm và đạn phi pháo của địch. Rất may, ?oở hiền gặp lành? (theo cách nói của ông). Lòng đang nặng trĩu lo âu thì bất ngờ ngay hôm đó đang đi men theo bờ suối, ông nghe có tiếng gọi. Hóa ra là một đồng chí chỉ huy của Trung đoàn 24.
    Theo kế hoạch, ta sẽ đánh vào đêm 6-1-1968. Khởi đầu là trận pháo kích dữ dội vào các vị trí của địch trong làng Vây (trong đó, pháo 122mm D74 khá tối tân do Liên Xô vừa viện trợ sẽ xuất trận lần đầu). Nhưng khi các đơn vị phía bắc bố trí xong thì mũi phối hợp ở phía nam đường 9 vẫn im ắng. Không khí trở nên vô cùng căng thẳng. Đánh bừa lúc này rất nguy hiểm, lực lượng địch khá mạnh, ta không có pháo yểm trợ sẽ gặp khó khăn, không chắc thắng. Trời mỗi lúc một sáng. Có lẽ đây là một trong những quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chiến đấu của ông: rút quân. Sẵn sàng chịu trách nhiệm về quyết định của mình nhưng ông vẫn không khỏi lo lắng: nếu pháo binh ta cứ theo giờ quy định khai hỏa thì hậu quả thật khó lường. ?oLúc đó, không thể liên lạc bằng điện đài vì sợ lộ, nhưng tôi tin tưởng là sư đoàn trưởng người Tày, đã dạn dày kinh nghiệm chiến đấu như anh Thái Dũng sẽ không cho pháo khai hỏa khi trời gần sáng?. Vì quyết định táo bạo này mà sau này, cứ đến ngày kỷ niệm thành lập là Binh chủng Tăng-Thiết giáp lại trân trọng mời ông đến dự để cảm ơn.
    Đêm 7-1-1968, các đơn vị lại vào vị trí. Chờ đợi. Đêm nay có đánh không? Bỗng phía nam sáng lòe những chớp lửa: Pháo ta bắn! Sau khoảng nửa tiếng pháo binh ta bắn cấp tập, bộ đội xung phong vào tiêu diệt đám quân ngụy đang nháo nhác. Dũng Chi quyết định thúc toàn bộ 8 chiếc xe tăng quý như vàng của quân ta xông vào đồn địch, mặc dù cấp trên đã dặn kỹ là chỉ cho từ 1 đến 2 chiếc vào đồn. Trận đánh diễn ra chớp nhoáng. Xe tăng ta nghiền nát từng vị trí trước sự kinh hãi của địch. Gần sáng, ta đã tiêu diệt và bắt sống gần 1.000 tên biệt kích được huấn luyện tốt và trang bị ?otận răng?. Thế là cuộc hiệp đồng binh chủng giữa bộ binh, pháo binh và xe tăng (Đây là trận hiệp đồng bộ binh-xe tăng-pháo binh đầu tiên của quân đội ta) đã thắng lợi tốt đẹp.
    Vừa ra khỏi làng Vây, đang trên đường về căn cứ ông đã nghe thấy giọng đọc thân thương của vợ là bà Phương Chi trên sóng của đài Tiếng nói Việt Nam báo tin thắng trận của quân ta. Bà không giấu nổi niềm hân hoan, tình yêu thương nhắn gửi đến người chồng qua mỗi lời thông báo kết quả của trận đánh. Sau bao ngày li biệt, giọng nói ấm áp của vợ làm cho ông thêm vững tin chiến đấu.
    Ngay sau trận làng Vây, Dũng Chi tiếp tục tham gia chỉ huy một số trận đánh ác liệt khác như: vây hãm hơn 6.000 thủy quân lục chiến Mỹ trong căn cứ Tà Cơn hơn một tháng ròng, tập kích quân Mỹ ở Khe Sanh... Năm 1972, đang công tác ở Viện Khoa học quân sự, ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tướng Vương Thừa Vũ tín nhiệm giao cho trọng trách vào mặt trận Quảng Trị hướng dẫn việc tổ chức phòng ngự. Hơn hai tháng cùng các chiến sĩ nằm quanh thành cổ hứng chịu những đợt bom rải thảm hủy diệt của B52, nhiều lúc ông tưởng mình không còn cơ hội quay trở về. ?oCó khi, tôi lại thoáng có cảm thấy đơn độc như hồi trong A1. Nhưng rồi cảm giác ấy trôi qua rất nhanh. Người lính ra trận, đã trải qua hàng trăm trận đánh trở nên chai lì với hiểm nguy. Hơn nữa, tôi lại ở vị trí chỉ huy, nắm trong tay sinh mạng của hàng trăm, thậm chí hàng ngàn con người, không được phép có một phút dao động?.
    Thiếu tướng dịch thơ tình
    Cống hiến gần trọn cuộc đời trong quân đội, năm 1995 Thiếu tướng Dũng Chi về nghỉ hưu sau khi được phong hàm Phó giáo sư ở Viện Khoa học quân sự. Trên thân thể ông mang dấu tích của những vết thương, kết quả của mấy chục năm chinh chiến. Nghỉ hưu, Thiếu tướng Dũng Chi trở thành dịch giả có uy tín của Trung tâm dịch thuật Hà Nội, suốt ngày bề bộn với chồng sách báo và đống từ điển dày cộp. Vốn liếng tiếng Anh, tiếng Pháp thời còn là anh tú tài xứ Huế và tiếng Trung lúc đi học pháo binh bên Trung Quốc được ông trau chuốt, gột rửa lại trở nên long lanh. Ông dịch rất nhiều, về đủ mọi lĩnh vực của đời sống từ y học, sinh học, văn học... đến những văn bản hợp đồng. Ông tiết kiệm từng phút vì: ?oNếu để mình thảnh thơi thì sẽ trở nên ỳ, lười biến. ?oGiáo sư Đặng Thanh Lê-con gái giáo sư Đặng Thai Mai và một số đồng nghiệp ở khoa Văn, Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã phải viện đến ?obác Dũng Chi? khi gặp những áng thơ văn mà nhiều dịch giả chuyên nghiệp chào thua.
    Mỗi sáng, ông bà dậy từ lúc 5 giờ, tập thể dục, pha ấm trà rồi ngồi vào bàn làm việc quen thuộc ở góc thềm nhà rợp bóng mát. Cứ thế ông vừa nhâm nhi chén trà vừa ung dung chuyển ngữ ?onhững tinh hoa của nhân loại?. Bà thì ngồi bên vừa say mê đọc, vừa góp ý những bản dịch của chồng. Bà mê đọc đến nỗi gần như thuộc làu những bài thơ tình Tago mà ông đã dịch. Gần trọn cuộc đời thấp thỏm đợi tin ông ở chiến trường, có lẽ đây là những giờ phút hạnh phúc hiếm hoi mà bà được ở kề sát bên chồng.
    Cuộc đời dài thế, mà cũng ngắn thế. Vậy nên, ở tuổi 78 vị tướng quân dũng mãnh thuở nào vẫn làm việc cần mẫn, không ngừng nghỉ, vẫn muốn tiếp tục góp sức để làm đẹp cho xã hội. Có lẽ với ông, chẳng cao điểm nào là ?ocao điểm cuối cùng?.
    Được panzerlehr sửa chữa / chuyển vào 17:55 ngày 16/04/2005
  3. bank

    bank Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/08/2003
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Ai có tài liệu về một số vấn đề này cho minh hỏi
    Diễn biến tại VN sau thắng lợi Điện biên phủ, mình nghe nói VN bị TQ và LX ép tạm thời chấp thuận chia đất nước làm 2 vùng theo vĩ tuyến 17 để đợi tổng tuyển cử.... những gì xảy ra trong thời gian đó.
    Mỹ chính thức tham gia vào cuộc chiến tại VN khi nào
    Cám ơn nhiều

Chia sẻ trang này