1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 và 1984

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 11/02/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. iphul

    iphul Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/04/2005
    Bài viết:
    9
    Đã được thích:
    0
    ngươ?i ấy la? Trâ?n Văn Dufng
    u?c chiangshan s?a vo 11:15 ngy 19/08/2005
  2. VietKedoclap

    VietKedoclap Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    1.188
    Đã được thích:
    0
    Bác Trường Sơn ơi ! Theo em thì tất cả 99% thông tin của Tào về những cuộc chiến tranh gần đây họ tham gia mà có thể tin được thì e rằng ...Heo Nái cũng biết leo cây mất thôi Bác ạ . Cứ như theo họ ta bao giờ cũng hy sinh 10 lần nhiều hơn số toi mạng của họ . Trong khi thực tế tất cả báo chí thông tin trên khắp thế giới đều cho rằng " Đôi bên thiệt hại rất nặng nề " tuy nhiên " Tào thiệt hại nặng hơn Ta " vì vậy tất cả thông tin quốc tế ngoài Tào đều cho là Ta đã chiến thắng trong chiến tranh biên giới dù trả giá khá đắt . Và đó cũng chính là lý do khiến lảnh đạo chóp bu của tụi Tào vội vả hiện đại hoá quân đội họ ngay lập tức với mọi giá ngay sau chiến tranh . Với trình độ của Tào ngày nay thì thật là khó nói , tuy nhiên với trình độ Tào của thời ấy hơn nữa những sư mạnh nhất của chúng còn đang nằm canh chừng USSR ở phía bắc vào thời điển đó , các sư vào đánh ta chỉ là bọn hạng 2 thôi nên kết quả dù người đông thế mạnh Tào vẫn chết loạn cả là không gì khó hiểu . Trận Lão Sơn có lẻ khác hơn , Tào tập trung mọi tinh anh của nó hy vọng giữ lại chút danh dự của quân đội Tào không bị tan theo mây khói miền núi biên giới . Dù thông tin của Ta ít nhiều cũng mang tính tuyên truyền nên có hơi đưa lên cao số thương vong của Tào Tuy nhiên thông tin ta vẫn chính xác hơn nhiều vì em thấy nó gần với thông tin quốc tế hơn . Cái web China-defense hình như em thấy có vẻ mang giọng điệu chủ nghĩa quân phiệt cực đoan kiểu mới đặc trưng của thanh niên Tào Lao hiện đại thì phải Bác ạ . Em thấy tên Sino-defense ít nhiều cũng dễ tin hơn chút tiếc là nó không có nhiều thông tin về chiến tranh như tên China-defense . Không biết có Bác nào có thông tin từ các phía khác không ạ ?
  3. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Để tham khảo thôi mà bác Việt. Ngoài mình và Tầu ra thì thông tin đều rất chung chung.
    Nhân tiện nói thêm với các bác là không chỉ có TQ mới tuyên bố quân ta chết nhiều đâu. Có trang hải ngoại còn tuyên bố là riêng từ Đồng Đăng về Lạng Sơn có 40 pháo đài bằng bê tông chứa tổng cộng 40.000 quân VN (mỗi pháo đài 1.000 quân), bị TQ tiêu diệt là 70.000 người (các bác lưu ý, TQ "chỉ" nhận diệt khoảng 50.000 lính ta trên cả 6 tỉnh). Thế mới kinh.
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Lấy trên trang của RFA. Không hiểu số liệu thương vong là từ đâu.
    Nga ghi nhớ vai trò của Liên Xô cũ trong cuộc chiến tranh Việt-Trung năm 1979
    2004.03.22

    Sergei Blagov
    Liên bang Nga vẫn ghi nhớ vai trò to lớn của Liên Xô cũ trong cuộc chiến tranh Việt-Trung năm 1979. Chẳng hạn, vào ngày 19 tháng 3, tờ báo Izvestia (Nga) bình luận rằng ?oLiên Xô cũ đã gốp phần quyết định và chiến thắng của Việt Nam.? Tờ báo Izvestia nhắc lại về vai trò của Trưởng cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam, Ðại tướng Guennady Obaturov.
    Đúng 25 năm qua, nhiều diễn biến xẩy ra, khiến cho Bắc Kinh và Hà Nội không tránh được đụng độ trực tiếp. Lý do chính là Hà Nội theo sát con đường Liên Xô chống Trung Quốc, tranh chấp Việt-Hoa về lãnh thổ, và việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia. Từ cuối năm 1978, nhà cầm quyền Việt Nam bắt đầu kêu gọi dân chúng sẵn sàng chống lại "chủ nghĩa bành trướng của nước lớn và ý đồ bá quyền của bọn Hán phong kiến." Liên hệ Việt-Trung "môi hở răng lạnh" tan rã.
    Mặt khác, vào ngày 3 tháng 11, 1978, Liên Xô và Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, trong đó điều 6 đặc biệt ghi rằng đôi bên sẽ áp dụng "các biện pháp thích nghi và hữu hiệu để bảo vệ hòa bình và an ninh" nếu một trong hai nước bị đe dọa hay tấn công. Liên Xô được phép lập căn cứ quân sự tại Cam Ranh và Đà Nẵng. Đầu năm 1979, số cố vấn và chuyên viên Liên Xô tại Việt Nam tăng lên 8.000. Phần thưởng của sự nhân nhượng này là Moscow bật đèn xanh cho Hà Nội xúc tiến thực hiện và điều khiển "Liên bang Đông Dương".
    Tiếp theo Việt Nam chiếm đóng Campuchia. Vào ngày 7 tháng 1, 1979, với sự đồng ý và hỗ trợ vũ khí của Moscow, 100,000 quân Việt Nam tràn ngập Campuchia và toàn thắng sau 1 tuần lễ. Nên cuộc "hành quân trừng phạt" của Quân đội Nhân dân Trung Quốc bắt đầu vào ngày 17 tháng 2, năm 1979, lúc 5 giờ sáng, theo chiến thuật "biển người", đến 600,000 lính Tàu tràn vào Lạng Sơn, (phía Đồng Đăng), Cao Bằng, Đồng Khê, Mông Cáy, và Lào Cai sau khi pháo kích mãnh liệt. Ngày 3 tháng 3, các tỉnh lỵ Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và 17 quận thất thủ.
    Đáng lưu ý, Ðại tướng Obaturov bắt đầu chuẩn bị sang Việt Nam từ cuối năm 1978. Theo Tướng Yevstafy Melnichenko, cựu chuyên viên Bộ tham mưu Liên Xô, Mạc Tư Khoa đã biết trước Trung Quốc sẽ đánh Việt Nam nên nhóm cố vấn do Tướng Obaturov dẫn đầu đã được thành lập từ đầu tháng 2, năm 1979. Ðại tướng Obaturov (1915-1996), nhà chuyên môn về xe tăng, từng trực tiếp thăm gia hai vụ Liên Xô can thiệp quân sự ở Tiệp Khắc (1968) và Hungaria (Hungary, năm 1956). Vào ngày 19 tháng 2, nhóm cố vấn quân sự Liên Xô bao gồm tổng cộng 20 viên tướng đã bay qua Calcutta và đến Hà Nội.
    Sau khi làm việc với Ðại tướng Văn Tiến Dũng và Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn, Tướng Obaturov đã trực tiếp đến vùng Lạng Sơn và gần như bị lính Tàu giết hại. Tiếp theo, Tướng Obaturov đã gặp tổng bí thư Lê Duẩn và thuyết phục lãnh đạo Hà Nội rút một lữ đoàn từ Campuchia chuyển sang vùng Lạng Sơn. Phần lớn lữ đoàn đó do các máy bay vận tải Nga An-12 vận chuyển. Sau khi lữ đoàn Việt Nam từ Campuchia đã đến biên giới phía Bắc, sự tiến quân Trung Quốc, mau lẹ lúc đầu, lần hồi bị chận lại.
    Moscow cũng yêu cầu Tàu rút quân khỏi Việt Nam. Thủ tướng Alexey Kosygin và Tổng bí thư Leonid Brezhnev cực lực lên án Trung Quốc. Căn cứ vào Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Xô-Việt, Điện Kremlin đã tập trung 25 sư doàn gần biên giới giữa Siberi và Trung Quốc, đe dọa trừng phạt Bắc Kinh nếu họ không ngưng chiến dịnh chống Việt Nam. Sau đó, đến ngày 17 tháng 2, 1979, không còn đơn vị Trung Quốc nào ở Việt Nam.
    Số tổn thương của hai bên đều nặng. Phía Trung Quốc đã có đến 60,000 quân thương vong, mất 280 xe tăng, trong khi phía Việt Nam đã có đến 30,000 quân và dân thường thương vong.
    Việt Nam lẫn Trung Quốc đều tuyên bố thắng trận nhưng không bên nào hoàn thành mục tiêu chính yếu. Trung Quốc không tiêu diệt được một sư đoàn Việt Nam nào, không chấm dứt được xung đột tại biên giới, không ép được các đơn vị Việt Nam rút khỏi Campuchia. Đối với Việt Nam, hậu quả của cuộc chiến khá nặng nề. Trong vòng một năm, 1979-1980, ngân sách quốc phòng Việt Nam tăng rất mạnh, lục quân vượt từ 600,000 bộ binh lên một triệu vì lý do an ninh và cũng vì nhu cầu chiếm đóng Campuchia và Lào. Vào những năm 1979-1982, Ðại tướng Obaturov tiếp tục hướng dẫn chiến dịch lục quân Việt Nam ở Lào và Campuchia.
  5. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    đọc 1 số trận đánh thì không biết có phải quân phòng thủ VN thường phạm 1 sai lầm là chờ đối phương lại gần mới nổ súng hay không. Lý do là để tiết kiệm đạn và bắn chính xác, nhưng hay bị tràn ngập!
  6. dannhau

    dannhau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/06/2002
    Bài viết:
    30
    Đã được thích:
    0
    Tôi thì tin là ta chủ quan coi thường bọn Tầu nên mới phải không vận gấp rút như vậy vì thông tin tình báo của Liên Xô thời điểm có cho ta biết là nó sẽ đánh. Nhưng chắc là nhà ta đang tự hào quá về thắng Mỹ nên nghĩ thằng ranh con ghẻ nào dám đụng vào mình.
  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Chuyện chờ địch lại gần mới nổ súng có lẽ là truyền thống chung của VN từ thời chống Pháp-Mỹ, tiết kiệm đạn và nhất là không tạo khoảng cách đủ lớn để địch dùng phi pháo sát thương.
    Một bài khác :
    -------------------------------------------------------------------
    Trận Chiến Biên Giới Việt Trung năm 1979
    Ngày thứ Bảy 17 tháng 2 năm 1979, lúc 3 giờ 30 sáng, pháo binh quân đội Trung Hoa bắt đầu pháo kích ào ạt vào các vị trí quân sự các huyện Tiên Lĩnh, Hà Quảng thuộc tỉnh Cao Bằng, mở đầu cho cuộc tấn công quy mô trên một chiến tuyến dài hơn 1 ngàn cây số dọc theo biên giới Việt-Trung , từ Lai Châu đến Móng Cái.
    Ngay buổi sáng ngày 17 tháng Hai năm 1979, quân đội Trung Hoa đã tấn công 39 mục tiêu dọc theo biên giới hai nước, trong đó có 26 mục tiêu bị tấn công bằng cấp tiểu đoàn trở lên. Riêng Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai bị tấn công bằng cấp sư đoàn. Tổng số quân Trung Hoa vượt biên giới trong ngày đầu chiến dịch khoảng 80 ngàn. Con số này tăng dần cho tới ngày cuối của chiến dịch lên tới trên 150 ngàn. Đó là không kể hàng mấy trăm ngàn binh sĩ khác giữ nhiệm vụ yểm trợ hay trừ bị phía sau. Chỉ huy tổng quát mặt trân là Hứa Thế Hữu, ủy viên trung ương đảng, kiêm tư lệnh quân khu Quảng Châu (gồm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây). Hứa Thế Hữu đặt bộ tư lệnh tại Nam Ninh (Quảng Tây). Phụ tá cho Hứa Thế Hữu là Dương Đắc Chí, từng nổi danh khi phụ tá cho Bành Đức Hoài trong chiến tranh Triều Tiên. Trong những ngày đầu, Hứa Thế Hữu trực tiếp chỉ huy tấn công mặt trận Cao Bằng, Lạng Sơn, còn Dương Đắc Chí phụ trách tấn công Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang. 2 quân đoàn 13, 14 được giao trách nhiệm tấn công Lai Châu, Lào Cai. 2 quân đoàn 41, 42 tấn công Cao Bằng, còn những quân đoàn 43, 54, 55 tấn công mạn Lạng Sơn và Quảng Ninh.
    Bên phía Việt Nam, phòng thủ biên giới Việt Hoa là trách nhiệm của những quân khu I, II III. Tư lệnh quân khu I là Đàm Quang Trung, người Tày, cận vệ cũ của ông Hồ Chí Minh, được cử thay cho Chu Văn Tấn. Quân khu này gồm cả Cao Bằng lẫn Lạng Sơn nên chịu áp lực nặng nhất của quân Trung Hoa. Trong những ngày đầu, trách nhiệm phòng vệ Lạng Sơn được giao cho Nguyễn Văn Thương, tư lệnh sư đoàn 3. Tư lệnh quân khu II là Vũ Lập, phụ trách phòng thủ Lai Châu, Lao Cai và Hà Giang.Tư lệnh quân khu III là Nguyễn Quyết, trách nhiệm vùng châu thổ sông Hồng và có lẽ cả đặc khu Quảng Ninh do Sùng Lãm chỉ huy. Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam ở Hà Nội trực tiếp theo dõi, giám sát và điều hợp mặt trận.
    Trong những ngày đầu của trận chiến, dựa vào quân số đông đảo, Hứa Thế Hữu cho áp dụng chiến thuật biển người để tấn công. Tại Lai Châu, quân Trung Hoa đánh Gò Tô, Phong Thổ trên đường tiến về tỉnh lỵ. Tại hướng quan trọng Lào Cai, 2 sư đoàn tấn công vào thị xã và các xã lân cận, như Thanh Bình, Bản Cầu. Tại Hà Giang, họ tấn công Bản Kiệt, La Quỳnh.
    Hướng quan trọng thứ hai là Cao Bằng cũng bị 2 sư đoàn tấn công. Tại Quảng Ninh, 2 trung đoàn Trung Hoa tấn công Than Phún, Cao Ba Lanh. Riêng tại mục tiêu chủ yếu Lạng Sơn, quân Trung Hoa tấn công theo thế gọng kìm bằng hai hướng. Hướng thứ nhất là 2 sư đoàn 163, 164 vuợt Hữu Nghị Quan tấn công Đồng Đăng, cửa ngõ phía Bắc Lạng Sơn. Hướng thứ hai là 2 sư đoàn 127, 128 đánh từ phía Đông vào các tiền đồn ở Bản Xâm, Đồng Nội, Hải Yến.
    Tại khắp nơi, quân Trung Hoa gặp phải sự kháng cự mãnh liệt. Quân Việt Nam, nhờ vào vị trí cố thủ hiểm trở, công sự kiên cố, binh sĩ thiện chiến nhiều kinh nghiệm nên trong đợt tấn công đầu vẫn giữ vững được vị trí. Với sự yểm trợ hùng hậu và hữu hiệu của đủ loại pháo binh, từ đại bác đến hỏa tiễn, họ đã gây cho quân Trung Hoa tổn thất nặng nề về nhân mạng, nhất là ở các mặt trận Lạng Sơn, Cao Bằng.
    Chiến thuật biển người mà Hứa Thế Hữu áp dụng hiển nhiên đã trở nên lỗi thời trước tác dụng của những vũ khí hiện đại. Phía Lai Châu, Lào Cai, quân Trung Hoa bị tổn thất ít hơn vì Dương Đắc Chí không tấn công chính diện, mà dựa vào điạ thế rừng núi hiểm trở để chuyển quân khi tấn công. Vì số tổn thất quá cao, mấy ngày sau, tuy Hứa Thế Hữu còn giữ chức tư lệnh mặt trận, nhưng quyền chỉ huy các cuộc hành quân được giao cho Dương Đắc Chí. Sau đó, tuy chiến thuật biển người bị bãi bỏ, hỏa lực pháo binh và thiết giáp được sử dụng nhiều hơn, nhưng quân Trung Hoa vẫn dựa vào ưu thế quân số đông đảo để tấn công bất kể tổn thất. Các công sự phòng thủ của Việt Nam dù kiên cố đến đâu cũng dần dần bị phá sập, và quân Trung Hoa cuối cùng cũng chiếm được một số mục tiêu. Riêng tại Lạng Sơn, sư đoàn 163 của Trung Hoa chiếm được Đồng Đăng ngày 22-2-1979.
    Trong những ngày 24, 25, 26 trận chiến tương đối lắng dịu. Quân Trung Hoa bị tổn thất nặng và thiếu tiếp liệu nên không thể tiếp tục tấn công. Việt Nam vẫn giữ các sư đoàn chính quy của quân đoàn I đóng quanh Hà Nội, điều động các tiểu đoàn dân quân từ các huyện ngoại thành Hà Nội, như Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Lâm lên bổ sung quân số .
    Mờ sáng ngày 27-2-1979 , sau khi được bổ sung và tiếp liệu đầy đủ, quân Trung Hoa mở một đợt tấn công mới. Trong vòng 1 ngày, các thị xã ven biên Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang lần lượt bị thất thủ. Sau khi chiếm Lào Cai, quân Trung Hoa tiếp tục tiến về phía Nam dọc quốc lộ số 2 tiến đánh Cam Đường.
    Tại hướng tấn công chính Lạng Sơn, Trung Hoa tung vào trận đánh 6 sư đoàn, với hàng trăm xe thiết giáp và đại bác yểm trợ Phía Việt Nam, các đơn vị phòng thủ chính gồm các sư đoàn 3, 327, 338, 347 và sư đoàn 337 mới từ quân khu IV ra tăng cường, kết hợp lại thành quân đoàn 14 để thống nhất chỉ huy. Sư đoàn 308 của quân đoàn I cũng có thể đã được gửi lên tiếp ứng.
    Kể từ ngày 27 tháng 2, quân Trung Hoa liên tục tấn công hai mặt, và dù quân VN đã chống trả mãnh liệt, tuyến phòng thủ quanh Lạng Sơn thu hẹp dần. Bộ Tổng Tham mưu Việt Nam điều động quân đoàn 2 chính quy gồm hai sư đoàn 325 và 304 đang hành quân tại phía nam Campuchia di chuyển bằng xe lửa và máy bay vận tải Antonov của Liên Xô khẩn cấp về lập tuyến phòng thủ sau quân đoàn 14 để bảo vệ châu thổ sông Hồng. Nhưng việc tiếp ứng Lạng Sơn không còn kịp nữa. Thị xã bị pháo kích suốt mấy ngày đêm, cuối cùng quân Trung Hoa xâm nhập được thị xã, và quân đội hai bên phải chiến đấu ác liệt trên đường phố. Tới khuya đêm 4 tháng 3, quân Trung Hoa hoàn toàn làm chủ thị xã Lạng Sơn. Ngày hôm sau, Trung Hoa tuyên bố đã đạt được mục đích dạy cho Việt Nam một bài học, đơn phương ngưng bắn, và hứa sẽ rút quân.
    Tuy nhiên, vì còn bận dùng công binh phá sập hết những công sự, đồn bót, cầu đường, nhà cửa, trường học, chợ buá, nhà máy, bệnh viện ... ở các thị xã chiếm đóng, nên cuộc lui quân của Trung Hoa kéo dài đến ngày 16-3-1979 mới hoàn tất. Với bao đau thương đổ nát, với hàng mấy chục ngàn binh sĩ thương vong, cả hai bên đều tuyên bố thắng trận.
    (Theo Hoàng Dung )
    --------------------------------------
    Có vài vấn đề cần kiểm tra lại :
    1. Có chuyện diễn ra chiến đấu trên đường phố bên trong thị xã Lạng Sơn không ?
    Cuốn "Sư đoàn Sao Vàng" nói rằng phòng thủ ở thị xã Lạng Sơn và thị trấn Kỳ Lừa là sư đoàn bộ binh 327 (hoặc một bộ phận của sư đoàn), nhưng không ghi nhận có chiến đấu đường phố ở thị xã như một số nguồn phương Tây. Bài viết của Xu Meihong (trang 6) thì nói rằng trong thị xã không có quân phòng thủ.
    2. Quân TQ có chiếm được thị xã Lai Châu và Hà Giang không ?
    Đây là những hướng phụ, địa hình khó khăn với không nhiều quân được huy động, trong khi thị xã Lai Châu cách biên giới tới >40km, Hà Giang >20km.
    3. Vì sao thị xã Cao Bằng ở sâu nhất (gần 50km) lại bị chiếm sớm nhất (nếu không kể Lào Cai nằm sát biên giới) ngày 28-2 trong khi Lạng Sơn cách biên giới có 17km lại giữ được đến 4-3 ?
    Theo tư liệu về trận phục kích ở Bản Sẩy, Cao Bằng (trang 14) thì sáng 18-2 bộ binh và xe tăng địch đã vào cách thị xã có 20km.
  8. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Nếu VN chủ quan đến mức ấy thì đã không điều một số sư đoàn từng qua chống Mỹ lên phía bắc, thành lập nhiều đơn vị mới và xây dựng hệ thống phòng thủ đâu bác ạ. Em có thể khẳng định điều này. Trong tập ký sự "Trên biên giới phía bắc" xuất bản tháng 1-1979 đã đề cập đến việc TQ điều quân lớn áp sát biên giới và phỏng đoán là đối phương sẽ tấn công.
    Còn trong chiến tranh giữa 2 quốc gia chung đường biên giới thì bên bị tấn công lúc nào chẳng bị động trong thời điểm ban đầu.
  9. tandeday

    tandeday Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2005
    Bài viết:
    9
    Đã được thích:
    0
    Việt Nam biết thừa Tàu sẽ đánh Việt Nam từ lúc chuổn bị đánh Campuchia. Lúc Việt Nam chuổn bị đánh Campuchia, Pol Pốt lúc đó cầu cứu tên lùn Đặng để Tàu đổ quân vào Campuchia chống đỡ quân Việt nhưng chú lùn lúc đó đang phải lo củng cố cái ghế ở nhà và chắc cũng biết thừa quân Tàu sẽ bị nghiền nát ở Campuchia nên không giám làm mà chỉ hứa là nếu VN đánh Campuchia thì Tàu sẽ dạy Việt Nam một bài học chỉ ở biên giới phía bắc. Việc VN không thèm rút quân ở Campuchia về biên giới phía bắc là muốn chứng tỏ cho Tàu biết rằng VN đếch sợ Tàu và cũng muốn dùng các lực lượng du kích địa phương để tiêu hao lực lượng quân Tàu. Nếu Tàu trở mặt đánh xuống đồng bằng sông Hồng thì quân chính quy VN lúc đó sẽ đợi và đánh ở đây. VN chỉ bắt đầu rút quân về khi có một ông tướng Liên Xô mà tôi quên tên sang thăm biên giới phía bắc lúc đánh nhau và mém bị toi mạng ở đó. Sau chuyến viếng thăm này, ông tướng LX này bắt đầu thuyết phục các tướng lĩnh VN nên rút một số quân ở Campuchia về củng cố phòng tuyến sông Hồng. Lúc đó VN mới bắt đầu một số quân về bằng máy bay vận tải của LX. Nhưng lúc đó chú lùn Đặng cũng đã thấm đòn nên rút quân về. Cũng phải kể là lúc đó LX đã cử một số tàu chiến đến đậu ở vịnh Bắc bộ. Có lẽ chú Đặng cũng sợ mấy chiếc tàu LX nên rút quân sớm. Chú lùn Đặng chỉ tính đúng một nước trong cuộc chiến tranh xâm lược VN là LX sẽ không giám động đậy đánh Tàu giúp VN nếu Tàu chỉ đánh VN ở sáu tỉnh biên giới phía bắc. Nhưng trước khi đem quân đánh VN, Tàu cũng đã lo xa di chuyển hết số dân ở các tỉnh giáp với biên giới LX để đề phòng LX đem quân đánh.
  10. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Xung đột biên giới giai đoạn 1981 (www.china-defense.com).
    Từ tháng 1-1980, lực lượng VN thuộc trung đoàn bộ binh 52 (sư đoàn bộ binh 337) chiếm lĩnh trận địa trên điểm cao Far Ca Shan cao 500m, mở các cuộc đột kích vào lãnh thổ TQ. Ngày 5-5-1981 , sư đoàn bộ binh 3 quân địa phương Quảng Tây của TQ tiến công đánh chiếm điểm cao này.
    Tình hình sau đó tương tự như ở Vị Xuyên, phía VN tập trung một số đơn vị thuộc trung đoàn bộ binh 2 (sư đoàn bộ binh 337), trung đoàn đặc công 198, lữ đoàn công binh 514 cùng với vũ khí nặng như pháo, cối 160mm, tên lửa và xe tăng phản kích. Nhiều lần diễn ra đánh giáp lá cà, giành giật quyết liệt từng phần của điểm cao nhưng các đợt phản kích này đều không thành công. Xung đột kéo dài từ 5-5-1981 đến 31-6-1981. Số tổn thất của TQ là 78 chết, 106 bị thương. Số tổn thất của VN là 705 chết, 513 bị thương, 135 pháo cối (!!!), 2 xe tăng và 14 xe vận tải.
    Thông tin của VN về những trận đánh ở đây không có hoặc gần như không có. Chẳng hạn chỉ có 1 dòng cụt lủn như "Ngày 16-5-1981 quân dân VN trừng trị bọn bành trướng Bắc Kinh ở bình độ 400 xã Thanh Loà, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn" (bình độ 400 bị chiếm đóng từ năm 1981). Trận này theo phía TQ cũng khá ác liệt. Bộ đội VN xung phong vào được và đã diễn ra đánh giáp lá cà bên trong cứ điểm. Tổn thất của VN là 110 người, thương vong của TQ có thể vào khoảng 1 trung đội.
    Theo em thì chuyện bộ đội ta tổn thất nhiều là có thật. Theo phía ta thì phòng ngự Lạng Sơn giai đoạn này là sư đoàn bộ binh 3 Sao Vàng, một đơn vị khá sừng sỏ, nhưng sư đoàn cũng không thành công trong việc tái chiếm bình độ 400.
    Tuy nhiên số liệu TQ không tin được, ngay trong các nguồn TQ cũng sai lệch nhau, ví dụ như trận ngày 10-5-1981 có nơi bảo VN mất 14 người, có nơi bảo VN mất hơn 80 người.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này