1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 và 1984

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 11/02/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. kts_hanoi

    kts_hanoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    111
    Đã được thích:
    0
    nghe bài hát Gửi em ở cuối sông Hồng mà em thấy ngày xưa người lính thật lòng được quý trọng , công nhận rằng công tác tư tưởng của mình ngày đó cũng tuyệt vời thật ,xét ngay bản thân mình nghe bài hát đó hay nhỉ các bác
  2. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Bạn chiangshan và các bạn khác đã đưa nhiều thông tin về lực lượng TQ tấn công xâm lược VN năm 1979, tôi xin đưa lên đây tài liệu " Các lực lượng vũ trang TQ 1978 " của Viện quốc tế nghiên cứu chiến lược Anh, in trong tạp chí Cán cân quân sự năm 1978-1979 .
    Dân số TQ { 1978 } hiện có khoảng 960-975 triệu người. Chế độ nghĩa vụ quân sự đang được thực hiện với thời hạn : lục quân từ 2 đến 4 năm, không quân 4 năm, hải quân 5 năm.
    Tổng số lực lượng quân chính quy là 4.325.000, gồm :
    Lục quân : 3.600.000 { số tròn }. Các đơn vị chủ yếu có : 121 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn đổ bộ đường không, 40 sư đoàn pháo binh { kể cả pháo phòng không }, 11 sư đoàn thiết giáp, 15 sư đoàn công binh, 150 trung đoàn độc lập. Các lực lượng địa phương có : 70 sư đoàn bộ binh và 130 trung đoàn độc lập.
    Trang bị nặng có : khoảng 10.000 xe tăng các loại, từ xe tăng lội nước kiểu 60 { coppy PT-76 của LX } đến xe tăng T-54, T-59 { cũng theo mẫu của LX }, 3.500 xe thiết giáp chở quân, gần 18.000 đại bác từ súng phòng không 37mm đến pháo mặt đất 130,152mm.
    Hải quân : 300.000 { kể cả 30.000 lính không quân của hải quân và 38.000 lính thuỷ đánh bộ } với khoảng 1.400 tàu các loại từ tàu quét mìn, phóng lôi, tuần tiễu đến tàu khu trục, tàu ngầm. Trong đó đại bộ phận là tàu nhỏ, chẳng hạn có 300 giang hạm, 400 pháo hạm { tất cả đều do LX viện trợ từ những năm 50-60, hoặc sản xuất theo mẫu của LX }.
    Không quân : 400.000, gồm cả lực lượng phòng không. Trang bị khoảng 5.000 máy bay chiến đấu các loại, phần lớn là loại MiG-15, MiG-17 { khoảng 4.500 chiếc }. Máy bay vận tải có khoảng gần 1.000 chiếc, gồm 450 máy bay cánh cố định và cả 500 máy bay của hàng không dân dụng { lúc cần có thể huy động vận chuyển quân sự }.
    Toàn TQ chia làm 11 Đại quân khu. Mỗi Đại quân khu có 2-3 phân khu.
    Các sư đoàn bộ binh tập hợp thành 40 quân đoàn. Thông thường 1 quân đoàn có 3 sư đoàn bộ binh, 3 trung đoàn pháo binh. Có một số quân đoàn được tổ chức thêm 3 trung đoàn thiết giáp. Tất cả các sư đoàn tuy thuộc quyền quản lý của các Đại quân khu nhưng đều do trung ương điều động, chỉ huy.
    Ước tính số sư đoàn có thể được phân bố ở 5 vùng { không kể pháo binh, công binh } như sau :
    - Vùng Bắc và Đông Bắc { các đại quân khu Thẩm Dương và Bắc Kinh } : 55 sư đoàn chủ lực và 25 sư đoàn địa phương.
    - Vùng Bắc và Tây Bắc { các đại quân khu Lan Châu và Tân Cương } : 15 sư đoàn chủ lực và 8 sư đoàn địa phương.
    - Vùng Đông và Đông Nam { các đại quân khu Tế Nam, Nam Ninh, Phúc Châu và Quảng Châu, gồm cả đảo Hải Nam } : 32 sư đoàn chủ lực và 22 sư đoàn địa phương.
    - Vùng trung tâm { đại quân khu Vũ Hán } : 15 sư đoàn chủ lực và 7 sư đoàn địa phương.
    - Vùng Tây và Tây Nam { các đại quân khu Thành Đô và Côn Minh } : 18 sư đoàn chủ lực và 8 sư đoàn địa phương.
    Hải quân được chia thành 3 hạm đội, triển khai trên 3 khu vực :
    - Hạm đội Bắc Hải : khoảng trên 300 tàu, bố trí từ cửa sông Áp Lục đến Nam Liên, Vân Cảng, dựa vào 3 căn cứ lớn là Thanh Đảo, Lữ Thuận và Lữ Đại.
    - Hạm đội Đông Hải : khoảng trên 450 tàu rải dài từ Vân Cảng đến Đường Sơn, dựa vào các căn cứ Thượng Hải, Châu Sơn và Thiên Bảo.
    - Hạm đội Nam Hải : khoảng 300 tàu rải từ Đường Sơn đến biên giới VN, dựa vào các căn cứ Hoàng Phố, Trạm Giang, Du Lâm.
    Được dongadoan sửa chữa / chuyển vào 20:47 ngày 15/02/2005
    Được dongadoan sửa chữa / chuyển vào 22:13 ngày 15/02/2005
  3. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Bạn chiangshan và các bạn khác đã đưa nhiều thông tin về lực lượng TQ tấn công xâm lược VN năm 1979, tôi xin đưa lên đây tài liệu " Các lực lượng vũ trang TQ 1978 " của Viện quốc tế nghiên cứu chiến lược Anh, in trong tạp chí Cán cân quân sự năm 1978-1979 .
    Dân số TQ { 1978 } hiện có khoảng 960-975 triệu người. Chế độ nghĩa vụ quân sự đang được thực hiện với thời hạn : lục quân từ 2 đến 4 năm, không quân 4 năm, hải quân 5 năm.
    Tổng số lực lượng quân chính quy là 4.325.000, gồm :
    Lục quân : 3.600.000 { số tròn }. Các đơn vị chủ yếu có : 121 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn đổ bộ đường không, 40 sư đoàn pháo binh { kể cả pháo phòng không }, 11 sư đoàn thiết giáp, 15 sư đoàn công binh, 150 trung đoàn độc lập. Các lực lượng địa phương có : 70 sư đoàn bộ binh và 130 trung đoàn độc lập.
    Trang bị nặng có : khoảng 10.000 xe tăng các loại, từ xe tăng lội nước kiểu 60 { coppy PT-76 của LX } đến xe tăng T-54, T-59 { cũng theo mẫu của LX }, 3.500 xe thiết giáp chở quân, gần 18.000 đại bác từ súng phòng không 37mm đến pháo mặt đất 130,152mm.
    Hải quân : 300.000 { kể cả 30.000 lính không quân của hải quân và 38.000 lính thuỷ đánh bộ } với khoảng 1.400 tàu các loại từ tàu quét mìn, phóng lôi, tuần tiễu đến tàu khu trục, tàu ngầm. Trong đó đại bộ phận là tàu nhỏ, chẳng hạn có 300 giang hạm, 400 pháo hạm { tất cả đều do LX viện trợ từ những năm 50-60, hoặc sản xuất theo mẫu của LX }.
    Không quân : 400.000, gồm cả lực lượng phòng không. Trang bị khoảng 5.000 máy bay chiến đấu các loại, phần lớn là loại MiG-15, MiG-17 { khoảng 4.500 chiếc }. Máy bay vận tải có khoảng gần 1.000 chiếc, gồm 450 máy bay cánh cố định và cả 500 máy bay của hàng không dân dụng { lúc cần có thể huy động vận chuyển quân sự }.
    Toàn TQ chia làm 11 Đại quân khu. Mỗi Đại quân khu có 2-3 phân khu.
    Các sư đoàn bộ binh tập hợp thành 40 quân đoàn. Thông thường 1 quân đoàn có 3 sư đoàn bộ binh, 3 trung đoàn pháo binh. Có một số quân đoàn được tổ chức thêm 3 trung đoàn thiết giáp. Tất cả các sư đoàn tuy thuộc quyền quản lý của các Đại quân khu nhưng đều do trung ương điều động, chỉ huy.
    Ước tính số sư đoàn có thể được phân bố ở 5 vùng { không kể pháo binh, công binh } như sau :
    - Vùng Bắc và Đông Bắc { các đại quân khu Thẩm Dương và Bắc Kinh } : 55 sư đoàn chủ lực và 25 sư đoàn địa phương.
    - Vùng Bắc và Tây Bắc { các đại quân khu Lan Châu và Tân Cương } : 15 sư đoàn chủ lực và 8 sư đoàn địa phương.
    - Vùng Đông và Đông Nam { các đại quân khu Tế Nam, Nam Ninh, Phúc Châu và Quảng Châu, gồm cả đảo Hải Nam } : 32 sư đoàn chủ lực và 22 sư đoàn địa phương.
    - Vùng trung tâm { đại quân khu Vũ Hán } : 15 sư đoàn chủ lực và 7 sư đoàn địa phương.
    - Vùng Tây và Tây Nam { các đại quân khu Thành Đô và Côn Minh } : 18 sư đoàn chủ lực và 8 sư đoàn địa phương.
    Hải quân được chia thành 3 hạm đội, triển khai trên 3 khu vực :
    - Hạm đội Bắc Hải : khoảng trên 300 tàu, bố trí từ cửa sông Áp Lục đến Nam Liên, Vân Cảng, dựa vào 3 căn cứ lớn là Thanh Đảo, Lữ Thuận và Lữ Đại.
    - Hạm đội Đông Hải : khoảng trên 450 tàu rải dài từ Vân Cảng đến Đường Sơn, dựa vào các căn cứ Thượng Hải, Châu Sơn và Thiên Bảo.
    - Hạm đội Nam Hải : khoảng 300 tàu rải từ Đường Sơn đến biên giới VN, dựa vào các căn cứ Hoàng Phố, Trạm Giang, Du Lâm.
    Được dongadoan sửa chữa / chuyển vào 20:47 ngày 15/02/2005
    Được dongadoan sửa chữa / chuyển vào 22:13 ngày 15/02/2005
  4. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3

    Cái này bọn Tung Của chú thích là xe tăng nó tiêu diệt pháo của ta, chẳng biết đúng không nữa ?
  5. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3

    Cái này bọn Tung Của chú thích là xe tăng nó tiêu diệt pháo của ta, chẳng biết đúng không nữa ?
  6. kimikamo

    kimikamo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2004
    Bài viết:
    1.478
    Đã được thích:
    0
    Các bác sưu tầm tài liệu giỏi thật. Chúng ta đọc theo kiểu gạn đục khơi trong, tự tìm lấy cho mình câu trả lời về cuộc chiến năm 79, và tổng quát hơn nữa là về mối quan hệ giữa VN và TQ.
    Bản thân tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người TQ. Đa số họ là những người bạn cùng trang lứa (hơn hai mươi). Có thể nói không có ai có bất kỳ thành kiến nào về VN cả. Đối với họ VN là một quốc gia nhỏ ở phía Nam, là bạn của TQ, và nói thẳng ra là chẳng đáng quan tâm (người TQ đều có tư tưởng mình là nước lớn, coi thường những nước khác). Khi tôi hỏi về cuộc chiến năm 79 rất ít người biết. Có người biết thì họ lại bảo rằng, "Chắc bọn tự trị dân tộc Choang (chú thích: khu tự trị Quảng Tây) bọn nó vớ vẩn thế nào ấy chứ, bọn tao chẳng có liên quan gì cả". Có người thì quả quyết là TQ không hề tấn công VN mà chỉ "phòng vệ" thôi, rồi họ kể chuyện bộ đội VN tấn công sang TQ, đặc công VN luồn sâu vào lãnh thổ TQ, nã cối vào sân bay Nam Ninh...
    Theo cảm nhận của riêng tôi thì người TQ có tư tưởng "nước lớn" đối với VN, nhưng tuyệt nhiên không coi VN là kẻ thù. Kẻ thù số một của TQ chính là Nhật Bản. Nói thật TQ ghét Nhật Bản còn gấp mấy lần VN ghét TQ.
    Ngẫm nghĩ lại VN đối với TQ cũng có phần giống Campuchia đối với VN. Khi tôi nghĩ về Campuchia, tôi hình dung đó là một quốc gia nhỏ, không đáng kể. Có điều tôi không hề thù ghét hay có thành kiến xấu về họ. Tuy nhiên người Campuchia thì hơi bị thành kiến về VN đấy các bác ạ. Thằng bạn tôi sang Campuchia du lịch, khi đi lang thang trong khu Angkowat thì bị một chú bảo vệ chặn lại. Khi biết nó là người VN thì tay kia liền hỏi, "Mày sang đây làm gián điệp cho VN hả?". Thằng bạn tôi xém nữa thì nổi khùng lên.
  7. kimikamo

    kimikamo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2004
    Bài viết:
    1.478
    Đã được thích:
    0
    Các bác sưu tầm tài liệu giỏi thật. Chúng ta đọc theo kiểu gạn đục khơi trong, tự tìm lấy cho mình câu trả lời về cuộc chiến năm 79, và tổng quát hơn nữa là về mối quan hệ giữa VN và TQ.
    Bản thân tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người TQ. Đa số họ là những người bạn cùng trang lứa (hơn hai mươi). Có thể nói không có ai có bất kỳ thành kiến nào về VN cả. Đối với họ VN là một quốc gia nhỏ ở phía Nam, là bạn của TQ, và nói thẳng ra là chẳng đáng quan tâm (người TQ đều có tư tưởng mình là nước lớn, coi thường những nước khác). Khi tôi hỏi về cuộc chiến năm 79 rất ít người biết. Có người biết thì họ lại bảo rằng, "Chắc bọn tự trị dân tộc Choang (chú thích: khu tự trị Quảng Tây) bọn nó vớ vẩn thế nào ấy chứ, bọn tao chẳng có liên quan gì cả". Có người thì quả quyết là TQ không hề tấn công VN mà chỉ "phòng vệ" thôi, rồi họ kể chuyện bộ đội VN tấn công sang TQ, đặc công VN luồn sâu vào lãnh thổ TQ, nã cối vào sân bay Nam Ninh...
    Theo cảm nhận của riêng tôi thì người TQ có tư tưởng "nước lớn" đối với VN, nhưng tuyệt nhiên không coi VN là kẻ thù. Kẻ thù số một của TQ chính là Nhật Bản. Nói thật TQ ghét Nhật Bản còn gấp mấy lần VN ghét TQ.
    Ngẫm nghĩ lại VN đối với TQ cũng có phần giống Campuchia đối với VN. Khi tôi nghĩ về Campuchia, tôi hình dung đó là một quốc gia nhỏ, không đáng kể. Có điều tôi không hề thù ghét hay có thành kiến xấu về họ. Tuy nhiên người Campuchia thì hơi bị thành kiến về VN đấy các bác ạ. Thằng bạn tôi sang Campuchia du lịch, khi đi lang thang trong khu Angkowat thì bị một chú bảo vệ chặn lại. Khi biết nó là người VN thì tay kia liền hỏi, "Mày sang đây làm gián điệp cho VN hả?". Thằng bạn tôi xém nữa thì nổi khùng lên.
  8. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    ĐỒNG ĐỘI CỦA ANH
    Văn Tùng, ghi theo lời kể của Phàn Văn Dậu, dân tộc Tày, sinh viên trường đại học Dược Hà Nội.
    Tôi là Phàn Văn Dậu, 22 tuổi, quê ở Quảng Hoà tỉnh Cao Bằng. Tôi đang học năm thứ 3 khoa Dược chính trường đại học Dược Hà Nội. Giữa tháng 2-1979, mẹ tôi ốm nặng, nhà trường cho tôi nghỉ phép mấy hôm. Về đến nhà tôi thấy bà con trong xã đang tích cực chuẩn bị mọi mặt để chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược.
    Được sự săn sóc của gia đình, mẹ tôi đã đỡ nhiều. Tôi định trở về Hà Nội ngày 18-2-1979 theo đúng hạn phép nhưng sáng 17-2-1979, các tuyến xe từ Cao bằng đi các nơi đều đình chỉ. Tôi trở lại nhà, lúc này địch đã đánh vào một số địa phương ở Cao Bằng. Tôi đưa mẹ tôi sơ tán vào rừng cùng với bà con trong xã, dặn dò cô em gái ở lại săn sóc mẹ, còn tôi trở về nhà vì bà ngoại tôi già yếu quá không đi xa được. Tôi định đưa bà tôi đến cái lán gần nhà. Ở đây đang có một số cụ già trong xã sơ tán, nhưng bà tôi không chịu đi. Cụ bảo :
    - bà già rồi, bà làm gì chúng nó mà chúng nó giết bà !
    Tôi chuẩn bị gạo nước và vài thứ cần thiết cho cụ, an ủi cụ và hứa sẽ quay lại. Bà tôi nhìn theo nói :
    - Cháu cứ đi làm việc nước, bà trông nhà cho !
    Tôi quyết định đi tìm xã đội để xin tham gia chiến đấu. Đồng chí xã đội trưởng Vi Văn Viết lúc này quá bận, tôi đi tìm suốt một ngày mà không sao gặp được. Mãi đến tối mịt tôi trở về trụ sở, may mắn lúc đó đang có cuộc họp ở đây. Sốt ruột quá không thể chờ tan họp, tôi vào ngay. Là con em các dân tộc trong xã nên đồng chí nào cũng biết tôi, tuy vậy tôi vẫn xuất trình giấy tờ đầy đủ. Anh Viết hỏi tôi :
    - Bây giờ đồng chí yêu cầu chúng tôi việc gì nào ?
    Tôi ngập ngừng một lúc rồi thành thật đề nghị :
    - Báo cáo đồng chí, tôi xin 1 khẩu súng và yêu cầu phân phối tôi về đơn vị chiến đấu.
    Anh Viết nhìn tôi chưa trả lời, anh quay sang hội ý với các đồng chí trong ban chỉ huy xã đội. Tôi nghe anh nói : "Cậu ấy học dược, theo tôi có thể sắp xếp vào Ban y tế, còn súng thì thế nào các đồng chí nhỉ, liệu...".
    Nghe vậy tôi lo quá, vội vàng trình bày lại :
    - Báo cáo các đồng chí, ở trường tôi đã được tập quân sự, tôi sử dụng được K44, CKC, AK. Đề nghị các đồng chí cho tôi chiến đấu.
    Bàn bạc một lúc, cuối cùng các đồng chí vẫn xếp tôi vào ban y tế nhưng cấp cho tôi 1 khẩu CKC và 20 viên đạn. Anh Viết động viên tôi :
    - Anh em hiểu nguyện vọng của đồng chí nhưng hiện nay vấn đề săn sóc thương binh đặt ra rất lớn. Về vũ khí thì đồng chí thông cảm, bây giờ đã cấp phát hết rồi. Nhưng súng đạn làở ta ra mà thôi... Làm y tế nhưng khi cần đồng chí có thể tham gia chiến đấu cùng với anh chị em dân quân.
    Anh Viết nheo mắt nhìn tôi cười hóm hỉnh. Tôi hiểu ý anh muốn bảo tôi hãy đánh giặc để lấy súng giặc đấy.
    Tôi mừng quá, nhận súng đạn và cám ơn các đồng chí.
    Tối ấy tôi về nhà để xem bà tôi cơm nước ra sao và chuẩn bị thêm cho bà tôi mấy thứ nữa. Mờ sáng hôm sau với 2 túi lương tôi đi tìm ban y tế theo sự chỉ dẫn của Viết. Thật chẳng may, tôi đến Lũng Nhùng thì được tin các đồng chí y tế vừa mới chuyển về Lũng Phúc, chỉ còn để lại 3 nữ dân quân chuẩn bị đón thương binh ở tuyến trước.
    Nhiều trận chiến đấu quyết liệt đã diễn ra ở Khau Chỉ, ngọn đèo quan trọng án ngữ con đường dẫn đến Lũng Phúc qua sông Bằng Giang.
    Tôi đang lưỡng lụ chưa biết tính toán thế nào thì từ tuyến trước có 7 đồng chí thương binh được đưa đến trạm. Các đồng chí đều thuộc đoàn 567 đã chiến đấu ở Khau Chỉ nhiều ngày và bị thương khá nặng. Người bị đạn xuyên ở đùi trái, người bị gãy chân, người bị vào quai hàm... tất cả các trường hợp đều đã được tuyến trước cấp cứu rất chu đáo. Tôi gặp đồng chí Thanh, người phụ trách di chuyển anh em thương binh để tự giới thiệu và lao ngay vào công việc.
    Lúc này chúng tôi có tất cả 5 anh chị em : chị Thiên, chị Nhân, chị Mùi, dân quân xã, tôi ở ban y tế, đồng chí Thanh, bộ đội đoàn 567. Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ và chuyển số thương binh này về tuyến sau an toàn. Tình hình lúc này đã hết sức khó khăn do địch chiếm nhiều điểm cao chung quanh Lũng Nhùng, chúng đang theo con đường từ Lũng Nhùng đi Lũng Phúc cũng tức là con đường chúng tôi sẽ chuyển thương binh đi qua. Chúng tôi chỉ có 5 người nên phải dùng cách di chuyển theo từng chặng, vừa đi vừa tổ chức chiến đấu nếu gặp địch.
    Trước hết chúng tôi phải vượt dèo Lũng Nhùng càng sớm càng tốt. Ngọn đèo này rất hiểm trở, cả bên trái và phải đều có núi cao. Nếu địch chiếm giữ cả 2 bên thì khó lòng mà vượt qua.
    Chặng đầu tiên chúng tôi tổ chức chuyển thương binh từ Lũng Nhùng đến ngã ba Mỏ Nước. Ngã ba này có đường đi Lũng Phúc, Lũng Mười và đường ra sống Bằng. Vị trí ngã ba đã quan trọng nhưng còn quan trọng hơn là tại đây có giếng nước ngọt fuy nhất dùng cho các bản làng chung quanh. Cái giếng này bà con địa phương gọi là mỏ vì nó chìm sâu trong một hốc đá lớn. Dù trời nắng hạn đến đâu mỏ nước cũng luôn đầy ắp do có nhiều mạch ngầm rất mạnh. Mùa hè nước mát lạnh, trong vắt, màu đông nước lại hơn âm ấm, cho vào bát có thể thấy một màn hơi mỏng bốc lên. Do đó có người gọi mỏ nước này là Giếng Tiên, cũng có người gọi là Giếng Thần. Nhân dân trong vùng giữ gìn mỏ nước rất chu đáo. Cách Mỏ Nước không xa có một xóm nhà dân đã sơ tán hết. Chúng tôi chọn một nhà rộng rãi, sạch sẽ để chuyển anh em thương binh vào đó.
    Cứ 4 người cáng 2 thương binh thì 1 người ở lại để trông nom và canh gác.
    Tôi và đồng chí Thanh chia nhau làm việc này. Thanh là người cùng huyện với tôi. Tôi được nghe Thanh kể về những tấm gương chiến đấu kiên cường của các đồng chí thương binh. có đồng chí đã diệt hàng trăm địch như đồng chí Tình. Có đồng chí bị thương lần thứ nhất không chịu rời trận địa, bị thương lần thứ hai lại giấu đồng đội để tiếp tục chiến đấu, đến khi máu ra nhiều quá ngất đi anh em mới biết. Qua câu chuyện đồng chí Thanh kể tôi cũng hiểu được bộ mặt vừa tàn ác vừa hèn hạ của giặc, hiểu được lối đánh của chúng. Trong 2 cuộc kháng chiến trước tôi còn bé nên chưa có cơ hội tham gia chiến đấu.
    Cơ hội ấy nay đã đến. Qua 1 ngày làm việc rất vất vả nhưng tôi thấy phấn khởi và tự động viên mình phải cố gắng hơn nữa. Trước mắt tôi là tấm gương đồng chí Thanh. Đồng chí Thanh hơn tôi 1 tuổi, vào bộ đội vừa đúng 1 năm nhưng mọi hành động của đồng chí đều làm tôi cảm phục. Lúc nào cũng vậy, vừa mới đưa thương binh đến nơi, mồ hôi đang đầm đìa, trong khi chúng tôi ngồi nghỉ thì Thanh vẫn luôn tay. Khi thì đồng chí tranh thủ nấu nước cho chúng tôi uống, khi thì chuẩn bị thức ăn cho thương binh. Đồng chí nói :
    - Tôi quen rồi, không biết mệt. Tôi chỉ mong sao đưa được nhanh anh em thương binh về nơi an toàn để sớm cứu chữa. Tôi phải trở lại đơn vị để cùng chiến đấu với anh em.
    Đồng chí Thanh không bao giờ nề hà, từ chối việc gì. Đồng chí giúp thương binh trong mọi trường hợp, từ việc rất nhỏ trong sinh hoạt như thay băng, đổ bô cho đến bảo vệ anh em. Đồng chí tự tay bón cho thương binh ăn, kể chuyện vui cho thương binh nghe để đỡ đau mặc dù đồng chí không phải y tá, y sĩ gì cả. Khi nào tôi lau rửa hoặc thay băng cho anh em thương binh cũng đều có mặt Thanh cả. ANh tận tình giúp tôi và chia sẻ sự đau đớn với đồng đội.
    Suốt ngày vất vả, đi lại hàng mấy chục cây số nhưng đêm đến đồng chí Thanh bảo chúng tôi ngủ còn anh thức canh. Cứ mỗi lần thương binh nào đau đớn quá đồng chí Thanh liền có mặt bên cạnh an ủi, giúp đỡ.
    Sau khi hoàn thành tốt đẹp chặng đường di chuyển đầu tiên, chúng tôi chia nhau đi nắm tình hình địch để chuyển tiếp chặng hai. Nhưng đường đã bị tắc.
    Độ 4 giờ sáng hôm ấy, Thanh đánh thức tôi dậy và bảo :
    - Chiều hôm qua tôi nghe súng nổ gần, có thể hôm nay địch sẽ vào đây. Ý kiến đồng chí thế nào ?
    Tôi suy nghĩ hồi lâu rồi nói :
    - Tôi đồng ý với phán đoán của đồng chí, bây giờ chỉ có cách chuyển thương binh đi nơi khác thôi.
    Đồng chí Thanh rút từ trong túi ra một chiếc bản đồ. Hai chúng tôi chụm đầu trên bản đồ để bàn cách phân tán thương binh vì chưa thể vượt qua vòng vây của địch.
    Bàn vừa xong thì trời sáng. Cùng lúc ấy tiếng súng rộ lên ở phía Lũng Nhùng. Đồng chí Thanh đánh thức 3 đồng chí nữ dậy và yêu cầu các đồng chí giúp cho việc hân tán thương binh.
    Tôi lên đèo Lũng Nhùng để nắm tình hình địch.
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    ĐỒNG ĐỘI CỦA ANH
    Văn Tùng, ghi theo lời kể của Phàn Văn Dậu, dân tộc Tày, sinh viên trường đại học Dược Hà Nội.
    Tôi là Phàn Văn Dậu, 22 tuổi, quê ở Quảng Hoà tỉnh Cao Bằng. Tôi đang học năm thứ 3 khoa Dược chính trường đại học Dược Hà Nội. Giữa tháng 2-1979, mẹ tôi ốm nặng, nhà trường cho tôi nghỉ phép mấy hôm. Về đến nhà tôi thấy bà con trong xã đang tích cực chuẩn bị mọi mặt để chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược.
    Được sự săn sóc của gia đình, mẹ tôi đã đỡ nhiều. Tôi định trở về Hà Nội ngày 18-2-1979 theo đúng hạn phép nhưng sáng 17-2-1979, các tuyến xe từ Cao bằng đi các nơi đều đình chỉ. Tôi trở lại nhà, lúc này địch đã đánh vào một số địa phương ở Cao Bằng. Tôi đưa mẹ tôi sơ tán vào rừng cùng với bà con trong xã, dặn dò cô em gái ở lại săn sóc mẹ, còn tôi trở về nhà vì bà ngoại tôi già yếu quá không đi xa được. Tôi định đưa bà tôi đến cái lán gần nhà. Ở đây đang có một số cụ già trong xã sơ tán, nhưng bà tôi không chịu đi. Cụ bảo :
    - bà già rồi, bà làm gì chúng nó mà chúng nó giết bà !
    Tôi chuẩn bị gạo nước và vài thứ cần thiết cho cụ, an ủi cụ và hứa sẽ quay lại. Bà tôi nhìn theo nói :
    - Cháu cứ đi làm việc nước, bà trông nhà cho !
    Tôi quyết định đi tìm xã đội để xin tham gia chiến đấu. Đồng chí xã đội trưởng Vi Văn Viết lúc này quá bận, tôi đi tìm suốt một ngày mà không sao gặp được. Mãi đến tối mịt tôi trở về trụ sở, may mắn lúc đó đang có cuộc họp ở đây. Sốt ruột quá không thể chờ tan họp, tôi vào ngay. Là con em các dân tộc trong xã nên đồng chí nào cũng biết tôi, tuy vậy tôi vẫn xuất trình giấy tờ đầy đủ. Anh Viết hỏi tôi :
    - Bây giờ đồng chí yêu cầu chúng tôi việc gì nào ?
    Tôi ngập ngừng một lúc rồi thành thật đề nghị :
    - Báo cáo đồng chí, tôi xin 1 khẩu súng và yêu cầu phân phối tôi về đơn vị chiến đấu.
    Anh Viết nhìn tôi chưa trả lời, anh quay sang hội ý với các đồng chí trong ban chỉ huy xã đội. Tôi nghe anh nói : "Cậu ấy học dược, theo tôi có thể sắp xếp vào Ban y tế, còn súng thì thế nào các đồng chí nhỉ, liệu...".
    Nghe vậy tôi lo quá, vội vàng trình bày lại :
    - Báo cáo các đồng chí, ở trường tôi đã được tập quân sự, tôi sử dụng được K44, CKC, AK. Đề nghị các đồng chí cho tôi chiến đấu.
    Bàn bạc một lúc, cuối cùng các đồng chí vẫn xếp tôi vào ban y tế nhưng cấp cho tôi 1 khẩu CKC và 20 viên đạn. Anh Viết động viên tôi :
    - Anh em hiểu nguyện vọng của đồng chí nhưng hiện nay vấn đề săn sóc thương binh đặt ra rất lớn. Về vũ khí thì đồng chí thông cảm, bây giờ đã cấp phát hết rồi. Nhưng súng đạn làở ta ra mà thôi... Làm y tế nhưng khi cần đồng chí có thể tham gia chiến đấu cùng với anh chị em dân quân.
    Anh Viết nheo mắt nhìn tôi cười hóm hỉnh. Tôi hiểu ý anh muốn bảo tôi hãy đánh giặc để lấy súng giặc đấy.
    Tôi mừng quá, nhận súng đạn và cám ơn các đồng chí.
    Tối ấy tôi về nhà để xem bà tôi cơm nước ra sao và chuẩn bị thêm cho bà tôi mấy thứ nữa. Mờ sáng hôm sau với 2 túi lương tôi đi tìm ban y tế theo sự chỉ dẫn của Viết. Thật chẳng may, tôi đến Lũng Nhùng thì được tin các đồng chí y tế vừa mới chuyển về Lũng Phúc, chỉ còn để lại 3 nữ dân quân chuẩn bị đón thương binh ở tuyến trước.
    Nhiều trận chiến đấu quyết liệt đã diễn ra ở Khau Chỉ, ngọn đèo quan trọng án ngữ con đường dẫn đến Lũng Phúc qua sông Bằng Giang.
    Tôi đang lưỡng lụ chưa biết tính toán thế nào thì từ tuyến trước có 7 đồng chí thương binh được đưa đến trạm. Các đồng chí đều thuộc đoàn 567 đã chiến đấu ở Khau Chỉ nhiều ngày và bị thương khá nặng. Người bị đạn xuyên ở đùi trái, người bị gãy chân, người bị vào quai hàm... tất cả các trường hợp đều đã được tuyến trước cấp cứu rất chu đáo. Tôi gặp đồng chí Thanh, người phụ trách di chuyển anh em thương binh để tự giới thiệu và lao ngay vào công việc.
    Lúc này chúng tôi có tất cả 5 anh chị em : chị Thiên, chị Nhân, chị Mùi, dân quân xã, tôi ở ban y tế, đồng chí Thanh, bộ đội đoàn 567. Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ và chuyển số thương binh này về tuyến sau an toàn. Tình hình lúc này đã hết sức khó khăn do địch chiếm nhiều điểm cao chung quanh Lũng Nhùng, chúng đang theo con đường từ Lũng Nhùng đi Lũng Phúc cũng tức là con đường chúng tôi sẽ chuyển thương binh đi qua. Chúng tôi chỉ có 5 người nên phải dùng cách di chuyển theo từng chặng, vừa đi vừa tổ chức chiến đấu nếu gặp địch.
    Trước hết chúng tôi phải vượt dèo Lũng Nhùng càng sớm càng tốt. Ngọn đèo này rất hiểm trở, cả bên trái và phải đều có núi cao. Nếu địch chiếm giữ cả 2 bên thì khó lòng mà vượt qua.
    Chặng đầu tiên chúng tôi tổ chức chuyển thương binh từ Lũng Nhùng đến ngã ba Mỏ Nước. Ngã ba này có đường đi Lũng Phúc, Lũng Mười và đường ra sống Bằng. Vị trí ngã ba đã quan trọng nhưng còn quan trọng hơn là tại đây có giếng nước ngọt fuy nhất dùng cho các bản làng chung quanh. Cái giếng này bà con địa phương gọi là mỏ vì nó chìm sâu trong một hốc đá lớn. Dù trời nắng hạn đến đâu mỏ nước cũng luôn đầy ắp do có nhiều mạch ngầm rất mạnh. Mùa hè nước mát lạnh, trong vắt, màu đông nước lại hơn âm ấm, cho vào bát có thể thấy một màn hơi mỏng bốc lên. Do đó có người gọi mỏ nước này là Giếng Tiên, cũng có người gọi là Giếng Thần. Nhân dân trong vùng giữ gìn mỏ nước rất chu đáo. Cách Mỏ Nước không xa có một xóm nhà dân đã sơ tán hết. Chúng tôi chọn một nhà rộng rãi, sạch sẽ để chuyển anh em thương binh vào đó.
    Cứ 4 người cáng 2 thương binh thì 1 người ở lại để trông nom và canh gác.
    Tôi và đồng chí Thanh chia nhau làm việc này. Thanh là người cùng huyện với tôi. Tôi được nghe Thanh kể về những tấm gương chiến đấu kiên cường của các đồng chí thương binh. có đồng chí đã diệt hàng trăm địch như đồng chí Tình. Có đồng chí bị thương lần thứ nhất không chịu rời trận địa, bị thương lần thứ hai lại giấu đồng đội để tiếp tục chiến đấu, đến khi máu ra nhiều quá ngất đi anh em mới biết. Qua câu chuyện đồng chí Thanh kể tôi cũng hiểu được bộ mặt vừa tàn ác vừa hèn hạ của giặc, hiểu được lối đánh của chúng. Trong 2 cuộc kháng chiến trước tôi còn bé nên chưa có cơ hội tham gia chiến đấu.
    Cơ hội ấy nay đã đến. Qua 1 ngày làm việc rất vất vả nhưng tôi thấy phấn khởi và tự động viên mình phải cố gắng hơn nữa. Trước mắt tôi là tấm gương đồng chí Thanh. Đồng chí Thanh hơn tôi 1 tuổi, vào bộ đội vừa đúng 1 năm nhưng mọi hành động của đồng chí đều làm tôi cảm phục. Lúc nào cũng vậy, vừa mới đưa thương binh đến nơi, mồ hôi đang đầm đìa, trong khi chúng tôi ngồi nghỉ thì Thanh vẫn luôn tay. Khi thì đồng chí tranh thủ nấu nước cho chúng tôi uống, khi thì chuẩn bị thức ăn cho thương binh. Đồng chí nói :
    - Tôi quen rồi, không biết mệt. Tôi chỉ mong sao đưa được nhanh anh em thương binh về nơi an toàn để sớm cứu chữa. Tôi phải trở lại đơn vị để cùng chiến đấu với anh em.
    Đồng chí Thanh không bao giờ nề hà, từ chối việc gì. Đồng chí giúp thương binh trong mọi trường hợp, từ việc rất nhỏ trong sinh hoạt như thay băng, đổ bô cho đến bảo vệ anh em. Đồng chí tự tay bón cho thương binh ăn, kể chuyện vui cho thương binh nghe để đỡ đau mặc dù đồng chí không phải y tá, y sĩ gì cả. Khi nào tôi lau rửa hoặc thay băng cho anh em thương binh cũng đều có mặt Thanh cả. ANh tận tình giúp tôi và chia sẻ sự đau đớn với đồng đội.
    Suốt ngày vất vả, đi lại hàng mấy chục cây số nhưng đêm đến đồng chí Thanh bảo chúng tôi ngủ còn anh thức canh. Cứ mỗi lần thương binh nào đau đớn quá đồng chí Thanh liền có mặt bên cạnh an ủi, giúp đỡ.
    Sau khi hoàn thành tốt đẹp chặng đường di chuyển đầu tiên, chúng tôi chia nhau đi nắm tình hình địch để chuyển tiếp chặng hai. Nhưng đường đã bị tắc.
    Độ 4 giờ sáng hôm ấy, Thanh đánh thức tôi dậy và bảo :
    - Chiều hôm qua tôi nghe súng nổ gần, có thể hôm nay địch sẽ vào đây. Ý kiến đồng chí thế nào ?
    Tôi suy nghĩ hồi lâu rồi nói :
    - Tôi đồng ý với phán đoán của đồng chí, bây giờ chỉ có cách chuyển thương binh đi nơi khác thôi.
    Đồng chí Thanh rút từ trong túi ra một chiếc bản đồ. Hai chúng tôi chụm đầu trên bản đồ để bàn cách phân tán thương binh vì chưa thể vượt qua vòng vây của địch.
    Bàn vừa xong thì trời sáng. Cùng lúc ấy tiếng súng rộ lên ở phía Lũng Nhùng. Đồng chí Thanh đánh thức 3 đồng chí nữ dậy và yêu cầu các đồng chí giúp cho việc hân tán thương binh.
    Tôi lên đèo Lũng Nhùng để nắm tình hình địch.
  10. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Khi tôi đến đỉnh đèo thì địch đã ở dưới chân đèo. Nếu chạy về báo tin ắt không kịp. Tôi liền bắn 3 phát súng báo hiệu. thế là ta biết có địch đến và địch thì biết có ta trên đèo. Như trên đã nói, con đèo này rất hiểm trở, hai bên là núi cao áp sát mặt đường. Địa thế này rất thuận lợi cho việc đánh địch. Tôi quyết định bám điểm cao này. Tôi chọn những ngách núi và những phiến đá có thể dùng làm vật che khuất để chuẩn bị chiến đấu. Tôi định bụng phải kìm giữ quân địch ở đây càng lâu càng tốt để cho đồng đội phân tán xong thương binh. Tôi sẽ bắn đến viên đạn cuối cùng rồi rút vào rừng (đồng chí Thanh vừa cho tôi thêm 50 viên). Tôi nghĩ rằng phải đánh địch từ xa, nếu để chúng đến gần một mình tôi khó ngăn chặn vì quá đông. Nhưng đánh sao cho chúng hoảng sợ để làm chậm bước tiến mới đạt yêu cầu khi trong tay tôi chỉ có khẩu CKC. Tôi quyết định diệt bọn chỉ huy trước. Trong lúc tôi đang căng mắt ra để phát hiện thằng cầm súng ngắn, cầm cờ hoặc cầm kèn thì 1 tên to cao, đầu trần trèo lên mỏm đá ngếch ống nhòm lên phía tôi lia qua lia lại. Tôi đoán nó nghe 3 tiếng súng của tôi, nó biết tôi đang gọi đồng đội đến. Nếu nó nghĩ như vậy thì rất tốt vì nó sợ rồi đấy. Tôi nhằm luôn thằng này. Hồi ở trường tôi đã được bắn đạn thật súng CKC đạt 26 điểm. Tôi bình tĩnh giữ đúng yếu lĩnh và xiết cò. Tôi thấy thằng mang ống nhòm lấy tay phải chộp lấy bả vai bên trái của nó, dúi dúi mấy cái rồi ngoẹo xuống trên mỏm đá. Nó bị thương nhưng chưa chết. Tôi chờ một lát, quả tôi đoán không sai, 2 thằng lính bò lên đỡ thằng này xuống. Thế là tôi chỉnh lại đường ngắm (khẩu CKC này ăn sang trái nhiều), bắn tiếp 3 phát nữa và nhảy sang ngách núi khác. Tôi chú ý quan sát bọn địch, thấy một số đã nằm xuống. Tôi biết chúng đã sợ. Vừa lcú đó có 2 thằng mang 1 khẩu B41 trèo lên chỗ tên chỉ huy lúc nãy. Tôi nhận ra khẩu B41 nhờ cái loa đằng sau súng. Tôi quyết định khử tên anỳ trước lúc nó phụt tôi. Bấy giờ tôi bắn tỉnh lắm. Tôi cho thằng này 1 phát trúng ngay giữa ngực bởi tôi thấy 2 tay nó với lên, người ngửa ra lộn xuống vực. Thằng mang đạn cho nó không biết chui đằng nào nhìn mãi không thấy. Một lúc sau chúng cho cối dập lên đỉnh đèo. Chẳng có hầm hào gì cả tôi đành nằm bên ria đường. Tôi mừng thầm vì như vậy là kế hoạch của tôi đã đạt. Tôi nhẩm tính từ lúc tôi bắn thằng chỉ huy đến lúc chúng dập hết đợt cối ít ra là nửa tiếng đồng hồ, như vậy anh Thanh và các chị có thời gian phân tán thương binh rồi.
    Nhưng trong lúc cối đang dập ầm ầm tôi nghe tiếng gọi :
    - Dậu ơi, Dậu đâu ?
    Tôi nhận ra ngay là anh Thanh, tôi đáp :
    - Tôi ở đây, không việc gì cả.
    Anh Thanh bò đến ôm chầm lấy tôi :
    - Nghe tiếng súng biết là cậu đánh tớ lên ngay.
    Tôi kể sơ qua diễn biến cho Thanh nghe, anh cười khen tôi bình tĩnh và biết đánh. Tôi hỏi Thanh về tình hình thương binh, Thanh cho biết xã đội tăng cường cho mấy dồng chí nữa nên đã phân tán anh em kịp thời rồi.
    Có thêm anh Thanh, chốt chúng tôi giờ vững hơn trước nhiều. Anh Thanh chia cho tôi 3 quả lựu đạn và 8 viên CKC.
    Chúng tôi lấy lương khô ra ăn. Ăn xong khát nước quá. Anh Thanh giành lấy bình tông đi xuống Mỏ Nước. Anh Thanh vừa đi thì địch tổ chức tiến công lên đỉnh đèo. Chúng theo 2 rìa đường, mỗi tốp độ mươi tên cứ nối đuôi nhau. Bây giờ tôi không còn lo lắng gì đến việc phân tán anh em thương binh nữa. tôi thay đổi cách đánh nhằm tiêu diệt được nhiều địch. Tôi tìm vị trí thích hợp để bắn xuyên táo. Phát đầu tôi bắn trượt, phát thứ hai trúng tên giặc đi sau, nó ngã va vào đồng bọn nhưng tên này đã hắt nó qua một bên và cứ thế đi thẳng, chẳng đoái hoài gì đến tiếng rên la của bạn.
    Thế là tôi đã bắn 2 viên àm chưa viên nào xuyên táo được. Tôi chuyển sang ngắm thằng đi đầu. Thằng này đã đến gần, nó rất ngông nghênh như không hề biết có tôi trên này. Tôi tức lắm. tôi để đầu ruồi lệch sang phải và nín thở siết cò. Thằng giặc ự lên một tiếng rồi đổ sập xuống.
    Có lẽ bọn giặc phát hiện bên ta ít người nên chúng vừa thổi kèn vừa phất cờ cho tất cả bọn còn ở dưới chân đèo ào lên kín cả mặt đường. Tôi giương súng chuẩn bị bắn thì Thanh chạy tới. Anh trao cái bình tông đầy nước cho tôi. Khát quá tôi uống ngay. Thanh đến chỗ mô đá tôi vừa nấp, tì khẩu AK lên quạt liền 3 băng. Tôi dướn người lên thấy bọn giặc chững lại. Tôi ước chừng ít nhất 10 tên đã gục tại chỗ. Anh Thanh bảo tôi :
    - Ta rút thôi, cậu xuống trước di.
    Thanh tiếp tục bắn. Tôi quay lại nhìn cái đỉnh đèo lần nữa và vẫy Thanh cùng xuống.
    Hai chúng tôi vào rưng, đến vùng chúng tôi phân tán thương binh. Quá trưa thì địch lố nhố trên các điểm cao xung quanh.
    Bây giờ vấn đề nước trở nên rất nghiêm trọng vì cái mỏ nước nằm dưới tầm đạn và sự khống chế của địch. Anh em thương binh thường xuyên cần nhiều nước. Tôi và Thanh bàn cách trữ nước. Tối đó, chúng tôi 6 anh chị em - 5 người chúng tôi và bây giờ thêm đồng chí Ún, dân quân địa phương mới được bổ sung, chia nhau đi lấy nước. Chúng tôi vào nhà dân tìm những vật gì có thể đựng được nước đều tập trung lại. Chúng tôi chuyển nước cả đêm không ngủ. Lấy được nước về chúng tôi lại phải tìm cách đun lên, một phần để uống, một phần pha với muối rửa vết thương cho anh em.
    Ngày hôm sau bọn giặc cũng sục đi tìm nước và chúng phát hiện Mỏ Nước. Chúng tôi bàn với nhau phải tiếp tục tìm hết cách đưa anh em thương binh về nơi an toàn vì một số vết thương đã có triệu chứng xấu, hơn nữa tình hình ăn ở tại đây rất nguy hiểm. Nhưng không còn cách nào khác là tổ chức chuyển thương binh ban đêm. Tối hôm sau, tôi và Thanh đi trinh sát đường và Ún đi lấy nước. Ba chúng tôi vừa đến gần ngã ba mỏ nước thì gặp địch. Chúng đang tụ tập xung quanh mỏ nước. Đồng chí Ún đi trước ném 2 quả lựu đạn. Nghe tiếng nỏ và phát hiện ra Ún, bọn giặc lao đến định bắt sống anh. Nhưng Ún đã nhanh chóng chĩa AK quét làm nhiều tên chết và bị thương. Một mình Ún giữa vòng vây nhưng anh rất bình tĩnh. Chúng tôi gnhe tiếng AK của anh nổ rất đĩnh đạc tằng...tằng...tằng 3 phát một. Lúc này tôi và Thanh bố trí đánh thọc sườn để giải vây cho Ún. Chúng tôi ném 4 quả lựu đạn vào giữa đội hình địch, chúng giãn ra. Biết lực lượng ta không ít, địch lợi dụng đêm tối chạy hết. Chúng tôi tiến sát mỏ nước tìm Ún và thấy đồng chí bị thương nặng nhưng trong tay vẫn giữ 3 chiếc bình tông đầy nước đang tìm cách bò về. ún nói :
    - Để tôi ở đây, các đồng chí mang nước về cho anh em thương binh.
    Tôi và Thanh xé áo băng vết thương cho Ún, thay nhau cõng đồng chí về. Anh em thương binh nghe kể câu chuyện này ai cũng cảm động. Tình hình ngày một gay go, có lúc tôi và đồng chí Thanh phải yểm hộ cho nhau xông ra lấy nước giữa ban ngày. Tôi đã thấm mệt vì đêm nào cũng thức săn sóc anh em. Các vết thương của anh em ngày càng tiến triển xấu. Tôi lo quá. Rất may là giữa lúc đó thì xã đội đã cử nhiều đoàn đi tìm và tổ chức đưa chúng tôi về hậu cứ an toàn.
    Mấy hôm sau, bộ đội địa phương Cao Bằng cùng các lực lượng dân quân từ đèo Khau Chỉ đánh thẳng vào Lũng Nhùng, Lũng Nô, Lũng Phúc... Bọn giặc Trung Quốc xâm lược tháo chạy về phía sông Bằng. Thế là xã tôi sạch bóng quân thù. Các đồng chí giục tôi về thăm nhà.
    Qua các bản làng bị giặc tàn phá tan hoang, tôi xót xa nghĩ đến mẹ tôi, bà tôi, đến nhà cửa không biết giờ ra sao.
    Vừa đến đầu làng, lòng dạ tôi đã thấy bồn chồn. Tôi chạy một mạch đến ngõ, cất tiếng gọi :
    - Bà ơi, bà ơi, cháu về đây !
    Không thấy động tĩnh gì cả. Bước qua mảnh sân con, tôi thấy đò đạc trong nhà bị giặc mang ra sân đập phá nát hết : giường, ghế, bàn, tủ gãy vụn, chiếc chăn bị băm ra từng mảnh... Tôi lách qua khe cửa đến chỗ bà tôi nằm. Không thấy giường và bà tôi đâu cả, chỉ thấy trên mặt đất một vũng máu tím sẫm, đông khô kéo dài một vệt ta cửa sau đến bể nước. Tôi đâm bổ theo vệt máu đó, nước mắt trào ra. Tôi lại gọi :
    - Bà ơi, bà ơi !
    Tôi hy vọng bà tôi bị thương và còn ẩn đâu đây. Nhưng vừa bước thêm mấy bước, tôi lặng người đứng lại. Cổ họng tôi tắc nghẹn vì căm uất không bật ra được tiếng khóc.
    Bà tôi bị giặc giết. Bên cạnh thi thể bà có con dao cùn gia đình tôi thường dùng bổ củi còn vấy máu. Bà tôi bị 2 viên đạn vào ngực và bụng. Giặc lấy dao chặt cả hai chân bà tôi vứt ở mỗi góc sân một khúc. Người tôi nóng bừng, tay tôi nắm chặt quả lựu đạn, nước mắt cứ trào ra, bên tai tôi như còn văng vẳng tiếng nói của bà : "Bà làm gì chúng nó mà chúng nó giết bà !"...
    Kì tích áo chàm T1, NXB Văn hoá 1979.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này