1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 và 1984

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 11/02/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tranhoangtho

    tranhoangtho Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2004
    Bài viết:
    492
    Đã được thích:
    0
    Cái này thì phải nhờ mấy bác đi bộ đội vào kiểm tra lại. Tớ đã từng đọc tài liệu mà ở đó người ta khẳng định: ngay cả một lính nam VN khoẻ mạnh cũng chỉ bắn liên tiếp được 3 đến 4 phát B40, B41 được thôi. Một phụ nữ VN mà bắn đến 7 phát liên tiếp chỉ là điều viễn tưởng
    Đạn B40, B41 có lực phản hồi cực mạnh, đòi hỏi người bắn phải có sức khoẻ rất tốt. Cố bắn đến phát thứ 4 thì có thể được nhưng bắn xong sẽ bị trào máu mũi, máu mồm... và có khả năng... ngất xỉu đấy
  2. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Cái này thì bác tranhoangtho nói đúng đấy, khó có ai bắn liên tiếp được 7 phát B40/41 được. Ngay cả khi được trang bị đủ cả mũ che tai, mà thường là trong chiến tranh chả ai đeo cả. Riêng trong trường hợp mà chiangshan kể trên có thể cô nữ " cán bộ " đó đã bắn cháy 7 xe tăng thật nhưng mà là trong suốt trận đánh đánh { một trận đánh giữ chốt có thể kéo dài vài ngày }.
  3. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Cái này thì bác tranhoangtho nói đúng đấy, khó có ai bắn liên tiếp được 7 phát B40/41 được. Ngay cả khi được trang bị đủ cả mũ che tai, mà thường là trong chiến tranh chả ai đeo cả. Riêng trong trường hợp mà chiangshan kể trên có thể cô nữ " cán bộ " đó đã bắn cháy 7 xe tăng thật nhưng mà là trong suốt trận đánh đánh { một trận đánh giữ chốt có thể kéo dài vài ngày }.
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    TỪ THẮNG MĨ TỚI THẮNG GIẶC BÀNH TRƯỚNG
    Minh Tiến, ghi theo lời kể của Nguyễn Văn Loan
    chính trị viên đại đội 3, tiểu đoàn 1, đoàn An Lão*.

    Tôi vào bộ đội được 8 năm, từ một chiến sĩ trưởng thành lên cán bộ, nhưng chưa bao giờ xa đại đội 3, tiểu đoàn 1, đoàn An Lão này lấy 1 tháng. Anh em bảo tôi là lính cựu nhất của đơn vị thì cũng đúng. Năm 1972 tôi tham gia chiến dịch Quảng Trị, giải phóng thị xã Đông Hà**, sau đó theo đơn vị vào chiến trường Khu 5, đánh Mĩ ở Quảng Nam-Đà Nẵng cho đến khi bước vào chiến dịch Mùa Xuân đại thắng năm 1975.
    Tôi còn nhớ buổi sáng ngày 16-4, hôm đó tôi được lệnh dẫn 2 chiến sĩ trong tổ của mình là Phạm Văn Mưu và Nguyễn Văn Quân đi chặn địch ở nam thị xã Phan Rang. Chúng tôi mang theo mỗi người 1 khẩu súng, 6 băng đạn, còn lựu đạn thì giắt kín thắt lưng. Từ sáng đến trưa, 3 chúng tôi vẫn nép mình trong những bờ cây lúp xúp ở 2 bên đường để đợi địch, nhưng chỉ thấy hàng trăm chiếc xe chở bà con di tản từ Nha Trang chạy về Biên Hoà. Sốt ruột, Quân liền hỏi tôi :
    - Anh Loan ạ, biết đâu tụi lính chẳng trà trộn trong đám bà con đó ?
    Tôi dặn Quân và Mưu phải hết sức kiên trì, nóng máy là không ăn. Tin trinh sát buổi sáng cho biết bọn sĩ quan của bộ tư lệnh tiền phương quân đoàn 3 ngụy, sau khi chạy khỏi thị xã vẫn còn lẩn khuất đâu đây, chưa ra khỏi cánh đồng muối Cà Ná. Bỗng từ một bờ ruộng bên kia, tôi thấy có một tốp người đang len lỏi theo những hàng cây đi lên đường. Mặt mũi đứa nào đứa nấy hốc hác, quần áo lấm láp đầy bùn, vẻ mặt sợ hãi. Nhanh chóng, tôi ra lệnh cho Quân và Mưu vận động sang bên kia đường. Vọt đến trước mặt chúng, tôi cắp ngang khẩu AK, đẩy nấc khoá an toàn rồi quát :
    - Hàng thì sống, chống thì chết ! Giơ tay lên !
    Thế là cả bọn 7 tên, không đứa nào bảo đứa nào đều giơ tay lên trời. Được tôi và Quân yểm hộ, Mưu bước đến chĩa súng vào một tên cao nhưng gầy, mặt vuông, râu lún phún ở cằm rồi hỏi :
    - Mày tên gì ?
    - Dạ, tôi là Nguyễn Vĩnh Nghi, trung tướng, tư lệnh quân đoàn 3 tiền phương.
    - Súng mày đâu ?
    - Dạ, thưa tôi không còn súng nữa.
    Mưu đưa mắt hỏi tên thứ hai :
    - Còn mày ?
    - Thưa, tôi là Phạm Ngọc Sang, chuẩn tướng, tư lệnh sư đoàn không quân số 6, phụ tá cho ông này. Thưa, tôi còn súng, còn đủ cả băng đạn.
    Nói xong, hắn đặt khẩu súng ngắn lên lòng bàn tay. Tôi nhanh chóng tiến đến tước ngay khẩu súng và chỉ vào máy điện đài đeo lủng lẳng trước ngực hắn, hỏi tiếp :
    - Cái này của mày còn nói được không ?
    - Dạ thưa, một đêm ngâm nước, có lẽ hỏng rồi.
    Tôi hỏi đến 5 tên khác. Tất cả bọn chúng đều nằm trong bộ chỉ huy quân đoàn 3 ngụy, có tên làm cận vệ cho tên Nghi. Chúng tôi dẫn chúng về đơn vị thì trời vừa tối. Sáng hôm sau tôi tiếp tục dẫn tổ của mình đi chặn địch, bắt thêm được 65 tên khác, trước khi đơn vị được lệnh hành quân tham gia giải phóng Sài Gòn.
    Khẩu AK số hiệu 6907 của tôi trong trận đó, giờ còn để ở phòng truyền thống sư đoàn. Hôm bàn giao nó tôi cứ tiếc mãi. Tôi nói với chính uỷ Biền :
    - Chính ủy cứ cho tôi giữ khẩu súng đó. Xa nó thì tôi nhớ lắm !
    Nhưng chính ủy không nghe, anh nói :
    - Khẩu AK bây giờ không còn là của cậu nữa. Nó là kỉ vật chung của cả sư đoàn. Mình thay cho cậu khẩu K54 mới toanh. Được chứ ?
    Sau ngày miền Nam giải phóng, trong thời gian huấn luyện tôi được đề bạt làm cán bộ trung đội rồi làm chính trị viên đại đội 3 này.
    Tháng 7-1976, tôi được nghỉ phép 15 hôm, đó là chuyến phép đầu tiên trong đời bộ đội. Tôi cưới vợ trong kì phép đó. Vợ tôi là một bạn gái học sinh cùng quê Lục Ngạn, Hà Bắc, và sau đó chúng tôi có con.
    Đơn vị chúng tôi được lệnh hành quân lên Lạng Sơn làm nhiệm vụ và đã chiến đấu suốt trong thời gian qua với bọn giặc Bắc Kinh, từ đầu đến cuối chiến dịch.
    Buổi sáng ngày 18-2, sau 1 ngày 1 đêm thúc quân lên chiếm các điểm cao ở khu vực Đồng Đăng không xong, bọn chúng liền đánh chiếm chốt đơn vị tôi. Lúc đó tôi đi với trung đội 2, bên cạnh là các chiến sĩ bắn trung liên Nguyễn Đình Lập, Nguyễn Văn Bình. Khoảng 8 giờ 20 thì tôi nhận được thông báo có triệu chứng địch sắp tiến công. Chỉ 1 lúc sau, pháo địch đã bắn gấp vào trận địa, vào các mỏm 2 bên, sau đó chúng ồ ạt xông lên. Tiếng kèn sừng dê, tiếng kèn đồng ré lên trong tiếng đạn các cỡ. Chúng đặt khẩu đại liên trên 1 quả đồi Chậu Cảnh bắn chéo cánh sẻ vào đội hình phòng ngự của 2 trung đội ta. Đạn tuôn xối xả. Tôi hỏi Bình :
    - Cậu có cách nào kiềm chế nó không ?
    - Báo cáo, có !
    Nói xong, Bình cúi rạp người, bắn 1 loạt ngắn trung liên nhưng đạn đi thấp cắm vào đất, bụi mù. Bình chuyển điểm ngắm, bắn tiếp, trúng ngay 1 tên đỡ băng đạn đại liên. 1 thằng khác nhảy lên đúng vào lúc tôi vừa xoay khẩu AK về phía nó. Tôi bóp cò, 2 tên địch trúng đạn, chết ngay tại chỗ. Diệt được khẩu đại liên rồi, đã đỡ 1 phần đạn thẳng nhưng hoả lực cối 60 ly của chúng lúc này có phần dữ dội và ác liệt hơn. Chúng bắn theo kiểu ô vuông, quả nọ cách quả kia chưa đầy 3m, mảnh bay rào rào. Tôi động viên :
    - Cối địch bắn nhiều đó, nhưng phải để mắt vào thằng bộ binh, chớ để nó leo lên.
    Tôi nói chưa xong thì phía sau, 3 cái bóng đã nối nhau vụt lên. Đó là những tên lính Bắc Kinh đầu tiên vượt qua được tầm lựu đạn của chúng tôi, đánh vu hồi. Bỗng tôi nghe tiếng đạn nổ rất âm và sau đó là tiếng báng súng nện xuống một nhát. Một ý gnhĩ loé lên trong tôi : "Ta hay địch ở đó ?".
    Thì ra chiến sĩ Tĩnh tiểu đội 4 đã đoán trước được thủ đoạn của thằng địch, cậu ta nép mình vào đoạn ngoặt của hào, giơ súng sát ngực tên đi trước bóp cò rồi quay báng súng nện vào đầu tên đi sau. 2 tên chết tại chỗ, tên thứ 3 vội vàng tuột xuống dốc như kiểu trẻ con ngã cầu trượt. Cũng ngay lúc đó, cậu Hợp, trung đội phó trung đội 2 nhanh chóng điều động chiến sĩ mình, nhảy ra công sự, chia đồi hình đánh vòng sang quả đồi Bằng, tiêu diệt tại chỗ 30 tên lính Trung Quốc ngay dưới chân dốc.
    Đánh từ 8 rưỡi đến 15 giờ thì toàn đại đội tôi đã diệt được hơn 200 tên và thu được 38 khẩu súng, trong đó có 2 khẩu B41 còn đạn thì 7, 8 hòm gì đó. Được trung đoàn chi viện, sang các ngày 19, 20 và 21-2, đại đội vẫn đánh địch xung quanh khu vực các ngọn đồi Công Bình, đồi Bằng, đồi Chậu Cảnh, giành đi giật lại với địch, có ngày chiến đấu đến 20 đợt, một số anh em bị thương nhưng chốt vẫn vững. Tôi bị thương ở cánh tay vào sáng 22-2, vết thương ra nhiều máu, không nâng được khẩu AK lên để bắn, có lúc ngất đi và anh em đã đưa tôi về bệnh xá trung đoàn lúc nào không biết. Ba bốn ngày nằm sau hậu tuyến, tôi nhớ đơn vị quá, ai còn ai mất. Đơn vị chỉ còn anh Quế là cán bộ cấp trưỏng. Tôi nhớ cậu Bình, cậu Lập, cậu Nhất những tay súng mới vào trận đầu mà đã lập công xuất sắc. Tôi giơ thử cánh tay phải lên tập, ban đầu đau tưởng ngất đi nhưng rồi dễ chịu dần. Vết thương tuy chưa lành nhưng có phần nào đỡ đau nhức. Tôi nảy ra ý định rời bệnh xá để lên chốt. Không lên chốt lúc này cảm thấy không sao chịu được, nhưng nếu tôi đề nghị thì chắc không được mà thêm rắc rối cho các anh phụ trách. Tôi xé mảnh giấy trong sổ công tác và viết :
    "Kính gửi anh Khuynh phụ trách bệnh xá trung đoàn
    Trước khi về lại chốt đáng lẽ tôi phải đến gặp các anh nhưng tôi trình bày thì các anh sẽ không chấp nhận. Tôi nằm ở bệnh xá trung đoàn đúng 4 đếm, 3 ngày rồi. Vết thương ở cánh tay đã đỡ, tôi không quên ơn đó của các bác sĩ, y tá. Hiện nay anh em đại đội 3 đang chiến đấu trên đồi Địa Chất, đồi Chậu Cảnh, tôi là 1 chính trị viên, 1 bí thư chi bộ nên phải có mặt ở chốt để động viên, nắm đơn vị cùng anh em chiến đấu. Lúc bị thương, tôi chưa kịp trao đối công việc với một ai trong đơn vị. Tôi chịu nhận khuyết điểm với các anh về việc chấp hành chưa tròn nội quy của bệnh xá nhưng nếu tôi không có mặt ngoài đó lúc này thì tôi cảm thấy chưa tròn trách nhiệm. Cũng có thể tôi suy nghĩ chưa đầy đủ lắm, nhưng thú thực với các anh, không lên chốt lúc này tôi cảm thấy không chịu được. Tôi viết thư này và nhờ đồng chí Huấn, chiến sĩ đại đội 3 nằm cùng lán gửi các anh.
    Bệnh xá ngày 26-2-1979
    Kính thư
    Nguyễn Văn Loan
    chính trị viên đại đội 3 tiểu đoàn 1
    Tôi gấp lá thư vào 1 cái phong bì, để đầu giường Huấn rồi dặn :
    - Các anh ấy có gay quá thì cậu nói giùm là mình sốt ruột quá nên đã ra đi từ đem hôm qua.
    Nói xong tôi xốc balô và một mạch theo đường tải đạn đi về ga Tam Lung để lên chốt. Trong màn sương mờ đục, tiếng súng lặng, thỉnh thoảng nghe tiếng pháo cầm canh của quân ta đang rót lên khu vực Đồng Đăng. Con đường dốc đi lên điểm cao Công Bình mọi ngày là thế, bây giờ tôi thấy dài hơn. Dọc đường, tôi tranh thủ quan sát các quả đồi để tìm dấu vết còn lại sau các trận đánh.
    Ở đồi Công Bình, tôi đếm được 120 cái vỏ băng cá nhân của lính Trung Quốc vất dọc lối đi nhuốm đầy máu. Một vài cái cáng làm bằng 2 đoạn tre tươi, giữa quấn dây thừng kiểu mắt cáo, dùng để khiêng những thằng bị thương hoặc chết.
    Tới 1 lối nhỏ ở đồi Chậu Cảnh, tôi nhìn thấy 3 xác lính Trung Quốc nằm úp lên nhau đã bốc mùi thối.
    Đi hết quãng nữa, bỗng tôi gnhe tiếng anh em reo to :
    - Chính trị viên lên rồi anh em ơi !
    Thế là không ai bảo ai, các chiến sĩ đều chạy ra quây quần lấy tôi. Anh em mừng lắm, 1 chiến sĩ nói :
    - Mấy bữa xa anh, tụi tôi rất nhớ, nhưng đơn vị vẫn kiên quyết đánh thắng giặc Trung Quốc bành trướng.
    Tôi ôm chặt vai Bình và hỏi :
    - Bình giết được bao nhiêu tên rồi ?
    - Báo cáo, bằng các bạn. Hai chục tên.
    Tôi hỏi 1 chiến sĩ khác :
    - Các cậu có bắt được tên tù binh nào không ?
    - Chưa bắt được anh ạ. Làm thế nào để tóm gọn một lô như hồi anh tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, bắt một lúc 2 thằng tướng.
    - Yên chí, nó còn thua đau, còn dốc quân vào đây thì anh em ta còn thời cơ bắt hàng đoàn.
    Động viên anh em xong, tôi đi gặp ngay anh Quế để hội ý công việc. Chuẩn bị cho đơn vị đánh lâu dài.
    Anh Quế nói với tôi :
    - Mấy bữa anh đi viện, anh em ở nhà đánh tốt lắm, nhất là anh em trẻ. Cậu Bình, cậu Hợp, chỉ qua 1 trận là học được cách đánh của cán bộ, phán đoán đúng ý đồ của địch, diệt chúng từ lúc chúng mới có ý định tiến công lên chốt. Cả 3 trung đội đánh rất đều.
    Tôi cũng nghĩ như thế. Chiến sĩ phần lớn rất trẻ, lại có trình độ văn hoá, có lòng yêu thương và tự hào dân tộc rất cao, có chí căm thù giặc sâu sắc, tiếp thu kĩ thuật, chiến thuật nhanh. Sức mạnh 1 người hoá thành 5 thành 10. Sức mạnh của đại đội cũng bẻ gãy hàng chục đợt tấn công của trung đoàn 870 địch trong suốt 1 tuần đầu chiến đấu.
    Hội ý xong, chúng tôi đi tiếp đến từng ngách hào, nơi các chiến sĩ đang sẵn sàng nổ súng.
    Không được đụng tới Việt Nam, NXB QĐND 1979.
    * : có lẽ là trung đoàn 2, thuộc sư đoàn 3 Sao Vàng.
    ** : đơn vị giải phóng TX Đông Hà năm 1972 là trung đoàn 36 và 88 thuộc sư đoàn 308. Có lẽ tiểu đoàn của đ/c Nguyễn Văn Loan sau này đã được nhập vào sư đoàn 3-thời điểm 1972 đang chiến đấu ở Bình Định.
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 17:52 ngày 12/02/2005
  5. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    TỪ THẮNG MĨ TỚI THẮNG GIẶC BÀNH TRƯỚNG
    Minh Tiến, ghi theo lời kể của Nguyễn Văn Loan
    chính trị viên đại đội 3, tiểu đoàn 1, đoàn An Lão*.

    Tôi vào bộ đội được 8 năm, từ một chiến sĩ trưởng thành lên cán bộ, nhưng chưa bao giờ xa đại đội 3, tiểu đoàn 1, đoàn An Lão này lấy 1 tháng. Anh em bảo tôi là lính cựu nhất của đơn vị thì cũng đúng. Năm 1972 tôi tham gia chiến dịch Quảng Trị, giải phóng thị xã Đông Hà**, sau đó theo đơn vị vào chiến trường Khu 5, đánh Mĩ ở Quảng Nam-Đà Nẵng cho đến khi bước vào chiến dịch Mùa Xuân đại thắng năm 1975.
    Tôi còn nhớ buổi sáng ngày 16-4, hôm đó tôi được lệnh dẫn 2 chiến sĩ trong tổ của mình là Phạm Văn Mưu và Nguyễn Văn Quân đi chặn địch ở nam thị xã Phan Rang. Chúng tôi mang theo mỗi người 1 khẩu súng, 6 băng đạn, còn lựu đạn thì giắt kín thắt lưng. Từ sáng đến trưa, 3 chúng tôi vẫn nép mình trong những bờ cây lúp xúp ở 2 bên đường để đợi địch, nhưng chỉ thấy hàng trăm chiếc xe chở bà con di tản từ Nha Trang chạy về Biên Hoà. Sốt ruột, Quân liền hỏi tôi :
    - Anh Loan ạ, biết đâu tụi lính chẳng trà trộn trong đám bà con đó ?
    Tôi dặn Quân và Mưu phải hết sức kiên trì, nóng máy là không ăn. Tin trinh sát buổi sáng cho biết bọn sĩ quan của bộ tư lệnh tiền phương quân đoàn 3 ngụy, sau khi chạy khỏi thị xã vẫn còn lẩn khuất đâu đây, chưa ra khỏi cánh đồng muối Cà Ná. Bỗng từ một bờ ruộng bên kia, tôi thấy có một tốp người đang len lỏi theo những hàng cây đi lên đường. Mặt mũi đứa nào đứa nấy hốc hác, quần áo lấm láp đầy bùn, vẻ mặt sợ hãi. Nhanh chóng, tôi ra lệnh cho Quân và Mưu vận động sang bên kia đường. Vọt đến trước mặt chúng, tôi cắp ngang khẩu AK, đẩy nấc khoá an toàn rồi quát :
    - Hàng thì sống, chống thì chết ! Giơ tay lên !
    Thế là cả bọn 7 tên, không đứa nào bảo đứa nào đều giơ tay lên trời. Được tôi và Quân yểm hộ, Mưu bước đến chĩa súng vào một tên cao nhưng gầy, mặt vuông, râu lún phún ở cằm rồi hỏi :
    - Mày tên gì ?
    - Dạ, tôi là Nguyễn Vĩnh Nghi, trung tướng, tư lệnh quân đoàn 3 tiền phương.
    - Súng mày đâu ?
    - Dạ, thưa tôi không còn súng nữa.
    Mưu đưa mắt hỏi tên thứ hai :
    - Còn mày ?
    - Thưa, tôi là Phạm Ngọc Sang, chuẩn tướng, tư lệnh sư đoàn không quân số 6, phụ tá cho ông này. Thưa, tôi còn súng, còn đủ cả băng đạn.
    Nói xong, hắn đặt khẩu súng ngắn lên lòng bàn tay. Tôi nhanh chóng tiến đến tước ngay khẩu súng và chỉ vào máy điện đài đeo lủng lẳng trước ngực hắn, hỏi tiếp :
    - Cái này của mày còn nói được không ?
    - Dạ thưa, một đêm ngâm nước, có lẽ hỏng rồi.
    Tôi hỏi đến 5 tên khác. Tất cả bọn chúng đều nằm trong bộ chỉ huy quân đoàn 3 ngụy, có tên làm cận vệ cho tên Nghi. Chúng tôi dẫn chúng về đơn vị thì trời vừa tối. Sáng hôm sau tôi tiếp tục dẫn tổ của mình đi chặn địch, bắt thêm được 65 tên khác, trước khi đơn vị được lệnh hành quân tham gia giải phóng Sài Gòn.
    Khẩu AK số hiệu 6907 của tôi trong trận đó, giờ còn để ở phòng truyền thống sư đoàn. Hôm bàn giao nó tôi cứ tiếc mãi. Tôi nói với chính uỷ Biền :
    - Chính ủy cứ cho tôi giữ khẩu súng đó. Xa nó thì tôi nhớ lắm !
    Nhưng chính ủy không nghe, anh nói :
    - Khẩu AK bây giờ không còn là của cậu nữa. Nó là kỉ vật chung của cả sư đoàn. Mình thay cho cậu khẩu K54 mới toanh. Được chứ ?
    Sau ngày miền Nam giải phóng, trong thời gian huấn luyện tôi được đề bạt làm cán bộ trung đội rồi làm chính trị viên đại đội 3 này.
    Tháng 7-1976, tôi được nghỉ phép 15 hôm, đó là chuyến phép đầu tiên trong đời bộ đội. Tôi cưới vợ trong kì phép đó. Vợ tôi là một bạn gái học sinh cùng quê Lục Ngạn, Hà Bắc, và sau đó chúng tôi có con.
    Đơn vị chúng tôi được lệnh hành quân lên Lạng Sơn làm nhiệm vụ và đã chiến đấu suốt trong thời gian qua với bọn giặc Bắc Kinh, từ đầu đến cuối chiến dịch.
    Buổi sáng ngày 18-2, sau 1 ngày 1 đêm thúc quân lên chiếm các điểm cao ở khu vực Đồng Đăng không xong, bọn chúng liền đánh chiếm chốt đơn vị tôi. Lúc đó tôi đi với trung đội 2, bên cạnh là các chiến sĩ bắn trung liên Nguyễn Đình Lập, Nguyễn Văn Bình. Khoảng 8 giờ 20 thì tôi nhận được thông báo có triệu chứng địch sắp tiến công. Chỉ 1 lúc sau, pháo địch đã bắn gấp vào trận địa, vào các mỏm 2 bên, sau đó chúng ồ ạt xông lên. Tiếng kèn sừng dê, tiếng kèn đồng ré lên trong tiếng đạn các cỡ. Chúng đặt khẩu đại liên trên 1 quả đồi Chậu Cảnh bắn chéo cánh sẻ vào đội hình phòng ngự của 2 trung đội ta. Đạn tuôn xối xả. Tôi hỏi Bình :
    - Cậu có cách nào kiềm chế nó không ?
    - Báo cáo, có !
    Nói xong, Bình cúi rạp người, bắn 1 loạt ngắn trung liên nhưng đạn đi thấp cắm vào đất, bụi mù. Bình chuyển điểm ngắm, bắn tiếp, trúng ngay 1 tên đỡ băng đạn đại liên. 1 thằng khác nhảy lên đúng vào lúc tôi vừa xoay khẩu AK về phía nó. Tôi bóp cò, 2 tên địch trúng đạn, chết ngay tại chỗ. Diệt được khẩu đại liên rồi, đã đỡ 1 phần đạn thẳng nhưng hoả lực cối 60 ly của chúng lúc này có phần dữ dội và ác liệt hơn. Chúng bắn theo kiểu ô vuông, quả nọ cách quả kia chưa đầy 3m, mảnh bay rào rào. Tôi động viên :
    - Cối địch bắn nhiều đó, nhưng phải để mắt vào thằng bộ binh, chớ để nó leo lên.
    Tôi nói chưa xong thì phía sau, 3 cái bóng đã nối nhau vụt lên. Đó là những tên lính Bắc Kinh đầu tiên vượt qua được tầm lựu đạn của chúng tôi, đánh vu hồi. Bỗng tôi nghe tiếng đạn nổ rất âm và sau đó là tiếng báng súng nện xuống một nhát. Một ý gnhĩ loé lên trong tôi : "Ta hay địch ở đó ?".
    Thì ra chiến sĩ Tĩnh tiểu đội 4 đã đoán trước được thủ đoạn của thằng địch, cậu ta nép mình vào đoạn ngoặt của hào, giơ súng sát ngực tên đi trước bóp cò rồi quay báng súng nện vào đầu tên đi sau. 2 tên chết tại chỗ, tên thứ 3 vội vàng tuột xuống dốc như kiểu trẻ con ngã cầu trượt. Cũng ngay lúc đó, cậu Hợp, trung đội phó trung đội 2 nhanh chóng điều động chiến sĩ mình, nhảy ra công sự, chia đồi hình đánh vòng sang quả đồi Bằng, tiêu diệt tại chỗ 30 tên lính Trung Quốc ngay dưới chân dốc.
    Đánh từ 8 rưỡi đến 15 giờ thì toàn đại đội tôi đã diệt được hơn 200 tên và thu được 38 khẩu súng, trong đó có 2 khẩu B41 còn đạn thì 7, 8 hòm gì đó. Được trung đoàn chi viện, sang các ngày 19, 20 và 21-2, đại đội vẫn đánh địch xung quanh khu vực các ngọn đồi Công Bình, đồi Bằng, đồi Chậu Cảnh, giành đi giật lại với địch, có ngày chiến đấu đến 20 đợt, một số anh em bị thương nhưng chốt vẫn vững. Tôi bị thương ở cánh tay vào sáng 22-2, vết thương ra nhiều máu, không nâng được khẩu AK lên để bắn, có lúc ngất đi và anh em đã đưa tôi về bệnh xá trung đoàn lúc nào không biết. Ba bốn ngày nằm sau hậu tuyến, tôi nhớ đơn vị quá, ai còn ai mất. Đơn vị chỉ còn anh Quế là cán bộ cấp trưỏng. Tôi nhớ cậu Bình, cậu Lập, cậu Nhất những tay súng mới vào trận đầu mà đã lập công xuất sắc. Tôi giơ thử cánh tay phải lên tập, ban đầu đau tưởng ngất đi nhưng rồi dễ chịu dần. Vết thương tuy chưa lành nhưng có phần nào đỡ đau nhức. Tôi nảy ra ý định rời bệnh xá để lên chốt. Không lên chốt lúc này cảm thấy không sao chịu được, nhưng nếu tôi đề nghị thì chắc không được mà thêm rắc rối cho các anh phụ trách. Tôi xé mảnh giấy trong sổ công tác và viết :
    "Kính gửi anh Khuynh phụ trách bệnh xá trung đoàn
    Trước khi về lại chốt đáng lẽ tôi phải đến gặp các anh nhưng tôi trình bày thì các anh sẽ không chấp nhận. Tôi nằm ở bệnh xá trung đoàn đúng 4 đếm, 3 ngày rồi. Vết thương ở cánh tay đã đỡ, tôi không quên ơn đó của các bác sĩ, y tá. Hiện nay anh em đại đội 3 đang chiến đấu trên đồi Địa Chất, đồi Chậu Cảnh, tôi là 1 chính trị viên, 1 bí thư chi bộ nên phải có mặt ở chốt để động viên, nắm đơn vị cùng anh em chiến đấu. Lúc bị thương, tôi chưa kịp trao đối công việc với một ai trong đơn vị. Tôi chịu nhận khuyết điểm với các anh về việc chấp hành chưa tròn nội quy của bệnh xá nhưng nếu tôi không có mặt ngoài đó lúc này thì tôi cảm thấy chưa tròn trách nhiệm. Cũng có thể tôi suy nghĩ chưa đầy đủ lắm, nhưng thú thực với các anh, không lên chốt lúc này tôi cảm thấy không chịu được. Tôi viết thư này và nhờ đồng chí Huấn, chiến sĩ đại đội 3 nằm cùng lán gửi các anh.
    Bệnh xá ngày 26-2-1979
    Kính thư
    Nguyễn Văn Loan
    chính trị viên đại đội 3 tiểu đoàn 1
    Tôi gấp lá thư vào 1 cái phong bì, để đầu giường Huấn rồi dặn :
    - Các anh ấy có gay quá thì cậu nói giùm là mình sốt ruột quá nên đã ra đi từ đem hôm qua.
    Nói xong tôi xốc balô và một mạch theo đường tải đạn đi về ga Tam Lung để lên chốt. Trong màn sương mờ đục, tiếng súng lặng, thỉnh thoảng nghe tiếng pháo cầm canh của quân ta đang rót lên khu vực Đồng Đăng. Con đường dốc đi lên điểm cao Công Bình mọi ngày là thế, bây giờ tôi thấy dài hơn. Dọc đường, tôi tranh thủ quan sát các quả đồi để tìm dấu vết còn lại sau các trận đánh.
    Ở đồi Công Bình, tôi đếm được 120 cái vỏ băng cá nhân của lính Trung Quốc vất dọc lối đi nhuốm đầy máu. Một vài cái cáng làm bằng 2 đoạn tre tươi, giữa quấn dây thừng kiểu mắt cáo, dùng để khiêng những thằng bị thương hoặc chết.
    Tới 1 lối nhỏ ở đồi Chậu Cảnh, tôi nhìn thấy 3 xác lính Trung Quốc nằm úp lên nhau đã bốc mùi thối.
    Đi hết quãng nữa, bỗng tôi gnhe tiếng anh em reo to :
    - Chính trị viên lên rồi anh em ơi !
    Thế là không ai bảo ai, các chiến sĩ đều chạy ra quây quần lấy tôi. Anh em mừng lắm, 1 chiến sĩ nói :
    - Mấy bữa xa anh, tụi tôi rất nhớ, nhưng đơn vị vẫn kiên quyết đánh thắng giặc Trung Quốc bành trướng.
    Tôi ôm chặt vai Bình và hỏi :
    - Bình giết được bao nhiêu tên rồi ?
    - Báo cáo, bằng các bạn. Hai chục tên.
    Tôi hỏi 1 chiến sĩ khác :
    - Các cậu có bắt được tên tù binh nào không ?
    - Chưa bắt được anh ạ. Làm thế nào để tóm gọn một lô như hồi anh tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, bắt một lúc 2 thằng tướng.
    - Yên chí, nó còn thua đau, còn dốc quân vào đây thì anh em ta còn thời cơ bắt hàng đoàn.
    Động viên anh em xong, tôi đi gặp ngay anh Quế để hội ý công việc. Chuẩn bị cho đơn vị đánh lâu dài.
    Anh Quế nói với tôi :
    - Mấy bữa anh đi viện, anh em ở nhà đánh tốt lắm, nhất là anh em trẻ. Cậu Bình, cậu Hợp, chỉ qua 1 trận là học được cách đánh của cán bộ, phán đoán đúng ý đồ của địch, diệt chúng từ lúc chúng mới có ý định tiến công lên chốt. Cả 3 trung đội đánh rất đều.
    Tôi cũng nghĩ như thế. Chiến sĩ phần lớn rất trẻ, lại có trình độ văn hoá, có lòng yêu thương và tự hào dân tộc rất cao, có chí căm thù giặc sâu sắc, tiếp thu kĩ thuật, chiến thuật nhanh. Sức mạnh 1 người hoá thành 5 thành 10. Sức mạnh của đại đội cũng bẻ gãy hàng chục đợt tấn công của trung đoàn 870 địch trong suốt 1 tuần đầu chiến đấu.
    Hội ý xong, chúng tôi đi tiếp đến từng ngách hào, nơi các chiến sĩ đang sẵn sàng nổ súng.
    Không được đụng tới Việt Nam, NXB QĐND 1979.
    * : có lẽ là trung đoàn 2, thuộc sư đoàn 3 Sao Vàng.
    ** : đơn vị giải phóng TX Đông Hà năm 1972 là trung đoàn 36 và 88 thuộc sư đoàn 308. Có lẽ tiểu đoàn của đ/c Nguyễn Văn Loan sau này đã được nhập vào sư đoàn 3-thời điểm 1972 đang chiến đấu ở Bình Định.
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 17:52 ngày 12/02/2005
  6. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    "Với lực lượng tại chỗ, các lực lượng vũ trang và công an nhân dân cùng đồng bào các dân tộc đã tạo nên sức mạnh tổng hợp vĩ đại của chiến tranh nhân dân chặn từng bước tiến của địch, phòng ngự kiên cường, phản công và tiến công mạnh mẽ, gây tổn thất nặng nề cho các binh đoàn chủ lực lớn của địch.
    Đồng bào và chiến sĩ cả nước, với khí thế Diên Hồng thời đại, đã nhất tề đứng lên thề cảm tử cho Tổ quốc trường sinh, quyết đánh và quyết thắng".

    Thông cáo của Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    Ngày 19 tháng 3 năm 1979.
    ------------------------------------------------
    Lính TQ bị quân và dân Việt Nam bắt là tù binh ở Hoàng Liên Sơn...
    [​IMG]
    ...Lạng Sơn.
    [​IMG]
    ...Cao Bằng.
    [​IMG]
    Biệt kích đường biển của TQ bị bắt ở Quảng Ninh ngày 26-2-1979.
    [​IMG]
    Bọn ********* và thám báo của TQ ở Hoàng Liên Sơn bị bắt.
    [​IMG]
    Bọn biệt kích được cử sang phá hoại ga Lạng Sơn bị bắt.
    [​IMG]
    (Ảnh của bác maninblack)
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 12:47 ngày 25/03/2005
  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    "Với lực lượng tại chỗ, các lực lượng vũ trang và công an nhân dân cùng đồng bào các dân tộc đã tạo nên sức mạnh tổng hợp vĩ đại của chiến tranh nhân dân chặn từng bước tiến của địch, phòng ngự kiên cường, phản công và tiến công mạnh mẽ, gây tổn thất nặng nề cho các binh đoàn chủ lực lớn của địch.
    Đồng bào và chiến sĩ cả nước, với khí thế Diên Hồng thời đại, đã nhất tề đứng lên thề cảm tử cho Tổ quốc trường sinh, quyết đánh và quyết thắng".

    Thông cáo của Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    Ngày 19 tháng 3 năm 1979.
    ------------------------------------------------
    Lính TQ bị quân và dân Việt Nam bắt là tù binh ở Hoàng Liên Sơn...
    [​IMG]
    ...Lạng Sơn.
    [​IMG]
    ...Cao Bằng.
    [​IMG]
    Biệt kích đường biển của TQ bị bắt ở Quảng Ninh ngày 26-2-1979.
    [​IMG]
    Bọn ********* và thám báo của TQ ở Hoàng Liên Sơn bị bắt.
    [​IMG]
    Bọn biệt kích được cử sang phá hoại ga Lạng Sơn bị bắt.
    [​IMG]
    (Ảnh của bác maninblack)
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 12:47 ngày 25/03/2005
  8. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Cám ơn các bác đã cho ý kiến.
    Như trên em đã nói là chỉ sửa từ ngữ chứ không can thiệp vào nội dung. Theo đúng bài của mấy bác CCCB mà em lấy về thì viết là "phá một lèo", em đã chỉnh lại là "phá liền", tất nhiên với cách hiểu là bắn lần lượt và có nghỉ giữa chừng.
    Các bác đọc bài về trận phục kích đoàn xe TQ sẽ thấy có tay súng VN đã bắn tổng cộng 6 phát B41. Trận đánh diễn ra trong khoảng 20 phút. Xin hỏi các bác cựu binh liệu có thể làm được điều đó không, nếu như bắn 3 phát rồi nghỉ 10 phút mới bắn tiếp và người bắn có thể lực tốt (đặc công) ?
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Cám ơn các bác đã cho ý kiến.
    Như trên em đã nói là chỉ sửa từ ngữ chứ không can thiệp vào nội dung. Theo đúng bài của mấy bác CCCB mà em lấy về thì viết là "phá một lèo", em đã chỉnh lại là "phá liền", tất nhiên với cách hiểu là bắn lần lượt và có nghỉ giữa chừng.
    Các bác đọc bài về trận phục kích đoàn xe TQ sẽ thấy có tay súng VN đã bắn tổng cộng 6 phát B41. Trận đánh diễn ra trong khoảng 20 phút. Xin hỏi các bác cựu binh liệu có thể làm được điều đó không, nếu như bắn 3 phát rồi nghỉ 10 phút mới bắn tiếp và người bắn có thể lực tốt (đặc công) ?
  10. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    [​IMG]
    Xe tăng Trung Quốc bị diệt.
    Thiếu xe chở quân buộc xe tăng phải cõng theo bộ binh, đạn dược dự trữ, cách sử dụng kém cỏi trên địa hình đồi núi phức tạp cộng với sức chiến đấu mạnh mẽ của Việt Nam, đã khiến thiết giáp Trung Quốc phải nhận những thiệt hại nặng nề : 60% xe tăng tham gia chiến dịch bị cháy hoặc hỏng (nguồn : www.sinodefence.com ).
    (Ảnh của bác fanlong74).
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 19:32 ngày 20/03/2006
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này