1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 và 1984

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 11/02/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Khi tôi đến đỉnh đèo thì địch đã ở dưới chân đèo. Nếu chạy về báo tin ắt không kịp. Tôi liền bắn 3 phát súng báo hiệu. thế là ta biết có địch đến và địch thì biết có ta trên đèo. Như trên đã nói, con đèo này rất hiểm trở, hai bên là núi cao áp sát mặt đường. Địa thế này rất thuận lợi cho việc đánh địch. Tôi quyết định bám điểm cao này. Tôi chọn những ngách núi và những phiến đá có thể dùng làm vật che khuất để chuẩn bị chiến đấu. Tôi định bụng phải kìm giữ quân địch ở đây càng lâu càng tốt để cho đồng đội phân tán xong thương binh. Tôi sẽ bắn đến viên đạn cuối cùng rồi rút vào rừng (đồng chí Thanh vừa cho tôi thêm 50 viên). Tôi nghĩ rằng phải đánh địch từ xa, nếu để chúng đến gần một mình tôi khó ngăn chặn vì quá đông. Nhưng đánh sao cho chúng hoảng sợ để làm chậm bước tiến mới đạt yêu cầu khi trong tay tôi chỉ có khẩu CKC. Tôi quyết định diệt bọn chỉ huy trước. Trong lúc tôi đang căng mắt ra để phát hiện thằng cầm súng ngắn, cầm cờ hoặc cầm kèn thì 1 tên to cao, đầu trần trèo lên mỏm đá ngếch ống nhòm lên phía tôi lia qua lia lại. Tôi đoán nó nghe 3 tiếng súng của tôi, nó biết tôi đang gọi đồng đội đến. Nếu nó nghĩ như vậy thì rất tốt vì nó sợ rồi đấy. Tôi nhằm luôn thằng này. Hồi ở trường tôi đã được bắn đạn thật súng CKC đạt 26 điểm. Tôi bình tĩnh giữ đúng yếu lĩnh và xiết cò. Tôi thấy thằng mang ống nhòm lấy tay phải chộp lấy bả vai bên trái của nó, dúi dúi mấy cái rồi ngoẹo xuống trên mỏm đá. Nó bị thương nhưng chưa chết. Tôi chờ một lát, quả tôi đoán không sai, 2 thằng lính bò lên đỡ thằng này xuống. Thế là tôi chỉnh lại đường ngắm (khẩu CKC này ăn sang trái nhiều), bắn tiếp 3 phát nữa và nhảy sang ngách núi khác. Tôi chú ý quan sát bọn địch, thấy một số đã nằm xuống. Tôi biết chúng đã sợ. Vừa lcú đó có 2 thằng mang 1 khẩu B41 trèo lên chỗ tên chỉ huy lúc nãy. Tôi nhận ra khẩu B41 nhờ cái loa đằng sau súng. Tôi quyết định khử tên anỳ trước lúc nó phụt tôi. Bấy giờ tôi bắn tỉnh lắm. Tôi cho thằng này 1 phát trúng ngay giữa ngực bởi tôi thấy 2 tay nó với lên, người ngửa ra lộn xuống vực. Thằng mang đạn cho nó không biết chui đằng nào nhìn mãi không thấy. Một lúc sau chúng cho cối dập lên đỉnh đèo. Chẳng có hầm hào gì cả tôi đành nằm bên ria đường. Tôi mừng thầm vì như vậy là kế hoạch của tôi đã đạt. Tôi nhẩm tính từ lúc tôi bắn thằng chỉ huy đến lúc chúng dập hết đợt cối ít ra là nửa tiếng đồng hồ, như vậy anh Thanh và các chị có thời gian phân tán thương binh rồi.
    Nhưng trong lúc cối đang dập ầm ầm tôi nghe tiếng gọi :
    - Dậu ơi, Dậu đâu ?
    Tôi nhận ra ngay là anh Thanh, tôi đáp :
    - Tôi ở đây, không việc gì cả.
    Anh Thanh bò đến ôm chầm lấy tôi :
    - Nghe tiếng súng biết là cậu đánh tớ lên ngay.
    Tôi kể sơ qua diễn biến cho Thanh nghe, anh cười khen tôi bình tĩnh và biết đánh. Tôi hỏi Thanh về tình hình thương binh, Thanh cho biết xã đội tăng cường cho mấy dồng chí nữa nên đã phân tán anh em kịp thời rồi.
    Có thêm anh Thanh, chốt chúng tôi giờ vững hơn trước nhiều. Anh Thanh chia cho tôi 3 quả lựu đạn và 8 viên CKC.
    Chúng tôi lấy lương khô ra ăn. Ăn xong khát nước quá. Anh Thanh giành lấy bình tông đi xuống Mỏ Nước. Anh Thanh vừa đi thì địch tổ chức tiến công lên đỉnh đèo. Chúng theo 2 rìa đường, mỗi tốp độ mươi tên cứ nối đuôi nhau. Bây giờ tôi không còn lo lắng gì đến việc phân tán anh em thương binh nữa. tôi thay đổi cách đánh nhằm tiêu diệt được nhiều địch. Tôi tìm vị trí thích hợp để bắn xuyên táo. Phát đầu tôi bắn trượt, phát thứ hai trúng tên giặc đi sau, nó ngã va vào đồng bọn nhưng tên này đã hắt nó qua một bên và cứ thế đi thẳng, chẳng đoái hoài gì đến tiếng rên la của bạn.
    Thế là tôi đã bắn 2 viên àm chưa viên nào xuyên táo được. Tôi chuyển sang ngắm thằng đi đầu. Thằng này đã đến gần, nó rất ngông nghênh như không hề biết có tôi trên này. Tôi tức lắm. tôi để đầu ruồi lệch sang phải và nín thở siết cò. Thằng giặc ự lên một tiếng rồi đổ sập xuống.
    Có lẽ bọn giặc phát hiện bên ta ít người nên chúng vừa thổi kèn vừa phất cờ cho tất cả bọn còn ở dưới chân đèo ào lên kín cả mặt đường. Tôi giương súng chuẩn bị bắn thì Thanh chạy tới. Anh trao cái bình tông đầy nước cho tôi. Khát quá tôi uống ngay. Thanh đến chỗ mô đá tôi vừa nấp, tì khẩu AK lên quạt liền 3 băng. Tôi dướn người lên thấy bọn giặc chững lại. Tôi ước chừng ít nhất 10 tên đã gục tại chỗ. Anh Thanh bảo tôi :
    - Ta rút thôi, cậu xuống trước di.
    Thanh tiếp tục bắn. Tôi quay lại nhìn cái đỉnh đèo lần nữa và vẫy Thanh cùng xuống.
    Hai chúng tôi vào rưng, đến vùng chúng tôi phân tán thương binh. Quá trưa thì địch lố nhố trên các điểm cao xung quanh.
    Bây giờ vấn đề nước trở nên rất nghiêm trọng vì cái mỏ nước nằm dưới tầm đạn và sự khống chế của địch. Anh em thương binh thường xuyên cần nhiều nước. Tôi và Thanh bàn cách trữ nước. Tối đó, chúng tôi 6 anh chị em - 5 người chúng tôi và bây giờ thêm đồng chí Ún, dân quân địa phương mới được bổ sung, chia nhau đi lấy nước. Chúng tôi vào nhà dân tìm những vật gì có thể đựng được nước đều tập trung lại. Chúng tôi chuyển nước cả đêm không ngủ. Lấy được nước về chúng tôi lại phải tìm cách đun lên, một phần để uống, một phần pha với muối rửa vết thương cho anh em.
    Ngày hôm sau bọn giặc cũng sục đi tìm nước và chúng phát hiện Mỏ Nước. Chúng tôi bàn với nhau phải tiếp tục tìm hết cách đưa anh em thương binh về nơi an toàn vì một số vết thương đã có triệu chứng xấu, hơn nữa tình hình ăn ở tại đây rất nguy hiểm. Nhưng không còn cách nào khác là tổ chức chuyển thương binh ban đêm. Tối hôm sau, tôi và Thanh đi trinh sát đường và Ún đi lấy nước. Ba chúng tôi vừa đến gần ngã ba mỏ nước thì gặp địch. Chúng đang tụ tập xung quanh mỏ nước. Đồng chí Ún đi trước ném 2 quả lựu đạn. Nghe tiếng nỏ và phát hiện ra Ún, bọn giặc lao đến định bắt sống anh. Nhưng Ún đã nhanh chóng chĩa AK quét làm nhiều tên chết và bị thương. Một mình Ún giữa vòng vây nhưng anh rất bình tĩnh. Chúng tôi gnhe tiếng AK của anh nổ rất đĩnh đạc tằng...tằng...tằng 3 phát một. Lúc này tôi và Thanh bố trí đánh thọc sườn để giải vây cho Ún. Chúng tôi ném 4 quả lựu đạn vào giữa đội hình địch, chúng giãn ra. Biết lực lượng ta không ít, địch lợi dụng đêm tối chạy hết. Chúng tôi tiến sát mỏ nước tìm Ún và thấy đồng chí bị thương nặng nhưng trong tay vẫn giữ 3 chiếc bình tông đầy nước đang tìm cách bò về. ún nói :
    - Để tôi ở đây, các đồng chí mang nước về cho anh em thương binh.
    Tôi và Thanh xé áo băng vết thương cho Ún, thay nhau cõng đồng chí về. Anh em thương binh nghe kể câu chuyện này ai cũng cảm động. Tình hình ngày một gay go, có lúc tôi và đồng chí Thanh phải yểm hộ cho nhau xông ra lấy nước giữa ban ngày. Tôi đã thấm mệt vì đêm nào cũng thức săn sóc anh em. Các vết thương của anh em ngày càng tiến triển xấu. Tôi lo quá. Rất may là giữa lúc đó thì xã đội đã cử nhiều đoàn đi tìm và tổ chức đưa chúng tôi về hậu cứ an toàn.
    Mấy hôm sau, bộ đội địa phương Cao Bằng cùng các lực lượng dân quân từ đèo Khau Chỉ đánh thẳng vào Lũng Nhùng, Lũng Nô, Lũng Phúc... Bọn giặc Trung Quốc xâm lược tháo chạy về phía sông Bằng. Thế là xã tôi sạch bóng quân thù. Các đồng chí giục tôi về thăm nhà.
    Qua các bản làng bị giặc tàn phá tan hoang, tôi xót xa nghĩ đến mẹ tôi, bà tôi, đến nhà cửa không biết giờ ra sao.
    Vừa đến đầu làng, lòng dạ tôi đã thấy bồn chồn. Tôi chạy một mạch đến ngõ, cất tiếng gọi :
    - Bà ơi, bà ơi, cháu về đây !
    Không thấy động tĩnh gì cả. Bước qua mảnh sân con, tôi thấy đò đạc trong nhà bị giặc mang ra sân đập phá nát hết : giường, ghế, bàn, tủ gãy vụn, chiếc chăn bị băm ra từng mảnh... Tôi lách qua khe cửa đến chỗ bà tôi nằm. Không thấy giường và bà tôi đâu cả, chỉ thấy trên mặt đất một vũng máu tím sẫm, đông khô kéo dài một vệt ta cửa sau đến bể nước. Tôi đâm bổ theo vệt máu đó, nước mắt trào ra. Tôi lại gọi :
    - Bà ơi, bà ơi !
    Tôi hy vọng bà tôi bị thương và còn ẩn đâu đây. Nhưng vừa bước thêm mấy bước, tôi lặng người đứng lại. Cổ họng tôi tắc nghẹn vì căm uất không bật ra được tiếng khóc.
    Bà tôi bị giặc giết. Bên cạnh thi thể bà có con dao cùn gia đình tôi thường dùng bổ củi còn vấy máu. Bà tôi bị 2 viên đạn vào ngực và bụng. Giặc lấy dao chặt cả hai chân bà tôi vứt ở mỗi góc sân một khúc. Người tôi nóng bừng, tay tôi nắm chặt quả lựu đạn, nước mắt cứ trào ra, bên tai tôi như còn văng vẳng tiếng nói của bà : "Bà làm gì chúng nó mà chúng nó giết bà !"...
    Kì tích áo chàm T1, NXB Văn hoá 1979.

  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Đến năm 1985, 11 Đại quân khu của Trung Quốc đã được tổ chức lại thành 7 Đại quân khu.
    1. Đại quân khu Thẩm Dương gồm các phân khu Liêu Ninh, Cát Lâm, Hắc Long Giang.
    2. Đại quân khu Bắc Kinh gồm các phân khu Hà Bắc, Sơn Tây, Nội Mông.
    3. Đại quân khu Lan Châu gồm các phân khu Cam Túc, Thiểm Tây, Tân Cương, Ninh Hạ, Thanh Hải.
    4. Đại quân khu Tế Nam gồm các phân khu Sơn Đông, Hà Nam.
    5. Đại quân khu Nam Kinh gồm các phân khu Giang Tô, Triết Giang, An Huy, Phúc Kiến, Giang Tây.
    6. Đại quân khu Quảng Châu gồm các phân khu Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Hải Nam.
    7. Đại quân khu Thành Đô gồm các phân khu Vân Nam, Tây Tạng, Quý Châu, Tứ Xuyên.
    Cả 7 Đại quân khu này đều đã từng có lực lượng tham chiến ở mặt trận biên giới Hà Giang của Việt Nam.
    (nguồn : www.china-defense.com)
    Cám ơn các bác đã dịch giúp tên địa danh TQ
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 12:23 ngày 31/08/2005
  3. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    <BLOCKQUOTE id=quote><font size=1 face="Arial" id=quote>Trích từ:TQ chia làm 11 Đại quân khu. Mỗi Đại quân khu có 2-3 phân khu.
    Các sư đoàn bộ binh tập hợp thành 40 quân đoàn. Thông thường 1 quân đoàn có 3 sư đoàn bộ binh, 3 trung đoàn pháo binh. Có một số quân đoàn được tổ chức thêm 3 trung đoàn thiết giáp. Tất cả các sư đoàn tuy thuộc quyền quản lý của các Đại quân khu nhưng đều do trung ương điều động, chỉ huy.
    Ước tính số sư đoàn có thể được phân bố ở 5 vùng { không kể pháo binh, công binh } như sau :
    - Vùng Bắc và Đông Bắc { các đại quân khu Thẩm Dương và Bắc Kinh } : 55 sư đoàn chủ lực và 25 sư đoàn địa phương.
    - Vùng Bắc và Tây Bắc { các đại quân khu Lan Châu và Tân Cương } : 15 sư đoàn chủ lực và 8 sư đoàn địa phương.
    - Vùng Đông và Đông Nam { các đại quân khu Tế Nam, Nam Ninh, Phúc Châu và Quảng Châu, gồm cả đảo Hải Nam } : 32 sư đoàn chủ lực và 22 sư đoàn địa phương.
    - Vùng trung tâm { đại quân khu Vũ Hán } : 15 sư đoàn chủ lực và 7 sư đoàn địa phương.
    - Vùng Tây và Tây Nam { các đại quân khu Thành Đô và Côn Minh } : 18 sư đoàn chủ lực và 8 sư đoàn địa phương.[/QUOTE]
    Đến năm 1985, 11 Đại quân khu của Trung Quốc đã được tổ chức lại thành 7 Đại quân khu.
    1. Đại quân khu Thẩm Dương gồm các quân khu Liêu Ninh, Cát Lâm, Hắc Long Giang.
    2. Đại quân khu Bắc Kinh gồm các quân khu Hà Bắc, Sơn Tây, Nội Mông.
    3. Đại quân khu Lan Châu gồm các quân khu Cam Túc, Thiểm Tây, Tân Cương, Ninh Hạ, Thanh Hải.
    4. Đại quân khu Tế Nam gồm các quân khu Sơn Đông, Hà Nam.
    5. Đại quân khu Nam Kinh gồm các quân khu Giang Tô, Triết Giang, An Huy, Phúc Kiến, Giang Tây.
    6. Đại quân khu Quảng Châu gồm các quân khu Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Hải Nam.
    7. Đại quân khu Thành Đô gồm các quân khu Vân Nam, Tây Tạng, Quý Châu, Tứ Xuyên.
    Cả 7 Đại quân khu này đều đã từng có lực lượng tham chiến ở mặt trận biên giới Hà Giang của Việt Nam.
    (nguồn : www.china-defense.com)
    Cám ơn các bác đã dịch giúp tên địa danh TQ
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 16:28 ngày 18/02/2005
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    [​IMG]
    Chiếc trực thăng Mi-6 này, mang số hiệu 7609 đã được Không quân Nhân dân Việt Nam dùng để chuyển quân, vũ khí, khí tài phục vụ chiến đấu trong chiến tranh biên giới với Trung Quốc. Hiện được trưng bày tại Bảo tàng Không quân.
  5. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    [​IMG]
    Chiếc trực thăng Mi-6 này, mang số hiệu 7609 đã được Không quân Nhân dân Việt Nam dùng để chuyển quân, vũ khí, khí tài phục vụ chiến đấu trong chiến tranh biên giới với Trung Quốc. Hiện được trưng bày tại Bảo tàng Không quân.
  6. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Nói thêm một chút về biên chế của quân đội TQ { thời điểm 1978 - 1979 }
    - Một quân đoàn bộ binh TQ có khoảng 50.000 người { khoảng 6.000 sĩ quan với 44.000 lính } gồm 3 sư đoàn bộ binh, 3 trung đoàn pháo và có thể có thêm một số trung đoàn thiết giáp.
    - Một sư đoàn có khoảng 12.900 lính gồm 3 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo { cả pháo mặt đất, chống tăng và phòng không }, 1 trung đoàn thiết giáp.
    - Một trung đoàn có 3 tiểu đoàn bộ binh và các đại đọi súng máy phòng không, súng cối, súng không giật, súng máy hạng nặng.
    Quân đội TQ tổ chức theo kiểu tam tam chế cộng thêm các đơn vị yểm trợ. Bên cạnh hệ thống chỉ huy quân sự là hệ thống cán bộ chính trị từ cấp đại đội trở lên.
    Các đơn vị quân đội TQ trang bị các loại vũ khí thông thường như CKC, AK, B-40/41, các loại pháo { cỡ lớn nhất là 152mm }. Ngoài ra còn một số rocket tầm ngắn H-12 { cự ly bắn trên 10km }.
  7. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Nói thêm một chút về biên chế của quân đội TQ { thời điểm 1978 - 1979 }
    - Một quân đoàn bộ binh TQ có khoảng 50.000 người { khoảng 6.000 sĩ quan với 44.000 lính } gồm 3 sư đoàn bộ binh, 3 trung đoàn pháo và có thể có thêm một số trung đoàn thiết giáp.
    - Một sư đoàn có khoảng 12.900 lính gồm 3 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo { cả pháo mặt đất, chống tăng và phòng không }, 1 trung đoàn thiết giáp.
    - Một trung đoàn có 3 tiểu đoàn bộ binh và các đại đọi súng máy phòng không, súng cối, súng không giật, súng máy hạng nặng.
    Quân đội TQ tổ chức theo kiểu tam tam chế cộng thêm các đơn vị yểm trợ. Bên cạnh hệ thống chỉ huy quân sự là hệ thống cán bộ chính trị từ cấp đại đội trở lên.
    Các đơn vị quân đội TQ trang bị các loại vũ khí thông thường như CKC, AK, B-40/41, các loại pháo { cỡ lớn nhất là 152mm }. Ngoài ra còn một số rocket tầm ngắn H-12 { cự ly bắn trên 10km }.
  8. porthos

    porthos Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/10/2004
    Bài viết:
    964
    Đã được thích:
    0
    Shenyang: Thẩm dương
    Jilin: Cát lâm
    Gansu: Cam túc
    Shaanxi: Thiểm tây
    Xinjiang: Tân cương
    Ningxia: Ninh hạ
    Jiangsu: Giang tô
    Zhejiang: Triết giang
    Fujian: Phúc kiến
    Guizhou: Quí châu
    Sichuan: Tứ xuyên
  9. porthos

    porthos Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/10/2004
    Bài viết:
    964
    Đã được thích:
    0
    Shenyang: Thẩm dương
    Jilin: Cát lâm
    Gansu: Cam túc
    Shaanxi: Thiểm tây
    Xinjiang: Tân cương
    Ningxia: Ninh hạ
    Jiangsu: Giang tô
    Zhejiang: Triết giang
    Fujian: Phúc kiến
    Guizhou: Quí châu
    Sichuan: Tứ xuyên
  10. kimikamo

    kimikamo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2004
    Bài viết:
    1.478
    Đã được thích:
    0
    chiangshan quả là chiangshan, tìm được mấy tài liệu khá thiệt.
    Nhân tiện chuyển mấy cái tên sang chữ Hán Việt cho mọi người tiện theo dõi:
    Jilin: Cát Lâm (?)
    Gansu: Cam Túc (?)
    Shanxi: Sơn Tây
    Xinjiang: Tân Cương
    Ningxia: Ninh Hạ
    Jiangsu: Giang Tô
    Zhejiang: Triết Giang
    Fujian: Phúc Kiến
    Guizhou: Quí Châu
    Sichuan: Tứ Xuyên
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này