1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 và 1984

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 11/02/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tôi có anh bạn, hiện đang làm ở trong Đảng uỷ tỉnh Lâm Đồng, cùng thi Tiến sỹ với tôi hồi tôi còn ở Việt nam, trước chiến đấu chống Mỹ, rồi được điều ra phía Bắc đánh trận Vị xuyên, nhưng ở thê đội hai dự bị, không trực tiếp đánh trận nào nhưng nhìn tận mắt.
    Anh kể đơn vị anh ấy hi sinh một người thì quân Trung quốc chết 13-14 tên. Súng bắn hết băng đạn là phải bỏ xuống cầm khẩu khác lên bắn, vì nếu không thì đạn chỉ rơi lọp bọp trước mặt vì nòng súng đã nóng đỏ hết lên rồi.
    Lựu đạn không kịp ném từng quả một, vì địch tràn lên đông quá, ta lại có quá ít người đóng trên chốt (vì nếu đóng đông thì pháo địch dập mấy quả là hi sinh hết).
    Đơn vị anh ấy mở sẵn chốt an toàn lưu đạn, cứ năm quả lựu đạn cho kẹp vào giữa một đốt tre chẻ đôi và buộc lại. Khi địch tràn lên thì mở dây văng một phát là cả một chùm lựu đạn bay vào đám quân địch. Có thế thì mới kịp.
    Quân Trung quốc có trận chỉ mấy hàng đầu có súng, vì hàng sau có súng cũng không bắn được vì vướng lưng hàng đằng trước (đánh lên dốc mà). Hàng đằng trước chết thì hàng đằng sau lên nhặt súng của hàng đằng trước chiến đấu tiếp, cứ như vậy. Đấy là cách để bọn Trung quốc dùng để chống bị quân ta thu mất vũ khí ?.
    Về sau Nga viện trợ cho súng máy hạng nặng 37 nòng (?) (tôi tưởng là súng 37 ly, hỏi lại, nhưng anh ấy khẳng định là súng có 37 nòng - tôi thực sự đến bây giờ vẫn chưa nhìn thấy loại súng như vậy nên cũng hơi nghi nghi). Có loại súng đấy rồi thì yên tâm, cứ từ đồi nọ bắn chéo sang đồi kia để bảo vệ nhau. Địch chết bị trúng đạn bắn văng đi mấy mét, đẩy dạt hết cả một mũi tiến công lệch về một bên, cứ như là cánh đồng lúa bị gió thổi.
    Bọn Trung quốc lại zốt, khi bị bắn đáng lẽ tản ra, thì chúng nó lại cứ cụm lại với nhau (chắc là thằng nọ muốn dùng thằng kia làm bia đỡ đạn). Sau đó cối của ta cứ thế giã vào cái đám đông đấy.
    Anh ấy còn kể nhiều khi phải ném lựu đạn bằng súng cao su. Tháo chốt lựu đạn rồi căng dây phóng đi, lựu đạn bay xa cũng được 50, 60m và nổ trên không nên diện tích sát thương càng cao. Bọn tàu có nằm lăn xuống đất tránh vẫn cứ chết như thường, thế nên chúng nó lại càng rúc đầu vào nhau để tránh mảnh đạn. Cái hay nữa của kiểu phóng lựu đạn này là bọn lính tàu do sợ lại cứ ngước ngước mắt lên dõi xem lựu đạn bay đến đâu để còn nằm tránh, nên không ngắm bắn chiến sỹ ta được, chỉ vãi đạn thôi.
    Tôi cũng nghe nói là trong điều kiện bình thường để đảm bảo an toàn không ai bắn quá 2 viên B40, vì nếu không bị điếc tai, sẽ không còn cảm giác chiến đấu. Nhưng trong chiến tranh, tình hình gấp gáp, giặc đông, đằng nào mình không bắn nó thì mình cũng chết, nên một người buộc phải bắn 7 quả tôi nghĩ không phải là lạ. Trong chiến tranh chống Mỹ, chị Ngô Thị Tuyển còn vác được hai hòm đạn cao xạ 98Kg, trong khi người nặng có 38kg.
    Còn nói về số bị chết, thằng chinese PhD student ngồi cùng office với tôi nói là nó đọc được ở tài liệu Trung quốc là quân trung quốc chết hơn 20.000 nghìn quân chính quy, và đem quân sang việt nam chỉ có 200.000 thôi. Nếu như tài liệu của nó nói là chết 20,000 thì chắc thực tế sẽ chết 30,000.
    Còn tài liệu "Các local conflict từ sau chiến tranh thế giới thứ II" mà tôi đọc được ở thư viện trường tôi hồi còn học ở bên Anh thì, ở Chương về sino-vietnam conflict, các tác giả nói là Quân đội Trung quốc thừa nhận chết 20 nghìn quân, và quân việt nam the same. Trung quốc sai lầm khi quá tự tin về victory over Vietnam. Quân Trung quốc từ năm 1949 cho đến 1979 không đánh nhau trận nào, cựu chiến binh thế chiến và Triều tiên trong quân đội không còn ai nữa nên không có kinh nghiệm. Trong khi đó, quân đội Việt nam thì ngược lại, đánh nhau liên tục từ năm 1945 nên kinh nghiệm đầy mình, địa phương quân lại toàn cựu chiến binh giải ngũ, tự giác cầm vũ khí ra trận tác chiến độc lập luôn trong những ngày đầu mà không đòi hỏi cần phải tổ chức bài bản, nên TQ bị thiệt hại nặng.
    Thấy ông chú ruột chiến đấu ở quân khu hai nói là về sau chống đánh lấn chiếm chết mới nhiều. Ta địch có lẽ ngang nhau. Còn năm 79 thì chưa đánh lớn địch đã rút rồi. Đại quân hai bên chưa có dịp gặp gỡ.
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Trích từ bài của tuananh18682 :
    Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt 1979
    Lâm Lễ Trinh
    Lý do - Quyết định - Hậu quả và những bài học tương lai
    Để bao vây Trung quốc và làm suy yếu thế lực của Hoa Kỳ tại Á châu, tháng 6.1969 Leonid Brezhnev đề nghị với các quốc gia, từ Trung Đông đến Nhựt Bổn, hình thành một tổ chức an ninh chung bảo vệ hòa bình và an lạc trong khu vực. Riêng ở Đông dương, chủ đích của Nga là hất ảnh huởng Mỹ và Tàu ra khỏi bán đảo, kiểm soát vịnh Cam Ranh và các hải cảng chiến lược, hỗ trợ các đảng và thể chế mạc xít, đồng thời đặt các nước Đông dương trong vòng lệ thuộc Điện Cẩm Linh bằng cách viện trợ quân sự và kinh tế. Kế hoạch này thành công. Việt Nam là trường hợp điển hình.
    Sau ngày "giải phóng Sàigòn" Liên Sô tăng số cố vấn tại Lào từ 100 lên 500, giúp 500 triệu mỹ kim cho ngân sách VN tài khóa 1976 và 3 tỷ đô la cho kế hoạch ngũ niên 1976-1980 của Hà nội. Bắc Kinh, trong lúc đó, chỉ viện trợ tượng trưng 200 triệu, báo tin không cấp ngân khoản mới cho 1977 và ngày 27.9.1976, tại diễn đàn Liên Hiệp quốc, Ngoại trưởng Kiều Quán Hoa một mặt tố Nga trám khoảng trống ở Á châu và mặt khác, cảnh cáo các thành viên Đông Á đừng bao giờ "đón cọp vào ngã sau trong khi đuổi chó sói ra cửa trước". Với ước mong được thu nhập vào COMECON, Hội đồng Tài trợ Kinh tế Hỗ tương CS, Hà nội theo sát con đường Sô viết chống Tàu. Khi Đảng Lao động VN nhóm Đại hội lần thứ 4 tại Hà nội, cuối 1976, đưới sự giám sát của lý thuyết gia Mikhail A. Suslov, trưởng phái đoàn Sô viết......................
    Cuối 1977, sau khi tham khảo ý kiến Trung quốc, Cam Bốt đoạn giao với VN. Đầu năm 1979, số cố vấn và chuyên viên sô viết tại VN tăng từ 5000 lên 8000. Nhiều diễn biến dồn dập xẩy ra, khiến cho Bắc kinh và Hà nội không tránh được đụng độ trực tiếp:
    + Lý do đụng độ Việt - Hoa. Tổng quát, có bốn lý do chính yếu:
    1.- Liên sô xử dụng Vịnh Cam Ranh và ký Hiệp ước thân hữu với VN. Tháng 6.1978, không khí căng thẳng khi Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình báo tin hủy bỏ viện trợ cho VN, phản đối việc trục xuất 110.000 người Việt gốc Hoa và công bố Trung quốc đã giúp cho CSVN hơn 20 tỷ mỹ kim từ 1950 đến 1978. Hà nội liền tố ngược các lãnh tụ Tàu là *********. Hai quốc gia CS Albania và Lào cũng hùa theo chỉ trích Bắc Kinh. Đồng thời, Phạm Văn Đồng lên tiếng xin bình thường hóa bang giao với Hoa Kỳ. Mười hôm sau, giới truyền thông rầm rộ tung tin Liên sô được phép lập căn cứ quân sự tại Cam Ranh và Đà nẵng. Phần thưởng của sự nhân nhượng này là Mạc Tư Khoa bựt đèn xanh cho Hà nội xúc tiến thực hiện và điều khiển "Liên bang Đông Dương".
    Ngày 3.11,1978, Nga và Việt ký Hiệp ước Thân hữu và Hợp tác, trong đó điều 6 đặc biệt ghi rằng đôi bên sẽ áp dụng "các biện pháp thich nghi và hữu hiệu để bảo vệ hòa bình và an ninh" nếu một trong hai nước bị đe dọa hay tấn công. Trong dịp viếng Thái Lan, Đặng Tiểu Bình sỉ vả VN là "Cuba của phương Đông", bắt tay với đế quốc để xây mộng bá chủ và đe dọa Thái Bình Dương và Thế giới.
    2.- VN chiếm đóng Cam Bốt. Tại Hội nghị Genève 1954, Chu Ân Lai thuyết phục Phạm Văn Đồng cho rút quân khỏi Cam Bốt và công bố tôn trọng chủ quyền nước này. Năm 1958, Bắc kinh và Nam Vang trao đổi sứ thần và ký Hiệp ước hữu nghị và bất xâm phạm. Tháng 11.1963, sau vụ đảo chính TT Ngô Đình Diệm, Sihanouk yêu cầu các cơ quan Mỹ rời xứ Chùa Tháp và Trung quốc cảnh cào Hoa Kỳ không được xâm nhập đồng minh nhược tiểu này. Tháng 3.1970, tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk. Một tháng sau, các dân tộc Đông dương nhóm thượng đỉnh tại Guangzhou gồm có Bắc Việt, Pathet Lào và Khờ me Đỏ (lúc đó còn liên kết với Sihanouk). Khờ Me Đỏ nhận viện trợ của Bắc kinh và tuy không tin Hà nội, vẫn liên tục cấp nơi ẩn nấp cho các lực lượng ********* mỗi khi chúng bị Quân đội VNCH đẩy lui. Vì lý do lịch sử, địa dư và chiến thuật, Cam Bốt đã từng là chư hầu của VN. Miên luôn luôn lo sợ bị nuốt trửng ngay trong những năm cộng tác thân thiện với Hà nội (1970 - 1975). Sau tháng 4.1975, Khờ Me Đỏ hoàn toàn trông cậy vào sự che chở của Trung quốc. Tháng 9.1975, Chu Ân Lai sắp xếp cho Sihanouk trở về Nam Vang "để đuổi Bắc Việt ra khỏi xứ " nhưng ê kíp Pol Pot, Ieng Sary và Khieu Samphan nhất quyết đốt giai đoạn biến Cam Bốt đầu hôm sớm mai thành một "nước xã hội chủ nghĩa vẹn toàn", bất chấp lời khuyên của Chu. Những biện pháp quá khích được đem ra thi hành gấp làm cho xứ hỗn loạn. Tháng chạp 1976, khi phái đoàn chuyên viên Tàu của Fang Yi sang giúp Miên thì đã quá chậm: quần chúng kiệt sức, thợ thuyền, công chức và trí thức bị tiêu diệt, quân đội tan rã, gần 4000 lính Miên (do ********* huấn luyện năm 1976) bị tẩy trừ. Từ 1975 cho đến 1978, Chính phủ Khờ Me Đỏ đòi bộ đội Việt rời xứ nhưng các đơn vị này chỉ di tản về biên giới và tại đây, hai bên nhiều lần đụng độ đẫm máu.
    Cuối 1976, Đại hội 4 Đảng Lao Động nhóm để đổi tên thành Đảng CS Việt Nam và chấp thuận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thiết lập Liên bang Đông Dương bằng cách thuyết phục và nếu cần, áp lực quân sự Miên và Lào gia nhập. Tháng 2.1978, Ủy ban Trung ương quyết nghị xóa chế độ Pol Pot qua 4 giai đoạn: tố cáo đường lối khát máu của Khờ Me Đỏ, tấn công Bắc kinh viện trợ Nam Vang, xúi dân Miên nổi loạn và tận dụng lá bài Sô viết. Ngày 7.1.1979, với sự đồng ý và hỗ trợ vũ khí của Mạc Tư Khoa, 100.000 quân Việt tràn ngập Cao Miên và toàn thắng sau 2 tuần lễ. Trung quốc không can thiệp, để tránh lún vào vũng lầy chiến tranh như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình cảnh cáo rằng trong tương lai, Bắc kinh sẽ "lấy những quyết định ngoài ý muốn vì hòa bình". Theo tạp chí Tàu cộng Geng Biao, 1.500 Hoa kiều bị kẹt lại ở Cam Bốt và phần đông đã gia nhập hàng ngũ Khờ Me Đỏ để chống VN. Ngày 8.1. 79, Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng, do bù nhìn Heng Samrin cầm đầu, được Hà nội công nhận. Chính quyền Thái thận trọng đứng ngoài. Lời kêu cứu của Sihanouk với Liên Hiệp Quốc rơi vào sa mạc. Pol Pot rút vào rừng để kháng chiến. Ngày 18.2.1979, Miên và Việt ký Hiệp ước Thân hữu và Hợp tác có giá trị 25 năm, công khai hóa việc quân đội Việt chiếm đóng Cộng hòa Nhân Dân Cam Bốt và đặt chính thức xứ này dưới chiếc dù quân sự của Hà nội. Trước đó hai năm, ngày 18.7.1977, Lào và VN đã ký một Hiệp ước hữu nghị tương tợ. Liên bang Đông Dương thực hiện xong. Bằng võ lực.
    3.- Tranh chấp Việt - Hoa về lãnh thổ. Từ lâu, đề tài cãi vã giữa VN và Trung quốc xoay quanh ba khu vực:
    a)- Một biên giới chung dài trên 797 cây số, được thực dân Pháp và Trung Hoa ấn định năm 1887 trong một Thỏa ước và bổ túc năm 1895. Cuối thập niên 70, cả Hoa và Việt khiếu nại lẫn nhau về vị trí của 300 cột trụ phân ranh.
    b)- Vịnh Bắc Việt, còn gọi là Beibu Gulf / Bắc Bộ Gulf hay Gulf of Tonkin. Hai Thỏa ước vừa kể không nói rõ lằn ranh thuộc phần kiểm soát của mỗi nước. Tháng 10.1977, cuộc hội nghị tại Bắc kinh không giải quyết được dứt khoát vấn đề.
    c)- Gây cấn nhất là chuyện dành hai nhóm quần đảo Hoàng Sa (hay Paracels/Xisha) và Trường Sa (hay Spratlies/Ninsha). Khu vực này hệ trọng cho cả Trung quốc và VN về chiến thuật và dầu khí. Hoàng Sa, Trường Sa, cùng với một số đảo lân cận khác như Pratas Reef và Macclesfield là những trạm thông thương giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Bởi thế Phi Luật Tân, Đài Loan, Nam Dương, Nhựt, Brunei v..v.. cũng đòi chia phần. Mỹ và Nga theo sát vấn đề. Nga nắm thế thượng phong vì kiểm soát được Vladivostok, Cam Ranh và Đà nẵng. Ngày 4.9.1958, Bắc Kinh công bố chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa. Quân đội VN đã tái chiếm được 6 đảo nhỏ. Từ 1974 cho đến 16.2.1979, theo Renmin Ribao, số ra ngày 14.5.1979 và bản ghi chép "SRV Memorandu " đề ngày 16.3.1979, có tất cả 3535 vụ xô xát Việt -Hoa tại biên giới (trong sổ sách Trung cộng) và 4333 vụ (chiếu tài liệu VN).
    4.- Hà nội trục xuất Hoa kiều làm cho tình hình căng thẳng tột độ. Đa số Hoa kiều tại VN di cư từ hai tỉnh Quảng Đông va Phước kiến, sau Trận giặc Nha phiến (1840- 1842). Họ cần cù làm ăn, sống đoàn kết và không tham gia chính trị. Tại Nam Việt, trước 1975, hơn phân nửa tổng số 1.300.000 người Hoa ủng hộ Chính phủ quốc gia. Sau Tết Mậu thân 1968, từ 75 đến 80% không có thiện cảm với CS. Chỉ một số ít hoạt động cho Hà nội. Trước 1975, năm người Việt gốc Hoa được bầu vào Hạ Viện. Tại Chợ lớn, người Hoa tổ chức thành 5 bang: Quảng Đông, Phước kiến, Triều châu, Hẹ và Hakka, mỗi bang được đại diện bởi một bang trưởng chọn theo lối đầu phiếu. Họ có một Phòng Thương mãi, một bệnh viện đặt tên Chung Cheng, một số trường học và báo chí. Tháng 8.1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh buộc Hoa kiều bỏ quốc tịch Tàu và nhập tịch VN nếu muốn tiếp tục hành nghề. Tháng 4.1957, thẻ lý lịch ngoại quốc bị coi như vô giá trị............................
    Đầu 1977, Việt - Hoa căng thẳng. Chính quyền Hà nội đuổi người Tàu sống tại các tỉnh biên giới về Trung quốc. Tháng 5. 1978, trong vòng 13 hôm, con số này vượt lên đến 57.000, không kể 320.000 người bị đẩy đi vùng kinh tế mới và 50.000 bị tịch thu tài sản. Nhà Nước CHXHCN còn công bố cho phép ra đi vĩnh viển những ai mang chiếu khán Hồng kông, Đài Loan hay Pháp. Ngày 29 tháng 6, VN chính thúc gia nhập COMECON, Bắc kinh liền cúp viện trợ hoàn toàn, hồi hương 880 chuyên viên và đóng cửa Sứ quán. Hà nội ra lệnh cho Tòa Tổng lãnh sự Tàu ngưng hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh. Ba lãnh sự quán Việt ở Nam Ninh, Côn Minh và Quảng Đông củng phải rút lui. Từ tháng 9. 1978, trong Tạp chí CS và tờ Quân Đội Nhân Dân, nhà cầm quyền Việt Nam bắt đầu kêu gọi dân chúng sẵn sàng chống lại "chủ nghĩa bành trướng của nước lớn và ý đồ bá quyền của bọn Hán phong kiến." Liên hệ Việt - Hoa "môi hở răng lạnh" tan thành mây khói. Câu nói của Hồ "Việt và Hoa vừa là bạn, vừa là anh em" chua cay hơn lúc nào hết.
    +Đặng Tiểu Bình chuẩn bị chiến tranh.
    Chu Ân Lai qua đời đầu năm 1976 và Mao Trạch Đông, chín tháng sau. Nội tình Trung quốc xáo trộn vì ba sự kiện hệ trọng:
    1.- chiến dịch sôi nổi chống nhóm Tứ Quái của Jiang Qing, vợ Mao, đầu não xách động *****************.
    2.- việc thi hành chậm trễ kế hoạch Bốn Hiện Đại Hóa do Chu đề xướng để canh tân kỹ nghệ, canh nông, quốc phòng và khoa học.
    3.- sự tranh quyền ráo riết giữa Đặng Tiểu Bình và Tổng bí thơ Hoa Quốc Phong, lãnh tụ của "Phe Bất Cứ Gì" (=bất cứ gì chủ tịch Mao nói và làm đều đúng cả!). Cuối 1978, sau hai lần bị khai trừ, Đặng phục hồi quyền lực, nắm đa số trong Chính trị bộ và Ủy ban trung ương Đảng CS, giữ chức Tổng tư lệnh quân đội, thi hành chính sách của Chu và xét lại đường lối Mao ít. Đặng bắt tay nghiên cứu cách giải quyết khủng hoảng với láng giềng VN. Trung quốc cảm thấy bị đe dọa trong quyền lợi và thách đố bởi một nước đàn em hung hăng, phản bội và tự hào là nước mạnh quân sự thứ ba trên địa cầu.
    Theo Gs Irving Janis và Leon Mann, Đặng Tiểu Bình hành động thực tế và thận trọng qua 3 giai đoạn. Trước hết, thu thập đầy đủ dữ kiện bên ngoài (chiến lược toàn cầu của nước Tàu, chiến lược Đông dương của VN, sự nhúng tay của Liên sô, vấn đề Cam Bốt, tranh chấp biên giới, Hoa kiều tại VN, yếu tố Hoa Kỳ, dư luận thế giới) và dữ kiện bên trong như: lợi ích và các giá trị của Trung quốc, phản ứng tâm lý quần chúng trong nước, khả năng của quân đội Tàu, ảnh hưởng chiến tranh đối với mức phát triển kinh tế quốc gia..v..v.. Thứ nữa, tham khảo ý kiến và đạt được sự đồng thuận của các cơ cấu trong đảng CS: Chính trị bộ, Ủy ban Trung ương và Quân ủy Hội. Sau hết, hành động để giữ vững quyết định đến cùng.
    Hà nội ký Hiệp ước Hữu nghị với Liên sô và cưỡng chiếm Nam Vang là hành động khiêu khích thêm, buộc Bắc kinh phải trả đũa. Ngày 15.12.1978, Hoa Kỳ công nhận Trung Hoa. Đặng Tiểu Bình liền bay qua Hoa Thịnh Đốn hội kiến với Tổng thống Jimmy Carter, báo tin riêng sẽ tấn công VN và trấn an Mỹ rằng nhà cầm quyền nước ông biết tự chế. Ngày 1.1.1979, hai nước bang giao chính thức. Đặng cũng viếng Nhựt và một số quốc gia Đông Á để dò xét phản ứng. Tất cà đều lo ngại về ý đồ tương lai của VN, đồng minh của Mạc Tư Khoa. Trở về Bắc Kinh, Đặng điều chỉnh kế hoạch. Thay vì gởi quân qua Cam bốt giúp Khờ Me Đỏ và để tránh mang tiếng với Thế giới là "mưu đồ bành trướng", Trung quốc quyết đánh thẳng vào VN dưới hình thức "phản công tự vệ", không dùng hải lực không quân, trong một thời gian giới hạn và chỉ nhắm vào vùng biên giới. Đặng muốn dạy cho nhóm lãnh tụ tại Bắc bộ phủ "một bài học quân sự đich đáng".
    Mục phiêu thật của "sự trừng phạt" là gì? Tiêu hủy vài sư đoàn, căn cứ chiến lược hay chiếm một giải đất biên phòng của đối phương? Đặng không cho biết thâm ý. Dù sao, theo học giả King C. Chen, "chiến tranh trừng phạt, the Punitive War" tượng trưng cho chính sách đối ngoại của Bắc Kinh tại Á châu từ 1949. Hành quân năm 1979 chống VN được chuẩn bị chu đáo như cuộc đụng độ Hoa - Ấn năm 1962 và không hấp tấp như trường hợp Trung cộng tham chiến ở Triều tiên hay vụ Nga sô can thiệp ở Tiệp khắc và Hung Gia lợi.

  3. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Trích từ bài của tuananh18682 :
    Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt 1979
    Lâm Lễ Trinh
    Lý do - Quyết định - Hậu quả và những bài học tương lai
    Để bao vây Trung quốc và làm suy yếu thế lực của Hoa Kỳ tại Á châu, tháng 6.1969 Leonid Brezhnev đề nghị với các quốc gia, từ Trung Đông đến Nhựt Bổn, hình thành một tổ chức an ninh chung bảo vệ hòa bình và an lạc trong khu vực. Riêng ở Đông dương, chủ đích của Nga là hất ảnh huởng Mỹ và Tàu ra khỏi bán đảo, kiểm soát vịnh Cam Ranh và các hải cảng chiến lược, hỗ trợ các đảng và thể chế mạc xít, đồng thời đặt các nước Đông dương trong vòng lệ thuộc Điện Cẩm Linh bằng cách viện trợ quân sự và kinh tế. Kế hoạch này thành công. Việt Nam là trường hợp điển hình.
    Sau ngày "giải phóng Sàigòn" Liên Sô tăng số cố vấn tại Lào từ 100 lên 500, giúp 500 triệu mỹ kim cho ngân sách VN tài khóa 1976 và 3 tỷ đô la cho kế hoạch ngũ niên 1976-1980 của Hà nội. Bắc Kinh, trong lúc đó, chỉ viện trợ tượng trưng 200 triệu, báo tin không cấp ngân khoản mới cho 1977 và ngày 27.9.1976, tại diễn đàn Liên Hiệp quốc, Ngoại trưởng Kiều Quán Hoa một mặt tố Nga trám khoảng trống ở Á châu và mặt khác, cảnh cáo các thành viên Đông Á đừng bao giờ "đón cọp vào ngã sau trong khi đuổi chó sói ra cửa trước". Với ước mong được thu nhập vào COMECON, Hội đồng Tài trợ Kinh tế Hỗ tương CS, Hà nội theo sát con đường Sô viết chống Tàu. Khi Đảng Lao động VN nhóm Đại hội lần thứ 4 tại Hà nội, cuối 1976, đưới sự giám sát của lý thuyết gia Mikhail A. Suslov, trưởng phái đoàn Sô viết......................
    Cuối 1977, sau khi tham khảo ý kiến Trung quốc, Cam Bốt đoạn giao với VN. Đầu năm 1979, số cố vấn và chuyên viên sô viết tại VN tăng từ 5000 lên 8000. Nhiều diễn biến dồn dập xẩy ra, khiến cho Bắc kinh và Hà nội không tránh được đụng độ trực tiếp:
    + Lý do đụng độ Việt - Hoa. Tổng quát, có bốn lý do chính yếu:
    1.- Liên sô xử dụng Vịnh Cam Ranh và ký Hiệp ước thân hữu với VN. Tháng 6.1978, không khí căng thẳng khi Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình báo tin hủy bỏ viện trợ cho VN, phản đối việc trục xuất 110.000 người Việt gốc Hoa và công bố Trung quốc đã giúp cho CSVN hơn 20 tỷ mỹ kim từ 1950 đến 1978. Hà nội liền tố ngược các lãnh tụ Tàu là *********. Hai quốc gia CS Albania và Lào cũng hùa theo chỉ trích Bắc Kinh. Đồng thời, Phạm Văn Đồng lên tiếng xin bình thường hóa bang giao với Hoa Kỳ. Mười hôm sau, giới truyền thông rầm rộ tung tin Liên sô được phép lập căn cứ quân sự tại Cam Ranh và Đà nẵng. Phần thưởng của sự nhân nhượng này là Mạc Tư Khoa bựt đèn xanh cho Hà nội xúc tiến thực hiện và điều khiển "Liên bang Đông Dương".
    Ngày 3.11,1978, Nga và Việt ký Hiệp ước Thân hữu và Hợp tác, trong đó điều 6 đặc biệt ghi rằng đôi bên sẽ áp dụng "các biện pháp thich nghi và hữu hiệu để bảo vệ hòa bình và an ninh" nếu một trong hai nước bị đe dọa hay tấn công. Trong dịp viếng Thái Lan, Đặng Tiểu Bình sỉ vả VN là "Cuba của phương Đông", bắt tay với đế quốc để xây mộng bá chủ và đe dọa Thái Bình Dương và Thế giới.
    2.- VN chiếm đóng Cam Bốt. Tại Hội nghị Genève 1954, Chu Ân Lai thuyết phục Phạm Văn Đồng cho rút quân khỏi Cam Bốt và công bố tôn trọng chủ quyền nước này. Năm 1958, Bắc kinh và Nam Vang trao đổi sứ thần và ký Hiệp ước hữu nghị và bất xâm phạm. Tháng 11.1963, sau vụ đảo chính TT Ngô Đình Diệm, Sihanouk yêu cầu các cơ quan Mỹ rời xứ Chùa Tháp và Trung quốc cảnh cào Hoa Kỳ không được xâm nhập đồng minh nhược tiểu này. Tháng 3.1970, tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk. Một tháng sau, các dân tộc Đông dương nhóm thượng đỉnh tại Guangzhou gồm có Bắc Việt, Pathet Lào và Khờ me Đỏ (lúc đó còn liên kết với Sihanouk). Khờ Me Đỏ nhận viện trợ của Bắc kinh và tuy không tin Hà nội, vẫn liên tục cấp nơi ẩn nấp cho các lực lượng ********* mỗi khi chúng bị Quân đội VNCH đẩy lui. Vì lý do lịch sử, địa dư và chiến thuật, Cam Bốt đã từng là chư hầu của VN. Miên luôn luôn lo sợ bị nuốt trửng ngay trong những năm cộng tác thân thiện với Hà nội (1970 - 1975). Sau tháng 4.1975, Khờ Me Đỏ hoàn toàn trông cậy vào sự che chở của Trung quốc. Tháng 9.1975, Chu Ân Lai sắp xếp cho Sihanouk trở về Nam Vang "để đuổi Bắc Việt ra khỏi xứ " nhưng ê kíp Pol Pot, Ieng Sary và Khieu Samphan nhất quyết đốt giai đoạn biến Cam Bốt đầu hôm sớm mai thành một "nước xã hội chủ nghĩa vẹn toàn", bất chấp lời khuyên của Chu. Những biện pháp quá khích được đem ra thi hành gấp làm cho xứ hỗn loạn. Tháng chạp 1976, khi phái đoàn chuyên viên Tàu của Fang Yi sang giúp Miên thì đã quá chậm: quần chúng kiệt sức, thợ thuyền, công chức và trí thức bị tiêu diệt, quân đội tan rã, gần 4000 lính Miên (do ********* huấn luyện năm 1976) bị tẩy trừ. Từ 1975 cho đến 1978, Chính phủ Khờ Me Đỏ đòi bộ đội Việt rời xứ nhưng các đơn vị này chỉ di tản về biên giới và tại đây, hai bên nhiều lần đụng độ đẫm máu.
    Cuối 1976, Đại hội 4 Đảng Lao Động nhóm để đổi tên thành Đảng CS Việt Nam và chấp thuận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thiết lập Liên bang Đông Dương bằng cách thuyết phục và nếu cần, áp lực quân sự Miên và Lào gia nhập. Tháng 2.1978, Ủy ban Trung ương quyết nghị xóa chế độ Pol Pot qua 4 giai đoạn: tố cáo đường lối khát máu của Khờ Me Đỏ, tấn công Bắc kinh viện trợ Nam Vang, xúi dân Miên nổi loạn và tận dụng lá bài Sô viết. Ngày 7.1.1979, với sự đồng ý và hỗ trợ vũ khí của Mạc Tư Khoa, 100.000 quân Việt tràn ngập Cao Miên và toàn thắng sau 2 tuần lễ. Trung quốc không can thiệp, để tránh lún vào vũng lầy chiến tranh như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình cảnh cáo rằng trong tương lai, Bắc kinh sẽ "lấy những quyết định ngoài ý muốn vì hòa bình". Theo tạp chí Tàu cộng Geng Biao, 1.500 Hoa kiều bị kẹt lại ở Cam Bốt và phần đông đã gia nhập hàng ngũ Khờ Me Đỏ để chống VN. Ngày 8.1. 79, Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng, do bù nhìn Heng Samrin cầm đầu, được Hà nội công nhận. Chính quyền Thái thận trọng đứng ngoài. Lời kêu cứu của Sihanouk với Liên Hiệp Quốc rơi vào sa mạc. Pol Pot rút vào rừng để kháng chiến. Ngày 18.2.1979, Miên và Việt ký Hiệp ước Thân hữu và Hợp tác có giá trị 25 năm, công khai hóa việc quân đội Việt chiếm đóng Cộng hòa Nhân Dân Cam Bốt và đặt chính thức xứ này dưới chiếc dù quân sự của Hà nội. Trước đó hai năm, ngày 18.7.1977, Lào và VN đã ký một Hiệp ước hữu nghị tương tợ. Liên bang Đông Dương thực hiện xong. Bằng võ lực.
    3.- Tranh chấp Việt - Hoa về lãnh thổ. Từ lâu, đề tài cãi vã giữa VN và Trung quốc xoay quanh ba khu vực:
    a)- Một biên giới chung dài trên 797 cây số, được thực dân Pháp và Trung Hoa ấn định năm 1887 trong một Thỏa ước và bổ túc năm 1895. Cuối thập niên 70, cả Hoa và Việt khiếu nại lẫn nhau về vị trí của 300 cột trụ phân ranh.
    b)- Vịnh Bắc Việt, còn gọi là Beibu Gulf / Bắc Bộ Gulf hay Gulf of Tonkin. Hai Thỏa ước vừa kể không nói rõ lằn ranh thuộc phần kiểm soát của mỗi nước. Tháng 10.1977, cuộc hội nghị tại Bắc kinh không giải quyết được dứt khoát vấn đề.
    c)- Gây cấn nhất là chuyện dành hai nhóm quần đảo Hoàng Sa (hay Paracels/Xisha) và Trường Sa (hay Spratlies/Ninsha). Khu vực này hệ trọng cho cả Trung quốc và VN về chiến thuật và dầu khí. Hoàng Sa, Trường Sa, cùng với một số đảo lân cận khác như Pratas Reef và Macclesfield là những trạm thông thương giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Bởi thế Phi Luật Tân, Đài Loan, Nam Dương, Nhựt, Brunei v..v.. cũng đòi chia phần. Mỹ và Nga theo sát vấn đề. Nga nắm thế thượng phong vì kiểm soát được Vladivostok, Cam Ranh và Đà nẵng. Ngày 4.9.1958, Bắc Kinh công bố chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa. Quân đội VN đã tái chiếm được 6 đảo nhỏ. Từ 1974 cho đến 16.2.1979, theo Renmin Ribao, số ra ngày 14.5.1979 và bản ghi chép "SRV Memorandu " đề ngày 16.3.1979, có tất cả 3535 vụ xô xát Việt -Hoa tại biên giới (trong sổ sách Trung cộng) và 4333 vụ (chiếu tài liệu VN).
    4.- Hà nội trục xuất Hoa kiều làm cho tình hình căng thẳng tột độ. Đa số Hoa kiều tại VN di cư từ hai tỉnh Quảng Đông va Phước kiến, sau Trận giặc Nha phiến (1840- 1842). Họ cần cù làm ăn, sống đoàn kết và không tham gia chính trị. Tại Nam Việt, trước 1975, hơn phân nửa tổng số 1.300.000 người Hoa ủng hộ Chính phủ quốc gia. Sau Tết Mậu thân 1968, từ 75 đến 80% không có thiện cảm với CS. Chỉ một số ít hoạt động cho Hà nội. Trước 1975, năm người Việt gốc Hoa được bầu vào Hạ Viện. Tại Chợ lớn, người Hoa tổ chức thành 5 bang: Quảng Đông, Phước kiến, Triều châu, Hẹ và Hakka, mỗi bang được đại diện bởi một bang trưởng chọn theo lối đầu phiếu. Họ có một Phòng Thương mãi, một bệnh viện đặt tên Chung Cheng, một số trường học và báo chí. Tháng 8.1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh buộc Hoa kiều bỏ quốc tịch Tàu và nhập tịch VN nếu muốn tiếp tục hành nghề. Tháng 4.1957, thẻ lý lịch ngoại quốc bị coi như vô giá trị............................
    Đầu 1977, Việt - Hoa căng thẳng. Chính quyền Hà nội đuổi người Tàu sống tại các tỉnh biên giới về Trung quốc. Tháng 5. 1978, trong vòng 13 hôm, con số này vượt lên đến 57.000, không kể 320.000 người bị đẩy đi vùng kinh tế mới và 50.000 bị tịch thu tài sản. Nhà Nước CHXHCN còn công bố cho phép ra đi vĩnh viển những ai mang chiếu khán Hồng kông, Đài Loan hay Pháp. Ngày 29 tháng 6, VN chính thúc gia nhập COMECON, Bắc kinh liền cúp viện trợ hoàn toàn, hồi hương 880 chuyên viên và đóng cửa Sứ quán. Hà nội ra lệnh cho Tòa Tổng lãnh sự Tàu ngưng hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh. Ba lãnh sự quán Việt ở Nam Ninh, Côn Minh và Quảng Đông củng phải rút lui. Từ tháng 9. 1978, trong Tạp chí CS và tờ Quân Đội Nhân Dân, nhà cầm quyền Việt Nam bắt đầu kêu gọi dân chúng sẵn sàng chống lại "chủ nghĩa bành trướng của nước lớn và ý đồ bá quyền của bọn Hán phong kiến." Liên hệ Việt - Hoa "môi hở răng lạnh" tan thành mây khói. Câu nói của Hồ "Việt và Hoa vừa là bạn, vừa là anh em" chua cay hơn lúc nào hết.
    +Đặng Tiểu Bình chuẩn bị chiến tranh.
    Chu Ân Lai qua đời đầu năm 1976 và Mao Trạch Đông, chín tháng sau. Nội tình Trung quốc xáo trộn vì ba sự kiện hệ trọng:
    1.- chiến dịch sôi nổi chống nhóm Tứ Quái của Jiang Qing, vợ Mao, đầu não xách động *****************.
    2.- việc thi hành chậm trễ kế hoạch Bốn Hiện Đại Hóa do Chu đề xướng để canh tân kỹ nghệ, canh nông, quốc phòng và khoa học.
    3.- sự tranh quyền ráo riết giữa Đặng Tiểu Bình và Tổng bí thơ Hoa Quốc Phong, lãnh tụ của "Phe Bất Cứ Gì" (=bất cứ gì chủ tịch Mao nói và làm đều đúng cả!). Cuối 1978, sau hai lần bị khai trừ, Đặng phục hồi quyền lực, nắm đa số trong Chính trị bộ và Ủy ban trung ương Đảng CS, giữ chức Tổng tư lệnh quân đội, thi hành chính sách của Chu và xét lại đường lối Mao ít. Đặng bắt tay nghiên cứu cách giải quyết khủng hoảng với láng giềng VN. Trung quốc cảm thấy bị đe dọa trong quyền lợi và thách đố bởi một nước đàn em hung hăng, phản bội và tự hào là nước mạnh quân sự thứ ba trên địa cầu.
    Theo Gs Irving Janis và Leon Mann, Đặng Tiểu Bình hành động thực tế và thận trọng qua 3 giai đoạn. Trước hết, thu thập đầy đủ dữ kiện bên ngoài (chiến lược toàn cầu của nước Tàu, chiến lược Đông dương của VN, sự nhúng tay của Liên sô, vấn đề Cam Bốt, tranh chấp biên giới, Hoa kiều tại VN, yếu tố Hoa Kỳ, dư luận thế giới) và dữ kiện bên trong như: lợi ích và các giá trị của Trung quốc, phản ứng tâm lý quần chúng trong nước, khả năng của quân đội Tàu, ảnh hưởng chiến tranh đối với mức phát triển kinh tế quốc gia..v..v.. Thứ nữa, tham khảo ý kiến và đạt được sự đồng thuận của các cơ cấu trong đảng CS: Chính trị bộ, Ủy ban Trung ương và Quân ủy Hội. Sau hết, hành động để giữ vững quyết định đến cùng.
    Hà nội ký Hiệp ước Hữu nghị với Liên sô và cưỡng chiếm Nam Vang là hành động khiêu khích thêm, buộc Bắc kinh phải trả đũa. Ngày 15.12.1978, Hoa Kỳ công nhận Trung Hoa. Đặng Tiểu Bình liền bay qua Hoa Thịnh Đốn hội kiến với Tổng thống Jimmy Carter, báo tin riêng sẽ tấn công VN và trấn an Mỹ rằng nhà cầm quyền nước ông biết tự chế. Ngày 1.1.1979, hai nước bang giao chính thức. Đặng cũng viếng Nhựt và một số quốc gia Đông Á để dò xét phản ứng. Tất cà đều lo ngại về ý đồ tương lai của VN, đồng minh của Mạc Tư Khoa. Trở về Bắc Kinh, Đặng điều chỉnh kế hoạch. Thay vì gởi quân qua Cam bốt giúp Khờ Me Đỏ và để tránh mang tiếng với Thế giới là "mưu đồ bành trướng", Trung quốc quyết đánh thẳng vào VN dưới hình thức "phản công tự vệ", không dùng hải lực không quân, trong một thời gian giới hạn và chỉ nhắm vào vùng biên giới. Đặng muốn dạy cho nhóm lãnh tụ tại Bắc bộ phủ "một bài học quân sự đich đáng".
    Mục phiêu thật của "sự trừng phạt" là gì? Tiêu hủy vài sư đoàn, căn cứ chiến lược hay chiếm một giải đất biên phòng của đối phương? Đặng không cho biết thâm ý. Dù sao, theo học giả King C. Chen, "chiến tranh trừng phạt, the Punitive War" tượng trưng cho chính sách đối ngoại của Bắc Kinh tại Á châu từ 1949. Hành quân năm 1979 chống VN được chuẩn bị chu đáo như cuộc đụng độ Hoa - Ấn năm 1962 và không hấp tấp như trường hợp Trung cộng tham chiến ở Triều tiên hay vụ Nga sô can thiệp ở Tiệp khắc và Hung Gia lợi.

  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    + Bài học quân sự 1979.
    Năm 1938, Mao giải thích như sau quan điểm của Lê nin về chiến tranh: "Khi chính trị mở rộng đến mức không còn tiến tới được bằng đường lối thông thường thì chiến tranh bùng nổ để san bằng các trở ngại gặp phải". Lê nin từng viết: "Chiến tranh chỉ là chính trị nối tiếp bằng những phương tiện khác". Câu này dựa vào ý kiến của Karl Von Clausewitz: "Chiến tranh không phải là hành vi đơn giản của chính sách mà là một lợi khí chính trị đích thực, một sự tiếp tục của hoạt động chính trị với phương thức khác". Cuộc chiến để sát phạt VN, dù núp dưới danh xưng phản công tự vệ, được khởi xướng đúng theo chủ trương trên đây. Các lãnh tụ Trung quốc đã cân nhắc quyết định của họ hai năm (1977-1979), với hy vọng bình thường hóa bằng võ lực mối bang giao Hoa - Việt. Muốn thành đạt, chiến tranh nhân dân cần hội một số điều kiện: đảng và quân thống nhất, quần chúng hỗ trợ, đất nước hậu tiến, vũ khí quy ước, kỹ thuật lạc hậu, ngoại xâm đe dọa và đấu tranh trường kỳ.
    Trước tháng 2.1979, Trung quốc có 3,600.000 quân nhân tại ngũ và 175 sư đoàn tại 11 vùng chiến thuật. Võ khí gồm có 10.000 chiến xa, 20.000 giàn phóng hỏa tiễn, 16.000 cà nông và phương tiện chuyên chở rất lạc hậu. Hải quân có 30.000 thủy thủ, 75 tiềm thủy đỉnh. Hạm đội Bắc Hải có 300 chiến hạm, Đông hải: 450 và Nam hải: 300. Lực lượng không quân có 400.000 phi công, 5000 chiến đấu cơ cũ và lỗi thời, loại Mig 15,17,19 và 80 Mig 21. Đặng Tiểu Bình là Tổng Tư lênh hành quân, với 2 phụ tá Xu Xiangqian và Nie Rongzhen, tướng Gen Biao giữ chức Tham mưu trưởng. Về phía VN, tổng quân số lên đến 600.000 phân chia 200.000 tại Cam bốt, 100.000 tại Lào, 100.000 tại Nam Việt, và 200.000 ở Bắc Việt. Xung quanh Hà nội có 5 sư đoàn và 4 lữ đoàn. Dài theo biên giới Trung hoa, VN có 150.000 dân quân tổ chức thành 6 sư đoàn địa phương và một trung đoàn. Không lực Việt có 300 chiến đấu cơ (70 Mig 19, 21 Mig 17, và một số F 5 tịch thu của Mỹ năm 1975). Hải quân Việt có 2 chiếc PETYA Sô viết với hỏa tiến chống tiềm thủy đỉnh, và 60 tàu tuần tiễu.
    Cuộc "hành quân sát phạt" kéo dài 16 ngày, chia thành 2 giai đoạn: 1)- Từ 17 đến 26.2.1979. Ngày 17 thàng 2, lúc 5 giờ sáng, theo chiến thuật "biển người", 100.000 Tàu, được chiến xa hỗ trợ, tràn vào Lạng Sơn, (phía Đồng Đăng), Cao Bằng, Đồng Khê, Mông Cáy, và Lào Cai sau khi pháo kích mãnh liệt. Sự tiến quân, mau lẹ lúc dầu, lần hồi bị địa phương quân Việt chận lại và bao vây. Các đơn vị chính quy VN tập trung về phía Nam Cao Bằng và Lạng Sơn để đánh tiêu hao những sư đoàn đối phương. Số tổn thương của hai bên đều nặng nhưng khó kiểm chứng. Phía Trung quốc chiếm được Lào Cai, Cao Bằng và chuẩn bị tấn công Lạng Sơn nhưng không có ý định tiến về Hà nội. Đồng thời, Bắc Kinh công bố sẽ rút quân đội "sau khi hoàn tất mục tiêu". Trong thời khoảng đó, Liên Sô đưa 7 chiến hạm tuần tiễu dài theo hải phận VN và ngày 21 tháng 2, gởi tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak vào Nam Hải. Vũ khí Nga được không vận từ Calcutta và một phái đoàn quân sự sô viết bay qua Hà nội. Mạc Tư Khoa yêu cầu Tàu rút binh.
    2)- Từ 27.2 đến 5 tháng 3. Chiến cuộc tiếp diễn ở Lào Cai, Cao Bằng và Mông cáy nhưng tập trung mạnh nhất vào Lạng Sơn, cách Đèo Hữu Nghị lối 10 dặm và Hà nội 85 dặm. Với hai sư đoàn mới đến từ Đồng Đăng và Lộc Bình, Trung vất vả tấn công các ngọn đồi quanh tỉnh. Việt chống cự mãnh liệt và còn đột nhập vào ba thị trấn Guangxi, Malipo và Ninping ở bên kia biên giới. Ngày 3 tháng ba , Lạng Sơn thất thủ. Đồng Đăng và Cẩm Dương bị san bằng nhưng các đơn vị Việt tiếp tục đánh tại Lộc Bình và Mông cái. Ngày 5 tháng 3, Chính quyền Bắc Kinh một mặt công bố đã chiếm được các tỉnh lỵ Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và 17 quận, gây thiệt hại nặng cho 4 sư đoàn Việt và mặt khác, cảnh cáo Hà nội không được cản trở sự rút lui của Quân đội Nhân dân Trung quốc. Cùng một ngày, Bắc bộ phủ tổng động viên toàn quốc. Ngày 7 tháng 3, VN xác nhận đồng ý cho đối phương rút quân "để tỏ thiện chí hòa bình". Tại Nga, Thủ tướng Kosygin và Tổng bí thơ Brezhnev cực lực lên án Trung quốc, tiếp tục cho không vận võ khí và canh chừng hải phận VN. Cuba cho biết sẵn sàng gởi quân trợ chiến Hà nội. Tại Liên Hiệp Quốc, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, khối Asean kiến nghị đòi "các lực lượng ngoại quốc rút ra khỏi khu vực" mà không lên án Bắc Kinh. Ngày 16.3.1979, không còn đơn vị Tàu cộng nào ở VN. Theo tinh thần kiến nghị Asean thì VN tại Cam Bốt cũng phãi hồi hương quân đội chiếm đóng. Hội Đồng An ninh LHQ rốt cuộc không có ra quyết nghị nào. Một nhà ngoại giao chua chát phê bình: "Khi tranh chấp xẩy ra giữa các đại cường, Liên Hiệp Quốc biến mất!".
    +Thẩm lượng "bài học quân sự 1979
    1.- Thiệt hại của đôi bên. Dưới đây là bản kê khai thiệt hại căn cứ vào tài liệu mỗi phía, trích từ quyển sách "China''''''''''''''''s War With Việt Nam, 1979" của Gs King G. Chen , trang 114:
    Trung Quốc Việt Nam
    Tử thương 26.000 30.000
    Bị thương tích 37.000 32.000
    Tù chiến tranh 260 1.638
    Chiến xa, quân xa 420 185
    Bích kích pháo, súng 66 200
    Giàn hỏa tiễn 0 6
    Hoa lẫn Việt đều tuyên bố thắng trận nhưng không xứ nào hoàn thành mục tiêu chính yếu. Trung quốc không hủy được một sư đoàn Việt nào, không chấm dứt được xung đột tại biên giới, không ép được các đơn vị Việt rút khỏi Cam Bốt và củng không thuyết phục nổi VN thay đổi chính sách đối với Hoa kiều. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã gây ra tại Hà nội sự nghi ngờ về thực tâm của Mạc Tư Khoa can thiệp bằng võ lực để chống Trung cộng ở VN. Mặt khác, khối Asean đã lên tiếng ủng hộ Tàu trong cố gắng chận chủ nghĩa bành trướng của CS Việt tại Đông Á và, dưới khía cạnh này, gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt không ít. Ngày 26.3.1979, Jiefangjun Bao viết trong bài xã luận: "Cuộc chiến 1979 đã làm sáng tỏ những ý kiến sai lệch về vấn đề chiến tranh và một số vấn đề khác". Không thấy báo xác định rõ vấn đề gì. Sáu tháng sau, nhân lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Cộng hòa Nhân Dân Trung quốc, Tổng trưởng Quốc Phòng Xu Xiangqian trình bày quan điểm trong tạp chí "Quân Đội": "Như chúng ta biết, trong lịch sử chiến tranh, có nhiều cuộc thất trận không vì nhân lực yếu hay võ khí kém, nhưng bởi tư tưởng quân sự lạc hậu và chỉ huy sai lầm. Một kết luận thực tế là năm 1979, tại VN, các lãnh tụ Trung Hoa vừa dạy đối phương và vừa thu thập một bài học hữu ích: Quân đội Trung Hoa không thể thắng một cuộc chiến tân tiến trước khi được hiện đại hóa về võ khí và chiến lược.
    Đối với VN, hậu quả của cuộc chiến nặng nề hơn, về nhiều phương diện:
    1) Trong vòng một năm, 1979-1980, vì lý do an ninh và cũng vì nhu cầu chiếm đóng Miên và Lào, ngân sách quốc phòng tăng rất mạnh. Lục quân vượt từ 600.000 bộ binh lên một triệu, Hải quân từ 3.000 thủy thủ lên 12.000 và Không quân từ 12.000 phi công lên 15.000. không kể ngân khoản khổng lồ để mua võ khí, tàu chiến và phi cơ.
    .......................
    3) Về kinh tế, hai kế hoạch ngũ niên 1976- 1980 và 1981- 1985 thất bại thê thảm. Đồng bạc phá giá 100%. Giá sinh hoạt tăng phi mã. Lợi tức đầu người dưới 300 mỹ kim năm 1984. Ngày 30.4.1984, tại phiên họp ở La mã, Chương trình Liên Hiệp quốc về Thực phẫm cắt bỏ 5,3 triệu đô la viện trợ cho VN.
    2- Hậu quả quốc tế.
    A) Thái độ của Khối Asean: Từ 1979, chính sách của Asean có tính cách liên tục. Trong thời gian tháng 2 đến tháng 8, 1979, phần đông các nước thành viên âm thầm tán đồng cuộc hành quân của Bắc Kinh nhưng sau đó kêu gọi chính thức chấm dứt xung đột. Từ tháng 9 đến tháng 6.1982, Asean khuyến cáo VN rút quân khỏi Cam Bốt để quốc gia này tổ chức bầu cử tự do. Việc Trung quốc ngưng xô xát với VN giúp xúc tiến giải pháp. Từ tháng 6.1982 về sau, Asean vận động thành lập một liên minh chính trị do Sihanouk lãnh đạo trong khi vẫn áp lực Hà nội. Kết quả là tháng 7.1982, Hội nghị Ngoại trưởng 3 nước Đông Dương ra thông cáo đề nghị rút một phần quân Việt khỏi Cam Bốt, lập một hành lang an ninh giữa Thái và Miên và tổ chức Hội nghị Đông Á.
    B) Các quốc gia khác trên thế giới - Khi chiến tranh Hoa-Việt nổ lớn, Tiệp khắc, Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Bulgarie, Cuba và Lào chỉ trích mạnh Bắc kinh. Nhựt và Tây Đức cắt viên trợ vì VN chiếm Cam Bốt. Ấn độ công nhận Chính phủ Heng Samrin để phản đối Trung quốc. Nam và Bắc Hàn im lặng, giữ thế trung lập. Mỹ có cảm tình với Đặng Tiểu Bình vì lo ngại Liên sô bành trướng, theo dõi tình hình và khuyên hai đối phương tự chế.
    +++
    Ba yếu tố căn bản đã ảnh hưởng sâu đậm cuôc chiến 1979: Quyền lợi quốc gia và chiến lược - Ý thức hệ CS và Lòng ái quốc. Một số vấn đề đã khích động nhóm người lãnh đạo có trách vụ quyết định. Tuy nhiên không một ai nghĩ rằng nước Tàu thực sự bị đe dọa về mặt an ninh vào thời khoảng đó. Trung quốc và Việt Nam không đi đến chiến tranh toàn diện vì cả hai thuộc phe xã hội chủ nghĩa. Tinh thần yêu nước và "mặc cảm huynh trưởng tự tôn" thúc đẩy Bắc kinh đòi hỏi đất đai, với mong ước tái lập ảnh hưởng cũ trong vùng. Tình anh em lâu đời giữa hai quốc gia láng giềng ngăn họ kéo dài một cuộc chiến đẫm máu. Bởi thế, sự đọ sức được giữ ở mức trung, may thay!
    Điểm khác đáng lưu ý là vai trò của lãnh đạo. Đúng thế, lãnh đạo đẻ ra chính sách. Và chính sách vẽ đường cho ngoại giao. Nhân cách Đặng Tiểu Bình chi phối cuộc khủng hoảng 1979 được mệnh danh "chiến tranh của Đặng Tiểu Bình". Đặng mưu trí, nhẫn nại, liều lĩnh và thực tiễn. Đối diện là Lê Duẩn, không có kinh nghiệm sâu sắc về nước Tàu vì ở tù ngoài Côn đảo trong giai đoạn ********* kháng chiến 1940 - 1950 với sự ủng hộ duy nhất và nhiệt tình của Bắc Kinh.
    Một bài học quân sự thứ hai: Tháng 4.1985, Quân đội VN tảo thanh biên giới Thái - Miên, Son Sann hù dọa Hà nội rằng Trung quốc chuẩn bị một bài học khác. Mùa đông 1984- 1985, VN thành công dẹp phiến loạn Miên. Lại có tin đồn giống như thế. Tại Bắc kinh, Đặng Tiểu Bình, Lý Chấn Nhiệm và Hoàng Hoa không bỏ hẳn ý định này. Giới truyền thông Tây phương, chính giới Hoa Kỳ và Nghị sĩ Henry Jackson cũng tiên đoán bi quan.
    KẾT LUẬN:
    Trung Hoa - thành công hay thất bại - mãi mãi sẽ là mối ám ảnh của nước Việt Nam bé nhỏ. Ngược lại, Việt Nam luôn luôn là khúc xương khó nuốt của anh chàng khổng lồ phương Bắc. Đồng sàng nhưng dị mộng. Buộc phải sống chung hòa bình.
    LÂM LỄ TRINH

  5. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    + Bài học quân sự 1979.
    Năm 1938, Mao giải thích như sau quan điểm của Lê nin về chiến tranh: "Khi chính trị mở rộng đến mức không còn tiến tới được bằng đường lối thông thường thì chiến tranh bùng nổ để san bằng các trở ngại gặp phải". Lê nin từng viết: "Chiến tranh chỉ là chính trị nối tiếp bằng những phương tiện khác". Câu này dựa vào ý kiến của Karl Von Clausewitz: "Chiến tranh không phải là hành vi đơn giản của chính sách mà là một lợi khí chính trị đích thực, một sự tiếp tục của hoạt động chính trị với phương thức khác". Cuộc chiến để sát phạt VN, dù núp dưới danh xưng phản công tự vệ, được khởi xướng đúng theo chủ trương trên đây. Các lãnh tụ Trung quốc đã cân nhắc quyết định của họ hai năm (1977-1979), với hy vọng bình thường hóa bằng võ lực mối bang giao Hoa - Việt. Muốn thành đạt, chiến tranh nhân dân cần hội một số điều kiện: đảng và quân thống nhất, quần chúng hỗ trợ, đất nước hậu tiến, vũ khí quy ước, kỹ thuật lạc hậu, ngoại xâm đe dọa và đấu tranh trường kỳ.
    Trước tháng 2.1979, Trung quốc có 3,600.000 quân nhân tại ngũ và 175 sư đoàn tại 11 vùng chiến thuật. Võ khí gồm có 10.000 chiến xa, 20.000 giàn phóng hỏa tiễn, 16.000 cà nông và phương tiện chuyên chở rất lạc hậu. Hải quân có 30.000 thủy thủ, 75 tiềm thủy đỉnh. Hạm đội Bắc Hải có 300 chiến hạm, Đông hải: 450 và Nam hải: 300. Lực lượng không quân có 400.000 phi công, 5000 chiến đấu cơ cũ và lỗi thời, loại Mig 15,17,19 và 80 Mig 21. Đặng Tiểu Bình là Tổng Tư lênh hành quân, với 2 phụ tá Xu Xiangqian và Nie Rongzhen, tướng Gen Biao giữ chức Tham mưu trưởng. Về phía VN, tổng quân số lên đến 600.000 phân chia 200.000 tại Cam bốt, 100.000 tại Lào, 100.000 tại Nam Việt, và 200.000 ở Bắc Việt. Xung quanh Hà nội có 5 sư đoàn và 4 lữ đoàn. Dài theo biên giới Trung hoa, VN có 150.000 dân quân tổ chức thành 6 sư đoàn địa phương và một trung đoàn. Không lực Việt có 300 chiến đấu cơ (70 Mig 19, 21 Mig 17, và một số F 5 tịch thu của Mỹ năm 1975). Hải quân Việt có 2 chiếc PETYA Sô viết với hỏa tiến chống tiềm thủy đỉnh, và 60 tàu tuần tiễu.
    Cuộc "hành quân sát phạt" kéo dài 16 ngày, chia thành 2 giai đoạn: 1)- Từ 17 đến 26.2.1979. Ngày 17 thàng 2, lúc 5 giờ sáng, theo chiến thuật "biển người", 100.000 Tàu, được chiến xa hỗ trợ, tràn vào Lạng Sơn, (phía Đồng Đăng), Cao Bằng, Đồng Khê, Mông Cáy, và Lào Cai sau khi pháo kích mãnh liệt. Sự tiến quân, mau lẹ lúc dầu, lần hồi bị địa phương quân Việt chận lại và bao vây. Các đơn vị chính quy VN tập trung về phía Nam Cao Bằng và Lạng Sơn để đánh tiêu hao những sư đoàn đối phương. Số tổn thương của hai bên đều nặng nhưng khó kiểm chứng. Phía Trung quốc chiếm được Lào Cai, Cao Bằng và chuẩn bị tấn công Lạng Sơn nhưng không có ý định tiến về Hà nội. Đồng thời, Bắc Kinh công bố sẽ rút quân đội "sau khi hoàn tất mục tiêu". Trong thời khoảng đó, Liên Sô đưa 7 chiến hạm tuần tiễu dài theo hải phận VN và ngày 21 tháng 2, gởi tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak vào Nam Hải. Vũ khí Nga được không vận từ Calcutta và một phái đoàn quân sự sô viết bay qua Hà nội. Mạc Tư Khoa yêu cầu Tàu rút binh.
    2)- Từ 27.2 đến 5 tháng 3. Chiến cuộc tiếp diễn ở Lào Cai, Cao Bằng và Mông cáy nhưng tập trung mạnh nhất vào Lạng Sơn, cách Đèo Hữu Nghị lối 10 dặm và Hà nội 85 dặm. Với hai sư đoàn mới đến từ Đồng Đăng và Lộc Bình, Trung vất vả tấn công các ngọn đồi quanh tỉnh. Việt chống cự mãnh liệt và còn đột nhập vào ba thị trấn Guangxi, Malipo và Ninping ở bên kia biên giới. Ngày 3 tháng ba , Lạng Sơn thất thủ. Đồng Đăng và Cẩm Dương bị san bằng nhưng các đơn vị Việt tiếp tục đánh tại Lộc Bình và Mông cái. Ngày 5 tháng 3, Chính quyền Bắc Kinh một mặt công bố đã chiếm được các tỉnh lỵ Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và 17 quận, gây thiệt hại nặng cho 4 sư đoàn Việt và mặt khác, cảnh cáo Hà nội không được cản trở sự rút lui của Quân đội Nhân dân Trung quốc. Cùng một ngày, Bắc bộ phủ tổng động viên toàn quốc. Ngày 7 tháng 3, VN xác nhận đồng ý cho đối phương rút quân "để tỏ thiện chí hòa bình". Tại Nga, Thủ tướng Kosygin và Tổng bí thơ Brezhnev cực lực lên án Trung quốc, tiếp tục cho không vận võ khí và canh chừng hải phận VN. Cuba cho biết sẵn sàng gởi quân trợ chiến Hà nội. Tại Liên Hiệp Quốc, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, khối Asean kiến nghị đòi "các lực lượng ngoại quốc rút ra khỏi khu vực" mà không lên án Bắc Kinh. Ngày 16.3.1979, không còn đơn vị Tàu cộng nào ở VN. Theo tinh thần kiến nghị Asean thì VN tại Cam Bốt cũng phãi hồi hương quân đội chiếm đóng. Hội Đồng An ninh LHQ rốt cuộc không có ra quyết nghị nào. Một nhà ngoại giao chua chát phê bình: "Khi tranh chấp xẩy ra giữa các đại cường, Liên Hiệp Quốc biến mất!".
    +Thẩm lượng "bài học quân sự 1979
    1.- Thiệt hại của đôi bên. Dưới đây là bản kê khai thiệt hại căn cứ vào tài liệu mỗi phía, trích từ quyển sách "China''''''''''''''''s War With Việt Nam, 1979" của Gs King G. Chen , trang 114:
    Trung Quốc Việt Nam
    Tử thương 26.000 30.000
    Bị thương tích 37.000 32.000
    Tù chiến tranh 260 1.638
    Chiến xa, quân xa 420 185
    Bích kích pháo, súng 66 200
    Giàn hỏa tiễn 0 6
    Hoa lẫn Việt đều tuyên bố thắng trận nhưng không xứ nào hoàn thành mục tiêu chính yếu. Trung quốc không hủy được một sư đoàn Việt nào, không chấm dứt được xung đột tại biên giới, không ép được các đơn vị Việt rút khỏi Cam Bốt và củng không thuyết phục nổi VN thay đổi chính sách đối với Hoa kiều. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã gây ra tại Hà nội sự nghi ngờ về thực tâm của Mạc Tư Khoa can thiệp bằng võ lực để chống Trung cộng ở VN. Mặt khác, khối Asean đã lên tiếng ủng hộ Tàu trong cố gắng chận chủ nghĩa bành trướng của CS Việt tại Đông Á và, dưới khía cạnh này, gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt không ít. Ngày 26.3.1979, Jiefangjun Bao viết trong bài xã luận: "Cuộc chiến 1979 đã làm sáng tỏ những ý kiến sai lệch về vấn đề chiến tranh và một số vấn đề khác". Không thấy báo xác định rõ vấn đề gì. Sáu tháng sau, nhân lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Cộng hòa Nhân Dân Trung quốc, Tổng trưởng Quốc Phòng Xu Xiangqian trình bày quan điểm trong tạp chí "Quân Đội": "Như chúng ta biết, trong lịch sử chiến tranh, có nhiều cuộc thất trận không vì nhân lực yếu hay võ khí kém, nhưng bởi tư tưởng quân sự lạc hậu và chỉ huy sai lầm. Một kết luận thực tế là năm 1979, tại VN, các lãnh tụ Trung Hoa vừa dạy đối phương và vừa thu thập một bài học hữu ích: Quân đội Trung Hoa không thể thắng một cuộc chiến tân tiến trước khi được hiện đại hóa về võ khí và chiến lược.
    Đối với VN, hậu quả của cuộc chiến nặng nề hơn, về nhiều phương diện:
    1) Trong vòng một năm, 1979-1980, vì lý do an ninh và cũng vì nhu cầu chiếm đóng Miên và Lào, ngân sách quốc phòng tăng rất mạnh. Lục quân vượt từ 600.000 bộ binh lên một triệu, Hải quân từ 3.000 thủy thủ lên 12.000 và Không quân từ 12.000 phi công lên 15.000. không kể ngân khoản khổng lồ để mua võ khí, tàu chiến và phi cơ.
    .......................
    3) Về kinh tế, hai kế hoạch ngũ niên 1976- 1980 và 1981- 1985 thất bại thê thảm. Đồng bạc phá giá 100%. Giá sinh hoạt tăng phi mã. Lợi tức đầu người dưới 300 mỹ kim năm 1984. Ngày 30.4.1984, tại phiên họp ở La mã, Chương trình Liên Hiệp quốc về Thực phẫm cắt bỏ 5,3 triệu đô la viện trợ cho VN.
    2- Hậu quả quốc tế.
    A) Thái độ của Khối Asean: Từ 1979, chính sách của Asean có tính cách liên tục. Trong thời gian tháng 2 đến tháng 8, 1979, phần đông các nước thành viên âm thầm tán đồng cuộc hành quân của Bắc Kinh nhưng sau đó kêu gọi chính thức chấm dứt xung đột. Từ tháng 9 đến tháng 6.1982, Asean khuyến cáo VN rút quân khỏi Cam Bốt để quốc gia này tổ chức bầu cử tự do. Việc Trung quốc ngưng xô xát với VN giúp xúc tiến giải pháp. Từ tháng 6.1982 về sau, Asean vận động thành lập một liên minh chính trị do Sihanouk lãnh đạo trong khi vẫn áp lực Hà nội. Kết quả là tháng 7.1982, Hội nghị Ngoại trưởng 3 nước Đông Dương ra thông cáo đề nghị rút một phần quân Việt khỏi Cam Bốt, lập một hành lang an ninh giữa Thái và Miên và tổ chức Hội nghị Đông Á.
    B) Các quốc gia khác trên thế giới - Khi chiến tranh Hoa-Việt nổ lớn, Tiệp khắc, Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Bulgarie, Cuba và Lào chỉ trích mạnh Bắc kinh. Nhựt và Tây Đức cắt viên trợ vì VN chiếm Cam Bốt. Ấn độ công nhận Chính phủ Heng Samrin để phản đối Trung quốc. Nam và Bắc Hàn im lặng, giữ thế trung lập. Mỹ có cảm tình với Đặng Tiểu Bình vì lo ngại Liên sô bành trướng, theo dõi tình hình và khuyên hai đối phương tự chế.
    +++
    Ba yếu tố căn bản đã ảnh hưởng sâu đậm cuôc chiến 1979: Quyền lợi quốc gia và chiến lược - Ý thức hệ CS và Lòng ái quốc. Một số vấn đề đã khích động nhóm người lãnh đạo có trách vụ quyết định. Tuy nhiên không một ai nghĩ rằng nước Tàu thực sự bị đe dọa về mặt an ninh vào thời khoảng đó. Trung quốc và Việt Nam không đi đến chiến tranh toàn diện vì cả hai thuộc phe xã hội chủ nghĩa. Tinh thần yêu nước và "mặc cảm huynh trưởng tự tôn" thúc đẩy Bắc kinh đòi hỏi đất đai, với mong ước tái lập ảnh hưởng cũ trong vùng. Tình anh em lâu đời giữa hai quốc gia láng giềng ngăn họ kéo dài một cuộc chiến đẫm máu. Bởi thế, sự đọ sức được giữ ở mức trung, may thay!
    Điểm khác đáng lưu ý là vai trò của lãnh đạo. Đúng thế, lãnh đạo đẻ ra chính sách. Và chính sách vẽ đường cho ngoại giao. Nhân cách Đặng Tiểu Bình chi phối cuộc khủng hoảng 1979 được mệnh danh "chiến tranh của Đặng Tiểu Bình". Đặng mưu trí, nhẫn nại, liều lĩnh và thực tiễn. Đối diện là Lê Duẩn, không có kinh nghiệm sâu sắc về nước Tàu vì ở tù ngoài Côn đảo trong giai đoạn ********* kháng chiến 1940 - 1950 với sự ủng hộ duy nhất và nhiệt tình của Bắc Kinh.
    Một bài học quân sự thứ hai: Tháng 4.1985, Quân đội VN tảo thanh biên giới Thái - Miên, Son Sann hù dọa Hà nội rằng Trung quốc chuẩn bị một bài học khác. Mùa đông 1984- 1985, VN thành công dẹp phiến loạn Miên. Lại có tin đồn giống như thế. Tại Bắc kinh, Đặng Tiểu Bình, Lý Chấn Nhiệm và Hoàng Hoa không bỏ hẳn ý định này. Giới truyền thông Tây phương, chính giới Hoa Kỳ và Nghị sĩ Henry Jackson cũng tiên đoán bi quan.
    KẾT LUẬN:
    Trung Hoa - thành công hay thất bại - mãi mãi sẽ là mối ám ảnh của nước Việt Nam bé nhỏ. Ngược lại, Việt Nam luôn luôn là khúc xương khó nuốt của anh chàng khổng lồ phương Bắc. Đồng sàng nhưng dị mộng. Buộc phải sống chung hòa bình.
    LÂM LỄ TRINH

  6. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Trích từ bài của Jparrow :
    Hmm mọi người đọc thử một số ý kiến về vụ 1979 , mấy đọan này em trích trong sách của Lý Quang Diệu , đây là lời ghi lại đoạn hội đàm của ông ta với Đặng Tiểu Bình , tất nhiên cả 2 đều ở phía đối lập Việt Nam , Đặng của Trung Quốc trong khi Lý rất chống +:
    "..... ông ta <Đặng Tiểu Bình> đưa ra một quan sát bao trùm về những việc Liên Xô đã làm ở Châu Âu , Trung Đông , châu Phi , Nam Á và sau cùng là Đông Dương . Liên Xô đã đạt được ưu thế tại Việt Nam .Nhiều người không hiểu tại sao các quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam lại xấu đi như thế , và tại sao Trung Quốc lại có các hành động như cắt viện trợ , mà việc đó lại càng khiến VN thân Liên xô hơn . Câu hỏi nên đặt ra là tại sao Việt Nam chọn lựa ngả hẳn theo Liên Xô khi điều đó không có lợi cho họ? Câu trả lời là vì một "giấc mơ ấp ủ nhiều năm về một liên bang Đông Dương thống nhất " .Trung Quốc không tán thành điều này và Việt Nam đã xem TQ như là cản trở lớn nhất trong việc xây dựng liên bang này. TQ đã kết luận là VN sẽ không thay đổi quan điểm và sẽ trở nên nghi kị TQ hơn.Việc bùng nổ vấn đề người Hoa tại Viện Nam là một trong những biểu hiện như thế . Sau khi suy xét kĩ Trung Quốc đã quyết định cắt viện trợ.
    Đặng nói tổng giá trị viện trợ của TQ dành cho Việt Nam đã lên tới hơn 10 tỷ USD , theo thời giá lúc đó thì là hơn 20 tỷ .Khi Trung Quốc ngưng viện trợ , Liên Xô phải cáng đáng một mình .Khi họ không kham nổi thì chuyển qua khối COMECON để chia gánh nặng với các nước Đông Âu , Việt Nam cũng muốn lập quan hệ với Nhật ,Mỹ ....... và ngay cả Singapore nữa. Trong vòng mười năm, ông ta nói , Trung Quốc sẽ xem tới việc thuyết phục Việt Nam . Tôi <Lý quang diệu> thầm nghĩ Đặng có một tầm nhìn rất xa , hoàn toàn khác hẳn những nhà lãnh đạo Mỹ.
    Đặng nói vấn đề thực sự và cấp bách là khả năng Việt Nam kiểm soát hoàn toàn Campuchia, Trung Quốc sẽ làm gì ? Ông ta hỏi như một cách nêu vấn đề . Việc Trung Quốc làm sẽ tuỳ vào Việt Nam hành động tới đâu , ông tự trả lời như thế. Ông ta lặp lại điều này nhiều lần , không nói thẳng tới một cuộc phản kích vào Việt Nam . Ông ta nói nếu Việt Nam thành công trong việc kiểm soát toàn Đông Dương , nhiều nước Châu Á sẽ đứng trước mối đe doạ . Liên Bang Đông Dương mở rộng ảnh hưởng sẽ phục vụ cho mục tiêu toàn cầu của Liên Xô muốn tiến vào phía Nam vào vùng biển Ấn Độ Dương . Vai trò của Việt Nam sẽ giống như một Cuba ở phương Đông , Liên Xô đang tăng cường lực lượng hạm đội tại Thái Bình Dương . Thế giới đã chứng kiến rối loạn trong hai năm qua tại Việt Nam , Afghanistan , Iran và Pakistan , tất cả đều cho thấy xu hướng tiến về phía Nam của Liên Xô....."
    ".... trong bữa tối ông ta rất lịch sự và thân thiện , nhưng vẫn còn căng thẳng .Việc Việt Nam tấn công vào Campuchia vẫn còn làm ông bận chí .Khi tôi hỏi gặng - Trung Quốc sẽ làm gì bây giờ ,khi mà tướng Kriangsak ,thủ tướng Thái đã tỏ ra ủng hộ Trung Quốc bằng cách tiếp đón Đặng rất long trọng ở BangKok , ông ta lại nói vắn tắt rằng điều đó còn tuỳ thuộc Việt Nam sẽ hành động tới đâu . Tôi có ấn tượng rằng nếu Việt Nam không vượt sông Mekong , thì sẽ không có gì nguy hiểm , như nếu họ vượt thì Trung Quốc sẽ có hành động.
    ........Tại dinh thống đốc ở Fanling , Hồng Kông , trong một kì nghỉ , tôi đã gặp Davis Bonavia , một chuyên gia về Trung Quốc từng làm cho tờ Times ở London . Ông ta nghĩ lời cảnh báo của Đặng chỉ là đe dọa xuông vì hải quân Liên Xô đang có mặt ở biển Nam Trung Quốc . Tôi nói rằng đã gặp Đặng 3 tháng trước và ông ta là một người ăn nói rất cân nhắc. Hai ngày sau , 19/2/1979 , quân đôi Trung Quốc tấn công vào biên giới Bắc Việt Nam .
    Trung Quốc tuyên bố rằng các mục tiêu hành động quân sự này rất hạn chế và kêu gọi Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc có biện pháp tức thời và hữu hiệu ngăn chặn VN chiếm đóng Campuchia . Chiến dịch kết thúc trong vòng 1 tháng . Họ chịu tổn thất nặng nhưng đã cho VN thấy là bằng bất cứ giá nào , họ vẫn có thể tiến sâu vào VN , tàn phá làng mạc thị trấn trên đường tiến quân và rút lui , như họ đã làm vào ngày 16/3/79.
    Trong cuộc tấn công vào VN , Đặng nói công khai rằng TQ đã chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh có thể xảy ra với Liên Xô , và cho rằng một bài học cho VN cũng là một bài học cho Liên Xô . Liên Xô đã không tấn công Trung Quốc . Báo chí phương Tây mô tả hành động trừng phạt của Trung Quốc như một thất bại . Còn tôi thì tin rằng nó đã thay đổi dòng lịch sử Châu Á . Việt Nam hiểu rằng TQ sẽ tấn công khi họ vượt quá Campuchia vào đến đất Thái . Liên Xô không muốn bị vướng vào một cuộc chiến dai dẳng ở một nơi xa xôi tại Châu Á. Họ có thể có một hành động mau chóng có tính quyết định đối với Trung Quốc , nhưng Trung Quốc đã không cho họ là như thế bằng cách tuyên bố rằng hành động quân sự của Trung Quốc là một hành động "trừng phạt " và không có ý chiếm đóng VN . Như Đặng đã tiên đoán , Liên Xô đã phải chịu gánh nặng trong việc ủng hộ Việt Nam . việc mà họ đảm nhận thêm 11 năm nữa cho đến 1991 , khi Liên Xô tan rã. Khi chuyện này xảy ra , Việt Nam đồng ý rút quân khỏi Campuchia vào tháng 10/1991."

  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Trích từ bài của Jparrow :
    Hmm mọi người đọc thử một số ý kiến về vụ 1979 , mấy đọan này em trích trong sách của Lý Quang Diệu , đây là lời ghi lại đoạn hội đàm của ông ta với Đặng Tiểu Bình , tất nhiên cả 2 đều ở phía đối lập Việt Nam , Đặng của Trung Quốc trong khi Lý rất chống +:
    "..... ông ta <Đặng Tiểu Bình> đưa ra một quan sát bao trùm về những việc Liên Xô đã làm ở Châu Âu , Trung Đông , châu Phi , Nam Á và sau cùng là Đông Dương . Liên Xô đã đạt được ưu thế tại Việt Nam .Nhiều người không hiểu tại sao các quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam lại xấu đi như thế , và tại sao Trung Quốc lại có các hành động như cắt viện trợ , mà việc đó lại càng khiến VN thân Liên xô hơn . Câu hỏi nên đặt ra là tại sao Việt Nam chọn lựa ngả hẳn theo Liên Xô khi điều đó không có lợi cho họ? Câu trả lời là vì một "giấc mơ ấp ủ nhiều năm về một liên bang Đông Dương thống nhất " .Trung Quốc không tán thành điều này và Việt Nam đã xem TQ như là cản trở lớn nhất trong việc xây dựng liên bang này. TQ đã kết luận là VN sẽ không thay đổi quan điểm và sẽ trở nên nghi kị TQ hơn.Việc bùng nổ vấn đề người Hoa tại Viện Nam là một trong những biểu hiện như thế . Sau khi suy xét kĩ Trung Quốc đã quyết định cắt viện trợ.
    Đặng nói tổng giá trị viện trợ của TQ dành cho Việt Nam đã lên tới hơn 10 tỷ USD , theo thời giá lúc đó thì là hơn 20 tỷ .Khi Trung Quốc ngưng viện trợ , Liên Xô phải cáng đáng một mình .Khi họ không kham nổi thì chuyển qua khối COMECON để chia gánh nặng với các nước Đông Âu , Việt Nam cũng muốn lập quan hệ với Nhật ,Mỹ ....... và ngay cả Singapore nữa. Trong vòng mười năm, ông ta nói , Trung Quốc sẽ xem tới việc thuyết phục Việt Nam . Tôi <Lý quang diệu> thầm nghĩ Đặng có một tầm nhìn rất xa , hoàn toàn khác hẳn những nhà lãnh đạo Mỹ.
    Đặng nói vấn đề thực sự và cấp bách là khả năng Việt Nam kiểm soát hoàn toàn Campuchia, Trung Quốc sẽ làm gì ? Ông ta hỏi như một cách nêu vấn đề . Việc Trung Quốc làm sẽ tuỳ vào Việt Nam hành động tới đâu , ông tự trả lời như thế. Ông ta lặp lại điều này nhiều lần , không nói thẳng tới một cuộc phản kích vào Việt Nam . Ông ta nói nếu Việt Nam thành công trong việc kiểm soát toàn Đông Dương , nhiều nước Châu Á sẽ đứng trước mối đe doạ . Liên Bang Đông Dương mở rộng ảnh hưởng sẽ phục vụ cho mục tiêu toàn cầu của Liên Xô muốn tiến vào phía Nam vào vùng biển Ấn Độ Dương . Vai trò của Việt Nam sẽ giống như một Cuba ở phương Đông , Liên Xô đang tăng cường lực lượng hạm đội tại Thái Bình Dương . Thế giới đã chứng kiến rối loạn trong hai năm qua tại Việt Nam , Afghanistan , Iran và Pakistan , tất cả đều cho thấy xu hướng tiến về phía Nam của Liên Xô....."
    ".... trong bữa tối ông ta rất lịch sự và thân thiện , nhưng vẫn còn căng thẳng .Việc Việt Nam tấn công vào Campuchia vẫn còn làm ông bận chí .Khi tôi hỏi gặng - Trung Quốc sẽ làm gì bây giờ ,khi mà tướng Kriangsak ,thủ tướng Thái đã tỏ ra ủng hộ Trung Quốc bằng cách tiếp đón Đặng rất long trọng ở BangKok , ông ta lại nói vắn tắt rằng điều đó còn tuỳ thuộc Việt Nam sẽ hành động tới đâu . Tôi có ấn tượng rằng nếu Việt Nam không vượt sông Mekong , thì sẽ không có gì nguy hiểm , như nếu họ vượt thì Trung Quốc sẽ có hành động.
    ........Tại dinh thống đốc ở Fanling , Hồng Kông , trong một kì nghỉ , tôi đã gặp Davis Bonavia , một chuyên gia về Trung Quốc từng làm cho tờ Times ở London . Ông ta nghĩ lời cảnh báo của Đặng chỉ là đe dọa xuông vì hải quân Liên Xô đang có mặt ở biển Nam Trung Quốc . Tôi nói rằng đã gặp Đặng 3 tháng trước và ông ta là một người ăn nói rất cân nhắc. Hai ngày sau , 19/2/1979 , quân đôi Trung Quốc tấn công vào biên giới Bắc Việt Nam .
    Trung Quốc tuyên bố rằng các mục tiêu hành động quân sự này rất hạn chế và kêu gọi Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc có biện pháp tức thời và hữu hiệu ngăn chặn VN chiếm đóng Campuchia . Chiến dịch kết thúc trong vòng 1 tháng . Họ chịu tổn thất nặng nhưng đã cho VN thấy là bằng bất cứ giá nào , họ vẫn có thể tiến sâu vào VN , tàn phá làng mạc thị trấn trên đường tiến quân và rút lui , như họ đã làm vào ngày 16/3/79.
    Trong cuộc tấn công vào VN , Đặng nói công khai rằng TQ đã chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh có thể xảy ra với Liên Xô , và cho rằng một bài học cho VN cũng là một bài học cho Liên Xô . Liên Xô đã không tấn công Trung Quốc . Báo chí phương Tây mô tả hành động trừng phạt của Trung Quốc như một thất bại . Còn tôi thì tin rằng nó đã thay đổi dòng lịch sử Châu Á . Việt Nam hiểu rằng TQ sẽ tấn công khi họ vượt quá Campuchia vào đến đất Thái . Liên Xô không muốn bị vướng vào một cuộc chiến dai dẳng ở một nơi xa xôi tại Châu Á. Họ có thể có một hành động mau chóng có tính quyết định đối với Trung Quốc , nhưng Trung Quốc đã không cho họ là như thế bằng cách tuyên bố rằng hành động quân sự của Trung Quốc là một hành động "trừng phạt " và không có ý chiếm đóng VN . Như Đặng đã tiên đoán , Liên Xô đã phải chịu gánh nặng trong việc ủng hộ Việt Nam . việc mà họ đảm nhận thêm 11 năm nữa cho đến 1991 , khi Liên Xô tan rã. Khi chuyện này xảy ra , Việt Nam đồng ý rút quân khỏi Campuchia vào tháng 10/1991."

  8. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Nó dồn cục lại như thế này thì có thể bắn cháy 7 cái xe tăng một lúc không nhỉ ? Hay là nện cho mấy loạt BM-21 ?

    Pháo nó bắn cũng gớm đấy chứ, tôi nhớ là năm 1988 nhân ngày 1/10 quốc khánh Tung Của nó bắn 10.000 quả đạn trong 1 ngày

  9. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Nó dồn cục lại như thế này thì có thể bắn cháy 7 cái xe tăng một lúc không nhỉ ? Hay là nện cho mấy loạt BM-21 ?

    Pháo nó bắn cũng gớm đấy chứ, tôi nhớ là năm 1988 nhân ngày 1/10 quốc khánh Tung Của nó bắn 10.000 quả đạn trong 1 ngày

  10. kts_hanoi

    kts_hanoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    111
    Đã được thích:
    0
    nghe bài hát Gửi em ở cuối sông Hồng mà em thấy ngày xưa người lính thật lòng được quý trọng , công nhận rằng công tác tư tưởng của mình ngày đó cũng tuyệt vời thật ,xét ngay bản thân mình nghe bài hát đó hay nhỉ các bác
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này