1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 và 1984

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 11/02/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Cầm nhắm mắt lại. Anh cắn chặt răng! Làm sao mà cầm lòng, mà chịu được khi nhìn thấy kẻ thù hành hạ đồng đội của mình. Cầm ước ao có một khẩu súng hay một quả lựu đạn anh sẽ lăn xả vào kẻ thù. Anh sẽ hy sinh để cứu Rạng. Anh cứ nghĩ vì anh mà Rạng làm cảnh này.
    Bên ngoài, giữa vòng vây của giặc, giọng Rạng vẫn sang sảng: ?oQuân giặc cướp nước. Quân da mãn??.
    Tên chỉ huy giặc, rồi tên giặc mặc áo dạ đen xô tới. Chúng rút dao đâm vào mắt Rạng. Rạng loạng choạng, anh ngã khuỵ xuống, máu ở mắt anh vọt ra. Năm, sáu ánh đèn pin của giặc rọi vào anh. Ánh đèn pha dọi vào anh. Rạng đau đớn. Nhưng tiếng anh vẫn vang vọng: ?oĐả? đảo bọn giặc Bắc Kinh??. Lũ giặc hò hét. Chúng nói lên những tiếng gì như tiếng của loài thú dữ. Chúng dùng lưỡi lê đâm, dùng dao chém vào người Rạng. Chúng chặt nát thi thể Rạng?
    Gần sáng, trời biên giới bắt đầu đổ mưa phùn. Đêm ấy đất Lao Cai rất lạnh. Những đám cháy ở các nhà, các phố, các ngõ xóm đã tàn dần. Các đỉnh núi cao xung quanh mây sương phủ dày như bọc chóp trắng. Biêt đã bị lộ vị trí trú quân, sợ ta tập kích nên khi giết Rạng xong, bọn giặc vội vã bỏ trường Vạn Hoà. Chúng mang cả xác lính chết và bọn bị thương chuồn xuống mạn dưới.
    Cầm bò ra mé cửa cống nghe ngóng. Cầm không còn cảm thất rét, không còn cảm thất mưa gió gì nữa. Người anh nóng bừng lên. Xung quanh anh đất trời, núi non đều như nóng bừng lên. Trước mắt anh những vòng tròn đỏ, vàng, xanh, tím cứ quay cuồng, quay cuồng bay tua tủa, rồi cơ man nào là đom đóm toả quanh anh. Trên đầu anh và ngay dưới đất, mảnh đất nơi anh đang nằm đây lửa cháy rừng rực. Bốn phía đều sáng bừng lên, sáng đến loá mắt, rồi đột ngột đen xỉn lại. Và bão, và gió, và cơn lốc nữa từ đâu tràn về dâng lên cuốn bay tất cả. Rồi tất cả núi non đều như rung rinh, sụt lở. Nơi anh nằm đây cũng sụt lở, cũng rung rinh. Anh cảm thấy mình như đang rơi lơ lửng giữa không trung. Cầm khóc: ?oRạng ơi, có phải vì Cầm, có phải vì Rạng quá thương Cầm, có phải vì Rạng không nghe lời Cầm mà Rạng bị giặc giết đau đớn như thế không??.
    Cầm kéo chiếc khăn len đang trùm đầu xuống, anh buộc chặt vết thương. Anh bò ra vệ đường sắt. Tay Cầm nắm chặt chuôi dao găm. Cầm thầm nghĩ, nếu gặp giặc anh sẽ sống mái với nó và quyết không để nó bắt sống.
    Cầm bò dần về phía trường Vạn Hoà, nơi bọn giặc đã giết Rạng. Bỗng anh nhìn thấy ba bóng đen từ đồi lau bò xuống. Những bóng đen tiến sát bên bụi lau anh nằm, nhưng không nhìn thấy anh. Ba bóng đen chậm rãi, thận trọng di động trong màn sương rồi cũng bò về phí trường Vạn Hoà như anh. Cầm nhích người lên gần hơn tý nũa để quan sát. Và. Anh đã nghe được tiếng nói rất nhỏ, chỉ như thì thào. Anh đã nhận ra tiếng của một cô gái với người bên cạnh: ?oAnh bộ đội có vóc người to hơn mà tao đưa quả lựu đạn tên là Rạng. Anh thâm thấp là anh Cầm?.
    Cầm đã nhận ra đó là các cô tự vệ từ trận địa rút về. Nhưng sao các cô lại còn nằm trong bụi lau này? Tiếng thì thào lại cất lên từ phía các cô tự vệ: ?oThế thì còn một anh nữa ở đâu, hay cũng?. ấy? rồi?. Tiếng cô gái hỏi lại cắt ngang dòng suy nghĩ của Cầm. Cầm bò nhích lên. Anh gọi nho nhỏ:
    -Các đồng chí tự vệ ơi, có cô nào tên là Lan không? Tôi đây, Cầm đây. Anh Rạng bị chúng giết rồi.
    -Em đây, Lan đây. Anh Cầm ơi!
    -Tôi tưởng các cô đã về tuyến sau!
    -Chúng em gặp địch phục kích. Chiến đấu hết đạn nên chúng em phải ẩn trong đồi lau này. Sao các anh xuống đây?
    -Tôi bị thương. Anh Rạng cõng tôi xuống và gặp địch ở đây.
    Ba cô tự vệ bò đến bên Cầm. Lan vội cởi chiếc áo ấm mặc ngoài khác lên người Cầm. Cô nói với Cầm:
    -Thương anh Rạng quá. Chúng em định bò đến tìm các anh đây.
    Cả bốn người cùng bò về phía trường Vạn Hoà nơi giặc giết Rạng. Chúng hất Rạng xuống vệ đường. Lan ôm anh lên. Hai cô tự vệ cùng Lan đưa anh vào một góc vườn. Cầm cúi xuống nhìn. Anh không còn nhận ra Rạng nữa. Lũ giặc đã đâm, đã chém Rạng, tay chân anh gần như sắp rời ra? Cầm và ba chiến sĩ tự vệ không tìm được cái gì để đào huyệt. Họ đặt anh nằm ngay ngắn trong một đoạn hào. Cầm vuốt mặt cho anh. Họ vừa khóc vừa dùng đôi bàn tay bới đất đắp nấm mộ cho anh. Cầm, Lan xếp một hàng đá quanh mộ anh làm dấu. Xong, Cầm nhìn ra xung quanh để nhận hướng rồi anh bò đến chỗ Rạng đã chiến đấu.
    -Anh Cầm tìm gì? Lan hỏi.
    -Tôi muốn tìm khẩu súng B.40 của anh Rạng đã bắn.
    -Em đi với anh.
    Cầm và cô tự vệ đã nhặt được khẩu súng B.40 bên vệ đường chỗ Rạng bắn phát đạn cuối cùng. Rạng đã đập nát máy ngắm của súng. Cầm nói với Lan rằng: ?oNó đã lập công với anh Rạng. Sau này mỗi khi nhìn thấy nó, chúng ta nhớ tới anh Rạng. Cô đưa nó đến giấu trong lòng cống chỗ bụi lau kia kìa, hộ tôi với? (Khẩu súng B.40 này hiện nay để ở Bảo tàng của Bộ đội biên phòng).
    Lan và các chiến sĩ tự vệ đã cóng Cầm xuyên rừng về trạm cứu thương của mặt trận.
    Giặc Bắc Kinh thua, rút chạy. Đất núi Hoàng Liên vào độ cuối tháng ba. Hoa lê, hao mận vẫn còn nở trắng cành. Cánh hoa lê, cánh hoa mận trắng trong một mầu tinh khiết. Mầu trắng đó như kết vành trắng nhỡ thương những chiến sĩ đã quả cảm ngã xuống giữ miền đất núi. Bà con thị xã Lao Cai và đồng đội của Rạng dã đến đắp to nấm mồ cho anh. Nấm mồ anh kề bên trường học của các em nhỏ xóm Vạn Hoà. Các chiến sĩ tự vệ nhà máy đến. Cô Lan đến. Những người đã cùng với anh chiến đấu chung một chiến hào đến đứng vây quanh anh. Cô Lan đứng lặng trước tấm bia liệt sĩ có ngôi sao vàng rực rỡ trong vành hoa đỏ cắm trên mộ anh. Lòng nhớ thương anh dâng lên. Cô khóc.
    Cô xúc thêm xẻng đất đắp cao thêm phần mộ cho anh mà cứ tưởng như chất thêm sự nhớ thương anh trong lòng mình.
    Ngày hội mừng chiến thắng, đội văn nghệ từng lên trận địa thăm anh, hát cho các anh nghe đã đến đây với anh. Giờ đây các cô đã trồng bên phần mộ anh cây đào. Các cô chămchút cho cây đào tuơi tốt để mỗi mùa xuân đến, mùa chiến thắng đến, hoa đào đất núi Hoàng Liên nở đỏ là nhớ tới anh, mãi dâng lên anh những mùa hoa trọn vẹn. Cô Hoa đứng lặng người, hai dòng nước mắt lăn trên gò má. ?oAnh Rạng ơi, bài hát chúng em tặng anh, anh chưa được nghe trong ngày tết ấy? Nhưng lời bài hát đó, mãi mãi quấn quít với cây đào những mùa hoa nở, lời hát ấy nó mãi mãi quấn quít bên tấm bia có ngôi sao vành đỏ mang tên anh?.
    Hàng ngày các bà mẹ ở Vạn Hoà, ở phố Lao Cai đi qua đây lên thăm anh. Mẹ Thèn lên thăm anh. Bà mẹ người Tày cắm nắm hương lên phần mộ đứa con người Mường mẹ từng yêu quí. Trong hương thơm có mùi quế cay nồng, có mùi trầm hương ngọt ngào, ấm đượm? Gốc những cây hương nhuộm màu sơn thắm đỏ, chặt bền. Ngày nào mẹ từng kể cho anh nghe về những cây gỗ quí ấy trên đất núi Hoàng Liên. Mẹ từng mong người con của mẹ mãi mãi được như những cây gỗ quí đó để lại tiếng thơm cho mai sau. Giờ đây mẹ đau đớn lắm, đau đớn vì đứa con của mẹ không còn. Nhưng mẹ thoả lòng vì Rạng của mẹ đã được như cây gió bầu để lại khối gỗ trầm hương thơm mái mãi; như cây quế tốt biết dùng lớp vỏ làm thuốc quí cho người? Đứa con mẹ xứng đáng lắm. Rạng vẫn sống mãi, lành thơm mãi, đẹp bền mãi, như hương thơm của cây gỗ quí: Cây quế, cầy trầm?
    Các cháu nhỏ đi học qua đây; và bạn bè thân yêu của anh đi qua đây để liên chiến hào trên điểm tựa nơi anh đã từng chiến đấu, đều ghé vào thăm anh, cắm lên phần mộ của anh những bông hoa rực rỡ dâng hương thơm trong gió núi Hoàng Liên. Hương hoa thơm ngát đó như quyện với tiếng giảng bài ngọt ngào của cô giáo trong trường học Vạn Hoà: ?oChúng ta tự hào rằng, chúng ta xứng đáng với truyền thống của ông cha mình, ông cha từng quát vào mặt lũ giặc cướp nước: ?oThà làm ma nước Nam, không thàm làm vương đất Bắc?. Ngày nay thời đại Hồ Chí Minh, chúng ta có những anh bộ đội biên phòng đã ?odũng cảm trước giặc, vì nước quên thân?? như lời Bác Hồ dạy??.
    Khi xuất viện trở về với đội ngũ, Lê Hồng Cầm đã đến ngay với Quách Văn Rạng. Vết thương ở chân anh đã được đồng đội cứu chữa lành lặn, nhưng sự đau thương và căm giận trong lòng anh thì mãi mãi vẫn còn chảy máu. Cầm đứng lặng trước phần mộ của Rạng. Cầm kêu lên: Rạng ơi. Tôi sẽ tìm về đến quê Rạng, đến tận bản Mường của Rạng ở Thạch Thành, Thanh Hoá xa xôi nhưng rất gần gũi đó. Tôi sẽ tìm gặp người con gái Mường, người đã cột sợ chỉ hẹn ước yêu thương vào cổ tay anh; người đã nói với anh những lời ân tình, chung thuỷ; người đã ví mình như: ?otấm vải lanh chỉ chờ nước chàm xanh mới thấm?. Tôi sẽ nói với người con gái Mường ấy rằng: bọn giặc Bắc Kinh cướp nước đã cướp mất Rạng, người thân yêu nhất của cô, đã cướp mất người đồng chí thân thiết của của chúng tôi, của các chiến sĩ biên phòng. Chúng ta đừng bao giờ quên mối thù này. Chúng ta bắt bọn giặc cướp nước phải trả gấp năm, gấp mười món nợ đó. Còn anh, anh Quách Văn Rạng thân yêu, anh vẫn sống mãi và đẹp như mùa hoa đào đất núi Lao Cai, vẫn mãi mãi là ngôi sao sáng trên điểm tựa giữa đỉnh núi Hoàng Liên này.
    Bỗng có tiếng chim hót xa xa, từ phí đồi quế vẳng đến. Tiếng hcim ngập ngừng rồi lảnh lót kéo dài rung lên hoà vào âm vang của gió núi. Cầm đưa mắt nhìn về phía đó: ?oÔi tiếng hót của con chim chào mào? nghe quen quá, nhớ quá đi thôi?.?
  2. giangnam_hynb

    giangnam_hynb Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/07/2004
    Bài viết:
    381
    Đã được thích:
    0
    Xin nghiêng mình trước những người con của đất Việt đã hy sinh để bảo vệ từng tấc đất của tổ quốc.
    Gửi chiangshan: Rất cần thiết , tiếp tục nhé bạn
  3. giangnam_hynb

    giangnam_hynb Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/07/2004
    Bài viết:
    381
    Đã được thích:
    0
    Xin nghiêng mình trước những người con của đất Việt đã hy sinh để bảo vệ từng tấc đất của tổ quốc.
    Gửi chiangshan: Rất cần thiết , tiếp tục nhé bạn
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12

    MẶT TRẬN LẠNG SƠN 1979
    (Trích kí sự lịch sử Sư đoàn Sao Vàng)
    Về tình hình sư đoàn 3 Sao Vàng và tỉnh Lạng Sơn trước ngày 17-2-1979 (Tóm tắt).
    Tháng 6-1976, trước những âm mưu của giới cầm quyền Bắc Kinh, Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN điều sư đoàn 3 Sao Vàng của Quân khu 5 ra phía bắc, làm nhiệm vụ thường trực cơ động của Quân khu 3 và của Bộ.
    Ngày 13-7-1976, chuyến xe đầu tiên của sư đoàn 3 lên đường. Đầu tháng 8-1976, cuộc hành quân cơ giới dài 1.400km của sư đoàn đã kết thúc. Các cơ quan và nhân dân 2 huyện Lục Nam, Lục Ngạn (Hà Bắc) tích cực giúp đỡ sư đoàn ổn định nơi đóng quân.
    Từ tháng 8-1976, sư đoàn 3 vừa làm nhiệm vụ thường trực cơ động, sẵn sàng chiến đấu vừa làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, huấn luyện chiến sĩ mới cho Quân khu 3.
    Thời gian này sư đoàn còn đang thực hiện chính sách phục viên, xuất ngũ cho bộ đội. Nhận tháy những khó khăn, phức tạp khi bước vào chiến đấu ngay do thiếu cán bộ cơ sở, chuyên môn kĩ thuật do ra quân hàng loạt, sư đoàn đã chủ trương động viên những cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm, trình độ ở lại giúp đào tạo các cán bộ, pháo thủ, y tá, thông tin, huấn luyện chiến sĩ mới. 2 tiểu đoàn huấn luyện chiến sĩ mới và đào tạo hạ sĩ quan được tổ chức, các lớp đào tạo y tá, báo vụ, pháo thủ liên tục mở. Nhờ đó trong thời gian ngắn sư đoàn đã có hàng ngàn chiến sĩ nòng cốt đủ khả năng chiến đấu. Đây là 1 chủ trương sau này được đánh giá là nhạy bén và kiên quyết.
    Mọi công việc vừa hoàn thành thì trung tuần tháng 7-1978, sư đoàn 3 được lệnh về QK1 phòng thủ ở đông nam Cao Lạng.
    Lạng Sơn cũng như các tỉnh biên giới khác, có địa hình chủ yếu là đồi núi kế tiếp, xen kẽ nhau. Tỉnh có 10 huyện thì 5 huyện nằm dọc biên giới với chiều dài 253km (từ cột mốc 1 đến mốc 61), bắc giáp Quảng Tây (TQ), đông giáp Quảng Ninh, tây giáp cao Bằng, nam giáp Hà Bắc với các con đường chiến lược 1A, 1B, 4A, 4B. Tuyến đường sắt chạy song song với đường 1A từ Hà Nội đến mốc số 0 ở Hữu Nghị Quan.
    Lạng Sơn là tỉnh biên giới gần Hà Nội nhất (150km), có đường sắt, đường bộ, thuận tiện cho di chuyển lực lượng. Vì vạy khi chiến tranh nổ ra nhất định đây sẽ là hướng tiến công chủ yếu của TQ.
    Trung tuần tháng 7-1978, toàn sư đoàn 3 cùng trung đoàn pháo 166, trung đoàn cao xạ 272 của quân khu và nhiều đơn vị trực thuộc khác của Bộ đã có mặt ở Lạng Sơn.
    Ngày 9 và 10-8-1978, Đảng ủy sư đoàn họp, thông qua phương án phòng ngự của sư đoàn.
    Những ngày sau đó, một đợt mở đường, xây dựng trận địa diễn ra sôi nổi và khẩn trương. Bộ đội và nhân dân Lạng Sơn tất cả đều đổ ra mặt đường, trên các điểm cao. Bộ tư lệnh sư đoàn vừa đôn đốc xây dựng trận địa, vừa cho các đơn vị ôn luyện, học tập. Sau 5 tháng, hơn 113.500 mét khối đất đã được đào đắp, gần 20.000 công sự được xây dựng, hàng trăm bãi mìn hỗn hợp, bãi vật cản được bố trí và ngụy trang dọc biên giới.
    Đầu tháng 10-1978, Bộ Chỉ huy ặmt trận thống nhất nam Cao-Lạng được thành lập do đ/c Nguyễn Duy Thương, tư lệnh sư đoàn 3 làm chỉ huy trưởng, đ/c Hoàng Trường Minh, uỷ viên TW Đảng, bí thư tỉnh ủy Cao Lạng làm chính uỷ. Thành phần BCH còn có các đ/c đại diện UBND tỉnh, BCHQS tỉnh, ty công an và thị đội Lạng Sơn. Song song, ban chỉ huy thống nhất các huyện cũng được thành lập gồm huyện ủy, huyện đội và cán bộ chỉ huy trung đoàn. Theo chỉ thị trên, BCH mặt trận thống nhất nam Cao Lạng rút một số cán bộ sư đoàn 3 về tăng cường cho các trung đoàn của tỉnh, tiểu đoàn của huyện đồng thời đảm nhiệm bồi dưỡng, huấn luyện kxi chiến thuật cho địa phương. Các tiểu đoàn bộ đội địa phương của thị xã Lạng Sơn và các huyện Văn Lãng, Cao Lộc bố trí trong đội hình các trung đoàn chủ lực do trung đoàn chỉ huy.
    Đến cuối tháng 1-1979, trận địa phòng gnự thê đội 1 của sư đoàn căn bản được xây dựng xong với chiều dài 60km. Trận địa thê đội 2 cũng đang đưọc triển khai. Khu phòng gnự của sư đoàn tuy chưa hoàn chỉnh nhưng đã được chuẩn bị súng đạn, công sự, lương thực, nước uống khá chu đáo.
    Ở biên kia biên giới, quân TQ cũng làm tương tự.
    Đầu tháng 7-1978 xảy ra vụ nạn kiều, hàng vạn gia đình người Việt gốc Hoa kéo qua Hữu Nghị QUan. Ngày 12-7, phía TQ đột ngột đóng cửa khẩu khiến số người này phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Ngày 25-8, giữa lúc các nhân viên y tế và một số phụ nữ Vn đang chăm sóc những người Hoa đau yếu thì TQ cho côn đồ từ bên kia biên giới tràn sang dùng dao quắm, gậy gộc hành hung. Các chiến sĩ đồn 193 bộ đội biên phòng ở Hữu Nghị Quan đã kiên quyết đánh trả bọn địch, và Lê Đình Chinh, người chiến sĩ ưu tú đã anh dũng hy sinh trong lúc trừng trị những hành động côn đồ của giặc.
    Ngay sau đó, một phong trào thi đua, học tập gương anh dũng của Lê Đình Chinh đã dấy lên khắp các đơn vị. Chiến sĩ trinh sát mới nhập ngũ Nguyễn Văn Tân của trung đoàn 12 trong một lần đi tuần tra bị một toán lính Trung Quốc nhảy ra bắt cóc. 1 tên lao tới ôm chặt lấy tân, rất nhanh, anh lộn người né tránh, rút dao cắm vào giữa lưng hắn. Đó là tên lính TQ đầu tiên bị chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng tiêu diệt.
    Cuối năm 1978, thượng tướng Chu Huy Mân, chủ nhiệm tổng cục Chính trị; đại tưóng Văn tiến Dũng, bộ trưởng Quốc phòng; trung tướng Lê Trọng Tấn, Tổng Tham mưu trưởng; trung tướng Hoàng Minh Thảo, giám đốc Học viện Quân sự lần lượt lên thăm và kiểm tra tình hình sư đoàn.
    Sau sự kiện Hữu Nghị Quan 25-8-1978, tỉnh ủy và UBND Lạng Sơn cho các xưởng cơ khí toàn tỉnh ngừng sản xuất hàng, tập trung làm chông sắt, cọc sắt xây dựng trận địa phòng ngự. Dân quân sát cánh cùng bộ đội và biên phòng tuần tra, sẵn sàng trừng trị bọn thám báo đột nhập vũ trang, khiêu khích.
    Mùa xuân 1979, sư đoàn 3 nhận được lẵng hoa do Chủ tịch Tôn Đức thắng gửi tặng. trong buổi lễ đón nhận, chính uỷ sư đoàn Nguyễn Khắc hào bày tỏ sự cảm ơn và hứa : "Nếu kẻ thù liều lĩnh xâm phạm biên giới Tổ quốc, sư đoàn kiên quyết đánh thắng chúng ngay từ trận đầu, thắng liên tục, thắng giòn giã để bảo vệ biên giới Tổ quốc...".
    Hơn một tháng sau đó, ngày 17-2-1979, chiến tranh biên giới chính thức bùng nổ.
  5. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12

    MẶT TRẬN LẠNG SƠN 1979
    (Trích kí sự lịch sử Sư đoàn Sao Vàng)
    Về tình hình sư đoàn 3 Sao Vàng và tỉnh Lạng Sơn trước ngày 17-2-1979 (Tóm tắt).
    Tháng 6-1976, trước những âm mưu của giới cầm quyền Bắc Kinh, Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN điều sư đoàn 3 Sao Vàng của Quân khu 5 ra phía bắc, làm nhiệm vụ thường trực cơ động của Quân khu 3 và của Bộ.
    Ngày 13-7-1976, chuyến xe đầu tiên của sư đoàn 3 lên đường. Đầu tháng 8-1976, cuộc hành quân cơ giới dài 1.400km của sư đoàn đã kết thúc. Các cơ quan và nhân dân 2 huyện Lục Nam, Lục Ngạn (Hà Bắc) tích cực giúp đỡ sư đoàn ổn định nơi đóng quân.
    Từ tháng 8-1976, sư đoàn 3 vừa làm nhiệm vụ thường trực cơ động, sẵn sàng chiến đấu vừa làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, huấn luyện chiến sĩ mới cho Quân khu 3.
    Thời gian này sư đoàn còn đang thực hiện chính sách phục viên, xuất ngũ cho bộ đội. Nhận tháy những khó khăn, phức tạp khi bước vào chiến đấu ngay do thiếu cán bộ cơ sở, chuyên môn kĩ thuật do ra quân hàng loạt, sư đoàn đã chủ trương động viên những cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm, trình độ ở lại giúp đào tạo các cán bộ, pháo thủ, y tá, thông tin, huấn luyện chiến sĩ mới. 2 tiểu đoàn huấn luyện chiến sĩ mới và đào tạo hạ sĩ quan được tổ chức, các lớp đào tạo y tá, báo vụ, pháo thủ liên tục mở. Nhờ đó trong thời gian ngắn sư đoàn đã có hàng ngàn chiến sĩ nòng cốt đủ khả năng chiến đấu. Đây là 1 chủ trương sau này được đánh giá là nhạy bén và kiên quyết.
    Mọi công việc vừa hoàn thành thì trung tuần tháng 7-1978, sư đoàn 3 được lệnh về QK1 phòng thủ ở đông nam Cao Lạng.
    Lạng Sơn cũng như các tỉnh biên giới khác, có địa hình chủ yếu là đồi núi kế tiếp, xen kẽ nhau. Tỉnh có 10 huyện thì 5 huyện nằm dọc biên giới với chiều dài 253km (từ cột mốc 1 đến mốc 61), bắc giáp Quảng Tây (TQ), đông giáp Quảng Ninh, tây giáp cao Bằng, nam giáp Hà Bắc với các con đường chiến lược 1A, 1B, 4A, 4B. Tuyến đường sắt chạy song song với đường 1A từ Hà Nội đến mốc số 0 ở Hữu Nghị Quan.
    Lạng Sơn là tỉnh biên giới gần Hà Nội nhất (150km), có đường sắt, đường bộ, thuận tiện cho di chuyển lực lượng. Vì vạy khi chiến tranh nổ ra nhất định đây sẽ là hướng tiến công chủ yếu của TQ.
    Trung tuần tháng 7-1978, toàn sư đoàn 3 cùng trung đoàn pháo 166, trung đoàn cao xạ 272 của quân khu và nhiều đơn vị trực thuộc khác của Bộ đã có mặt ở Lạng Sơn.
    Ngày 9 và 10-8-1978, Đảng ủy sư đoàn họp, thông qua phương án phòng ngự của sư đoàn.
    Những ngày sau đó, một đợt mở đường, xây dựng trận địa diễn ra sôi nổi và khẩn trương. Bộ đội và nhân dân Lạng Sơn tất cả đều đổ ra mặt đường, trên các điểm cao. Bộ tư lệnh sư đoàn vừa đôn đốc xây dựng trận địa, vừa cho các đơn vị ôn luyện, học tập. Sau 5 tháng, hơn 113.500 mét khối đất đã được đào đắp, gần 20.000 công sự được xây dựng, hàng trăm bãi mìn hỗn hợp, bãi vật cản được bố trí và ngụy trang dọc biên giới.
    Đầu tháng 10-1978, Bộ Chỉ huy ặmt trận thống nhất nam Cao-Lạng được thành lập do đ/c Nguyễn Duy Thương, tư lệnh sư đoàn 3 làm chỉ huy trưởng, đ/c Hoàng Trường Minh, uỷ viên TW Đảng, bí thư tỉnh ủy Cao Lạng làm chính uỷ. Thành phần BCH còn có các đ/c đại diện UBND tỉnh, BCHQS tỉnh, ty công an và thị đội Lạng Sơn. Song song, ban chỉ huy thống nhất các huyện cũng được thành lập gồm huyện ủy, huyện đội và cán bộ chỉ huy trung đoàn. Theo chỉ thị trên, BCH mặt trận thống nhất nam Cao Lạng rút một số cán bộ sư đoàn 3 về tăng cường cho các trung đoàn của tỉnh, tiểu đoàn của huyện đồng thời đảm nhiệm bồi dưỡng, huấn luyện kxi chiến thuật cho địa phương. Các tiểu đoàn bộ đội địa phương của thị xã Lạng Sơn và các huyện Văn Lãng, Cao Lộc bố trí trong đội hình các trung đoàn chủ lực do trung đoàn chỉ huy.
    Đến cuối tháng 1-1979, trận địa phòng gnự thê đội 1 của sư đoàn căn bản được xây dựng xong với chiều dài 60km. Trận địa thê đội 2 cũng đang đưọc triển khai. Khu phòng gnự của sư đoàn tuy chưa hoàn chỉnh nhưng đã được chuẩn bị súng đạn, công sự, lương thực, nước uống khá chu đáo.
    Ở biên kia biên giới, quân TQ cũng làm tương tự.
    Đầu tháng 7-1978 xảy ra vụ nạn kiều, hàng vạn gia đình người Việt gốc Hoa kéo qua Hữu Nghị QUan. Ngày 12-7, phía TQ đột ngột đóng cửa khẩu khiến số người này phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Ngày 25-8, giữa lúc các nhân viên y tế và một số phụ nữ Vn đang chăm sóc những người Hoa đau yếu thì TQ cho côn đồ từ bên kia biên giới tràn sang dùng dao quắm, gậy gộc hành hung. Các chiến sĩ đồn 193 bộ đội biên phòng ở Hữu Nghị Quan đã kiên quyết đánh trả bọn địch, và Lê Đình Chinh, người chiến sĩ ưu tú đã anh dũng hy sinh trong lúc trừng trị những hành động côn đồ của giặc.
    Ngay sau đó, một phong trào thi đua, học tập gương anh dũng của Lê Đình Chinh đã dấy lên khắp các đơn vị. Chiến sĩ trinh sát mới nhập ngũ Nguyễn Văn Tân của trung đoàn 12 trong một lần đi tuần tra bị một toán lính Trung Quốc nhảy ra bắt cóc. 1 tên lao tới ôm chặt lấy tân, rất nhanh, anh lộn người né tránh, rút dao cắm vào giữa lưng hắn. Đó là tên lính TQ đầu tiên bị chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng tiêu diệt.
    Cuối năm 1978, thượng tướng Chu Huy Mân, chủ nhiệm tổng cục Chính trị; đại tưóng Văn tiến Dũng, bộ trưởng Quốc phòng; trung tướng Lê Trọng Tấn, Tổng Tham mưu trưởng; trung tướng Hoàng Minh Thảo, giám đốc Học viện Quân sự lần lượt lên thăm và kiểm tra tình hình sư đoàn.
    Sau sự kiện Hữu Nghị Quan 25-8-1978, tỉnh ủy và UBND Lạng Sơn cho các xưởng cơ khí toàn tỉnh ngừng sản xuất hàng, tập trung làm chông sắt, cọc sắt xây dựng trận địa phòng ngự. Dân quân sát cánh cùng bộ đội và biên phòng tuần tra, sẵn sàng trừng trị bọn thám báo đột nhập vũ trang, khiêu khích.
    Mùa xuân 1979, sư đoàn 3 nhận được lẵng hoa do Chủ tịch Tôn Đức thắng gửi tặng. trong buổi lễ đón nhận, chính uỷ sư đoàn Nguyễn Khắc hào bày tỏ sự cảm ơn và hứa : "Nếu kẻ thù liều lĩnh xâm phạm biên giới Tổ quốc, sư đoàn kiên quyết đánh thắng chúng ngay từ trận đầu, thắng liên tục, thắng giòn giã để bảo vệ biên giới Tổ quốc...".
    Hơn một tháng sau đó, ngày 17-2-1979, chiến tranh biên giới chính thức bùng nổ.
  6. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    NGÀY 17-2-1979
    (Trích kí sự lịch sử Sư đoàn Sao Vàng)
    Đầu tháng giêng, khi cuộc chiến đấu ở biên giới phía tây nam bước vào giai đoạn kết thúc (ngày 7-1-1979, theo yêu cầu của bạn, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng với quân giải phóng Campuchia tiến vào giải phóng Phnom Penh) thì ở biên giới phía bắc, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta cũng được lệnh tăng cường cảnh giác, sẵn sàng giáng trả bất kì hành động đien cuồng nào của bè lũ ********* Bắc Kinh.
    Bấy giờ đang là mùa xuân nhưng bầu không khí ở biên giới Việt-Trung lúc nào cũng căng thẳng. Một cuộc tiến công xâm lược trên quy mô lớn của địch đang được gấp rút chuẩn bị. Tính đến ngày 16-2-1979, 9 quân đoàn thuộc 5 đại quân khu trong số 11 đại quân khu của chúng, 4 sư đoàn địa phương, 1.908 khẩu pháo từ 85mm đến 152mm cùng hàng trăm dàn hoả tiễn của 41 trung đoàn đã được lệnh chuẩn bị tiến công ồ ạt sang lãnh thổ Việt Nam.
    Với 1 lực lượng quân số và vũ khí to lớn như vậy, bọn bành trướng Bắc Kinh chủ định tiến công trên 2 hướng : hướng chủ yếu từ Cao Bằng đến Quảng Ninh; hướng thứ yếu từ thị xã Lào Cai đến Phong Thổ, Hà Tuyên. Trên 2 hướng này, chúng sẽ tiến công vào 6 khu vực trong đó có 3 khu vực trọng điểm là 3 thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn. Trong 3 khu vực kể trên, thị xã Lạng Sơn, nơi sư đoàn 3 bố trí trận địa bảo vệ được coi là khu vực chủ yếu nhất, vì đó là bàn đạp tốt nhất để tiến tới Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ.
    Hứa Thế Hữu, nguyên tư lệnh đại quân khu Quảng Châu, người cộng sự thân thiết của Đặng Tiểu Bình được bổ nhiệm làm tư lệnh mặt trận. Dương Đắc Chí, tư lệnh đại quân khu Vũ Hán, người từng chỉ huy cuộc chiến tranh ở Triều Tiên trước đây được giao nhiệm vụ đặc trách chỉ huy các cuộc hành quân trực tiếp xâm lưọc Việt Nam. Cả 2 tên tướng cáo già này đinh ninh chỉ trong 2 ngày 17, 18 với một lực lượng quân sự áp đảo chúng sẽ làm chủ Cao Bằng-Lạng Sơn-Lào Cai để tiếp tục mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược vào sâu lãnh thổ Việt Nam. Sở dĩ chúng chọn thời gian này và chọn ngày 17-2 là ngày khởi đầu cuộc tiến công vì cho rằng lúc đó đại bộ phận lực lượng của ta còn đang giải quyết hậu quả ở mặt trận Tây Nam và ngày 17 còn là ngày cuối tuần, ngày mà dư luận thế giới thường ít quan tâm đến tình hình quốc tế. nếu giành được thắng lợi trọn vẹn trong 2 ngày, chúng sẽ đặt dư luận vào một việc đã rồi. Mặt khác, bất ngờ tiến công trên toàn tuyến biên giới phía bắc, chúng hy vọng có thể buộc các lực lượng chủ lực của Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở campuchia phải rút về nước. Nhờ thế bọn tàn quân Pol Pot sẽ thôi bị truy kích và có điều kiện phục hồi trở lại.
    3 giờ 30 phút sáng ngày thứ bảy, 17-2-1979, mặt đất 3 huyện Trà Lĩnh, Hà Quảng, Quảng Hoà (Cao Bằng) rung lên dữ dội trong tiếng nổ tội ác của đạn pháo đủ các loại từ bên kia biên giới bắn sang, mở đầu cho cuộc tiến công xâm lược quy mô trên tuyến biên giới của bọn phản bội Bắc Kinh.
    Sau loạt đạn pháo đầu tiên của quân Trung Quốc, Bộ tư lệnh sư đoàn 3 nhận được điện khẩn của Bộ Tư lệnh Quân khu 1 : "Địch bắn pháo và có khả năng tiến công Cao Bằng. Hướng sư đoàn 3 cần tăng cường cảnh giác và nhanh chóng tổ chức đơn vị sẵn sàng chiến đấu".
    Ngay sau đó, cán bộ chủ trì các cấp đang tập huấn ở sư đoàn và quân khu được lệnh nhanh chóng về đơn vị và mệnh lệnh chiến đấu được chuyển ngay xuống các điểm tựa, các trận địa hoả lực toàn sư đoàn.
    5 giờ sáng, giữa lúc bầu trời còn dày đặc sương mù, pháo địch bắt đầu bắn phá trên đất Lạng Sơn. Dọc tuyến biên giới từ mốc số 15 (Văn Lãng) đến mốc số 45 (Lộc Bình), dọc trục đường 1A từ Hữu Nghị Quan đến Tam Lung, dọc trục đường 1B từ Thâm Mô đến Đồng Uất và các điểm cao quanh thị trấn Đồng Đăng dày đặc khói đạn.
    Mở đầu cuộc tiến công vào Lạng Sơn, địch dùng lực lượng của 2 quân đoàn 55 và 43, 1 trung đoàn bộ binh địa phương, 3 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp, được pháo binh chi viện tối đa tiến công trên 2 hướng :
    - Hướng chủ yếu do 2 sư đoàn tăng cường, 2 tiểu đoàn xe tăng của quân đoàn 55 đảm nhiệm đánh chiếm thị trấn Đồng Đăng, Tam Lung, Khôn Làng, Tân Yên tổ chức thành 3 cánh.
    +Cánh chủ yếu do sư đoàn 163 tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng bắt đàu từ cửa khẩu Hữu Nghị Quan tiến theo đường bộ, đường sắt đánh chiếm Đồng Đăng, Pháo Đài, điểm cao 339, Thâm Mô, 505, 423 và ngã ba đưòng 1A, 1B.
    +Cánh phối hợp do sư đoàn 164 tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng xuất phát từ mốc 15, 16 đánh chiếm xã Tân yên, tân Thanh, cắt đứt đường 4A từ Đồng Đăng đi Na Sầm, chiếm các điểm cao 386, 438 thọc ra Con Khoang chiếm Khôn Làng.
    +Cánh vu hồi do 1 trung đoàn bộ binh trang bị gọn nhẹ xuất phát từ mốc 19, 20 bí mật luồn lách vượt qua điểm cao 811, 675, 611 đánh chiếm điểm cao 409, khu đồi Chậu cảnh, cắt đứt đường 1A tại ngã ba Tam Lung, cô lập Đồng Đăng.
    - Hướng thứ hai do quân đoàn 43 đảm nhiệm tổ chức thành 2 cánh. Một cánh do sư đoàn 127 từ mốc số 32-33 đánh vào Bản Xâm, Lục Quyên, Bản Trang, Ba Sơn... Cánh còn lại do sư đoàn 128 và 1 tiểu đoàn xe tăng từ mốc số 43, 45 đánh chiếm Chi Ma, điểm cao 392, 623, bản Khoai, bản Khiêng. Ngoài ra còn 1 trung đoàn địa phương đánh chiếm Bản Rọi (Cao Lộc) để mở đường tiếp tế bằng ngựa thồ cho cánh vu hồi vào Tam Lung.
    Với ưu thế về lực lượng, lại chủ động về thời gian tiến công và có "lực lượng thứ năm" cài cấy từ lâu trên đất Việt Nam, thê đội 1 gồm quân đoàn 55 và quân đoàn 43 được lệnh bí mật bất ngờ bao vây tiêu diệt 2 trung đoàn 12, 141 (sư đoàn 3) của ta ở sát biên giới, tạo bàn đạp cho thê đội 2 (quân đoàn 54) thọc vào tiêu diệt trung đoàn còn lại của sư đoàn 3 và chiếm thị xã Lạng Sơn vào ngày hôm sau, 18-2-1979.
    Chúng dự tính, với thủ đoạn bí mật luồn sâu tạo thế chia cắt kết hợp với đòn tiến công áp đro ở chính diện, đối phương sẽ nhanh chóng bị cô lập, rối loạn, chỉ có đầu hàng hoặc bị tiêu diệt.
    Ngay sau khi địch bắn những loạt pháo đầu tiên vào Lạng Sơn, các đơn vị pháo binh ta đã lần lượt giội đạn xuống các trận địa pháo và đội hình tiến công của bộ binh địch. trên các điểm tựa, cán bộ chiến sĩ nhanh chóng ra các chiến hào đánh trả quyết liệt với bộ binh và xe tăng địch. Nhiều nơi, bộ đội đánh giáp lá cà với địch ngay trước cửa hầm, trước sân cỏ hất chúng xuống sườn đồi. Các cây cầu từ Thanh Loà, Bản Xâm về thị xã Lạng Sơn bị các chiến sĩ ta phối hợp với lực lượng địa phương phá sập.
    Trên các huyện Tràng Định, Lộc Bình cũng như trên toàn tuyến biên giới từ Quảng Ninh đến lai Châu, quân và dân các dân tộc cũng nổ súng chặn đánh quyết liệt các cánh quân khác của địch đang ỷ thế đông ồ ạt tràn qua các cột mốc biên giới.
    Ngày 17-2-1979, một ngày hết sức bình thường, một ngày mà mọi người dân Việt Nam đang lao động, xây dựng đất nước trong hoà bình bỗng trở nên một cái mốc trong lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của đất nước. Một kẻ thù mới đã lộ rõ nguyên hình với bộ mặt thâm hiểm ghê tởm, đày tội ác và một cuộc chiến đấu mới lại bắt đầu với dân tộc ta.
    Những ai đã từng một lần đi qua Đồng Đăng đều không thể nào quên được thị trấn biên giới nhỏ bé này. Vào những phiên chợ, trên những con đường rải đá, dồn dập tiếng vó ngựa và vang lên tiếng khèn của những chàng trai từ rẻo cao đổ xuống. Rồi những cô gái các dân tộc duyên dáng, những ông ké bán thuốc nam, những bát hủ tiếu ngon nổi tiếng...
    Đồng Đăng nằm cách Hữu Nghị Quan 3km về phía nam và cách thị xã Lạng Sơn 14km về phía bắc. Ở phía nam thị trấn là các điểm cao Pháo Đài, Thâm Mô, 339, ở phía đông nam là Phai Môn, Chậu Cảnh...
    Đồng Đăng, Văn Lãng là hướng phòng ngự do trung đoàn 12 đảm nhiệm. Địch đã chuẩn bị hết sức công phu cho cuộc tiến công vào khu vực này nhằm tiêu diệt nhanh chóng trung đoàn 12, chiếm gọn thị trấn Đồng Đăng trong chốc lát. Ngoài việc tập trung vào đây 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng có chi viện của 6 trung đoàn pháo binh, trong đếm 16-2-1979, chúng đã tung các tổ thám báo mang theo bộc phá lọt vào Đồng Đăng móc nối với bọn ********* lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu để ngăn chặn lực lượng ta từ phía sau chi viện lên. Trong khi đó, trước giờ nổ súng bọn điệp ngầm bí mật cắt các đường dây điện thoại giữa trung đoàn 12 với sư đoàn và với các tiểu đoàn, các trận địa pháo. Chúng định giáng vào trận địa phòng ngự của ta không chỉ bằng lực lượng bộ binh áp đảo mà còn định đẩy trung đoàn 12 vào tình thế cô lập, xé lẻ, không chỉ huy, không liên lạc được với mọi chi viện của cấp trên.
    Mờ sáng ngày 17-2-1979, khi đồng bào ta đang ngon giấc, bất thần hàng ngàn quả đạn pháo địch giội xuống thị trấn Đồng Đăng và các điểm cao khu vực phòng ngự của trung đoàn 12. Lợi dụng tiếng nổ và khói đạn, bộ binh địch nhào tới dùng bộc phá phá hàng rào biên giới cho xe tăng tràn qua. Đạn pháo vừa dứt, bọn lính Trung Quốc đã xuất hiện trong tầm bắn của súng bộ binh. Nhiều nơi, bộ đội vừa nhảy xuống giao thông hào là cưỡi lên đầu địch. Trung đoàn trưởng và chính ủy trung đoàn trên đường ra vị trí chỉ huy phía trước cũng bị địch phục đánh, xe bị hỏng. Các anh phải xuyên rừng lên sở chỉ huy, ở đấy các sĩ quan tác chiến báo cáo, địch cũng đã vào tới khu vực đài quan sát. Điện thoại đi các nơi không liên lạc được. rõ ràng chúng định bưng tai bịt mắt, xé lẻ trung đoàn ra để tiêu diệt ngay trong trận đầu này. Nhưng vốn đã từng hoạt động độc lập ở vùng sâu trong những năm đánh Mĩ, ban chỉ huy trung đoàn một mặt ra lệnh cho cán bộ cơ quan cùng các chiến sĩ vệ binh, trinh sát tổ chức đánh hất địch ra khỏi sở chỉ huy, mặt khác cho các chiến sĩ thông tin đi nối lại đường dây và dùng liên lạc bộ để chỉ huy các đơn vị.
    Điều làm cho sở chỉ huy trung đoàn yên tâm là trừ khu vực đại đội 41 đã im tiếng súng còn hầu như tất cả các điểm tựa trên trận địa phòng ngự của trung đoàn tiếng súng vẫn nổ rát. Ở điểm cao 339, xen lẫn tiếng la của địch còn vang lên tiếng reo hò của bộ đội ta, chứng tỏ không những bộ đội ta đang đánh địch àm còn đánh thắng nữa.
    Đúng như vậy, mặc dù không bắt liên lạc được với trung đoàn nhưng theo phương án, các tiểu đoàn, đại đội đều chủ động chặn đánh quân địch đang như những con lũ hung dữ tràn tới. cũng như trận đánh Mĩ đầu tiên trước đây ở Thuận Ninh, các chiến sĩ ngạc nhiên khi thấy bọn giặc dàn hàng ngang lao lên trận địa như những con thiêu thân. Tiếng kèn đồng, tiếng còi rúc kéo theo những tiếng hô "tả, tả" điên dại phát ra từ miệng bọn lính cùng với những loạt đạn bắn như xé lên đỉnh đồi.
  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    NGÀY 17-2-1979
    (Trích kí sự lịch sử Sư đoàn Sao Vàng)
    Đầu tháng giêng, khi cuộc chiến đấu ở biên giới phía tây nam bước vào giai đoạn kết thúc (ngày 7-1-1979, theo yêu cầu của bạn, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng với quân giải phóng Campuchia tiến vào giải phóng Phnom Penh) thì ở biên giới phía bắc, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta cũng được lệnh tăng cường cảnh giác, sẵn sàng giáng trả bất kì hành động đien cuồng nào của bè lũ ********* Bắc Kinh.
    Bấy giờ đang là mùa xuân nhưng bầu không khí ở biên giới Việt-Trung lúc nào cũng căng thẳng. Một cuộc tiến công xâm lược trên quy mô lớn của địch đang được gấp rút chuẩn bị. Tính đến ngày 16-2-1979, 9 quân đoàn thuộc 5 đại quân khu trong số 11 đại quân khu của chúng, 4 sư đoàn địa phương, 1.908 khẩu pháo từ 85mm đến 152mm cùng hàng trăm dàn hoả tiễn của 41 trung đoàn đã được lệnh chuẩn bị tiến công ồ ạt sang lãnh thổ Việt Nam.
    Với 1 lực lượng quân số và vũ khí to lớn như vậy, bọn bành trướng Bắc Kinh chủ định tiến công trên 2 hướng : hướng chủ yếu từ Cao Bằng đến Quảng Ninh; hướng thứ yếu từ thị xã Lào Cai đến Phong Thổ, Hà Tuyên. Trên 2 hướng này, chúng sẽ tiến công vào 6 khu vực trong đó có 3 khu vực trọng điểm là 3 thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn. Trong 3 khu vực kể trên, thị xã Lạng Sơn, nơi sư đoàn 3 bố trí trận địa bảo vệ được coi là khu vực chủ yếu nhất, vì đó là bàn đạp tốt nhất để tiến tới Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ.
    Hứa Thế Hữu, nguyên tư lệnh đại quân khu Quảng Châu, người cộng sự thân thiết của Đặng Tiểu Bình được bổ nhiệm làm tư lệnh mặt trận. Dương Đắc Chí, tư lệnh đại quân khu Vũ Hán, người từng chỉ huy cuộc chiến tranh ở Triều Tiên trước đây được giao nhiệm vụ đặc trách chỉ huy các cuộc hành quân trực tiếp xâm lưọc Việt Nam. Cả 2 tên tướng cáo già này đinh ninh chỉ trong 2 ngày 17, 18 với một lực lượng quân sự áp đảo chúng sẽ làm chủ Cao Bằng-Lạng Sơn-Lào Cai để tiếp tục mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược vào sâu lãnh thổ Việt Nam. Sở dĩ chúng chọn thời gian này và chọn ngày 17-2 là ngày khởi đầu cuộc tiến công vì cho rằng lúc đó đại bộ phận lực lượng của ta còn đang giải quyết hậu quả ở mặt trận Tây Nam và ngày 17 còn là ngày cuối tuần, ngày mà dư luận thế giới thường ít quan tâm đến tình hình quốc tế. nếu giành được thắng lợi trọn vẹn trong 2 ngày, chúng sẽ đặt dư luận vào một việc đã rồi. Mặt khác, bất ngờ tiến công trên toàn tuyến biên giới phía bắc, chúng hy vọng có thể buộc các lực lượng chủ lực của Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở campuchia phải rút về nước. Nhờ thế bọn tàn quân Pol Pot sẽ thôi bị truy kích và có điều kiện phục hồi trở lại.
    3 giờ 30 phút sáng ngày thứ bảy, 17-2-1979, mặt đất 3 huyện Trà Lĩnh, Hà Quảng, Quảng Hoà (Cao Bằng) rung lên dữ dội trong tiếng nổ tội ác của đạn pháo đủ các loại từ bên kia biên giới bắn sang, mở đầu cho cuộc tiến công xâm lược quy mô trên tuyến biên giới của bọn phản bội Bắc Kinh.
    Sau loạt đạn pháo đầu tiên của quân Trung Quốc, Bộ tư lệnh sư đoàn 3 nhận được điện khẩn của Bộ Tư lệnh Quân khu 1 : "Địch bắn pháo và có khả năng tiến công Cao Bằng. Hướng sư đoàn 3 cần tăng cường cảnh giác và nhanh chóng tổ chức đơn vị sẵn sàng chiến đấu".
    Ngay sau đó, cán bộ chủ trì các cấp đang tập huấn ở sư đoàn và quân khu được lệnh nhanh chóng về đơn vị và mệnh lệnh chiến đấu được chuyển ngay xuống các điểm tựa, các trận địa hoả lực toàn sư đoàn.
    5 giờ sáng, giữa lúc bầu trời còn dày đặc sương mù, pháo địch bắt đầu bắn phá trên đất Lạng Sơn. Dọc tuyến biên giới từ mốc số 15 (Văn Lãng) đến mốc số 45 (Lộc Bình), dọc trục đường 1A từ Hữu Nghị Quan đến Tam Lung, dọc trục đường 1B từ Thâm Mô đến Đồng Uất và các điểm cao quanh thị trấn Đồng Đăng dày đặc khói đạn.
    Mở đầu cuộc tiến công vào Lạng Sơn, địch dùng lực lượng của 2 quân đoàn 55 và 43, 1 trung đoàn bộ binh địa phương, 3 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp, được pháo binh chi viện tối đa tiến công trên 2 hướng :
    - Hướng chủ yếu do 2 sư đoàn tăng cường, 2 tiểu đoàn xe tăng của quân đoàn 55 đảm nhiệm đánh chiếm thị trấn Đồng Đăng, Tam Lung, Khôn Làng, Tân Yên tổ chức thành 3 cánh.
    +Cánh chủ yếu do sư đoàn 163 tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng bắt đàu từ cửa khẩu Hữu Nghị Quan tiến theo đường bộ, đường sắt đánh chiếm Đồng Đăng, Pháo Đài, điểm cao 339, Thâm Mô, 505, 423 và ngã ba đưòng 1A, 1B.
    +Cánh phối hợp do sư đoàn 164 tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng xuất phát từ mốc 15, 16 đánh chiếm xã Tân yên, tân Thanh, cắt đứt đường 4A từ Đồng Đăng đi Na Sầm, chiếm các điểm cao 386, 438 thọc ra Con Khoang chiếm Khôn Làng.
    +Cánh vu hồi do 1 trung đoàn bộ binh trang bị gọn nhẹ xuất phát từ mốc 19, 20 bí mật luồn lách vượt qua điểm cao 811, 675, 611 đánh chiếm điểm cao 409, khu đồi Chậu cảnh, cắt đứt đường 1A tại ngã ba Tam Lung, cô lập Đồng Đăng.
    - Hướng thứ hai do quân đoàn 43 đảm nhiệm tổ chức thành 2 cánh. Một cánh do sư đoàn 127 từ mốc số 32-33 đánh vào Bản Xâm, Lục Quyên, Bản Trang, Ba Sơn... Cánh còn lại do sư đoàn 128 và 1 tiểu đoàn xe tăng từ mốc số 43, 45 đánh chiếm Chi Ma, điểm cao 392, 623, bản Khoai, bản Khiêng. Ngoài ra còn 1 trung đoàn địa phương đánh chiếm Bản Rọi (Cao Lộc) để mở đường tiếp tế bằng ngựa thồ cho cánh vu hồi vào Tam Lung.
    Với ưu thế về lực lượng, lại chủ động về thời gian tiến công và có "lực lượng thứ năm" cài cấy từ lâu trên đất Việt Nam, thê đội 1 gồm quân đoàn 55 và quân đoàn 43 được lệnh bí mật bất ngờ bao vây tiêu diệt 2 trung đoàn 12, 141 (sư đoàn 3) của ta ở sát biên giới, tạo bàn đạp cho thê đội 2 (quân đoàn 54) thọc vào tiêu diệt trung đoàn còn lại của sư đoàn 3 và chiếm thị xã Lạng Sơn vào ngày hôm sau, 18-2-1979.
    Chúng dự tính, với thủ đoạn bí mật luồn sâu tạo thế chia cắt kết hợp với đòn tiến công áp đro ở chính diện, đối phương sẽ nhanh chóng bị cô lập, rối loạn, chỉ có đầu hàng hoặc bị tiêu diệt.
    Ngay sau khi địch bắn những loạt pháo đầu tiên vào Lạng Sơn, các đơn vị pháo binh ta đã lần lượt giội đạn xuống các trận địa pháo và đội hình tiến công của bộ binh địch. trên các điểm tựa, cán bộ chiến sĩ nhanh chóng ra các chiến hào đánh trả quyết liệt với bộ binh và xe tăng địch. Nhiều nơi, bộ đội đánh giáp lá cà với địch ngay trước cửa hầm, trước sân cỏ hất chúng xuống sườn đồi. Các cây cầu từ Thanh Loà, Bản Xâm về thị xã Lạng Sơn bị các chiến sĩ ta phối hợp với lực lượng địa phương phá sập.
    Trên các huyện Tràng Định, Lộc Bình cũng như trên toàn tuyến biên giới từ Quảng Ninh đến lai Châu, quân và dân các dân tộc cũng nổ súng chặn đánh quyết liệt các cánh quân khác của địch đang ỷ thế đông ồ ạt tràn qua các cột mốc biên giới.
    Ngày 17-2-1979, một ngày hết sức bình thường, một ngày mà mọi người dân Việt Nam đang lao động, xây dựng đất nước trong hoà bình bỗng trở nên một cái mốc trong lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của đất nước. Một kẻ thù mới đã lộ rõ nguyên hình với bộ mặt thâm hiểm ghê tởm, đày tội ác và một cuộc chiến đấu mới lại bắt đầu với dân tộc ta.
    Những ai đã từng một lần đi qua Đồng Đăng đều không thể nào quên được thị trấn biên giới nhỏ bé này. Vào những phiên chợ, trên những con đường rải đá, dồn dập tiếng vó ngựa và vang lên tiếng khèn của những chàng trai từ rẻo cao đổ xuống. Rồi những cô gái các dân tộc duyên dáng, những ông ké bán thuốc nam, những bát hủ tiếu ngon nổi tiếng...
    Đồng Đăng nằm cách Hữu Nghị Quan 3km về phía nam và cách thị xã Lạng Sơn 14km về phía bắc. Ở phía nam thị trấn là các điểm cao Pháo Đài, Thâm Mô, 339, ở phía đông nam là Phai Môn, Chậu Cảnh...
    Đồng Đăng, Văn Lãng là hướng phòng ngự do trung đoàn 12 đảm nhiệm. Địch đã chuẩn bị hết sức công phu cho cuộc tiến công vào khu vực này nhằm tiêu diệt nhanh chóng trung đoàn 12, chiếm gọn thị trấn Đồng Đăng trong chốc lát. Ngoài việc tập trung vào đây 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng có chi viện của 6 trung đoàn pháo binh, trong đếm 16-2-1979, chúng đã tung các tổ thám báo mang theo bộc phá lọt vào Đồng Đăng móc nối với bọn ********* lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu để ngăn chặn lực lượng ta từ phía sau chi viện lên. Trong khi đó, trước giờ nổ súng bọn điệp ngầm bí mật cắt các đường dây điện thoại giữa trung đoàn 12 với sư đoàn và với các tiểu đoàn, các trận địa pháo. Chúng định giáng vào trận địa phòng ngự của ta không chỉ bằng lực lượng bộ binh áp đảo mà còn định đẩy trung đoàn 12 vào tình thế cô lập, xé lẻ, không chỉ huy, không liên lạc được với mọi chi viện của cấp trên.
    Mờ sáng ngày 17-2-1979, khi đồng bào ta đang ngon giấc, bất thần hàng ngàn quả đạn pháo địch giội xuống thị trấn Đồng Đăng và các điểm cao khu vực phòng ngự của trung đoàn 12. Lợi dụng tiếng nổ và khói đạn, bộ binh địch nhào tới dùng bộc phá phá hàng rào biên giới cho xe tăng tràn qua. Đạn pháo vừa dứt, bọn lính Trung Quốc đã xuất hiện trong tầm bắn của súng bộ binh. Nhiều nơi, bộ đội vừa nhảy xuống giao thông hào là cưỡi lên đầu địch. Trung đoàn trưởng và chính ủy trung đoàn trên đường ra vị trí chỉ huy phía trước cũng bị địch phục đánh, xe bị hỏng. Các anh phải xuyên rừng lên sở chỉ huy, ở đấy các sĩ quan tác chiến báo cáo, địch cũng đã vào tới khu vực đài quan sát. Điện thoại đi các nơi không liên lạc được. rõ ràng chúng định bưng tai bịt mắt, xé lẻ trung đoàn ra để tiêu diệt ngay trong trận đầu này. Nhưng vốn đã từng hoạt động độc lập ở vùng sâu trong những năm đánh Mĩ, ban chỉ huy trung đoàn một mặt ra lệnh cho cán bộ cơ quan cùng các chiến sĩ vệ binh, trinh sát tổ chức đánh hất địch ra khỏi sở chỉ huy, mặt khác cho các chiến sĩ thông tin đi nối lại đường dây và dùng liên lạc bộ để chỉ huy các đơn vị.
    Điều làm cho sở chỉ huy trung đoàn yên tâm là trừ khu vực đại đội 41 đã im tiếng súng còn hầu như tất cả các điểm tựa trên trận địa phòng ngự của trung đoàn tiếng súng vẫn nổ rát. Ở điểm cao 339, xen lẫn tiếng la của địch còn vang lên tiếng reo hò của bộ đội ta, chứng tỏ không những bộ đội ta đang đánh địch àm còn đánh thắng nữa.
    Đúng như vậy, mặc dù không bắt liên lạc được với trung đoàn nhưng theo phương án, các tiểu đoàn, đại đội đều chủ động chặn đánh quân địch đang như những con lũ hung dữ tràn tới. cũng như trận đánh Mĩ đầu tiên trước đây ở Thuận Ninh, các chiến sĩ ngạc nhiên khi thấy bọn giặc dàn hàng ngang lao lên trận địa như những con thiêu thân. Tiếng kèn đồng, tiếng còi rúc kéo theo những tiếng hô "tả, tả" điên dại phát ra từ miệng bọn lính cùng với những loạt đạn bắn như xé lên đỉnh đồi.
  8. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Ở khu vực Tân Yên, Tân Thanh, trong trạng thái như vậy, tiểu đoàn 5 phải đánh trả với hơn 1 trung đoàn địch có hàng chục xe tăng yểm trợ. Cán bộ tiểu đoàn, đại đội vừa chỉ huy đơn vị, vừa cầm súng chiến đấu bên cạnh các chiến sĩ để nhắc nhở những điều cần thiết đối với những chiến sĩ lần đầu ra trận. Chính nhờ đó, ở các điểm tựa của tiểu đoàn, chiến sĩ ta đã đánh lui mọi đợt tấn công ồ ạt của địch. Ở Bản Thấu, trung đội phó Nguyễn Văn Vĩnh cùng tiểu đội trưởng Bùi Viết Bình đã xách B40, B41 vận động xuống sườn đồi chặn đánh một cánh quân thọc sườn có 4 xe tăng dẫn đầu, bắn cháy liên tiếp 2 chiếc. 2 chiếc còn lại tháo chạy bị các chiến sĩ đồn biên phòng Tân Thanh bắn cháy 1 chiếc. Chiếc cuối cùng hốt hoảng nhào xuống chân đồi nhưng lại sa vào hầm chống tăng của các chiến sĩ công binh. Đó là những chiếc xe tăng đàu tiên của quân xâm lược bị tiêu diệt trên trận địa sư đoàn Sao Vàng. Các chiến sĩ ta ở các điểm tựa xung quanh đều reo hò trước chiến công xuất sắc ấy. Ở đại đội 1 cao xạ 37mm, chiến sĩ thông tin Nguyễn Đức Thuần trên đường đi nối đường dây phát hiện xe tăng địch đang tiến vào trận địa đã cùng tổ diệt tăng của đại đội quần nhau với chiếc xe tăng địch, bị chúng dùng nòng pháo gạt xuống nhưng vẫn tìm cách nhảy lên và cuối cùng đã nhét được lựu đạn vào trong xe tăng, sau đó cùng đồng đội truy đổi tiêu diệt tên chỉ huy, thu súng đạn và tài liệu.
    Ở khu vực Hữu Nghị Quan, địch dùng 1 tiểu đoàn, lợi dụng thế dốc của đồi Ra Đa ồ ạt tiến công sang đồn biên phòng 193 và dùng 2 tiểu đoàn bộ binh kết hợp với xe tăng đánh vào cụm điểm tựa của đại đội công binh trung đoàn 12. Đây là vị trí địch cố sống cố chết chiếm cho bằng được để đưa xe tăng và các phương tiện kĩ thuật chi viện cho mũi tiến công chủ yếu của chúng vào thị trấn Đồng Đăng.
    Tại khu vực này, cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt ngay từ những phút đầu tiên. Bọn địch từ đồi Ra Đa tràn xuống cùng với 1 chi đội xe tăng lợi dụng suối cạn tổ chức đánh thọc sườn phải của đồn 193 nhưng cả 2 mũi chính diện và thọc sườn đều bị những đồng đội của anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh chặn đứng lại.
    Cách Hữu Nghị Quan 500m, ở khu vực cống Ba Cửa, đại đội công binh trung đoàn 12 và các đơn vị dân quân xã Bảo Lâm do đồng chí Sáu, bí thư đảng ủy xã trực tiếp chỉ huy cũng chặn đánh dữ dội một mũi tiến công khác của địch. Do địa hình quá rộng, đại đội công binh phải căng mỏng lực lượng ra nhiều hướng. Tiểu đội Trần Ngọc Sơn đảm nhiệm một hướng phòng ngự ở phía tây bắc phải giãn thưa đội hình để đối phó với 1 đại đội địch. Các chiến sĩ trong tiểu đội của Sơn còn rất trẻ, phần lớn quê ở Hà Bắc, chỉ có mình Sơn quê Hà Nội. Vào các buổi tối, Sơn thường tự hào kể cho các chiến sĩ trong tiểu đội nghe về chiến công của người chú ruột Trần Ngọc Xuân, anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân và thầm hứa sẽ chiến đấu thật xứng đáng với chú nếu quân Trung Quốc dám tràn vào trận địa của tiểu đội.
    Sau một hồi đánh địch, vào đợt tiến công thứ 3 của chúng, tiểu đội Sơn chỉ còn 1/3 quân số và đến lần tiến công thứ 5 chỉ còn một mình Sơn, lúc đó cũng bị thương vào cánh tay phải. Sau khi băng lại vết thương, như một con sóc, Sơn di chuyển nhanh nhẹn từ phải qua trái, vừa bắn tiểu liên, vừa bắn B40, vừa tung lựu đạn xuống đội hình dày đặc của địch. Cứ như vậy cho đến 14 giờ, địch không sao vượt qua được cống Ba Cửa để tiến vào Đồng Đăng. Bên phải Sơn, tiếng súng ở trận địa trung đội dân quân xã Bảo Lâm vẫn nổ rát. Trước mặt Sơn, 75 tên lính Trung Quốc chết gục. 16 giờ, Sơn lại bị thương vào chân và trong tay chỉ còn 1 quả lựu đạn. bên dưới, địch đang la hét tràn lên. Sơn bình tĩnh ném quả lựu đạn cuối cùng và 1 vầng lửa da cam của đạn B40 địch đã trùm kín người anh. Chiều ngày hôm ấy, Sơn đã cùng với đồng đội của mình dừng lại mãi mãi ở tuổi 20. Anh đã sống và chiến đấu xứng đáng với nguời chú ruột của mình mà anh luôn lấy làm mẫu mực.
    Cụm điểm tựa Hữu Nghị Quan sau này được đánh giá rất cao vì đã chặn đứng được một lực lượng đáng kể của địch trong một thời gian nhất định, giảm bớt được lực lượng của chúng trên hướng phòng ngự chủ yếu của sư đoàn. Đặc biệt là đơn vị dân quân xã Bảo Lâm đã bám trụ suốt cả quá trình chiến đấu, tổ chức những trận đánh nhỏ lẻ vào đội hình địch, gây tình trạng căng thẳng phía sau lưng chúng. Cụm chốt Hữu Nghị Quan là một biểu hiện hết sức sinh động của tình đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu giữa 3 lực lượng dân quân, bộ đội biên phòng và bộ đội chủ lực.
    Cũng trong buổi sáng ngày 17-2-1979 lịch sử ấy, tại cụm điểm tựa Đồng Đăng, 2 trung đoàn địch phối hợp với xe tăng và pháo binh đánh chiếm các điểm cao Pháo Đài, 339, Thâm Mô. Ở điểm cao 339, ngoài lực lượng phòng ngự chủ yếu là đại đội 61 và 1 trung đội của đại đội 62 còn 2 khẩu pháo 85mm của tiểu đoàn 12 trung đoàn pháo 68.
    Các chiến sĩ ở cụm điểm tựa này hiểu sâu sắc rằng mất các điểm cao họ đang chiếm giữ, Đồng Đăng sẽ hoàn toàn lọt vào tay giặc và thị xã Lạng Sơn sẽ bị uy hiếp từ phía bắc. Vì vậy bằng mọi giá họ quyết hy sinh chiến đấu để bảo vệ các điểm cao ấy. 2 khẩu pháo 85mm trên điểm cao 339 đã đóng góp một phần quan trọng trong việc bảo vệ trận địa phòng ngự chủ yếu này của sư đoàn.
    Ngay từ những ngày đầu tiên đặt chân lên đất Lạng Sơn, rút kinh nghiệm trong chiến đấu phòng ngự Hoài Ân năm trước, bộ tư lệnh sư đoàn đã nghiên cứu bố trí thế trận pháo binh thành nhiều tầng, xen kẽ đội hình bộ binh để chi viện cho toàn khu vực, nhất là hướng phòng ngự chủ yếu. Theo đề nghị của các cán bộ chỉ huy trung đoàn pháo 68, sư đoàn không chỉ đưa pháo 85mm lên chiếm lĩnh điểm cao 339 mà tất cả các trận địa pháo của trung đoàn đều được đưa lên chiếm lĩnh các điểm cao. Ai cũng biết, sức mạnh của pháo binh sẽ được tính bằng cấp số nhân nếu có thế trận hoàn chỉnh, hiểm hóc, tạo được bất ngờ, tập trung được sức mạnh trong phòng ngự cũng như khi phản kích.
    Hôm ấy, khi địch ồ ạt tiến lên điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, 339, đại đội phó Nguyễn Văn Điển quyết định cho các khẩu đội đánh theo phương án 2 : rút một số pháo thủ dùng súng bộ binh bảo vệ trận địa, số còn lại sử dụng 2 khẩu pháo 85mm chi viện cho Pháo Đài và bắn xe tăng địch. Nhưng mới bắn được đến viên đạn thứ 7 thì một quả pháo địch nổ ngay bờ công sự, khẩu đội 2 hỏng thiết bị ngắm phải dừng lại. Khẩu đội 1 được lệnh tăng tốc độ bắn. Độ chính xác và hiệu quả cao của pháo bắn thẳng đã có tác dụng cùng với chiến sĩ trên Pháo Đài đánh bật nhiều đợt tiến công của 1 tiểu đoàn địch.
    9 giờ sáng, khi phát hiện 4 chiếc xe tăng đang bám đuôi nhau lên điểm cao 300, trung đội phó Hoàng Hữu Yên chỉ huy khẩu đội 1 bắn cháy 2 chiếc. 2 chiếc còn lại hốt hoảng bỏ chạy.
    Bằng lối đánh đó, lát sau, trung đội yên lại bắn cháy 1 trong 2 xe tăng ở hướng Na Sầm xuống. Đến 16 giờ, bắn tan một cụm địch ở sân bóng Đồng Đăng và 2 xe chở đầy lính từ Hữu Nghị Quan chạy tới.
    Trận địa 339 với các dũng sĩ kiên cường suốt ngày 17-2 đã trở thành một chướng ngại trên đường tiến quân của bộ binh và xe tăng địch. Chúng tập trung rất nhiều pháo tầm xa, pháo đi cùng, pháo xe tăng quyết tiêu diệt trận địa này. vào lúc 17 giờ, 3 chiến sĩ bị thương, khẩu đội 2 hỏng nòng, khẩu đội 1 hỏng kim hoả và bệ khoá nòng.
    Thấy trận địa pháo 85mm của ta im lặng đột ngột, địch ào ạt mở một đợt tiến công vào Thâm Mô, Pháo Đài, 300. Trên đường số 4, 4 chiếc xe tăng gầm rú tiến vào Đồng Đăng.
    Trước tình hình đó, yên đề xuất tháo kim hoả khẩu 2 lắp vào khẩu 1, ngắm bắn trực tiếp qua nòng. Ý kiến đơn giản nhưng đưa ra đúng lúc làm mọi người hết sức phấn chấn. Một lát sau, trận địa pháo 85mm lại sống dậy. Bằng 3 quả đạn, Hoàng Hữu yên lại bắn cháy 1 xe tăng trên đưòng số 4. 3 chiếc còn lại chưa kịp phản ứng thì những loạt đạn pháo của đơn vị bạn đã kịp thời trút xuống tiêu diệt toàn bộ tốp xe tăng này. Đó là trận địa pháo cồn Chủ do trung đội trưởng Nguyễn Trường Sơn chỉ huy. Phát hiện xe tăng địch đông mà trận địa 339 chỉ bắn phát một, Sơn chủ động ra lệnh các khẩu đội lấy phần tử, kịp thời nổ súng chi viện. Sau khi tốp xe tăng địch bị tiêu diệt, khẩu đội của Hoàng Hữu yên còn bắn được 18 viên đạn nữa làm tê liệt trận địa pháo 122mm của địch mới kéo đến chân điểm cao 402.
    Trong lúc các cán bộ và chiến sĩ ở cụm chốt Đồng Đăng đang nổ súng đánh địch quyết liệt thì Hoàng Quý Nam đại đội trưởng đại đội 42 cùng một số đông cán bộ chủ trì các đơn vị dự lớp tập huấn của sư đoàn đang trên đường cấp tốc trở về đơn vị.
    Hoàng Quý Nam là 1 cán bộ trẻ. Anh nhập ngũ năm 1971, mới tốt nghiệp sĩ quan và về trung đoàn được hơn 1 năm nay. Đó là 1 cán bộ sôi nổi, tự tin và quyết đoán, những đức tính cần thiết đối với 1 cán bộ chỉ huy quân sự. Hôm đó nam, Minh và một số cán bộ trong tiểu đoàn 4 về đến doanh trại thì cả khu nhà trước đây nhộn nhịp giờ vắng tanh vắng ngắt. Nam xuống bếp, gặp mấy chiến sĩ nuôi quân, anh lấy 1 khẩu AK, vài băng đạn rồi cùng Minh chạy về điểm cao Pháo Đài, nơi đại đội Nam đang chốt giữ.
    2 người chạy tới ngã tư đường sắt và đường 1B thì gặp 3 chiếc xe tăng địch đang bắn về phía trường cấp 1 gần đấy. Anh và Minh vội tạt xuống con suối nhỏ để tránh đạn. Tại đây, Nam lại mượn được khẩu B40 và 3 quả đạn.
    Nam và Minh nhanh nhẹn chạy vòng lên đón đầu 3 chiếc xe tăng. 2 tiếng nổ của đạn B40 dội xuống khe suối và lát sau khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi của Nam hiện ra ở chân dốc. Anh đưa trả khẩu B40, tiếc rẻ :"Bực quá, chỉ có 3 quả đạn thì quả thứ ba lại bị thối !". Mọi người nối nhau vượt qua đường. Cách họ một quãng, 2 chiếc xe tăng đang bốc cháy.
    Đó là chiến công đầu tiên của Hoàng Quý Nam.
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Ở khu vực Tân Yên, Tân Thanh, trong trạng thái như vậy, tiểu đoàn 5 phải đánh trả với hơn 1 trung đoàn địch có hàng chục xe tăng yểm trợ. Cán bộ tiểu đoàn, đại đội vừa chỉ huy đơn vị, vừa cầm súng chiến đấu bên cạnh các chiến sĩ để nhắc nhở những điều cần thiết đối với những chiến sĩ lần đầu ra trận. Chính nhờ đó, ở các điểm tựa của tiểu đoàn, chiến sĩ ta đã đánh lui mọi đợt tấn công ồ ạt của địch. Ở Bản Thấu, trung đội phó Nguyễn Văn Vĩnh cùng tiểu đội trưởng Bùi Viết Bình đã xách B40, B41 vận động xuống sườn đồi chặn đánh một cánh quân thọc sườn có 4 xe tăng dẫn đầu, bắn cháy liên tiếp 2 chiếc. 2 chiếc còn lại tháo chạy bị các chiến sĩ đồn biên phòng Tân Thanh bắn cháy 1 chiếc. Chiếc cuối cùng hốt hoảng nhào xuống chân đồi nhưng lại sa vào hầm chống tăng của các chiến sĩ công binh. Đó là những chiếc xe tăng đàu tiên của quân xâm lược bị tiêu diệt trên trận địa sư đoàn Sao Vàng. Các chiến sĩ ta ở các điểm tựa xung quanh đều reo hò trước chiến công xuất sắc ấy. Ở đại đội 1 cao xạ 37mm, chiến sĩ thông tin Nguyễn Đức Thuần trên đường đi nối đường dây phát hiện xe tăng địch đang tiến vào trận địa đã cùng tổ diệt tăng của đại đội quần nhau với chiếc xe tăng địch, bị chúng dùng nòng pháo gạt xuống nhưng vẫn tìm cách nhảy lên và cuối cùng đã nhét được lựu đạn vào trong xe tăng, sau đó cùng đồng đội truy đổi tiêu diệt tên chỉ huy, thu súng đạn và tài liệu.
    Ở khu vực Hữu Nghị Quan, địch dùng 1 tiểu đoàn, lợi dụng thế dốc của đồi Ra Đa ồ ạt tiến công sang đồn biên phòng 193 và dùng 2 tiểu đoàn bộ binh kết hợp với xe tăng đánh vào cụm điểm tựa của đại đội công binh trung đoàn 12. Đây là vị trí địch cố sống cố chết chiếm cho bằng được để đưa xe tăng và các phương tiện kĩ thuật chi viện cho mũi tiến công chủ yếu của chúng vào thị trấn Đồng Đăng.
    Tại khu vực này, cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt ngay từ những phút đầu tiên. Bọn địch từ đồi Ra Đa tràn xuống cùng với 1 chi đội xe tăng lợi dụng suối cạn tổ chức đánh thọc sườn phải của đồn 193 nhưng cả 2 mũi chính diện và thọc sườn đều bị những đồng đội của anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh chặn đứng lại.
    Cách Hữu Nghị Quan 500m, ở khu vực cống Ba Cửa, đại đội công binh trung đoàn 12 và các đơn vị dân quân xã Bảo Lâm do đồng chí Sáu, bí thư đảng ủy xã trực tiếp chỉ huy cũng chặn đánh dữ dội một mũi tiến công khác của địch. Do địa hình quá rộng, đại đội công binh phải căng mỏng lực lượng ra nhiều hướng. Tiểu đội Trần Ngọc Sơn đảm nhiệm một hướng phòng ngự ở phía tây bắc phải giãn thưa đội hình để đối phó với 1 đại đội địch. Các chiến sĩ trong tiểu đội của Sơn còn rất trẻ, phần lớn quê ở Hà Bắc, chỉ có mình Sơn quê Hà Nội. Vào các buổi tối, Sơn thường tự hào kể cho các chiến sĩ trong tiểu đội nghe về chiến công của người chú ruột Trần Ngọc Xuân, anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân và thầm hứa sẽ chiến đấu thật xứng đáng với chú nếu quân Trung Quốc dám tràn vào trận địa của tiểu đội.
    Sau một hồi đánh địch, vào đợt tiến công thứ 3 của chúng, tiểu đội Sơn chỉ còn 1/3 quân số và đến lần tiến công thứ 5 chỉ còn một mình Sơn, lúc đó cũng bị thương vào cánh tay phải. Sau khi băng lại vết thương, như một con sóc, Sơn di chuyển nhanh nhẹn từ phải qua trái, vừa bắn tiểu liên, vừa bắn B40, vừa tung lựu đạn xuống đội hình dày đặc của địch. Cứ như vậy cho đến 14 giờ, địch không sao vượt qua được cống Ba Cửa để tiến vào Đồng Đăng. Bên phải Sơn, tiếng súng ở trận địa trung đội dân quân xã Bảo Lâm vẫn nổ rát. Trước mặt Sơn, 75 tên lính Trung Quốc chết gục. 16 giờ, Sơn lại bị thương vào chân và trong tay chỉ còn 1 quả lựu đạn. bên dưới, địch đang la hét tràn lên. Sơn bình tĩnh ném quả lựu đạn cuối cùng và 1 vầng lửa da cam của đạn B40 địch đã trùm kín người anh. Chiều ngày hôm ấy, Sơn đã cùng với đồng đội của mình dừng lại mãi mãi ở tuổi 20. Anh đã sống và chiến đấu xứng đáng với nguời chú ruột của mình mà anh luôn lấy làm mẫu mực.
    Cụm điểm tựa Hữu Nghị Quan sau này được đánh giá rất cao vì đã chặn đứng được một lực lượng đáng kể của địch trong một thời gian nhất định, giảm bớt được lực lượng của chúng trên hướng phòng ngự chủ yếu của sư đoàn. Đặc biệt là đơn vị dân quân xã Bảo Lâm đã bám trụ suốt cả quá trình chiến đấu, tổ chức những trận đánh nhỏ lẻ vào đội hình địch, gây tình trạng căng thẳng phía sau lưng chúng. Cụm chốt Hữu Nghị Quan là một biểu hiện hết sức sinh động của tình đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu giữa 3 lực lượng dân quân, bộ đội biên phòng và bộ đội chủ lực.
    Cũng trong buổi sáng ngày 17-2-1979 lịch sử ấy, tại cụm điểm tựa Đồng Đăng, 2 trung đoàn địch phối hợp với xe tăng và pháo binh đánh chiếm các điểm cao Pháo Đài, 339, Thâm Mô. Ở điểm cao 339, ngoài lực lượng phòng ngự chủ yếu là đại đội 61 và 1 trung đội của đại đội 62 còn 2 khẩu pháo 85mm của tiểu đoàn 12 trung đoàn pháo 68.
    Các chiến sĩ ở cụm điểm tựa này hiểu sâu sắc rằng mất các điểm cao họ đang chiếm giữ, Đồng Đăng sẽ hoàn toàn lọt vào tay giặc và thị xã Lạng Sơn sẽ bị uy hiếp từ phía bắc. Vì vậy bằng mọi giá họ quyết hy sinh chiến đấu để bảo vệ các điểm cao ấy. 2 khẩu pháo 85mm trên điểm cao 339 đã đóng góp một phần quan trọng trong việc bảo vệ trận địa phòng ngự chủ yếu này của sư đoàn.
    Ngay từ những ngày đầu tiên đặt chân lên đất Lạng Sơn, rút kinh nghiệm trong chiến đấu phòng ngự Hoài Ân năm trước, bộ tư lệnh sư đoàn đã nghiên cứu bố trí thế trận pháo binh thành nhiều tầng, xen kẽ đội hình bộ binh để chi viện cho toàn khu vực, nhất là hướng phòng ngự chủ yếu. Theo đề nghị của các cán bộ chỉ huy trung đoàn pháo 68, sư đoàn không chỉ đưa pháo 85mm lên chiếm lĩnh điểm cao 339 mà tất cả các trận địa pháo của trung đoàn đều được đưa lên chiếm lĩnh các điểm cao. Ai cũng biết, sức mạnh của pháo binh sẽ được tính bằng cấp số nhân nếu có thế trận hoàn chỉnh, hiểm hóc, tạo được bất ngờ, tập trung được sức mạnh trong phòng ngự cũng như khi phản kích.
    Hôm ấy, khi địch ồ ạt tiến lên điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, 339, đại đội phó Nguyễn Văn Điển quyết định cho các khẩu đội đánh theo phương án 2 : rút một số pháo thủ dùng súng bộ binh bảo vệ trận địa, số còn lại sử dụng 2 khẩu pháo 85mm chi viện cho Pháo Đài và bắn xe tăng địch. Nhưng mới bắn được đến viên đạn thứ 7 thì một quả pháo địch nổ ngay bờ công sự, khẩu đội 2 hỏng thiết bị ngắm phải dừng lại. Khẩu đội 1 được lệnh tăng tốc độ bắn. Độ chính xác và hiệu quả cao của pháo bắn thẳng đã có tác dụng cùng với chiến sĩ trên Pháo Đài đánh bật nhiều đợt tiến công của 1 tiểu đoàn địch.
    9 giờ sáng, khi phát hiện 4 chiếc xe tăng đang bám đuôi nhau lên điểm cao 300, trung đội phó Hoàng Hữu Yên chỉ huy khẩu đội 1 bắn cháy 2 chiếc. 2 chiếc còn lại hốt hoảng bỏ chạy.
    Bằng lối đánh đó, lát sau, trung đội yên lại bắn cháy 1 trong 2 xe tăng ở hướng Na Sầm xuống. Đến 16 giờ, bắn tan một cụm địch ở sân bóng Đồng Đăng và 2 xe chở đầy lính từ Hữu Nghị Quan chạy tới.
    Trận địa 339 với các dũng sĩ kiên cường suốt ngày 17-2 đã trở thành một chướng ngại trên đường tiến quân của bộ binh và xe tăng địch. Chúng tập trung rất nhiều pháo tầm xa, pháo đi cùng, pháo xe tăng quyết tiêu diệt trận địa này. vào lúc 17 giờ, 3 chiến sĩ bị thương, khẩu đội 2 hỏng nòng, khẩu đội 1 hỏng kim hoả và bệ khoá nòng.
    Thấy trận địa pháo 85mm của ta im lặng đột ngột, địch ào ạt mở một đợt tiến công vào Thâm Mô, Pháo Đài, 300. Trên đường số 4, 4 chiếc xe tăng gầm rú tiến vào Đồng Đăng.
    Trước tình hình đó, yên đề xuất tháo kim hoả khẩu 2 lắp vào khẩu 1, ngắm bắn trực tiếp qua nòng. Ý kiến đơn giản nhưng đưa ra đúng lúc làm mọi người hết sức phấn chấn. Một lát sau, trận địa pháo 85mm lại sống dậy. Bằng 3 quả đạn, Hoàng Hữu yên lại bắn cháy 1 xe tăng trên đưòng số 4. 3 chiếc còn lại chưa kịp phản ứng thì những loạt đạn pháo của đơn vị bạn đã kịp thời trút xuống tiêu diệt toàn bộ tốp xe tăng này. Đó là trận địa pháo cồn Chủ do trung đội trưởng Nguyễn Trường Sơn chỉ huy. Phát hiện xe tăng địch đông mà trận địa 339 chỉ bắn phát một, Sơn chủ động ra lệnh các khẩu đội lấy phần tử, kịp thời nổ súng chi viện. Sau khi tốp xe tăng địch bị tiêu diệt, khẩu đội của Hoàng Hữu yên còn bắn được 18 viên đạn nữa làm tê liệt trận địa pháo 122mm của địch mới kéo đến chân điểm cao 402.
    Trong lúc các cán bộ và chiến sĩ ở cụm chốt Đồng Đăng đang nổ súng đánh địch quyết liệt thì Hoàng Quý Nam đại đội trưởng đại đội 42 cùng một số đông cán bộ chủ trì các đơn vị dự lớp tập huấn của sư đoàn đang trên đường cấp tốc trở về đơn vị.
    Hoàng Quý Nam là 1 cán bộ trẻ. Anh nhập ngũ năm 1971, mới tốt nghiệp sĩ quan và về trung đoàn được hơn 1 năm nay. Đó là 1 cán bộ sôi nổi, tự tin và quyết đoán, những đức tính cần thiết đối với 1 cán bộ chỉ huy quân sự. Hôm đó nam, Minh và một số cán bộ trong tiểu đoàn 4 về đến doanh trại thì cả khu nhà trước đây nhộn nhịp giờ vắng tanh vắng ngắt. Nam xuống bếp, gặp mấy chiến sĩ nuôi quân, anh lấy 1 khẩu AK, vài băng đạn rồi cùng Minh chạy về điểm cao Pháo Đài, nơi đại đội Nam đang chốt giữ.
    2 người chạy tới ngã tư đường sắt và đường 1B thì gặp 3 chiếc xe tăng địch đang bắn về phía trường cấp 1 gần đấy. Anh và Minh vội tạt xuống con suối nhỏ để tránh đạn. Tại đây, Nam lại mượn được khẩu B40 và 3 quả đạn.
    Nam và Minh nhanh nhẹn chạy vòng lên đón đầu 3 chiếc xe tăng. 2 tiếng nổ của đạn B40 dội xuống khe suối và lát sau khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi của Nam hiện ra ở chân dốc. Anh đưa trả khẩu B40, tiếc rẻ :"Bực quá, chỉ có 3 quả đạn thì quả thứ ba lại bị thối !". Mọi người nối nhau vượt qua đường. Cách họ một quãng, 2 chiếc xe tăng đang bốc cháy.
    Đó là chiến công đầu tiên của Hoàng Quý Nam.
  10. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Trong cuộc tiến công vào trận địa sư đoàn 3 của quân Trung Quốc xâm lược, điều làm cho bộ tư lệnh sư đoàn suy tính khá nhiều là quy mô, lực lượng lớn ngoài dự kiến và thủ đoạn vu hồi khá sâu, khá phổ biến của chúng.
    Qua sơ bộ nắm tình hình, sư đoàn đang phải đương đầu với gần 2 quân đoàn địch có xe tăng, pháo binh yểm trợ. Đó là lực lượng quá lớn so với khả năng sư đoàn hiện có. chúng đã thực hiện các mũi vu hồi nguy hiểm ở Tam Lung (cách thị xã lạng Sơn 7km) và Con Khoang, sau lưng trận địa phòng ngự chủ yếu. Ngày đầu chiến đáu, do được tập dượt nhiều lần theo phương án từ trước, với tinh thần tích cực tiến công, trận địa sư đoàn vẫn giữ vững. Nhưng liệu các đơn vị có đứng vững được trong những ngày tiếp theo không ?
    Vấn đề cấp bách là phải xác định rõ mũi tiến công chủ yếu của chúng để tập trung sức mạnh đánh bại nó. Không khẳng định rõ được vấn đề này hoặc phán đoán sai lệch nhất định chúng sẽ chọc thủng trận địa ta. Các cánh quân vu hồi của địch hết sức nguy hiểm, không những nó tạo thế chia cắt trận địa của sư đoàn mà còn ngăn chặn chi viện của ta từ phía sau lên phía trước. Tuy nhiên, tổ chức những mũi vu hồi quá sâu vào khu vực phòng ngự của ta, địch đã gặp những trở ngại lớn và bộc lộ nhiều mặt yếu : chúng nằm quá xa sự chỉ huy của cấp trên. Địa hình xa lạ, việc tiếp tế trở nên khó khăn trong điều kiện vận chuyển còn lạc hậu, rất dễ bị ta chặn đánh, chia cắt, cô lập và tiêu diệt. Những trận đánh trong ngày đầu của ta ở tam Lung và Song Áng là những biểu hiện cụ thể.
    Ở ngã ba Tam Lung, địch vừa xuất hiện đã bị tiểu đoàn 1 và đại đội công binh trung đoàn 2 chặn đánh phía trước, tiểu đoàn địa phương thị xã nổ súng phía sau, toàn bộ quân địch phải dừng lại không dám tiến ra đường 1A, phải kéo ĐKZ và trọng liên 12,8mm lên sườn đồi khống chế mặt đường, đồng thời giở thủ đoạn tàn sát đốt phá đối với nhân dân ta ở Bản Phân, khu công nhân địa chất.
    Trên cánh đồng Song Áng, khu vực Con Quyền, Con Khoang, mũi vu hồi chiến thuật của địch đã bị 1 trận thua rất đậm. Hôm ấy, sau khi các chiến sĩ trinh sát, vệ binh chặn bộ binh địch trước sở chỉ huy trung đoàn ở điểm cao 438, địch ùn ùn theo đường hẻm đổ vào Song Áng để tiến ra đường 1B thực hiện ý định vu hồi và chia cắt toàn bộ trận địa phòng ngự của trung đoàn 12 với hậu phương. Nhận thấy tính chất nguy hiểm của cánh quân này, trung đoàn trưởng Nguyễn Xuân Khánh và chính ủy Đồng Sĩ tài quyết định dùng đại đội 63, lực lượng cơ động của trung đoàn do cán bộ tiểu đoàn 6 trực tiếp chỉ huy, cơ động từ điểm cao 339 về Con Khoang, hình thành thế vây cắt tiêu diệt cụm quân chủ yếu trên cánh đồng Song Áng, một thung lũng nhỏ hẹp nằm lọt giữa dãy núi Con Khoang, Con Quyền và điểm cao 438. Mệnh lệnh chuyển đi qua các chiến sĩ truyền đạt.
    20 phút sau khi nhận lệnh, đại đội 63 đã bố trí hoàn chỉnh một trận phục kích vận động, lối đánh sở trường của đơn vị. Việc đầu tiên được đặt ra với cán bộ tiểu đoàn 6 là phải nhanh chóng cắt địch ra không cho chúng dồn vào Song Áng quá đông (lúc đó địch ở Song Áng đã có khoảng 1 tiểu đoàn và đang tiếp tục tràn vào theo hướng Mỹ Cao), đồng thời phải đánh từ phía sau và bên sườn, đẩy chúng ra đồng trống để tiêu diệt.
    9 giờ sáng, giữa lúc địch đang ngênh ngang xếp hàng dọc kéo vào Song Áng thì mũi khoá đuôi của trung đội 3 đã luồn rừng bất ngờ đánh thốc vào đội hình địch, dùng đại liên vít chặt con đường độc đạo từ Mỹ Cao vào Song Áng. Ngay lúc đó, từ bìa rừng, 2 trung đội còn lại xuất kích dưới sự chi viện của đại liên. Bị đánh một lúc từ nhiều phía, đội hình địch rối loạn. Chúng la hét, ằnm bẹp dưới đồng trống bắn trả. Các chiến sĩ đại đội 63 chia thành từng tổ, cắt địch ra từng mảng để tiêu diệt. từ phía sau, địch vẫn cố tràn lên cứu nguy cho đồng bọn nhưng chúng đã bị tổ khoá đuôi chặn đứng lại. Đại đội hoả lực của tiểu đoàn cũng quay nòng bắn thốc vào lưng viện binh địch.
    Trận đánh 1 chọi 4-5 của đại đội 63 trên cánh đồng Song Áng diễn ra ngày một quyết liệt. các chiến sĩ quân khí, y tá vừa làm nhiệm vụ của mình vừa cầm súng chiến đấu. Chính trị viên Phạm Hồng Giỏi bị thương, chính trị viên phó Việt, 1 học viên sĩ quan về thực tập lên thay thế.
    Càng cố gắng chống đỡ, địch càng lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Đường rút lui bị chặn, quân viện bị đánh tơi tả, không còn cách nào khác, chúng liều mạng tổ chức một bộ phận đánh lên Con Khoang, định dựa vào hang đá cầm cự. nhưng ở sườn núi Con Khoang, chúng đã gặp trung đội dân quân xã Hồng Phong do Trần Văn Trung chỉ huy đánh bật trở xuống.
    Hôm ấy trần Văn trung vừa cho anh em đưa bà con còn lại trong xã sơ tán vào hang đá, vừa lo tổ chức lực lượng chốt giữ ngoài cửa hang. Mọi việc vừa xong thì tiếng súng bên ngoài đã rộ lên. vài giờ sau, địch liều lĩnh đánh lên cửa hang nhưng cả 3 lần tiến công chúng đều bị đánh bật ra đồng trống. Đến đây, toàn bộ cụm quân của mũi vu hồi vào Song Áng đã bị tiêu diệt. Một số tên chạy lên phía bắc định vòng ra đường 1B nhưng bị các chiến sĩ vận tải, thông tin của tiểu đoàn đánh tiếp 1 trận nữa. Tối hôm đó, địch bắn hàng ngàn quả đạn hpáo vào cánh đồng Song Áng để xoá dấu vết thất bại. Một tên tù binh sau này bị tiểu đoàn 5 bắt ở cầu Khánh Khê đã thú nhận :"Hôm 17-2-1979, 1 tiểu đoàn của chúng tôi đã bị tiêu diệt gần hết ở chân điểm cao 438".
    Đối với đại đội 63, đây là 1 trận đánh không cân sức, nhưng với ý thức chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc, tận dụng được lợi thế về địa hình và vận dụng chiến thuật thích hợp nên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
    Những trận đánh trên đã mở ra khả năng tổ chức phản kích của ta và thấy được những mặt yếu của địch. tuy vậy chúng có 5 sư đoàn tiến công trong khi sư đoàn 3 chỉ có thể huy động tối đa đưọc 5 tiểu đoàn cơ động phản kích. Đánh vào đâu, với quy mô nào là một tính toán căng thẳng.
    Đêm 17-2-1979 thường vụ đảng uỷ và bộ tư lệnh sư đoàn họp, xác định : hướng tiến công chủ yếu của địch sẽ là Đồng Đăng-Lạng Sơn và các mũi vu hồi Tam Lung, Con Khoang chính là để giải quyết nhanh việc chiếm Đồng Đăng, làm bàn đạp thọc vào Lạng Sơn. Bẻ gãy các mũi vu hồi này thì thế trận của ta ở Đồng Đăng sẽ được giữ vững. Cuộc họp đang diễn ra sôi nổi thì có điện của Tổng Tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Tổng cụ Chính trị. Các đồng chí khen ngợi sư đoàn đã giữ vững thế trận, diệt hàng ngàn tên địch, bắn cháy 13 xe tăng, xe bọc thép của địch trong ngày chiến đấu đầu tiên; thông báo cho sư đoàn những thắng lợi của quân dân ta trên toàn tuyến biên giới và nhắc sư đoàn phải đặc biệt chú ý hướng tiến công Đồng Đăng và mũi vu hồi vào tam Lung của địch, phải tăng cường công tác chính trị tư tưởng và công tác đảm bảo vật chất để bộ đội đánh thắng.
    Từ phân tích cụ thể về địch, ta, qua chỉ đạo của Bộ, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định : dựa vào trận địa có sẵn, trụ bám kìm địch trên tất cả các hướng; sư đoàn sẽ tập trung lực lượng cơ động mở những trận phản kích vào hướng tiến công chính của địch. trước mắt, đánh bại cánh quân vu hồi của chúng để giữ vững thế trận của ta ở Đồng Đăng. Đây là 1 chủ trương kịp thời và chính xác làm căn bản cho xác định mục tiêu, sử dụng lực lượng của sư đoàn trong quá trình chiến đấu, tránh được tình trạng rải đều lực lưọng, "be bờ" đối đầu với địch. Ngay đêm đó, tham mưu trưởng sư đoàn Bùi Quốc Miện, chủ nhiệm chính trị Lê Văn Quýt cùng một số cán bộ cơ quan xuống trung đoàn 12 tăng cường chỉ huy, tổ chức lại mạng thông tin liên lạc từ sư đoàn đến trung đoàn và các điểm tựa. Tiểu đoàn cao xạ 37mm được lệnh bám giữ Thâm Mô. Lực lượng cơ động của trung đoàn 2 bước vào chiến đấu ở Tam Lung. cũng đêm đó, Bộ Tư lệnh Quân khu 1 điều tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 197 Bắc Thái tăng cường cho sư đoàn 3.
    suốt đêm 17, cả sư đoàn thức trắng chuẩn bị cho những trận đánh ngày hôm sau. Trên những con đường lớn 1A, 1B, 4A, 4B người đi lại cuồn cuộn. Nhân dân sơ tán xuống những làng bản ở phía sau, bộ đội đổ ra phía trước. Xe đón dân, xe chuyển quân nối nhau chạy trên mặt đường. thỉnh thoảng một chiếc xe tải đỗ cạnh một đoàn quân. Ba bốn cô nữ nhân viên mặc tạp dề xanh đứng trên thùng xe gọi to :"Đồng chí chỉ huy cho anh em mua hàng bách hoá. Cửa hàng bách hoá thị xã đây !".
    Thị xã Lạng Sơn sối động. Những cơn gió mùa ào ạt tràn lên các mái nhà, các đường phố không chỉ mang theo hơi lạnh mà còn cuốn theo mùi thuốc súng nồng nặc, mùi khét của cỏ cây bị đốt cháy từ phía trước tràn về. trên đường, từng đoàn người gồng gánh, dắt díu nhau qua cầu Kỳ Lừa xuôi theo đường 1A. Đó là những người dân từ Cao Lâu, Xuất Lễ, Thanh Loà... suốt 1 ngày chạy giặc mới về đến đây. Có người chẳng kịp mang theo thứ gì ngoài bộ quần áo mặc trên người. Có trẻ em chưa đầy tháng. Họ kể cho nhau tội ác quân Trung Quốc đối với bản làng mình. Chuyện chúng vây trường cấp 1 rồi xả súng bắn chết cả giáo viên và học sinh, chuyện những xe ca trên đường đi Lộc Bình bị chúng chặn cướp của cải rồi bắn chết hành khách. Chuyện cửa hàng bách hoá và nhà ga Đồng Đăng bị chúng xông vào cướp hàng hoá, hãm hiếp nhân viên... Cứ thế, người phía trước nói với người phía sau, nhân dân nói với bộ đội, làm nung nấu thêm mối căm giận quân Trung Quốc xâm lược.
    Đêm hôm ấy, đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam phát đi bản tuyên bố của Đảng và Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông báo cho nhân dân cả nước và nhân dân thế giới về hành động điên cuồng, trắng trợn của nhà cầm quyền Bắc Kinh. bản tuyên bố tố cáo tội ác của 60 vạn quân Trung Quốc dã man, đốt phá nhà cửa, phá hoại các công trình kinh tế, trường học, bệnh viện, đánh đập, hãm hiếp, bắn giết, vơ vét tài sản... Bản tuyên bố kêu gọi :"Theo lời dạy của Hồ Chủ tịch kính yêu, không có gì quý hơn độc lập tự do, một lần nữa toàn quân, toàn dân ta, gái, trai, già, trẻ đoàn kết một lòng, triệu người như một, nhất tề đứng dậy quyết chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc..."
    Hưởng ứng lời kêu gọi thiêng liêng ấy, một lần nữa cả nước lại vào trận.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này