1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 và 1984

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chiangshan, 11/02/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Trong cuộc tiến công vào trận địa sư đoàn 3 của quân Trung Quốc xâm lược, điều làm cho bộ tư lệnh sư đoàn suy tính khá nhiều là quy mô, lực lượng lớn ngoài dự kiến và thủ đoạn vu hồi khá sâu, khá phổ biến của chúng.
    Qua sơ bộ nắm tình hình, sư đoàn đang phải đương đầu với gần 2 quân đoàn địch có xe tăng, pháo binh yểm trợ. Đó là lực lượng quá lớn so với khả năng sư đoàn hiện có. chúng đã thực hiện các mũi vu hồi nguy hiểm ở Tam Lung (cách thị xã lạng Sơn 7km) và Con Khoang, sau lưng trận địa phòng ngự chủ yếu. Ngày đầu chiến đáu, do được tập dượt nhiều lần theo phương án từ trước, với tinh thần tích cực tiến công, trận địa sư đoàn vẫn giữ vững. Nhưng liệu các đơn vị có đứng vững được trong những ngày tiếp theo không ?
    Vấn đề cấp bách là phải xác định rõ mũi tiến công chủ yếu của chúng để tập trung sức mạnh đánh bại nó. Không khẳng định rõ được vấn đề này hoặc phán đoán sai lệch nhất định chúng sẽ chọc thủng trận địa ta. Các cánh quân vu hồi của địch hết sức nguy hiểm, không những nó tạo thế chia cắt trận địa của sư đoàn mà còn ngăn chặn chi viện của ta từ phía sau lên phía trước. Tuy nhiên, tổ chức những mũi vu hồi quá sâu vào khu vực phòng ngự của ta, địch đã gặp những trở ngại lớn và bộc lộ nhiều mặt yếu : chúng nằm quá xa sự chỉ huy của cấp trên. Địa hình xa lạ, việc tiếp tế trở nên khó khăn trong điều kiện vận chuyển còn lạc hậu, rất dễ bị ta chặn đánh, chia cắt, cô lập và tiêu diệt. Những trận đánh trong ngày đầu của ta ở tam Lung và Song Áng là những biểu hiện cụ thể.
    Ở ngã ba Tam Lung, địch vừa xuất hiện đã bị tiểu đoàn 1 và đại đội công binh trung đoàn 2 chặn đánh phía trước, tiểu đoàn địa phương thị xã nổ súng phía sau, toàn bộ quân địch phải dừng lại không dám tiến ra đường 1A, phải kéo ĐKZ và trọng liên 12,8mm lên sườn đồi khống chế mặt đường, đồng thời giở thủ đoạn tàn sát đốt phá đối với nhân dân ta ở Bản Phân, khu công nhân địa chất.
    Trên cánh đồng Song Áng, khu vực Con Quyền, Con Khoang, mũi vu hồi chiến thuật của địch đã bị 1 trận thua rất đậm. Hôm ấy, sau khi các chiến sĩ trinh sát, vệ binh chặn bộ binh địch trước sở chỉ huy trung đoàn ở điểm cao 438, địch ùn ùn theo đường hẻm đổ vào Song Áng để tiến ra đường 1B thực hiện ý định vu hồi và chia cắt toàn bộ trận địa phòng ngự của trung đoàn 12 với hậu phương. Nhận thấy tính chất nguy hiểm của cánh quân này, trung đoàn trưởng Nguyễn Xuân Khánh và chính ủy Đồng Sĩ tài quyết định dùng đại đội 63, lực lượng cơ động của trung đoàn do cán bộ tiểu đoàn 6 trực tiếp chỉ huy, cơ động từ điểm cao 339 về Con Khoang, hình thành thế vây cắt tiêu diệt cụm quân chủ yếu trên cánh đồng Song Áng, một thung lũng nhỏ hẹp nằm lọt giữa dãy núi Con Khoang, Con Quyền và điểm cao 438. Mệnh lệnh chuyển đi qua các chiến sĩ truyền đạt.
    20 phút sau khi nhận lệnh, đại đội 63 đã bố trí hoàn chỉnh một trận phục kích vận động, lối đánh sở trường của đơn vị. Việc đầu tiên được đặt ra với cán bộ tiểu đoàn 6 là phải nhanh chóng cắt địch ra không cho chúng dồn vào Song Áng quá đông (lúc đó địch ở Song Áng đã có khoảng 1 tiểu đoàn và đang tiếp tục tràn vào theo hướng Mỹ Cao), đồng thời phải đánh từ phía sau và bên sườn, đẩy chúng ra đồng trống để tiêu diệt.
    9 giờ sáng, giữa lúc địch đang ngênh ngang xếp hàng dọc kéo vào Song Áng thì mũi khoá đuôi của trung đội 3 đã luồn rừng bất ngờ đánh thốc vào đội hình địch, dùng đại liên vít chặt con đường độc đạo từ Mỹ Cao vào Song Áng. Ngay lúc đó, từ bìa rừng, 2 trung đội còn lại xuất kích dưới sự chi viện của đại liên. Bị đánh một lúc từ nhiều phía, đội hình địch rối loạn. Chúng la hét, ằnm bẹp dưới đồng trống bắn trả. Các chiến sĩ đại đội 63 chia thành từng tổ, cắt địch ra từng mảng để tiêu diệt. từ phía sau, địch vẫn cố tràn lên cứu nguy cho đồng bọn nhưng chúng đã bị tổ khoá đuôi chặn đứng lại. Đại đội hoả lực của tiểu đoàn cũng quay nòng bắn thốc vào lưng viện binh địch.
    Trận đánh 1 chọi 4-5 của đại đội 63 trên cánh đồng Song Áng diễn ra ngày một quyết liệt. các chiến sĩ quân khí, y tá vừa làm nhiệm vụ của mình vừa cầm súng chiến đấu. Chính trị viên Phạm Hồng Giỏi bị thương, chính trị viên phó Việt, 1 học viên sĩ quan về thực tập lên thay thế.
    Càng cố gắng chống đỡ, địch càng lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Đường rút lui bị chặn, quân viện bị đánh tơi tả, không còn cách nào khác, chúng liều mạng tổ chức một bộ phận đánh lên Con Khoang, định dựa vào hang đá cầm cự. nhưng ở sườn núi Con Khoang, chúng đã gặp trung đội dân quân xã Hồng Phong do Trần Văn Trung chỉ huy đánh bật trở xuống.
    Hôm ấy trần Văn trung vừa cho anh em đưa bà con còn lại trong xã sơ tán vào hang đá, vừa lo tổ chức lực lượng chốt giữ ngoài cửa hang. Mọi việc vừa xong thì tiếng súng bên ngoài đã rộ lên. vài giờ sau, địch liều lĩnh đánh lên cửa hang nhưng cả 3 lần tiến công chúng đều bị đánh bật ra đồng trống. Đến đây, toàn bộ cụm quân của mũi vu hồi vào Song Áng đã bị tiêu diệt. Một số tên chạy lên phía bắc định vòng ra đường 1B nhưng bị các chiến sĩ vận tải, thông tin của tiểu đoàn đánh tiếp 1 trận nữa. Tối hôm đó, địch bắn hàng ngàn quả đạn hpáo vào cánh đồng Song Áng để xoá dấu vết thất bại. Một tên tù binh sau này bị tiểu đoàn 5 bắt ở cầu Khánh Khê đã thú nhận :"Hôm 17-2-1979, 1 tiểu đoàn của chúng tôi đã bị tiêu diệt gần hết ở chân điểm cao 438".
    Đối với đại đội 63, đây là 1 trận đánh không cân sức, nhưng với ý thức chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc, tận dụng được lợi thế về địa hình và vận dụng chiến thuật thích hợp nên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
    Những trận đánh trên đã mở ra khả năng tổ chức phản kích của ta và thấy được những mặt yếu của địch. tuy vậy chúng có 5 sư đoàn tiến công trong khi sư đoàn 3 chỉ có thể huy động tối đa đưọc 5 tiểu đoàn cơ động phản kích. Đánh vào đâu, với quy mô nào là một tính toán căng thẳng.
    Đêm 17-2-1979 thường vụ đảng uỷ và bộ tư lệnh sư đoàn họp, xác định : hướng tiến công chủ yếu của địch sẽ là Đồng Đăng-Lạng Sơn và các mũi vu hồi Tam Lung, Con Khoang chính là để giải quyết nhanh việc chiếm Đồng Đăng, làm bàn đạp thọc vào Lạng Sơn. Bẻ gãy các mũi vu hồi này thì thế trận của ta ở Đồng Đăng sẽ được giữ vững. Cuộc họp đang diễn ra sôi nổi thì có điện của Tổng Tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Tổng cụ Chính trị. Các đồng chí khen ngợi sư đoàn đã giữ vững thế trận, diệt hàng ngàn tên địch, bắn cháy 13 xe tăng, xe bọc thép của địch trong ngày chiến đấu đầu tiên; thông báo cho sư đoàn những thắng lợi của quân dân ta trên toàn tuyến biên giới và nhắc sư đoàn phải đặc biệt chú ý hướng tiến công Đồng Đăng và mũi vu hồi vào tam Lung của địch, phải tăng cường công tác chính trị tư tưởng và công tác đảm bảo vật chất để bộ đội đánh thắng.
    Từ phân tích cụ thể về địch, ta, qua chỉ đạo của Bộ, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định : dựa vào trận địa có sẵn, trụ bám kìm địch trên tất cả các hướng; sư đoàn sẽ tập trung lực lượng cơ động mở những trận phản kích vào hướng tiến công chính của địch. trước mắt, đánh bại cánh quân vu hồi của chúng để giữ vững thế trận của ta ở Đồng Đăng. Đây là 1 chủ trương kịp thời và chính xác làm căn bản cho xác định mục tiêu, sử dụng lực lượng của sư đoàn trong quá trình chiến đấu, tránh được tình trạng rải đều lực lưọng, "be bờ" đối đầu với địch. Ngay đêm đó, tham mưu trưởng sư đoàn Bùi Quốc Miện, chủ nhiệm chính trị Lê Văn Quýt cùng một số cán bộ cơ quan xuống trung đoàn 12 tăng cường chỉ huy, tổ chức lại mạng thông tin liên lạc từ sư đoàn đến trung đoàn và các điểm tựa. Tiểu đoàn cao xạ 37mm được lệnh bám giữ Thâm Mô. Lực lượng cơ động của trung đoàn 2 bước vào chiến đấu ở Tam Lung. cũng đêm đó, Bộ Tư lệnh Quân khu 1 điều tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 197 Bắc Thái tăng cường cho sư đoàn 3.
    suốt đêm 17, cả sư đoàn thức trắng chuẩn bị cho những trận đánh ngày hôm sau. Trên những con đường lớn 1A, 1B, 4A, 4B người đi lại cuồn cuộn. Nhân dân sơ tán xuống những làng bản ở phía sau, bộ đội đổ ra phía trước. Xe đón dân, xe chuyển quân nối nhau chạy trên mặt đường. thỉnh thoảng một chiếc xe tải đỗ cạnh một đoàn quân. Ba bốn cô nữ nhân viên mặc tạp dề xanh đứng trên thùng xe gọi to :"Đồng chí chỉ huy cho anh em mua hàng bách hoá. Cửa hàng bách hoá thị xã đây !".
    Thị xã Lạng Sơn sối động. Những cơn gió mùa ào ạt tràn lên các mái nhà, các đường phố không chỉ mang theo hơi lạnh mà còn cuốn theo mùi thuốc súng nồng nặc, mùi khét của cỏ cây bị đốt cháy từ phía trước tràn về. trên đường, từng đoàn người gồng gánh, dắt díu nhau qua cầu Kỳ Lừa xuôi theo đường 1A. Đó là những người dân từ Cao Lâu, Xuất Lễ, Thanh Loà... suốt 1 ngày chạy giặc mới về đến đây. Có người chẳng kịp mang theo thứ gì ngoài bộ quần áo mặc trên người. Có trẻ em chưa đầy tháng. Họ kể cho nhau tội ác quân Trung Quốc đối với bản làng mình. Chuyện chúng vây trường cấp 1 rồi xả súng bắn chết cả giáo viên và học sinh, chuyện những xe ca trên đường đi Lộc Bình bị chúng chặn cướp của cải rồi bắn chết hành khách. Chuyện cửa hàng bách hoá và nhà ga Đồng Đăng bị chúng xông vào cướp hàng hoá, hãm hiếp nhân viên... Cứ thế, người phía trước nói với người phía sau, nhân dân nói với bộ đội, làm nung nấu thêm mối căm giận quân Trung Quốc xâm lược.
    Đêm hôm ấy, đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam phát đi bản tuyên bố của Đảng và Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông báo cho nhân dân cả nước và nhân dân thế giới về hành động điên cuồng, trắng trợn của nhà cầm quyền Bắc Kinh. bản tuyên bố tố cáo tội ác của 60 vạn quân Trung Quốc dã man, đốt phá nhà cửa, phá hoại các công trình kinh tế, trường học, bệnh viện, đánh đập, hãm hiếp, bắn giết, vơ vét tài sản... Bản tuyên bố kêu gọi :"Theo lời dạy của Hồ Chủ tịch kính yêu, không có gì quý hơn độc lập tự do, một lần nữa toàn quân, toàn dân ta, gái, trai, già, trẻ đoàn kết một lòng, triệu người như một, nhất tề đứng dậy quyết chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc..."
    Hưởng ứng lời kêu gọi thiêng liêng ấy, một lần nữa cả nước lại vào trận.
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    NHỮNG ĐIỂM CAO BẤT TỬ
    (trích kí sự lịch sử Sư đoàn Sao Vàng)
    Trong khi những tiếng thét phẫn nộ :"Hãy chặn đứng bàn tay của bọn Trung Quốc xâm lược", "Kiên quyết bảo vệ Việt Nam, ủng hộ Việt Nam chiến đấu", "Không được đụng tới Vệt Nam"... đang vang lên ở khắp nơi trên thế giới thì ở Lạng Sơn, hưởng ứng lời kêu gọi của tỉnh uỷ và UBND tỉnh, một phong trào thi đua "Quyết đánh thắng quân Trung Quốc xâm lược" đã diễn ra ở khắp nơi.
    Các đơn vị tự vệ, dân quân được bổ sung thêm quân số, trang bị; nhiều đại đội, trung đội được điều lên tăng cường cho tuyến một. Cơ quan an ninh tỉnh được lệnh tăng cường hoạt động, phân loại những phần tử xấu, lập các phương án quét sạch "lực lượng thứ năm" của địch, đạp tan kế hoạch gây bạo loạn từ bên trong của chúng.
    Từng đoàn xe tải của Hà Bắc, Bắc Thái, Hà Nội... chở đạn, chở hàng nối nhau ngược lên Lạng Sơn. Đoàn tàu hoả Hà Nội-Đồng Mỏ được lệnh tăng chuyến, chở quân, chở phương tiện lên biên giới, chở đồng bào sơ tán về phía sau. Lực lượng vũ trang các tỉnh, thành phố từ Bình Trị Thiên trở ra được lệnh chuẩn bị gấp rút đi chiến đấu. Nhân dân khắp nơi trong cả nước sục sôi khí thế đánh giặc bảo vệ quê hương. Trước hoạ xâm lăng, cả dân tộc ta lại nhất tề đứng lên xiết chặt đội ngũ.
    Sáng ngày 18-2-1979, sư đoàn mở trận phản kích đầu tiên với quy mô trung đoàn thiếu vào cánh quân vu hồi của địch ở Tam Lung. một trong những mục tiêu chủ yếu của trận tiến công là phải chiếm lại các điểm cao Chậu Cảnh, đồi Địa Chất, Bản Phân, những vị trí quan trọng tại Tam Lung vừa bị địch chiếm.
    Chậu Cảnh là ngọn đồi cao gồm 4 mỏm nằm án ngữ ngay bên cạnh khúc lượn của đường 1A. Đại đội 5 (tiểu đoàn 2) sau khi pháo ngừng bắn đã lao thẳng lên đánh chiếm tầng công sự thứ nhất. Một loạt đạn đại liên của địch bắn chặn, đại đội trưởng Đồng Văn Sinh hy sinh, chính trị viên Hải ra lệnh cho bộ đội xung phong tiếp. Cả đại đội tràn lên đánh chiếm tầng công sự thứ hai. Chính trị viên Hải vừa dẫn đầu mũi chính diện vượt qua một sườn đồi bỗng đứng khựng lại lảo đảo rồi ngã vào lòng đại đội phó Dự. "Trả thù cho anh Hải, anh Sinh !". Dự hô lớn rồi bật dậy dẫn tổ chính diện đánh thốc lên tuyến công sự địch. Khí thế tiến công của chiến sĩ ta làm cho quân địch khiếp sợ.
    30 phút sau, đồi Chậu Cảnh im hẳn tiếng súng. Xác địch nằm rải rác ở cả 4 mỏm đồi. Những tên sống sót vất súng, chạy thục mạng về điểm cao 409. Ở hướng quan trọng, tiểu đoàn 1 cũng đã làm chủ Bản Phân, đồi Địa Chất.
    Vậy là 2 cánh quân vu hồi của địch ở đường 1A và 1B bị giáng đòn đau ở Chậu Cảnh và Song Áng. Trên các điểm tựa, bộ đội ta vẫn trụ bám kiên cường đẩy lui hàng tiểu đoàn, trung đoàn địch tiến công. Điều đó làm bọn chỉ huy địch cay cú. Ngày 18-2 đã trôi qua nhưng thị xã Lạng Sơn, nơi kế hoạch hội quân của chúng sau 48 tiếng đồng hồ vẫn còn quá xa và đầy nguy hiểm. Chúng tiếp tục ném thêm 2 trung đoàn bộ binh nữa để chia cắt bằng được con đường 1A, 1B. rạng sáng ngày 19-2-1979 lợi dụng sương mù và sử dụng một lực lượng pháo binh chi viện dày đặc, địch đã chiếm lại được đồi Chậu Cảnh và điểm cao Khôn Làng.
    Phải đánh những trận phản kích với quy mô lớn hơn trên cả 2 hướng : tiêu diệt bọn địch phía trước và bọn địch phía sau không cho chúng ùn lên để giữ vững thế trận. Đó là quyết định của bộ tư lệnh sư đoàn đêm 19-2-1979. Theo kế hoạch này, ngay sáng 20-2-1979 sư đoàn mở 2 khu vực tiến công. Khu vực 1 (hướng chính) dùng trung đoàn 2 có chi viện trực tiếp của hoả lực sư đoàn, tiêu diệt địch ở đồi Chậu Cảnh, mở thông đường 1A lên Đồng Đăng. Khu vực 2 dùng tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn cong binh 15 quét sạch địch từ Khôn Làng đến Con Khoang mở thông đường 1B lên cụm điểm tựa 339, Thâm Mô, Pháo Đài, nơi vẫn đang diễn ra những trận chiến đấu giằng co quyết liệt từ sáng 17-2-1979. Các trận địa pháo được điều chỉnh để vừa chi viện trực tiếp cho bộ binh tiến công vừa bắn phá các trận địa pháo và các cụm quân địch ở phía sau.
    Một cuộc chạy đua với thời gian, với địch diễn ra căng thẳng suốt đêm 19. Nhiều trận địa pháo được bố trí lại trên hướng chủ yếu. Sở chỉ huy trung đoàn 2, các đài quan sát pháo binh cũng tiến lên phía trước, áp sát khu vực chiến đấu của trung đoàn. Các đơn vị bộ binh tăng cường cho các hướng cũng được lệnh gấp rút đến vị trí chiếm lĩnh trước khi trời sáng. Riêng tiểu đoàn 7 phải vượt quãng đường dài hơn 50km trong điều kiện thiếu xe vận chuyển. Nhưng nhờ xử trí linh hoạt của cơ quan tham mưu và hậu cần sư đoàn, nhờ sự chi viện kịp thời của tỉnh Lạng Sơn nên đơn vị đã đến trận địa đúng kế hoạch bằng những chiếc xe kéo pháo, xe tải và đội xe Hải Âu của tỉnh.
    5 giờ ngày 20-2-1979, tiểu đoàn 7 và đại đội 1 công binh sư đoàn do trung đoàn 12 chỉ huy bất ngờ đánh chiếm điểm cao Khôn Làng. Các chiến sĩ xung kích do đại đội trưởng Nguyễn Nho Bông chỉ huy đã táo bạo thọc thẳng lên trận địa địch, tiêu diệt gần hết 1 đại đội, mở đầu cho những đợt phản kích mới.
    Trong khi đó, tiểu đoàn 3 (trung đoàn 2) đang nôn nóng chờ sương mù tan để đánh chiếm đồi Chậu Cảnh. Đây là trận đầu tiên của tiểu đoàn đánh quân Trung Quốc xâm lược. Lực lượng của tiểu đoàn còn rất sung sức cả về số lượng lẫn chất lượng. Trăm phần trăm cán bộ, chiến sĩ xung phong nhận nhiệm vụ chiến đấu ở tuyến một.
    7 giờ sáng, giữa lúc địch đang đi lại lộn xộn ở mỏm 2, sư đoàn trưởng ra lệnh cho pháo binh nổ súng. Những viên đạn pháo bắn thẳng 85mm, pháo bắn vòng cầu liên tiếp trùm xuống 4 mỏm đồi Chậu Cảnh 1 biển lửa. Các điểm cao 409, 611, 675, những điểm tựa ở sau lưng chúng cũng nổ cháy dữ dội. Trong khi đó, các chiến sĩ tiểu đoàn 3 nhanh chóng đánh chiếm bàn đạp đồi sắn. Đại đội 10, mũi chủ yếu của tiểu đoàn, khi pháo binh vừa ngừng bắn đã đánh thốc lên đồi Chậu Cảnh dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Phan Bá Mạnh. Vừa sử dụng M79, vừa chỉ huy 2 khẩu đại liên và 2 khẩu cối 60mm, Mạnh kịp thời chi viện cho các chiến sĩ đánh chiếm mỏm 2 trong vòng 10 phút. Tại mỏm đồi này 2 anh em Nguyễn Đức Vượng và Nguyễn Đức Huệ cùng nhập ngũ một ngày, vừa yểm trợ nhau xung phong, vừa nhặt hàng chục quả lựu đạn của địch ném trả chúng, diệt hơn 30 tên địch. Tên tiểu đoàn trưởng chỉ huy mỏm 2 rối rít gọi điện xin rút lui nhưng hắn chỉ nhận được 1 bức điện trả lời cụt lủn : "Các anh giữ được thì sống, không giữ được thì chết".
    Ở hướng quan trọng, sau khi đánh chiếm tầng công sự thứ nhất, các chiến sĩ đại đội 11 vừa xung phong lên tầng thứ hai đã bị đạn 12,8mm ở điểm cao 675 bắn thúc vào sườn. Rất nhanh, tiểu đoàn trưởng Đỗ Ngọc Ngòi đề nghị sư đoàn bắn pháo kiềm chế điểm cao 675 và ra lệnh cho đại đội 10 từ mỏm 2 đánh qua mỏm 1 chi viện cho đại đội 11. Bị ép từ 2 phía, bọn địch ở mỏm 1 bung ra tháo chạy, bỏ lại những tên bị thương chưa kịp băng bó đang lăn lộn trên mặt đồi. Sau 1 giờ chiến đấu, điểm cao Chậu Cảnh lại sạch bóng giặc. Hơn 200 tên địch phơi xác trên đỉnh đồi. Tổ quay phim của Phan Sĩ Lan cùng xung phong với bộ đội, đã kịp thời ghi vào ống kính những hình ảnh thảm hại của quân Trung Quốc xâm lược.
    Trận tiêu diệt tiểu đoàn địch ở đồi Chậu Cảnh của tiểu đoàn 3 là kết quả của tinh thần chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc, khẩn trương của cán bộ, chiến sĩ và kết quả chuẩn bị công phu của các đơn vị hoả lực. Pháo bắn thẳng cũng như pháo bắn vòng cầu đã góp một phần chiến công lớn trong trận chiến đấu xuất sắc này.
    Sau trận phản kích thắng lợi ở Chậu Cảnh, tiểu đoàn 7 (thiếu) chiếm lại điểm cao Khôn Làng lần thứ hai vào ngày 21-2 và trận vận động tiến công của tiểu đoàn 1 và 4 ở khu vực Thâm Mô ngày 22-2 làm cho các cánh quân vu hồi của địch bị thiệt hại nặng. Từ hung hăng, ào ạt, địch bắt đầu chững lại để dồn quân, dồn phương tiện, đánh lấn dần từng mục tiêu. Điều này chứng tỏ chúng đang rất lúng túng về chiến thuật, chiến dịch. Bọn lính Trung Quốc từ chỗ hò hét "tả ! tả !" lao lên theo tiếng kèn và hiệu lệnh đã bắt đầu bỏ chạy khi bị pháo bắn hoặc bộ binh ta phản kích. Trên hướng phòng ngự của tiểu đoàn 5 ở Bản Thấu, từ sau trận thất bại ngày 18-2-1979, địch chưa dám tổ chức tấn công thêm lần nào. Tại Tam Lung, chúng chỉ dùng pháo bắn phá hoại trận địa của ta ở Chậu Cảnh. Địch tập trung lực lượng để đánh chiếm khu vực Pháo Đài, Thâm Mô, 339. Mỗi ngày, chúng bắn hàng vạn quả đạn pháo lên các điểm tựa và thay quân liên tục. Trung đoàn này bị đánh giập đầu, chúng đưa trung đoàn khác lên thay thế. Mỗi ngày chúng tổ chức 7-10 lần tiến công, có khi dùng lực lượng gần 1 sư đoàn cùng tiến công để đánh vào các điểm tựa chưa đầy 2 tiểu đoàn của ta.
    Các chiến sĩ trung đoàn 12, các chiến sĩ pháo binh, công binh đã chiến đấu dai dẳng, quyết liệt, gian khổ. Hàng ngàn tên địch bị đền tội, hơn 20 xe tăng của chúng bị bắn cháy, nhưng lực lượng của ta cũng vợi dần. Súng đạn phải dồn lại cho người còn sống. Bộ đội ban ngày quần nhau với địch, ban đêm sửa sang công sự, giải quyết thương binh, tử sĩ. Các chiến sĩ vận tải, cán bộ, chiến sĩ cơ quan đêm nào cũng len lỏi giữa các cụm quân địch tiếp đạn, nước, lương thực thực phẩm cho các điểm tựa. Những nắm cơm vắt đêm đêm mang lên trận địa nhiều khi thấm máu của các chiến sĩ nuôi quân, liên lạc, y tá. Các chiến sĩ bảo vệ cụm điểm tựa Đồng Đăng đã làm sống lại một Cây Rui, một Đầu Tượng, 174 trên đất Lạng Sơn và ở đó một lần nữa họ lại trở thành bất tử.
    Bọn địch càng cay cú vì tổn thất và vì những tham vọng ban đầu chưa thực hiện được. Đã 5 ngày trôi qua nhưng thị xã Lạng Sơn vẫn còn xa cách hàng chục km và đội quân hàng vạn tên của chúng vẫn còn bị ghìm cứng lại trước những ngọn đồi nhỏ bé tưởng như lúc nào cũng chỉ có mấy chục chiến sĩ ta canh giữ và chỉ cách biên giới chưa đầy 4km. Hãng thông tấn AFP lúc bấy giờ đã nhận xét : "So với quân đội Việt Nam, một quân đội dày dạn chiến đấu, quân đội Trung Quốc tỏ ra có sức phản công yếu. Mới gặp quân địa phương của Việt Nam họ đã bị chặn lại và bị tổn thất nặng".
    Tuy nhiên chúng vẫn còn tiềm lực nên sau mỗi lần thất bại, chúng càng điên cuồng hơn, thủ đoạn càng thâm hiểm hơn. Nhưng trước khi lên được Pháo Đài, Thâm Mô, 339 chúng đã phải chịu một tổn thất nặng nề, và cụm điểm tựa Đồng Đăng đã chói ngời trong trang sử sư đoàn với những chiến công tuyệt vời của các dũng sĩ đã hy sinh chiến đấu để bảo vệ những điểm cao ấy.
    Không chiếm được các điểm cao Pháo Đài, Thâm Mô, 339, địch không thể làm chủ được Đồng Đăng, không thể dồn quân đánh vào Tam Lung để tới thị xã Lạng Sơn được. Vì thế đến ngày 21-2, chúng tung toàn bộ lực lượng dự bị của quân đoàn 55 vào khu vực Đồng Đăng và quân đoàn 54 dự bị chiến dịch cũng được lệnh áp sát biên giới Lạng Sơn nhằm tạo một ưu thế gấp hàng chục lần về binh hảo lực để đánh vào cụm điểm tựa Đồng Đăng.
    Phân tích địch-ta, bộ tư lệnh sư đoàn chủ trương kìm cánh quân địch ở Tam Lung để dồn sức tăng cường cho hướng chủ yếu Đồng Đăng. Ngay đêm 20-2, sư đoàn phó Đới Ngọc Cầu và phó chính uỷ Nguyễn Ngọc San được lệnh xuống tăng cường chỉ huy trung đoàn 12. Các trận địa pháo được bổ sung thêm quân số và đạn. Nhiều chuyến hàng đã vượt qua khu vực Tam Lung lên chi viện cho cụm điểm tựa Đồng Đăng.
    [​IMG]
    Diệt địch ở ngã ba Tam Lung (tháng 2-1979).
    (Ảnh của bác fanlong74)
  3. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    NHỮNG ĐIỂM CAO BẤT TỬ
    (trích kí sự lịch sử Sư đoàn Sao Vàng)
    Trong khi những tiếng thét phẫn nộ :"Hãy chặn đứng bàn tay của bọn Trung Quốc xâm lược", "Kiên quyết bảo vệ Việt Nam, ủng hộ Việt Nam chiến đấu", "Không được đụng tới Vệt Nam"... đang vang lên ở khắp nơi trên thế giới thì ở Lạng Sơn, hưởng ứng lời kêu gọi của tỉnh uỷ và UBND tỉnh, một phong trào thi đua "Quyết đánh thắng quân Trung Quốc xâm lược" đã diễn ra ở khắp nơi.
    Các đơn vị tự vệ, dân quân được bổ sung thêm quân số, trang bị; nhiều đại đội, trung đội được điều lên tăng cường cho tuyến một. Cơ quan an ninh tỉnh được lệnh tăng cường hoạt động, phân loại những phần tử xấu, lập các phương án quét sạch "lực lượng thứ năm" của địch, đạp tan kế hoạch gây bạo loạn từ bên trong của chúng.
    Từng đoàn xe tải của Hà Bắc, Bắc Thái, Hà Nội... chở đạn, chở hàng nối nhau ngược lên Lạng Sơn. Đoàn tàu hoả Hà Nội-Đồng Mỏ được lệnh tăng chuyến, chở quân, chở phương tiện lên biên giới, chở đồng bào sơ tán về phía sau. Lực lượng vũ trang các tỉnh, thành phố từ Bình Trị Thiên trở ra được lệnh chuẩn bị gấp rút đi chiến đấu. Nhân dân khắp nơi trong cả nước sục sôi khí thế đánh giặc bảo vệ quê hương. Trước hoạ xâm lăng, cả dân tộc ta lại nhất tề đứng lên xiết chặt đội ngũ.
    Sáng ngày 18-2-1979, sư đoàn mở trận phản kích đầu tiên với quy mô trung đoàn thiếu vào cánh quân vu hồi của địch ở Tam Lung. một trong những mục tiêu chủ yếu của trận tiến công là phải chiếm lại các điểm cao Chậu Cảnh, đồi Địa Chất, Bản Phân, những vị trí quan trọng tại Tam Lung vừa bị địch chiếm.
    Chậu Cảnh là ngọn đồi cao gồm 4 mỏm nằm án ngữ ngay bên cạnh khúc lượn của đường 1A. Đại đội 5 (tiểu đoàn 2) sau khi pháo ngừng bắn đã lao thẳng lên đánh chiếm tầng công sự thứ nhất. Một loạt đạn đại liên của địch bắn chặn, đại đội trưởng Đồng Văn Sinh hy sinh, chính trị viên Hải ra lệnh cho bộ đội xung phong tiếp. Cả đại đội tràn lên đánh chiếm tầng công sự thứ hai. Chính trị viên Hải vừa dẫn đầu mũi chính diện vượt qua một sườn đồi bỗng đứng khựng lại lảo đảo rồi ngã vào lòng đại đội phó Dự. "Trả thù cho anh Hải, anh Sinh !". Dự hô lớn rồi bật dậy dẫn tổ chính diện đánh thốc lên tuyến công sự địch. Khí thế tiến công của chiến sĩ ta làm cho quân địch khiếp sợ.
    30 phút sau, đồi Chậu Cảnh im hẳn tiếng súng. Xác địch nằm rải rác ở cả 4 mỏm đồi. Những tên sống sót vất súng, chạy thục mạng về điểm cao 409. Ở hướng quan trọng, tiểu đoàn 1 cũng đã làm chủ Bản Phân, đồi Địa Chất.
    Vậy là 2 cánh quân vu hồi của địch ở đường 1A và 1B bị giáng đòn đau ở Chậu Cảnh và Song Áng. Trên các điểm tựa, bộ đội ta vẫn trụ bám kiên cường đẩy lui hàng tiểu đoàn, trung đoàn địch tiến công. Điều đó làm bọn chỉ huy địch cay cú. Ngày 18-2 đã trôi qua nhưng thị xã Lạng Sơn, nơi kế hoạch hội quân của chúng sau 48 tiếng đồng hồ vẫn còn quá xa và đầy nguy hiểm. Chúng tiếp tục ném thêm 2 trung đoàn bộ binh nữa để chia cắt bằng được con đường 1A, 1B. rạng sáng ngày 19-2-1979 lợi dụng sương mù và sử dụng một lực lượng pháo binh chi viện dày đặc, địch đã chiếm lại được đồi Chậu Cảnh và điểm cao Khôn Làng.
    Phải đánh những trận phản kích với quy mô lớn hơn trên cả 2 hướng : tiêu diệt bọn địch phía trước và bọn địch phía sau không cho chúng ùn lên để giữ vững thế trận. Đó là quyết định của bộ tư lệnh sư đoàn đêm 19-2-1979. Theo kế hoạch này, ngay sáng 20-2-1979 sư đoàn mở 2 khu vực tiến công. Khu vực 1 (hướng chính) dùng trung đoàn 2 có chi viện trực tiếp của hoả lực sư đoàn, tiêu diệt địch ở đồi Chậu Cảnh, mở thông đường 1A lên Đồng Đăng. Khu vực 2 dùng tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn cong binh 15 quét sạch địch từ Khôn Làng đến Con Khoang mở thông đường 1B lên cụm điểm tựa 339, Thâm Mô, Pháo Đài, nơi vẫn đang diễn ra những trận chiến đấu giằng co quyết liệt từ sáng 17-2-1979. Các trận địa pháo được điều chỉnh để vừa chi viện trực tiếp cho bộ binh tiến công vừa bắn phá các trận địa pháo và các cụm quân địch ở phía sau.
    Một cuộc chạy đua với thời gian, với địch diễn ra căng thẳng suốt đêm 19. Nhiều trận địa pháo được bố trí lại trên hướng chủ yếu. Sở chỉ huy trung đoàn 2, các đài quan sát pháo binh cũng tiến lên phía trước, áp sát khu vực chiến đấu của trung đoàn. Các đơn vị bộ binh tăng cường cho các hướng cũng được lệnh gấp rút đến vị trí chiếm lĩnh trước khi trời sáng. Riêng tiểu đoàn 7 phải vượt quãng đường dài hơn 50km trong điều kiện thiếu xe vận chuyển. Nhưng nhờ xử trí linh hoạt của cơ quan tham mưu và hậu cần sư đoàn, nhờ sự chi viện kịp thời của tỉnh Lạng Sơn nên đơn vị đã đến trận địa đúng kế hoạch bằng những chiếc xe kéo pháo, xe tải và đội xe Hải Âu của tỉnh.
    5 giờ ngày 20-2-1979, tiểu đoàn 7 và đại đội 1 công binh sư đoàn do trung đoàn 12 chỉ huy bất ngờ đánh chiếm điểm cao Khôn Làng. Các chiến sĩ xung kích do đại đội trưởng Nguyễn Nho Bông chỉ huy đã táo bạo thọc thẳng lên trận địa địch, tiêu diệt gần hết 1 đại đội, mở đầu cho những đợt phản kích mới.
    Trong khi đó, tiểu đoàn 3 (trung đoàn 2) đang nôn nóng chờ sương mù tan để đánh chiếm đồi Chậu Cảnh. Đây là trận đầu tiên của tiểu đoàn đánh quân Trung Quốc xâm lược. Lực lượng của tiểu đoàn còn rất sung sức cả về số lượng lẫn chất lượng. Trăm phần trăm cán bộ, chiến sĩ xung phong nhận nhiệm vụ chiến đấu ở tuyến một.
    7 giờ sáng, giữa lúc địch đang đi lại lộn xộn ở mỏm 2, sư đoàn trưởng ra lệnh cho pháo binh nổ súng. Những viên đạn pháo bắn thẳng 85mm, pháo bắn vòng cầu liên tiếp trùm xuống 4 mỏm đồi Chậu Cảnh 1 biển lửa. Các điểm cao 409, 611, 675, những điểm tựa ở sau lưng chúng cũng nổ cháy dữ dội. Trong khi đó, các chiến sĩ tiểu đoàn 3 nhanh chóng đánh chiếm bàn đạp đồi sắn. Đại đội 10, mũi chủ yếu của tiểu đoàn, khi pháo binh vừa ngừng bắn đã đánh thốc lên đồi Chậu Cảnh dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Phan Bá Mạnh. Vừa sử dụng M79, vừa chỉ huy 2 khẩu đại liên và 2 khẩu cối 60mm, Mạnh kịp thời chi viện cho các chiến sĩ đánh chiếm mỏm 2 trong vòng 10 phút. Tại mỏm đồi này 2 anh em Nguyễn Đức Vượng và Nguyễn Đức Huệ cùng nhập ngũ một ngày, vừa yểm trợ nhau xung phong, vừa nhặt hàng chục quả lựu đạn của địch ném trả chúng, diệt hơn 30 tên địch. Tên tiểu đoàn trưởng chỉ huy mỏm 2 rối rít gọi điện xin rút lui nhưng hắn chỉ nhận được 1 bức điện trả lời cụt lủn : "Các anh giữ được thì sống, không giữ được thì chết".
    Ở hướng quan trọng, sau khi đánh chiếm tầng công sự thứ nhất, các chiến sĩ đại đội 11 vừa xung phong lên tầng thứ hai đã bị đạn 12,8mm ở điểm cao 675 bắn thúc vào sườn. Rất nhanh, tiểu đoàn trưởng Đỗ Ngọc Ngòi đề nghị sư đoàn bắn pháo kiềm chế điểm cao 675 và ra lệnh cho đại đội 10 từ mỏm 2 đánh qua mỏm 1 chi viện cho đại đội 11. Bị ép từ 2 phía, bọn địch ở mỏm 1 bung ra tháo chạy, bỏ lại những tên bị thương chưa kịp băng bó đang lăn lộn trên mặt đồi. Sau 1 giờ chiến đấu, điểm cao Chậu Cảnh lại sạch bóng giặc. Hơn 200 tên địch phơi xác trên đỉnh đồi. Tổ quay phim của Phan Sĩ Lan cùng xung phong với bộ đội, đã kịp thời ghi vào ống kính những hình ảnh thảm hại của quân Trung Quốc xâm lược.
    Trận tiêu diệt tiểu đoàn địch ở đồi Chậu Cảnh của tiểu đoàn 3 là kết quả của tinh thần chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc, khẩn trương của cán bộ, chiến sĩ và kết quả chuẩn bị công phu của các đơn vị hoả lực. Pháo bắn thẳng cũng như pháo bắn vòng cầu đã góp một phần chiến công lớn trong trận chiến đấu xuất sắc này.
    Sau trận phản kích thắng lợi ở Chậu Cảnh, tiểu đoàn 7 (thiếu) chiếm lại điểm cao Khôn Làng lần thứ hai vào ngày 21-2 và trận vận động tiến công của tiểu đoàn 1 và 4 ở khu vực Thâm Mô ngày 22-2 làm cho các cánh quân vu hồi của địch bị thiệt hại nặng. Từ hung hăng, ào ạt, địch bắt đầu chững lại để dồn quân, dồn phương tiện, đánh lấn dần từng mục tiêu. Điều này chứng tỏ chúng đang rất lúng túng về chiến thuật, chiến dịch. Bọn lính Trung Quốc từ chỗ hò hét "tả ! tả !" lao lên theo tiếng kèn và hiệu lệnh đã bắt đầu bỏ chạy khi bị pháo bắn hoặc bộ binh ta phản kích. Trên hướng phòng ngự của tiểu đoàn 5 ở Bản Thấu, từ sau trận thất bại ngày 18-2-1979, địch chưa dám tổ chức tấn công thêm lần nào. Tại Tam Lung, chúng chỉ dùng pháo bắn phá hoại trận địa của ta ở Chậu Cảnh. Địch tập trung lực lượng để đánh chiếm khu vực Pháo Đài, Thâm Mô, 339. Mỗi ngày, chúng bắn hàng vạn quả đạn pháo lên các điểm tựa và thay quân liên tục. Trung đoàn này bị đánh giập đầu, chúng đưa trung đoàn khác lên thay thế. Mỗi ngày chúng tổ chức 7-10 lần tiến công, có khi dùng lực lượng gần 1 sư đoàn cùng tiến công để đánh vào các điểm tựa chưa đầy 2 tiểu đoàn của ta.
    Các chiến sĩ trung đoàn 12, các chiến sĩ pháo binh, công binh đã chiến đấu dai dẳng, quyết liệt, gian khổ. Hàng ngàn tên địch bị đền tội, hơn 20 xe tăng của chúng bị bắn cháy, nhưng lực lượng của ta cũng vợi dần. Súng đạn phải dồn lại cho người còn sống. Bộ đội ban ngày quần nhau với địch, ban đêm sửa sang công sự, giải quyết thương binh, tử sĩ. Các chiến sĩ vận tải, cán bộ, chiến sĩ cơ quan đêm nào cũng len lỏi giữa các cụm quân địch tiếp đạn, nước, lương thực thực phẩm cho các điểm tựa. Những nắm cơm vắt đêm đêm mang lên trận địa nhiều khi thấm máu của các chiến sĩ nuôi quân, liên lạc, y tá. Các chiến sĩ bảo vệ cụm điểm tựa Đồng Đăng đã làm sống lại một Cây Rui, một Đầu Tượng, 174 trên đất Lạng Sơn và ở đó một lần nữa họ lại trở thành bất tử.
    Bọn địch càng cay cú vì tổn thất và vì những tham vọng ban đầu chưa thực hiện được. Đã 5 ngày trôi qua nhưng thị xã Lạng Sơn vẫn còn xa cách hàng chục km và đội quân hàng vạn tên của chúng vẫn còn bị ghìm cứng lại trước những ngọn đồi nhỏ bé tưởng như lúc nào cũng chỉ có mấy chục chiến sĩ ta canh giữ và chỉ cách biên giới chưa đầy 4km. Hãng thông tấn AFP lúc bấy giờ đã nhận xét : "So với quân đội Việt Nam, một quân đội dày dạn chiến đấu, quân đội Trung Quốc tỏ ra có sức phản công yếu. Mới gặp quân địa phương của Việt Nam họ đã bị chặn lại và bị tổn thất nặng".
    Tuy nhiên chúng vẫn còn tiềm lực nên sau mỗi lần thất bại, chúng càng điên cuồng hơn, thủ đoạn càng thâm hiểm hơn. Nhưng trước khi lên được Pháo Đài, Thâm Mô, 339 chúng đã phải chịu một tổn thất nặng nề, và cụm điểm tựa Đồng Đăng đã chói ngời trong trang sử sư đoàn với những chiến công tuyệt vời của các dũng sĩ đã hy sinh chiến đấu để bảo vệ những điểm cao ấy.
    Không chiếm được các điểm cao Pháo Đài, Thâm Mô, 339, địch không thể làm chủ được Đồng Đăng, không thể dồn quân đánh vào Tam Lung để tới thị xã Lạng Sơn được. Vì thế đến ngày 21-2, chúng tung toàn bộ lực lượng dự bị của quân đoàn 55 vào khu vực Đồng Đăng và quân đoàn 54 dự bị chiến dịch cũng được lệnh áp sát biên giới Lạng Sơn nhằm tạo một ưu thế gấp hàng chục lần về binh hảo lực để đánh vào cụm điểm tựa Đồng Đăng.
    Phân tích địch-ta, bộ tư lệnh sư đoàn chủ trương kìm cánh quân địch ở Tam Lung để dồn sức tăng cường cho hướng chủ yếu Đồng Đăng. Ngay đêm 20-2, sư đoàn phó Đới Ngọc Cầu và phó chính uỷ Nguyễn Ngọc San được lệnh xuống tăng cường chỉ huy trung đoàn 12. Các trận địa pháo được bổ sung thêm quân số và đạn. Nhiều chuyến hàng đã vượt qua khu vực Tam Lung lên chi viện cho cụm điểm tựa Đồng Đăng.
    [​IMG]
    Diệt địch ở ngã ba Tam Lung (tháng 2-1979).
    (Ảnh của bác fanlong74)
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Cụm điểm tựa bảo vệ Đồng Đăng : Thâm Mô, Pháo Đài, điểm cao 339 như 3 chân kiềng đứng ở phía tây nam thị trấn Đồng Đăng. Trong những ngày qua, 3 điểm tựa đã dựa vào nhau duy trì cuộc chiến đấu. Bọn địch tràn lên Pháo Đài thì trận địa 339, thâm Mô dùng hoả lực đánh vào sau lưng và bên sườn chúng. Khi địch đánh lên Thâm Mô thì các chiến sĩ ta ở Pháo Đài, 339 lại làm công việc đó... Địch đã bao lần phải thay đổi thủ đoạn để đánh chiếm các điểm tựa này : từ đánh ào ạt xoay sang đánh lấn từng bước, đánh đồng loạt một lúc không được phải xoay sang đánh chiếm từng mục tiêu vẫn không được. Giờ đây chúng phải tăng quân để chuẩn bị đánh một lúc cả 3 điểm tựa.
    Thâm Mô là 1 ngọn đồi có 5 mỏm kéo dài từ ngã ba đường 1A, 1B đến sát phía nam thị trấn Đồng Đăng, do đại đội 2 (tiểu đoàn 4) và đại đội cao xạ 37mm chốt giữ. Từ rạng sáng ngày 17-2, cùng với xe tăng, bộ binh địch đã tạo thành thế vây ép cô lập đại đội cao xạ và đại đội 2 với các đơn vị khác. Từ đó, suốt ngày này qua ngày khác, những trận chiến đấu liên tục diễn ra trên đồi thâm Mô. Địch đã 2 lần chiếm được hầu hết trận địa ta nhưng được chi viện của trung đoàn, tiểu đoàn 4 đã đánh hất địch xuống.
    Mờ sáng ngày 22-2, sau khi tăng lực lượng, sư đoàn 163 địch có xe tăng và pháo binh chi viện mở đợt tiến công toàn diện vào cả 3 điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, 339. Những trận chiến đấu giằng co quyết liệt diễn ra trên các mỏm đồi Thâm Mô. Các chiến sĩ y tá, nuôi quân, liên lạc cũng quần đánh địch từ khu nhà văn hoá đại đội đến hầm chỉ huy. Địch chết lớp này, chúng thay lớp khác và tới 10 giờ, các mỏm 1, 2, 3 rơi vào tay địch. từ đó trận địa của đại đội 2 ở mỏm 5 mỗi lúc một căng thẳng vì đạn pháo và đạn đại liên địch. Sau 5 ngày chiến đấu, lực lượng cơ động của trung đoàn đã bị tỏn thất và địa đội 2 chỉ còn lại 20 chiến sĩ, do chính trị viên Phạm Ngọc Yểng và Phan Văn Thắng, học viên Học viện Hậu cần về thực tập chỉ huy. Đại đội trưởng Nguyễn Văn Toàn đã hy sinh ngay từ đợt tiến công đầu tiên của địch vào sáng ngày 17-2.
    Sau khi đại đội trưởng hy sinh, Yểng và Thắng trở thành chỗ dựa, linh hồn của đơn vị. 2 người thường đảm nhiệm 2 hướng đánh và hết sức tin tưởng nhau. Trên ngọn đồi không rộng lắm này đã xuất hiện biết bao sự tích anh hùng mà chỉ khi giặc đến, phẩm chất và khả năng của từng chiến sĩ mới được bộc lộ hết. Chiến sĩ nuôi quân Nguyễn Hữu Dũng, 19 tuổi, suốt 5 ngày chiến đấu là 5 ngày đêm len lỏi giữa các ổ phục kích của địch, bất chấp đnạ pháo ác liệt mang cơm tới từng mỏm đồi cho bọ đội, có lần gặp địch đã dùng dao găm diệt địch thu súng.
    Khẩu súng trên tay Phạm Ngọc Yểng là khẩu tiểu liên của đại đội trưởng. Trước khi hy sinh, mặc dù không nói được, anh vẫn dồn sức trao khẩu súng cho Yểng như gửi phần trách nhiệm của anh cho bạn.
    14 giờ, địch lại nổi hiệu kèn tấn công. trên đỉnh đồi, tiếng nói của chính trị viên Phạm Ngọc Yểng vang lên : "Các chiến sĩ đại đội 2 tiểu đoàn 4 hãy dũng cảm tiêu diệt quân cướp nước, giữ vững trận địa". Tiếp đó là tiếng súng đánh trả của ta rộ lên. Ở hướng trung đội 3, cuộc chiến đấu đang diễn ra dọc các hào giao thông. biết lực lượng ta có hạn, địch cứ thúc quân tràn lên. Bộ đội ta đánh địch bằng mọi thứ trong tay, từ súng đạn đến đất đá và tay không. Bản thân Phan Văn Thắng cũng giật súng địch đánh địch và lấy báng súng quật vào đầu chúng.
    Ở trung đội do Phạm Ngọc Yểng chỉ huy, khi địch ùa vào tầng công sự thứ nhất, các chiến sĩ ta đồng loạt ném lựu đạn theo tiếng hô của yểng rồi xông tới. Một trận giáp lá cà diễn ra. Một tên địch bất ngờ lao tới húc đầu vào bụng Yểng làm anh ngã ngửa, khẩu tiểu liên văng sang một bên. Tên giặc theo đà chồm lên người Yểng. Nhưng nó bỗng giật nảy người, 2 tay buông khỏi cổ Yểng, đổ vật xuống bên cạnh. Đồng chí liên lạc nhoài người đỡ Yểng. 2 người ôm chầm lấy nhau. Vẫn luôn theo sát chính trị viên, đồng chí liên lạc đã kịp thời kết liễu tên giặc cứu sống Yểng.
    Càng về chiều, trận đánh trên đồi Thâm Mô càng diễn ra quyết liệt. Địch dồn quân, dồn đạn để chiếm nốt mỏm đồi cuối cùng trước khi trời tối, nhưng chúng vẫn bị ghìm lại ở tầng công sự thứ nhất. Các chiến sĩ còn lại trong đại đội dồn lên đỉnh đồi.
    Xẩm tối, địch lại ồ ạt tổ chức đợt tiến công cuối cùng. Yểng và Thắng chia nhau mỗi người phụ trách một tổ chiến đấu. Lúc đó trận địa chỉ còn 10 chiến sĩ. Từ tầng công sự thứ nhất, địch bám nhau lao tới. Khẩu AK của Yểng hết đạn. Anh rút súng ngắn đánh địch. Một tên giặc to béo nhảy bổ vào người anh. yểng né tránh làm nó lỡ đà rồi giơ thẳng tay nện khẩu K54 vào sọ nó.
    Tổ của Thắng cũng liên tiếp đánh địch hết đợt này đến đợt khác. Đich chiếm gần hết công sự chiến đấu của tổ. Lựu đạn hết, đạn tiểu liên chỉ còn 1 băng. Giữa lúc đó tin Phạm Ngọc Yểng hy sinh làm mọi người lặng đi. Thắng ra lệnh cho các chiến sĩ trong tổ rút về chỗ Yểng. Khi ấy, Yểng vẫn ngồi tựa lưng vào vách hào, bàn tay phải còn nắm chặt khẩu K54, đôi mắt bất động vẫn mở to nhìn thẳng về phía trước. Bên cạnh anh, khẩu AK của đại đội trưởng đã bật lê cũng nằm lặng lẽ. Thắng cúi xuống, bàn tay run run vuót mắt cho Yểng. Anh bàn với mọi người phải giữ gìn 2 khẩu súng và mai táng thi hài Yểng thật chu đáo...
    Cuộc chiến đấu ở mỏm 5 đồi Thâm Mô tiếp tục kéo dài cho đến 20 giờ bọn Trung Quốc mới lên được công sự cuối cùng.
    Từ đó, với lòng thương tiếc và yêu mến sâu sắc, các chiến sĩ trung đoàn 12 gọi đồi Thâm Mô là đồi Phạm Ngọc Yểng.
    Còn gia đình Phạm Ngọc Yểng khi biết tin này đã viết thư cho trung đoàn 12. Bức thư có đoạn : "Gia đình tôi vô cùng đau xót khi nhận được tin cháu Yểng hy sinh. Bởi vì đối với tất cả mọi người trong gia đình, Yểng là người con hiếu thảo, người anh rất mực yêu thương của các em nhỏ... Không thể nào kể xiết nỗi đau buồn của gia đình khi mất đi một người con thân yêu ! Nhưng các đồng chí ơi, hôm nay, cố nén đau thương viết thư gửi tới các đồng chí, tôi không muốn nói tới điều ấy mà muốn nói rằng gia đình tôi rất tự hào về cháu và rất căm thù bọn xâm lược... Gia đình tôi thành thật cảm ơn Đảng, cảm ơn các cán bộ và anh em chiến sĩ đã rèn luyện dìu dắt cháu Yểng trở thành một con người biết chiến đấu đến cùng và dũng cảm hy sinh cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ! Cám ơn các chiến sĩ trung đoàn Tây Sơn đã gắn tên cháu Yểng với núi sông để cháu sống mãi với đất nước..."
    Đối với sư đoàn Sao Vàng trong những ngày quyết liệt này càng thấy rõ phẩm chát cao quí của mỗi cán bộ, chiến sĩ, càng biết ơn những người mẹ Việt Nam đã sinh ra và gửi đến cho sư đoàn những người con ưu tú biết sống, hy sinh và chiến đấu xứng đáng để hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang.
    Cùng với Thâm Mô, cuộc chiến đáu của chiến sĩ ta ở điểm cao Pháo Đài suốt mấy ngày qua cũng diễn ra vô cùng khốc liệt.
    Điểm tựa Pháo Đài là 1 dải đồi có 6 mỏm nằm ở mé tây nam thị trấn Đồng Đăng, cách biên giới chưa đầy 2km. Trên một mỏm đồi phía đông nam, trong cuộc xâm lược nước ta trước đây, thực dân Pháp rồi phát xít Nhật đã xây dựng 1 pháo đài kiên cố để kiểm soát đường xe lửa, đường 1A, 1B và thị trấn Đồng Đăng. Pháo đài có 3 tầng xây bằng đá và bê tông cốt thép, dày 0,8 đến 1,2m, 2 tầng dưới là 1 hệ thống đường ngầm chữ chi khép kín dài khoảng 350m. Dọc 2 bên đường hầm chính mở ra nhiều căn hầm rộng chưa được hàng chục người. Từ tầng hầm thứ 3 có con đường ngầm chạy thẳng ra thị trấn Đồng Đăng. Bên trên những đường hầm đó là lớp đất dày 20-30m. 5 góc pháo đài là 4 lô cốt và 1 nhà mái bằng nửa chìm nửa nổi xây bằng bê tông cốt thép dày 1,2m. Giữa và xung quanh Pháo Đài có nhiều ụ súng đồng thời là lỗ thông hơi cho các tầng dưới. Pháo Đài có 2 cửa. Cửa chính ở phía đông từ nhà mái bằng và một cửa ở phía nam. Những năm trước đây, núp dưới danh nghĩa sang giúp nhân dân ta chống chiến tranh phá hoại của Mĩ, quân đội Trung Quốc đã để tâm nghiên cứu Pháo Đài. Trước khi rút về nước, chúng phá sập đường hầm ra thị trấn Đồng Đăng, đánh hỏng cửa phía nam và phá hỏng toàn bộ hệ thống dây điện trong Pháo Đài. Tuy vậy Pháo Đài vẫn còn là 1 vị trí kiên cố có thể chịu đựng được nhiều loại bom pháo trong những cuộc tiến công của địch.
    Pháo Đài là 1 trong những điểm tựa then chốt của trung đoàn 12 do đại đội 42 (tiểu đoàn 4) đảm nhiệm. Để chiến đấu thắng lợi, trong những ngày chuẩn bị, đơn vị đã xây dựng một hệ thống hào giao thông và công sự bao quanh Pháo Đài kéo dài từ mỏm 1 đến mỏm 6. Vị trí chỉ huy của đại đội đặt ngoài Pháo Đài vì Pháo Đài có giá trị trú ẩn nhiều hơn một vị trí chiến đấu. Đương nhiên trong những tình huống gay cấn, Pháo Đài là nơi giấu quân tốt để từ đó ta mở những mũi phản kích diệt địch.
    Nắm được giá trị chiến thuật của dãy điểm cao Pháo Đài, quân đoàn 55 địch tập trung xe tăng và bộ binh định đánh chiếm điểm tựa này ngay buổi sáng đầu tiên. Hàng ngàn quả đạn pháo giội xuống Pháo Đài suốt hàng tiếng đồng hồ. Pháo vừa dứt, xe tăng, bộ binh địch đã xuất hiện trước trận địa và những cuộc tiến công ồ ạt của chúng được tiến hành từ nhiều phía lên Pháo Đài.
    Hôm đó đại đội trưởng và một số cán bộ trung đội đi tập huấn. Chính trị viên Nguyễn Bát và Ngô Chí Khán, học viên trường sĩ quan chính trị về thực tập nắm quyền chỉ huy đơn vị. Đêm 16-2, Bát lên mỏm đồi phía bắc kiểm tra trận địa và ngủ luôn với chiến sĩ ở đấy. Khi địch tràn vào, anh chỉ huy trung đội tiền tiêu đánh lui mấy đợt xung phong của chúng và anh dũng hy sinh.
    Không bắt liên lạc được với tiểu đoàn, nhưng được các điểm tựa Thâm Mô và 339 chủ động chi viện, Ngô Chí Khán tổ chức đơn vị bám các hào giao thông và công sự đánh trả địch hết đợt này đến đợt khác. Nhưng do lực lượng chênh lệch nên ngày 17-2 địch chiếm được 4 mỏm phía bắc.
    Đại đội 42 chiến đấu giữa bốn bề quân địch từ đó.
  5. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Cụm điểm tựa bảo vệ Đồng Đăng : Thâm Mô, Pháo Đài, điểm cao 339 như 3 chân kiềng đứng ở phía tây nam thị trấn Đồng Đăng. Trong những ngày qua, 3 điểm tựa đã dựa vào nhau duy trì cuộc chiến đấu. Bọn địch tràn lên Pháo Đài thì trận địa 339, thâm Mô dùng hoả lực đánh vào sau lưng và bên sườn chúng. Khi địch đánh lên Thâm Mô thì các chiến sĩ ta ở Pháo Đài, 339 lại làm công việc đó... Địch đã bao lần phải thay đổi thủ đoạn để đánh chiếm các điểm tựa này : từ đánh ào ạt xoay sang đánh lấn từng bước, đánh đồng loạt một lúc không được phải xoay sang đánh chiếm từng mục tiêu vẫn không được. Giờ đây chúng phải tăng quân để chuẩn bị đánh một lúc cả 3 điểm tựa.
    Thâm Mô là 1 ngọn đồi có 5 mỏm kéo dài từ ngã ba đường 1A, 1B đến sát phía nam thị trấn Đồng Đăng, do đại đội 2 (tiểu đoàn 4) và đại đội cao xạ 37mm chốt giữ. Từ rạng sáng ngày 17-2, cùng với xe tăng, bộ binh địch đã tạo thành thế vây ép cô lập đại đội cao xạ và đại đội 2 với các đơn vị khác. Từ đó, suốt ngày này qua ngày khác, những trận chiến đấu liên tục diễn ra trên đồi thâm Mô. Địch đã 2 lần chiếm được hầu hết trận địa ta nhưng được chi viện của trung đoàn, tiểu đoàn 4 đã đánh hất địch xuống.
    Mờ sáng ngày 22-2, sau khi tăng lực lượng, sư đoàn 163 địch có xe tăng và pháo binh chi viện mở đợt tiến công toàn diện vào cả 3 điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, 339. Những trận chiến đấu giằng co quyết liệt diễn ra trên các mỏm đồi Thâm Mô. Các chiến sĩ y tá, nuôi quân, liên lạc cũng quần đánh địch từ khu nhà văn hoá đại đội đến hầm chỉ huy. Địch chết lớp này, chúng thay lớp khác và tới 10 giờ, các mỏm 1, 2, 3 rơi vào tay địch. từ đó trận địa của đại đội 2 ở mỏm 5 mỗi lúc một căng thẳng vì đạn pháo và đạn đại liên địch. Sau 5 ngày chiến đấu, lực lượng cơ động của trung đoàn đã bị tỏn thất và địa đội 2 chỉ còn lại 20 chiến sĩ, do chính trị viên Phạm Ngọc Yểng và Phan Văn Thắng, học viên Học viện Hậu cần về thực tập chỉ huy. Đại đội trưởng Nguyễn Văn Toàn đã hy sinh ngay từ đợt tiến công đầu tiên của địch vào sáng ngày 17-2.
    Sau khi đại đội trưởng hy sinh, Yểng và Thắng trở thành chỗ dựa, linh hồn của đơn vị. 2 người thường đảm nhiệm 2 hướng đánh và hết sức tin tưởng nhau. Trên ngọn đồi không rộng lắm này đã xuất hiện biết bao sự tích anh hùng mà chỉ khi giặc đến, phẩm chất và khả năng của từng chiến sĩ mới được bộc lộ hết. Chiến sĩ nuôi quân Nguyễn Hữu Dũng, 19 tuổi, suốt 5 ngày chiến đấu là 5 ngày đêm len lỏi giữa các ổ phục kích của địch, bất chấp đnạ pháo ác liệt mang cơm tới từng mỏm đồi cho bọ đội, có lần gặp địch đã dùng dao găm diệt địch thu súng.
    Khẩu súng trên tay Phạm Ngọc Yểng là khẩu tiểu liên của đại đội trưởng. Trước khi hy sinh, mặc dù không nói được, anh vẫn dồn sức trao khẩu súng cho Yểng như gửi phần trách nhiệm của anh cho bạn.
    14 giờ, địch lại nổi hiệu kèn tấn công. trên đỉnh đồi, tiếng nói của chính trị viên Phạm Ngọc Yểng vang lên : "Các chiến sĩ đại đội 2 tiểu đoàn 4 hãy dũng cảm tiêu diệt quân cướp nước, giữ vững trận địa". Tiếp đó là tiếng súng đánh trả của ta rộ lên. Ở hướng trung đội 3, cuộc chiến đấu đang diễn ra dọc các hào giao thông. biết lực lượng ta có hạn, địch cứ thúc quân tràn lên. Bộ đội ta đánh địch bằng mọi thứ trong tay, từ súng đạn đến đất đá và tay không. Bản thân Phan Văn Thắng cũng giật súng địch đánh địch và lấy báng súng quật vào đầu chúng.
    Ở trung đội do Phạm Ngọc Yểng chỉ huy, khi địch ùa vào tầng công sự thứ nhất, các chiến sĩ ta đồng loạt ném lựu đạn theo tiếng hô của yểng rồi xông tới. Một trận giáp lá cà diễn ra. Một tên địch bất ngờ lao tới húc đầu vào bụng Yểng làm anh ngã ngửa, khẩu tiểu liên văng sang một bên. Tên giặc theo đà chồm lên người Yểng. Nhưng nó bỗng giật nảy người, 2 tay buông khỏi cổ Yểng, đổ vật xuống bên cạnh. Đồng chí liên lạc nhoài người đỡ Yểng. 2 người ôm chầm lấy nhau. Vẫn luôn theo sát chính trị viên, đồng chí liên lạc đã kịp thời kết liễu tên giặc cứu sống Yểng.
    Càng về chiều, trận đánh trên đồi Thâm Mô càng diễn ra quyết liệt. Địch dồn quân, dồn đạn để chiếm nốt mỏm đồi cuối cùng trước khi trời tối, nhưng chúng vẫn bị ghìm lại ở tầng công sự thứ nhất. Các chiến sĩ còn lại trong đại đội dồn lên đỉnh đồi.
    Xẩm tối, địch lại ồ ạt tổ chức đợt tiến công cuối cùng. Yểng và Thắng chia nhau mỗi người phụ trách một tổ chiến đấu. Lúc đó trận địa chỉ còn 10 chiến sĩ. Từ tầng công sự thứ nhất, địch bám nhau lao tới. Khẩu AK của Yểng hết đạn. Anh rút súng ngắn đánh địch. Một tên giặc to béo nhảy bổ vào người anh. yểng né tránh làm nó lỡ đà rồi giơ thẳng tay nện khẩu K54 vào sọ nó.
    Tổ của Thắng cũng liên tiếp đánh địch hết đợt này đến đợt khác. Đich chiếm gần hết công sự chiến đấu của tổ. Lựu đạn hết, đạn tiểu liên chỉ còn 1 băng. Giữa lúc đó tin Phạm Ngọc Yểng hy sinh làm mọi người lặng đi. Thắng ra lệnh cho các chiến sĩ trong tổ rút về chỗ Yểng. Khi ấy, Yểng vẫn ngồi tựa lưng vào vách hào, bàn tay phải còn nắm chặt khẩu K54, đôi mắt bất động vẫn mở to nhìn thẳng về phía trước. Bên cạnh anh, khẩu AK của đại đội trưởng đã bật lê cũng nằm lặng lẽ. Thắng cúi xuống, bàn tay run run vuót mắt cho Yểng. Anh bàn với mọi người phải giữ gìn 2 khẩu súng và mai táng thi hài Yểng thật chu đáo...
    Cuộc chiến đấu ở mỏm 5 đồi Thâm Mô tiếp tục kéo dài cho đến 20 giờ bọn Trung Quốc mới lên được công sự cuối cùng.
    Từ đó, với lòng thương tiếc và yêu mến sâu sắc, các chiến sĩ trung đoàn 12 gọi đồi Thâm Mô là đồi Phạm Ngọc Yểng.
    Còn gia đình Phạm Ngọc Yểng khi biết tin này đã viết thư cho trung đoàn 12. Bức thư có đoạn : "Gia đình tôi vô cùng đau xót khi nhận được tin cháu Yểng hy sinh. Bởi vì đối với tất cả mọi người trong gia đình, Yểng là người con hiếu thảo, người anh rất mực yêu thương của các em nhỏ... Không thể nào kể xiết nỗi đau buồn của gia đình khi mất đi một người con thân yêu ! Nhưng các đồng chí ơi, hôm nay, cố nén đau thương viết thư gửi tới các đồng chí, tôi không muốn nói tới điều ấy mà muốn nói rằng gia đình tôi rất tự hào về cháu và rất căm thù bọn xâm lược... Gia đình tôi thành thật cảm ơn Đảng, cảm ơn các cán bộ và anh em chiến sĩ đã rèn luyện dìu dắt cháu Yểng trở thành một con người biết chiến đấu đến cùng và dũng cảm hy sinh cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ! Cám ơn các chiến sĩ trung đoàn Tây Sơn đã gắn tên cháu Yểng với núi sông để cháu sống mãi với đất nước..."
    Đối với sư đoàn Sao Vàng trong những ngày quyết liệt này càng thấy rõ phẩm chát cao quí của mỗi cán bộ, chiến sĩ, càng biết ơn những người mẹ Việt Nam đã sinh ra và gửi đến cho sư đoàn những người con ưu tú biết sống, hy sinh và chiến đấu xứng đáng để hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang.
    Cùng với Thâm Mô, cuộc chiến đáu của chiến sĩ ta ở điểm cao Pháo Đài suốt mấy ngày qua cũng diễn ra vô cùng khốc liệt.
    Điểm tựa Pháo Đài là 1 dải đồi có 6 mỏm nằm ở mé tây nam thị trấn Đồng Đăng, cách biên giới chưa đầy 2km. Trên một mỏm đồi phía đông nam, trong cuộc xâm lược nước ta trước đây, thực dân Pháp rồi phát xít Nhật đã xây dựng 1 pháo đài kiên cố để kiểm soát đường xe lửa, đường 1A, 1B và thị trấn Đồng Đăng. Pháo đài có 3 tầng xây bằng đá và bê tông cốt thép, dày 0,8 đến 1,2m, 2 tầng dưới là 1 hệ thống đường ngầm chữ chi khép kín dài khoảng 350m. Dọc 2 bên đường hầm chính mở ra nhiều căn hầm rộng chưa được hàng chục người. Từ tầng hầm thứ 3 có con đường ngầm chạy thẳng ra thị trấn Đồng Đăng. Bên trên những đường hầm đó là lớp đất dày 20-30m. 5 góc pháo đài là 4 lô cốt và 1 nhà mái bằng nửa chìm nửa nổi xây bằng bê tông cốt thép dày 1,2m. Giữa và xung quanh Pháo Đài có nhiều ụ súng đồng thời là lỗ thông hơi cho các tầng dưới. Pháo Đài có 2 cửa. Cửa chính ở phía đông từ nhà mái bằng và một cửa ở phía nam. Những năm trước đây, núp dưới danh nghĩa sang giúp nhân dân ta chống chiến tranh phá hoại của Mĩ, quân đội Trung Quốc đã để tâm nghiên cứu Pháo Đài. Trước khi rút về nước, chúng phá sập đường hầm ra thị trấn Đồng Đăng, đánh hỏng cửa phía nam và phá hỏng toàn bộ hệ thống dây điện trong Pháo Đài. Tuy vậy Pháo Đài vẫn còn là 1 vị trí kiên cố có thể chịu đựng được nhiều loại bom pháo trong những cuộc tiến công của địch.
    Pháo Đài là 1 trong những điểm tựa then chốt của trung đoàn 12 do đại đội 42 (tiểu đoàn 4) đảm nhiệm. Để chiến đấu thắng lợi, trong những ngày chuẩn bị, đơn vị đã xây dựng một hệ thống hào giao thông và công sự bao quanh Pháo Đài kéo dài từ mỏm 1 đến mỏm 6. Vị trí chỉ huy của đại đội đặt ngoài Pháo Đài vì Pháo Đài có giá trị trú ẩn nhiều hơn một vị trí chiến đấu. Đương nhiên trong những tình huống gay cấn, Pháo Đài là nơi giấu quân tốt để từ đó ta mở những mũi phản kích diệt địch.
    Nắm được giá trị chiến thuật của dãy điểm cao Pháo Đài, quân đoàn 55 địch tập trung xe tăng và bộ binh định đánh chiếm điểm tựa này ngay buổi sáng đầu tiên. Hàng ngàn quả đạn pháo giội xuống Pháo Đài suốt hàng tiếng đồng hồ. Pháo vừa dứt, xe tăng, bộ binh địch đã xuất hiện trước trận địa và những cuộc tiến công ồ ạt của chúng được tiến hành từ nhiều phía lên Pháo Đài.
    Hôm đó đại đội trưởng và một số cán bộ trung đội đi tập huấn. Chính trị viên Nguyễn Bát và Ngô Chí Khán, học viên trường sĩ quan chính trị về thực tập nắm quyền chỉ huy đơn vị. Đêm 16-2, Bát lên mỏm đồi phía bắc kiểm tra trận địa và ngủ luôn với chiến sĩ ở đấy. Khi địch tràn vào, anh chỉ huy trung đội tiền tiêu đánh lui mấy đợt xung phong của chúng và anh dũng hy sinh.
    Không bắt liên lạc được với tiểu đoàn, nhưng được các điểm tựa Thâm Mô và 339 chủ động chi viện, Ngô Chí Khán tổ chức đơn vị bám các hào giao thông và công sự đánh trả địch hết đợt này đến đợt khác. Nhưng do lực lượng chênh lệch nên ngày 17-2 địch chiếm được 4 mỏm phía bắc.
    Đại đội 42 chiến đấu giữa bốn bề quân địch từ đó.
  6. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Không thực hiện được ý định chiếm Pháo Đài ngay buổi đầu, rạng sáng ngày 18-2, lấy các mỏm phía bắc làm bàn đạp, kết hợp với các cánh quân phía tây và phía đông, chúng đánh lên Pháo Đài quyết liệt hơn. Suốt ngày hầu như lúc nào cũng có tiếng súng nổ trên 2 mỏm cuối cùng của Pháo Đài. Không chi viện được cho Pháo Đài bằng xung lực, trung đoàn 12 ra lệnh cho các trận địa pháo và các điểm tựa Thâm Mô, 339 thay nhau bắn các loại hoả lực vào các cánh quân địch, phối hợp với các chiến sĩ trên Pháo Đài đánh xuống. Địch dùng xe tăng dẫn đầu bộ binh xung phong nhưng bị pháo 85mm, cối 120mm của ta tiêu diệt. Chúng kéo pháo 85mm tới phía bắc Pháo Đài ngắm bắn trực tiếp vào từng công sự của ta nhưng cũng bị pháo bắn thẳng và pháo bắn vòng cầu của ta phá hủy. Được chi viện có hiệu quả của các đơn vị bạn, các chiến sĩ trên Pháo Đài ngày hôm đó dù chỉ còn lại 27 tay súng vẫn kiên quyết giữ vững trận địa, đẩy lùi 10 đợt tiến công của hàng nghìn quân địch.
    Ở trung đội Nguyễn Đình Đức, sau khi địch bỏ chạy, thấy 1 xe tăng chúng mắc kẹt ở đoạn suối sâu. Không bỏ lỡ thời cơ, Đức ra lệnh cho chiến sĩ yểm hộ rồi nhảy khỏi công sự trườn xuống chân đồi, chui vào gầm xe buộc chùm lựu đạn 4 quả vào xích ở đoạn đầu máy. Một tiếng nổ dậy lên. Bọn giặc hốt hoảng bật nắp xe lao ra ngoài bỏ chạy. Nhưng trên đường trở về, địch ở mỏm đồi phía bắc đã phát hiện thấy Đức và anh đã hy sinh bởi 1 loạt đạn đại liên của chúng.
    Nguyễn Đình Đức hy sinh, nhưng tinh thần tiến công tiêu diệt địch của anh đã nếu gương cho các chiến sĩ quyét bảo vệ Pháo Đài.
    Thấy ở Pháo Đài ta vẫn giữ được, đêm hôm đó, gần 20 chiến sĩ biên phòng thuộc đoàn Thanh Xuyên sau những trận đánh quyết liệt ở sát biên giới đã tìm đường lên Pháo Đài. Một số đồng bào ta ở Đồng Đăng cũng tìm lên Pháo Đài. Người nào cũng lấm đầy bùn đất, áo quần bị rách nhưng tất cả đều ánh lên niềm vui được gặp bộ đội. Họ kể cho chiến sĩ nghe những hành động giết chóc, bắn phá, bắt bớ của bọn lính Trung Quốc đối với đồng bào ta ở Đồng Đăng. Thực ra suốt 2 ngày nay, từ trên Pháo Đài các chiến sĩ đã chứng kiến tội ác dã man của giặc gây ra ở thị trấn nhỏ bé này ngay từ những loạt pháo đầu tiên của quân Trung Quốc. Những ngôi nhà đổ sụp, bốc cháy, những tiếng kêu thét của phụ nữ, trẻ em, những cảnh đánh đjap xua đuổi tàn nhẫn đồng bào tới nơi tập trung. Tất cả chỉ cách Pháo Đài mấy trăm mét. tình cảm đối với nhân dân đốt cháy trong lòng chiến sĩ niềm phẫn uất cao độ.
    Cũng đêm ấy, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Thu cùng một số cán bộ, chiến sĩ cơ quan, vận tải, lách qua các cụm quân địch tới Pháo Đài kiểm tra trận địa, tiếp đạn, lương thực, thực phẩm và vận chuyển thương binh về phía sau. Tiểu đoàn trưởng cho biết, tuy địch có bao vây chia cắt nhưng trận địa phòng ngự của trung đoàn vẫn giữ vững. Trước mắt còn khó khăn do lực lượng ta có hạn nên phải tổ chức chặt, bám chắc trận địa và phối hợp thật tốt với các đơn vị không cho chúng chiếm Pháo Đài.
    Ngày 19-2, những trận bắn pháo dữ dội của địch từ nhiều hướng dồn vào Pháo Đài. Nguy hiểm nhất là trận địa pháo 85mm của địch vừa bí mật kéo lên đồi 440, đồi Không Tên và trận địa ĐKZ ở mỏm phía bắc Pháo Đài. Chưa kịp nghe tiếng nổ đầu nòng đã thấy đạn pháo địch cày trước công sự. Chúng còn tổ chức bọn bắn tỉa bám sát các cán bộ chỉ huy và các xạ thủ súng máy của ta. Một số chiến sĩ đã hy sinh, bị thương vì bọn bắn tỉa này.
    Có thêm các chiến sĩ biên phòng, lực lượng bảo vệ Pháo Đài thêm vững. Do nối lại được thông tin nên việc chỉ huy của trung đoàn, tiểu đoàn đối với Pháo Đài cũng chặt chẽ hơn. Các trận địa pháo sư đoàn, trung đoàn và đơn vị bạn xác định toạ độ khu vực bắn chặn và kìm hoả lực địch chính xác, đúng thời cơ. Địch tiến công từ phía đông bị cối 120mm và súng máy của tiểu đoàn 6 ở điểm cao 339 giáng vào lưng. Chúng tiến công từ phía đông và phía nam bị đại đội 2 ở đồi Thâm Mô bắn lướt sườn. Những tốp địch tiến vào gần Pháo Đài bị chiến sĩ ta dùng lựu đạn, tiểu liên tiêu diệt. cứ như vậy, suốt ngày 19-2 địch vẫn không chiếm được Pháo Đài, mặc dù một số cánh quân của chúng đã vượt qua dãy Pháo Đài, Thâm Mô tiến hành bao vây điểm cao 339 và cắt đường 1B ở Con Khoang, Khôn Làng.
    Đêm 19-2, đại đội trưởng Hoàng Quý Nam và trung đội trưởng Phạm Hồng Minh cùng các chiến sĩ trinh sát vào tới Pháo Đài. Mọi người phấn khởi xúm quanh Nam, ai cũng thấy vững vàng hơn vì họ biết rõ về những cán bộ ưu tú của mình. Vẻ mặt Nam thoáng buồn vì thấy đại đội của mình chỉ còn mấy chục người. Mở đàu cuộc họp, Nam nói với anh em : "Tôi xin lỗi các đồng chí vì không về được sớm hon do phải đánh địch dọc đường. Nhưng còn Pháo Đài, thế trận của trung đoàn ta còn đứng vững. Địch ở xung quanh ta nhưng trung đoàn, sư đoàn ta lại ở xugn quanh địch". Niềm lạc quan của Nam đã tăng thêm lòng tin cho từng chiến sĩ. Đêm đó, nam đi khắp trận địa điều chỉnh lực lượng, thống nhất phương án, thống nhất chỉ huy với các chiến sĩ biên phòng.
    Ngày 20-2, địch bắt đầu dùng thủ đoạn đánh dần từng bước thay cho thủ đoạn đánh ào ạt. Cụm điểm tựa nam Đồng Đăng là mục tiêu đầu tiên của chúng. Lúc này, Pháo Đài, Thâm Mô, 339 như mũi tên cắm sâu vào đội hình địch trên trận địa phòng ngự của sư đoàn. Pháo Đài là đỉnh của mũi tên ấy. Xe tăng, xe kéo pháo chở bộ binh từ mốc 16 theo đường 4A, từ Hữu Nghị Quan theo đường 1A ùn ùn đổ về Đồng Đăng, liên tiếp tiến công lên Pháo Đài, Thâm Mô, 339. Ngày hôm ấy, sư đoàn mở những trận phản kích đánh vào cánh quân vu hồi từ Khôn Làng đến Con Khoang, Thâm Mô, buộc địch phải dồn quân đối phó. Các chiến sĩ trên Pháo Đài vừa chặn đánh các cánh quân tiến công lên trận địa mình, vừa chủ động dùng hoả lực bắn vào phía sau đội hình quân địch đang tràn lên điểm cao 339 và Thâm Mô. Mỗi lần như vậy, các chiến sĩ ở chốt tiền tiêu đồi Thâm Mô lại nhảy lên hoan hô làm cho không khí chiến đấu tuy ác liệt nhưng phấn chấn, tin tưởng. Ngày hôm đó, đại đội 42 bắn cháy 2 xe tăng, 1 xe kéo pháo, diệt gần 100 tên địch.
    Ngày 21-2, địch dồn quân quanh Pháo Đài đông hơn, bắn pháo dữ dội hơn. Hoàng Quý Nam vẫn đứng ở vị trí chỉ huy của mình ở ngay trận địa hoả lực. bên phải là trung đội do Phạm Hồng Minh chỉ huy. Bên trái là các chiến sĩ bộ đội biên phòng do Ngô Chí Khán chỉ huy. các cụ già, em nhỏ và thương binh nặng được chuyển xuống tầng hầm thứ 2. Như một con thoi, Nam chạy đi chạy lại giữa các tổ động viên bộ đội, tấm vải dù rách toạc từng mảng. Bọn địch bắn tỉa ở mỏm đồi phía bắc mấy lần bắn hụt Nam và các đồng chí chỉ huy trung đội. Nam bố trí bộ phận phục bắn trả lại hạ một số tên.
    Trận địa ĐKZ của chúng khống chế gắt gao cửa Pháo Đài, nơi thường xuyên qua lại giữa bộ phận chiến đấu và anh em thương binh, cũng là nơi có thể đại đội của anh phải rút về cố thủ. Nam quyết định phải diệt bằng được trận địa hoả lực của địch. Anh hợp đồng với Khán và các chiến sĩ biên phòng kèm bọn bộ binh, trung đội của Minh kèm bọn xe tăng, rồi thận trọng trườn ra hào giao thông bất ngờ đứng dậy bắn liên tiếp 2 quả B41, 1 quả vào cụm chỉ huy, 1 quả vào trận địa ĐKZ. Nam là 1 cán bộ không những chỉ huy giỏi mà còn sử dụng thành thạo nhiều loại vũ khí : AK, M79, B40, B41, trung liên, đại liên và cả súng cối.
    14 giờ chiều, giữa lúc Nam đang giương khẩu B41 nhắm vào 1 ổ trọng liên của địch thì 1 quả đạn B41 của chúng đã đẩy anh ngã xuống, đùi bên phải dập nát. Nam không nói được câu nào nhưng đôi mắt của anh như nói lên tất cả. Một đôi mắt trong trẻo, mở to như muốn níu giữ lấy hình ảnh những khuôn mặt thân yêu của đồng đội. Năm ấy Hoàng Quý Nam vừa tròn 27 tuổi.
    Sau khi Hoàng Quý Nam hy sinh, địch tổ chức thêm nhiều đợt xung phong và chiếm được mỏm đồi phía tây bắc Pháo Đài. Khán, Minh, Thức cùng với những chiến sĩ còn lại rút về mỏm Pháo Đài. Số thương binh và đồng bào được chuyển xuống tầng hầm thứ 3. Một đợt tiến công nữa của địch bị đẩy lui nhưng trung đội trưởng Thức hy sinh, Khán bị thương lần thứ 2.
    vào ngày cuối cùng, Phạm Hồng Minh, người thay thế Hoàng Quý Nam đã huy động toàn bộ lực lượng bám giữ quanh Pháo Đài. Đó là ngày địch vừa đưa lực lượng dự bị vào đánh đồng laọt lên toàn bộ cụm điểm tựa nam Đồng Đăng. Cũng như ở Thâm Mô hôm đó, nhiều cuộc chiến đấu giáp lá cà đã diễn ra quanh cửa Pháo Đài. Có lúc Minh phải gọi các trận địa pháo của ta bắn trùm lên Pháo Đài để đẩy lùi đợt tiến công ào ạt của địch, nhưng rồi máy thông tin lại hỏng. Các chiến sĩ ta chỉ còn 2 vị trí chiến đấu ở cửa Pháo Đài. Một số thương binh nặng khi tỉnh dậy, nghe tiếng kêu gọi của Phạm Hồng Minh cũng bò lên cửa Pháo Đài tham gia chiến đấu. Mọi người đều xác định : thà hy sinh chứ không chịu để quân Trung Quốc bắt sống. Nhưng lực lượng quá chênh lệch, sau mấy lần tiến công bằng súng phun lửa, địch đã tràn lên được bề mặt Pháo Đài. Những thất bại suốt 5 ngày quanh Pháo Đài làm chúng ***g lên. Sau khi không kêu gọi được các chiến sĩ ta đầu hàng, chúng chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đnạ hoá chất độc vào các lỗ thông hơi. Các cụ già, em nhỏ sau những ngày đói khát đã kiệt sức, dần dần lả đi ở các căn hầm vòm. Những chiến sĩ bị thương nặng cũng lần lượt hy sinh. Pháo Đài chỉ còn lại Phạm Hồng Minh và một số chiến sĩ bị thương nhẹ. Trước tình hình ấy Minh quyết định tổ chức đánh địch mở đường máu để đưa lực lượng còn lại ra khỏi Pháo Đài.
    Nếu như tên tuổi Phạm Ngọc Yểng và các chiến sĩ bảo vệ Thâm Mô đã được các chiến sĩ ta gắn liền với tên sông núi thì tên tuổi Hoàng Quý Nam cùng các chiến sĩ bảo vệ điểm cao Pháo Đài đã được lưu lại trong lòng cán bộ chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng và quân dân Lạng Sơn bằng những bài ca mà cho đến nay mỗi khi hát lên vẫn làm xúc động lòng người :
    Ta hát lên, ngợi ca Pháo Đài Đồng Đăng
    Ta hát lên, tên anh Hoàng Quý Nam
    Trước quân thù sống bất khuất, hiên ngang
    Vì nhân dân chết anh dũng vẻ vang.
    (Theo ca cảnh quan họ "Pháo Đài Đồng Đăng" của Nguyễn Phiết)

  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Không thực hiện được ý định chiếm Pháo Đài ngay buổi đầu, rạng sáng ngày 18-2, lấy các mỏm phía bắc làm bàn đạp, kết hợp với các cánh quân phía tây và phía đông, chúng đánh lên Pháo Đài quyết liệt hơn. Suốt ngày hầu như lúc nào cũng có tiếng súng nổ trên 2 mỏm cuối cùng của Pháo Đài. Không chi viện được cho Pháo Đài bằng xung lực, trung đoàn 12 ra lệnh cho các trận địa pháo và các điểm tựa Thâm Mô, 339 thay nhau bắn các loại hoả lực vào các cánh quân địch, phối hợp với các chiến sĩ trên Pháo Đài đánh xuống. Địch dùng xe tăng dẫn đầu bộ binh xung phong nhưng bị pháo 85mm, cối 120mm của ta tiêu diệt. Chúng kéo pháo 85mm tới phía bắc Pháo Đài ngắm bắn trực tiếp vào từng công sự của ta nhưng cũng bị pháo bắn thẳng và pháo bắn vòng cầu của ta phá hủy. Được chi viện có hiệu quả của các đơn vị bạn, các chiến sĩ trên Pháo Đài ngày hôm đó dù chỉ còn lại 27 tay súng vẫn kiên quyết giữ vững trận địa, đẩy lùi 10 đợt tiến công của hàng nghìn quân địch.
    Ở trung đội Nguyễn Đình Đức, sau khi địch bỏ chạy, thấy 1 xe tăng chúng mắc kẹt ở đoạn suối sâu. Không bỏ lỡ thời cơ, Đức ra lệnh cho chiến sĩ yểm hộ rồi nhảy khỏi công sự trườn xuống chân đồi, chui vào gầm xe buộc chùm lựu đạn 4 quả vào xích ở đoạn đầu máy. Một tiếng nổ dậy lên. Bọn giặc hốt hoảng bật nắp xe lao ra ngoài bỏ chạy. Nhưng trên đường trở về, địch ở mỏm đồi phía bắc đã phát hiện thấy Đức và anh đã hy sinh bởi 1 loạt đạn đại liên của chúng.
    Nguyễn Đình Đức hy sinh, nhưng tinh thần tiến công tiêu diệt địch của anh đã nếu gương cho các chiến sĩ quyét bảo vệ Pháo Đài.
    Thấy ở Pháo Đài ta vẫn giữ được, đêm hôm đó, gần 20 chiến sĩ biên phòng thuộc đoàn Thanh Xuyên sau những trận đánh quyết liệt ở sát biên giới đã tìm đường lên Pháo Đài. Một số đồng bào ta ở Đồng Đăng cũng tìm lên Pháo Đài. Người nào cũng lấm đầy bùn đất, áo quần bị rách nhưng tất cả đều ánh lên niềm vui được gặp bộ đội. Họ kể cho chiến sĩ nghe những hành động giết chóc, bắn phá, bắt bớ của bọn lính Trung Quốc đối với đồng bào ta ở Đồng Đăng. Thực ra suốt 2 ngày nay, từ trên Pháo Đài các chiến sĩ đã chứng kiến tội ác dã man của giặc gây ra ở thị trấn nhỏ bé này ngay từ những loạt pháo đầu tiên của quân Trung Quốc. Những ngôi nhà đổ sụp, bốc cháy, những tiếng kêu thét của phụ nữ, trẻ em, những cảnh đánh đjap xua đuổi tàn nhẫn đồng bào tới nơi tập trung. Tất cả chỉ cách Pháo Đài mấy trăm mét. tình cảm đối với nhân dân đốt cháy trong lòng chiến sĩ niềm phẫn uất cao độ.
    Cũng đêm ấy, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Thu cùng một số cán bộ, chiến sĩ cơ quan, vận tải, lách qua các cụm quân địch tới Pháo Đài kiểm tra trận địa, tiếp đạn, lương thực, thực phẩm và vận chuyển thương binh về phía sau. Tiểu đoàn trưởng cho biết, tuy địch có bao vây chia cắt nhưng trận địa phòng ngự của trung đoàn vẫn giữ vững. Trước mắt còn khó khăn do lực lượng ta có hạn nên phải tổ chức chặt, bám chắc trận địa và phối hợp thật tốt với các đơn vị không cho chúng chiếm Pháo Đài.
    Ngày 19-2, những trận bắn pháo dữ dội của địch từ nhiều hướng dồn vào Pháo Đài. Nguy hiểm nhất là trận địa pháo 85mm của địch vừa bí mật kéo lên đồi 440, đồi Không Tên và trận địa ĐKZ ở mỏm phía bắc Pháo Đài. Chưa kịp nghe tiếng nổ đầu nòng đã thấy đạn pháo địch cày trước công sự. Chúng còn tổ chức bọn bắn tỉa bám sát các cán bộ chỉ huy và các xạ thủ súng máy của ta. Một số chiến sĩ đã hy sinh, bị thương vì bọn bắn tỉa này.
    Có thêm các chiến sĩ biên phòng, lực lượng bảo vệ Pháo Đài thêm vững. Do nối lại được thông tin nên việc chỉ huy của trung đoàn, tiểu đoàn đối với Pháo Đài cũng chặt chẽ hơn. Các trận địa pháo sư đoàn, trung đoàn và đơn vị bạn xác định toạ độ khu vực bắn chặn và kìm hoả lực địch chính xác, đúng thời cơ. Địch tiến công từ phía đông bị cối 120mm và súng máy của tiểu đoàn 6 ở điểm cao 339 giáng vào lưng. Chúng tiến công từ phía đông và phía nam bị đại đội 2 ở đồi Thâm Mô bắn lướt sườn. Những tốp địch tiến vào gần Pháo Đài bị chiến sĩ ta dùng lựu đạn, tiểu liên tiêu diệt. cứ như vậy, suốt ngày 19-2 địch vẫn không chiếm được Pháo Đài, mặc dù một số cánh quân của chúng đã vượt qua dãy Pháo Đài, Thâm Mô tiến hành bao vây điểm cao 339 và cắt đường 1B ở Con Khoang, Khôn Làng.
    Đêm 19-2, đại đội trưởng Hoàng Quý Nam và trung đội trưởng Phạm Hồng Minh cùng các chiến sĩ trinh sát vào tới Pháo Đài. Mọi người phấn khởi xúm quanh Nam, ai cũng thấy vững vàng hơn vì họ biết rõ về những cán bộ ưu tú của mình. Vẻ mặt Nam thoáng buồn vì thấy đại đội của mình chỉ còn mấy chục người. Mở đàu cuộc họp, Nam nói với anh em : "Tôi xin lỗi các đồng chí vì không về được sớm hon do phải đánh địch dọc đường. Nhưng còn Pháo Đài, thế trận của trung đoàn ta còn đứng vững. Địch ở xung quanh ta nhưng trung đoàn, sư đoàn ta lại ở xugn quanh địch". Niềm lạc quan của Nam đã tăng thêm lòng tin cho từng chiến sĩ. Đêm đó, nam đi khắp trận địa điều chỉnh lực lượng, thống nhất phương án, thống nhất chỉ huy với các chiến sĩ biên phòng.
    Ngày 20-2, địch bắt đầu dùng thủ đoạn đánh dần từng bước thay cho thủ đoạn đánh ào ạt. Cụm điểm tựa nam Đồng Đăng là mục tiêu đầu tiên của chúng. Lúc này, Pháo Đài, Thâm Mô, 339 như mũi tên cắm sâu vào đội hình địch trên trận địa phòng ngự của sư đoàn. Pháo Đài là đỉnh của mũi tên ấy. Xe tăng, xe kéo pháo chở bộ binh từ mốc 16 theo đường 4A, từ Hữu Nghị Quan theo đường 1A ùn ùn đổ về Đồng Đăng, liên tiếp tiến công lên Pháo Đài, Thâm Mô, 339. Ngày hôm ấy, sư đoàn mở những trận phản kích đánh vào cánh quân vu hồi từ Khôn Làng đến Con Khoang, Thâm Mô, buộc địch phải dồn quân đối phó. Các chiến sĩ trên Pháo Đài vừa chặn đánh các cánh quân tiến công lên trận địa mình, vừa chủ động dùng hoả lực bắn vào phía sau đội hình quân địch đang tràn lên điểm cao 339 và Thâm Mô. Mỗi lần như vậy, các chiến sĩ ở chốt tiền tiêu đồi Thâm Mô lại nhảy lên hoan hô làm cho không khí chiến đấu tuy ác liệt nhưng phấn chấn, tin tưởng. Ngày hôm đó, đại đội 42 bắn cháy 2 xe tăng, 1 xe kéo pháo, diệt gần 100 tên địch.
    Ngày 21-2, địch dồn quân quanh Pháo Đài đông hơn, bắn pháo dữ dội hơn. Hoàng Quý Nam vẫn đứng ở vị trí chỉ huy của mình ở ngay trận địa hoả lực. bên phải là trung đội do Phạm Hồng Minh chỉ huy. Bên trái là các chiến sĩ bộ đội biên phòng do Ngô Chí Khán chỉ huy. các cụ già, em nhỏ và thương binh nặng được chuyển xuống tầng hầm thứ 2. Như một con thoi, Nam chạy đi chạy lại giữa các tổ động viên bộ đội, tấm vải dù rách toạc từng mảng. Bọn địch bắn tỉa ở mỏm đồi phía bắc mấy lần bắn hụt Nam và các đồng chí chỉ huy trung đội. Nam bố trí bộ phận phục bắn trả lại hạ một số tên.
    Trận địa ĐKZ của chúng khống chế gắt gao cửa Pháo Đài, nơi thường xuyên qua lại giữa bộ phận chiến đấu và anh em thương binh, cũng là nơi có thể đại đội của anh phải rút về cố thủ. Nam quyết định phải diệt bằng được trận địa hoả lực của địch. Anh hợp đồng với Khán và các chiến sĩ biên phòng kèm bọn bộ binh, trung đội của Minh kèm bọn xe tăng, rồi thận trọng trườn ra hào giao thông bất ngờ đứng dậy bắn liên tiếp 2 quả B41, 1 quả vào cụm chỉ huy, 1 quả vào trận địa ĐKZ. Nam là 1 cán bộ không những chỉ huy giỏi mà còn sử dụng thành thạo nhiều loại vũ khí : AK, M79, B40, B41, trung liên, đại liên và cả súng cối.
    14 giờ chiều, giữa lúc Nam đang giương khẩu B41 nhắm vào 1 ổ trọng liên của địch thì 1 quả đạn B41 của chúng đã đẩy anh ngã xuống, đùi bên phải dập nát. Nam không nói được câu nào nhưng đôi mắt của anh như nói lên tất cả. Một đôi mắt trong trẻo, mở to như muốn níu giữ lấy hình ảnh những khuôn mặt thân yêu của đồng đội. Năm ấy Hoàng Quý Nam vừa tròn 27 tuổi.
    Sau khi Hoàng Quý Nam hy sinh, địch tổ chức thêm nhiều đợt xung phong và chiếm được mỏm đồi phía tây bắc Pháo Đài. Khán, Minh, Thức cùng với những chiến sĩ còn lại rút về mỏm Pháo Đài. Số thương binh và đồng bào được chuyển xuống tầng hầm thứ 3. Một đợt tiến công nữa của địch bị đẩy lui nhưng trung đội trưởng Thức hy sinh, Khán bị thương lần thứ 2.
    vào ngày cuối cùng, Phạm Hồng Minh, người thay thế Hoàng Quý Nam đã huy động toàn bộ lực lượng bám giữ quanh Pháo Đài. Đó là ngày địch vừa đưa lực lượng dự bị vào đánh đồng laọt lên toàn bộ cụm điểm tựa nam Đồng Đăng. Cũng như ở Thâm Mô hôm đó, nhiều cuộc chiến đấu giáp lá cà đã diễn ra quanh cửa Pháo Đài. Có lúc Minh phải gọi các trận địa pháo của ta bắn trùm lên Pháo Đài để đẩy lùi đợt tiến công ào ạt của địch, nhưng rồi máy thông tin lại hỏng. Các chiến sĩ ta chỉ còn 2 vị trí chiến đấu ở cửa Pháo Đài. Một số thương binh nặng khi tỉnh dậy, nghe tiếng kêu gọi của Phạm Hồng Minh cũng bò lên cửa Pháo Đài tham gia chiến đấu. Mọi người đều xác định : thà hy sinh chứ không chịu để quân Trung Quốc bắt sống. Nhưng lực lượng quá chênh lệch, sau mấy lần tiến công bằng súng phun lửa, địch đã tràn lên được bề mặt Pháo Đài. Những thất bại suốt 5 ngày quanh Pháo Đài làm chúng ***g lên. Sau khi không kêu gọi được các chiến sĩ ta đầu hàng, chúng chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đnạ hoá chất độc vào các lỗ thông hơi. Các cụ già, em nhỏ sau những ngày đói khát đã kiệt sức, dần dần lả đi ở các căn hầm vòm. Những chiến sĩ bị thương nặng cũng lần lượt hy sinh. Pháo Đài chỉ còn lại Phạm Hồng Minh và một số chiến sĩ bị thương nhẹ. Trước tình hình ấy Minh quyết định tổ chức đánh địch mở đường máu để đưa lực lượng còn lại ra khỏi Pháo Đài.
    Nếu như tên tuổi Phạm Ngọc Yểng và các chiến sĩ bảo vệ Thâm Mô đã được các chiến sĩ ta gắn liền với tên sông núi thì tên tuổi Hoàng Quý Nam cùng các chiến sĩ bảo vệ điểm cao Pháo Đài đã được lưu lại trong lòng cán bộ chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng và quân dân Lạng Sơn bằng những bài ca mà cho đến nay mỗi khi hát lên vẫn làm xúc động lòng người :
    Ta hát lên, ngợi ca Pháo Đài Đồng Đăng
    Ta hát lên, tên anh Hoàng Quý Nam
    Trước quân thù sống bất khuất, hiên ngang
    Vì nhân dân chết anh dũng vẻ vang.
    (Theo ca cảnh quan họ "Pháo Đài Đồng Đăng" của Nguyễn Phiết)

  8. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    TRƯỚC CỬA NGÕ THỊ XÃ LẠNG SƠN
    (Trích kí sự lịch sử Sư đoàn Sao Vàng)
    Đêm 22-2, thường vụ đảng uỷ và bộ tư lệnh sư đoàn họp. Vấn đề trung tâm được đưa ra thảo luận là nên đưa trung đoàn 12 lập trận địa mới hay tiếp tục tổ chức đánh chiếm lại các trận địa vừa bị mất trên hướng chủ yếu ở Đồng Đăng ? Có ý kiến cần tập trung toàn bộ lực lượng khôi phục lại các điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, 339 bởi giá trị chiến dịch của nó có tính chất quyết định đối với việc bảo vệ Lạng Sơn. Mất khu vực cửa ngõ này, mũi vu hồi của địch ở Tam Lung có điều kiện tiến về Lạng Sơn nhanh hơn vì nó không còn bị đe doạ từ phía sau lưng. Có ý kiến nếu tập trung sức của sư đoàn để phản kích thì sẽ khôi phục được trận địa vì ở Thâm Mô và điểm cao 339 ta vẫn còn giữ được một phần đất để làm bàn đạp, nhưng sự tiêu hao sinh lực sẽ lớn. thêm nữa, địch vẫn liên tiếp tăng quân và đang dồn lực lượng vào hướng chủ yếu. Diệt hết lớp này, lớp khác lại tràn đến thay thế. Trong khi ấy lực lượng ta có hạn, nhất là trung đoàn 12 phải tính đến từng người. Do đó không thể đánh theo lối "đá bóng" như vậy mãi được.
    Giữa chừng hội nghị, đồng chí Lê Thanh phó tư lệnh Quân khu 1 đến. Sau khi nghe tóm tắt tình hình và những ý kiến thảo luận của hội nghị, đồng chí nhất trí với quyết định của sư đoàn điều trung đoàn 12 tổ chức trận địa phòng ngự ở đường 1B. Đồng chí nhắc sư đoàn những ý kiến của Bộ về mũi vu hồi ở Tam Lung, địch đã không thực hiện được ý định thì bây giờ khi chiếm được Thâm Mô, Pháo Đài, 339 chúng sẽ biến mũi vu hồi Tam Lung thành hướng tiến công chính. Bởi vậy, sư đoàn phải nhanh chóng tập trung sức củng cố ngay thế trận để chặn đánh địch ngay trong ngày mai vì trung đoàn 870 địch đã tập kết dưới chân điểm cao 811.
    Từ tình hình cụ thể của sư đoàn và những ý kiến của đồng chí phó tư lệnh quân khu, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định đưa trung đoàn 12 và tiểu đoàn 1 Bắc Thái (tức tiểu đoàn 1 của trung đoàn 197 Bắc Thái-chiangshan) về lập trận địa mới trên hướng đường 1B từ Nà Pia đến Lũng Pảng. Đồng thời tập trung lực lượng bộ binh, pháo binh trên đường 1A sẵn sàng đánh phủ đầu trung đoàn 870 địch khi chúng bước vào tác chiến.
    Suốt đêm hôm ấy, sư đoàn 3 khẩn trương di chuyển. tiểu đoàn 5 sau những ngày chiến đấu dũng cảm ở khu vực Tân Yên được lệnh qua Đồng Uất. Tiểu đoàn 4 và 6 rời khu vực Thâm Mô, 339 tới khu vực Chóc Vỏ, 393. Tiểu đoàn 1 và 7 nhanh chóng từ Thâm Mô, Khôn Làng trở lại nam Tam Lung làm lực lượng cơ động cho sư đoàn. Tiểu đoàn 1 Bắc Thái chiếm lĩnh trận địa ở Nà Pia, Khôn Làng. Các đơn vị trực thuộc cũng được bố trí lại theo đội hình phòng ngự của từng hướng.
    Để phục vụ cho sư đoàn điều chỉnh lực lượng, cơ quan hậu cần các cấp làm việc rất khẩn trương, linh hoạt. Công tác hậu cần chiến dịch thực hiện tốt một phần do chi việc của hậu phương và cấp trên kịp thời, đắc lực, kết hợp với sự nỗ lực, năng động của các cán bộ, chiến sĩ từ cơ quan đến các đơn vị vận tải, quân y, các kho, trạm, xưởng quân giới. Chủ nhiệm hậu cần sư đoàn Nguyễn Xuân Khá cùng các trưởng ban trong mọi cuộc di chuyển đều có mặt ở các mối đường kiểm tra, đôn đốc, bổ sugn kịp thời các mặt cho từng đơn vị theo đúng yêu cầu nhiệm vụ. Trong khi đó, các sĩ quan tham mưu, chính trị cũng xuyên rừng, lội suối đến các trận địa tham gia thực hiện các phương án chiến đấu.
    Đêm rời khỏi khu vực Đồng Đăng gợi các chiến sĩ trong sư đoàn nhớ tới đêm rời khu vực Bồng Sơn vào mùa thu ănm 1972. Khung cảnh hoang vắng của những bản làng mà sư đoàn hành quân qua, tội ác dã man của bọn bành trướng đã đốt cháy thêm lòng căm thù sâu sắc của cán bộ chiến sĩ đối với quân xâm lược.
    Mọi người đều hiểu trong hình thái phòng ngự của sư đoàn lúc đó, việc chủ động tổ chức lại trận địa là 1 quyết định chính xác. Sư đoàn cần có thời gian dù là rất ngắn để củng cố lực lượng. Mặt khác, tổ chức phòng ngự ở khu vực mới sư đoàn có điều kiện tập trung được lực lượng mạnh để tăng cường cho hướng phòng ngự chủ yếu, mở các đợt phản kích với quy mô trung đoàn nhằm đánh quỵ các lực lượng đột kích chính của địch.
    Cuộc di chuyển đội hình đã diễn ra một cách chủ động và bí mật, đến nỗi sáng 23-2, ở nhiều nơi địch vẫn bắn pháo rồi xung phong ồ ạt lên các trận địa đã trống không. 7 ngày liên tiếp tổ chức tiến công, ném vào họng súng của đối phương hàng ngàn binh lính, hàng trăm xe tăng, xe cơ giới và pháo binh, bọn xâm lược Trung Quốc tiến được vẻn vẹn 4km. Người ta nói rằng đó là một tốc độ tiến quân chậm nhất, tổn thất và tốn kém nhất so với bất kì cuộc chiến tranh xâm lược nào trong lịch sử.
    Bị Hứa Thế Hữu và Dương Đắc Chí thúc ép, vì 1 tuần lễ rồi vẫn chưa đánh tan được sư đoàn Sao Vàng để tới Lạng Sơn, sau khi chiếm được khu vực Đồng Đăng, bộ chỉ huy địch trên hướng Lạng Sơn chủ trương không để cho đối phương kịp hồi sức đã tổ chức đánh ngay vào khu vực phòng ngự của sư đoàn ở Tam Lung. Chúng đinh ninh có bàn đạp Đồng Đăng với nhiều trận địa pháo vừa được thiết lập và sư đoàn 3 đã bị thiệt hại nặng nề ở Thâm Mô, Pháo Đài, 339 không thể nào đứng vững được trước đòn tiến công tập trung cao độ của chúng. Nhưng một lần nữa chúng phải trả giá cho sự chủ quan hợm mình đó.
    7 giờ 30 ngày 23-2-1979, hầu như toàn bộ lực lượng pháo binh địch trên hướng Lạng Sơn đều đổ đạn vào cụm điểm tựa Tam Lung. Bỗng nhiên, trong những phút cuối của trận mưa đạn ấy, đài quan sát trung đoàn 2 báo cáo, pháo địch còn bắn nhưng 1 tiểu đoàn bộ binh của chúng đang di chuyển dưới trung tâm toạ độ bắn phá hoại ấy. Nhận thấy địch đang có thủ đoạn mới, trung đoàn trưởng Nguyễn Lư vội cầm máy yêu cầu tiểu đoàn 3 ở Chậu Cảnh báo cáo cụ thể. Một lát, tiểu đoàn trưởng Đỗ Ngọc Ngòi cho biết, sau khi bắn đạn thật, địch bắn pháo giấy lên trận địa ta cho bộ binh tiếp cận. Anh đã thông báo cho bộ đội biết và đang chuẩn bị chiến đấu.
    Trung đoàn trưởng thở phào. Anh điện cho tiểu đoàn 2 nhắc địch đang nghi binh bắn pháo giấy để chiếm Phai Môn. Chú ý cảnh giác và đánh cho thật tốt.
    Vừa buông ống nói, anh đã nghe tiếng súng rộ lên trên trận địa của tiểu đoàn 3. Đinh ninh với thủ đoạn bắn pháo giấy, địch ùn ùn kéo lên Phai Môn, một điểm cao nằm cách khu đồi Chậu Cảnh 500m về phía nam. Sở dĩ lần này địch tiến đánh Phai Môn trước vì Phai Môn là một mắt xích trọng yếu trong trận địa phòng ngự bảo vệ Lạng Sơn của sư đoàn. Chiếm được Phai Môn, địch sẽ khống chế khu đồi Chậu Cảnh, Bản Phân và các khu vực khác. Nhưng ở điểm cao này, sư đoàn 3 đã chuẩn bị 1 trận giáng trả đích đáng đối với bọn xâm lược bằng đòn tiến công chặt chẽ giữa bộ binh và pháo binh. Suốt đêm 22-2, mặc dù vừa trải qua một ngày chiến đấu khốc liệt, sư đoàn đã nhanh chóng hoàn chỉnh thế trận phòng ngự mới, tập kết toàn bộ lực lượng cơ động của mình trên hướng chủ yếu, xác định toạ độ bắn cho pháo binh vào các khu vực dự kiến tác chiến, đặc biệt đã bí mật đưa trận địa pháo 85mm bắn thẳng lên điểm cao 417 cách Phai Môn chưa đầy 1km để chi viện trực tiếp cho bộ binh. Tất cả khối công việc khổng lồ đó chỉ diễn ra trong 1 đêm, khiến cho địch khi ào ạt tràn lên Phai Môn đã hứng chịu một trận tập kích bất ngờ, dữ dội của pháo binh ta giáng xuống. Đội hình chúng lạp tức rối loạn, số xông lên đỉnh đồi bị các chiến sĩ địa đội 10 đánh hất xuống, số tụt xuống suối bị pháo ta giã vào. Hàng trăm tên địch đã bỏ mạng trong những đợt tiến công ấy.
    Sau lần xung phong thứ 6, địch buộc hpải rút về điểm cao 611 và 409. Lập tức sư đoàn ra lệnh cho trung đoàn 2 dùng lực lượng cơ động cắt rừng đánh thốc vào sườn đội hình chúng. Hàng trăm xác chết nằm ngổn ngang trên đường rút chạy của chúng.
    Một tiếng đồng hồ sau, trinh sát sư đoàn báo cáo, 1 cánh quân địch từ Đồng Đăng xuống nhập bọn với đám tàn quân vừa thua trận lại kéo vào Phai Môn. Bộ tư lệnh sư đoàn nhận định địch đã tung lực lượng dự bị vào để chiếm bằng được Phai Môn. Lập tức, lệnh chiến đấu được truyền ngay xuống các đơn vị.
    14 giờ, khi pháo địch đang bắn lên trận địa Phai Môn, sư đoàn ra lệnh cho pháo binh ta bắn trùm lên cụm xuất phát tiến công của địch ở dưới chân đồi. Sau đó, khi địch thực hành xung phong thì lực lượng cơ động của trung đoàn 2 cũng được lệnh xuất kích diệt địch từ lưng chừng đồi, phối hợp với đại đội 10 từ đỉnh đồi đánh xuống. Trận kịch chiến diễn ra hàng tiếng đồng hồ.
    Giữa 4 về là địch, đại đội 10 dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Phan Bá Mạnh và chính trị viên Nguyễn Xuân Phúc đã bình tĩnh đánh trả hết toán quân này đến toán quân khác của chúng. Mỗi người đều khoác trên mình 2, 3 khẩu súng để diệt địch. Đại đội trưởng Phan Bá Mạnh vừa dùng AK vừa bắn B40, ở đâu khó khăn là có anh. Trong một lần di chuyển, anh đã trúng 1 quả đạn ĐKZ của địch. Phan Bá Mạnh hy sinh để lại tấm gương chiến đấu oanh liệt và niềm thương tiếc vô hạn cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị. Thay thế Mạnh, chính trị viên Nguyễn Xuân Phúc tiếp tục chỉ huy đơn vị đánh hất địch xuống chân đồi, giữ vững trận địa.
    Không chiếm được Phai Môn, địch dồn quân đánh vào Chậu Cảnh lúc 15 giờ 45. Tại đây địch không ngờ toàn bộ đội hình tiến công của chúng đã phơi lưng một cách lộ liễu trước trận địa pháo bắn thẳng của sư đoàn và các trận địa hoả lực của trung đoàn 2. Một trận bắn pháo dữ dội và chính xác của ta đã giáng xuống đội hình dày đặc của địch. Trong cảnh hoảng loạn của chúng, trung đoàn 2 ra lệnh cho một bộ phận tiểu đoàn 3 xuất kích, tiến công từ bên sườn, phối hợp với các chiến sĩ từ trên điểm tựa đánh xuống. Hàng trăm xác địch bỏ lại trận địa, đánh dấu thất bại nặng nề của trung đoàn 870 địch sau 12 lần tiến công vào Tam Lung.
    Nắng chiều tắt dần trên các điểm cao. Không gian trở lại yên ắng. Một ngày chiến đấu căng thẳng nữa đã trôi qua. Dưới các thung lũng về phía bắc, địch đang lặng lẽ thu thập tàn quân và quát nạt nhau qua sóng đài 2W vì không tìm thấy "thủ trưởng số 2" (mật danh của tên trung đoàn phó). Hơn 1.000 tên địch bị tiêu diệt trong ngày hôm đó.
    Vào lúc 15 giờ ngày hôm ấy, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay mặt Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng dẫn đầu đoàn cán bộ lên kiểm tra hướng Lạng Sơn, tới sở chỉ huy làm việc với bộ tư lệnh sư đoàn 3. Sư đoàn trưởng đã báo cáo với đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị toàn bộ diễn biến và kết quả chiến đấu trong 7 ngày qua với tất cả những ưu điểm, thiếu sót trong công tác chỉ huy, bảo đảm cũng như tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ.
    Khi sư đoàn trưởng trình bày xong, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị nói đại ý : so với những ngày đầu đánh Mĩ, sư đoàn đã vận dụng chiến thuật nhạy bén và chững chạc hơn nhiều. Bộ đội có bản lĩnh vững vàng nên trong mọi tình huống vẫn độc lập tác chiến và đánh khá tốt ở nhiều khu vực. Phải nhanh chóng phát huy những hành động anh hùng, bất khuất của cán bộ, chiến sĩ và những phân đội đã đánh giáp lá cà, đánh bằng mọi thứ vũ khí, quả cảm, quên mình bảo vệ trận địa. Đồng chí còn cho biết 7 ngày vừa qua sư đoàn đã đánh với ba phần tư lực lượng của 2 quân đoàn địch có hàng trung đoàn xe tăng yểm trợ. Đó là một cố gắng rất đáng kể. Tuy vậy những thiếu sót về tổn thất vũ khí, phương tiện và duy trì kỉ luật chiến trường đối với cơ sở cần chú ý nghiêm khắc hơn. Các khu vực phòng ngự phải có kế hoạch bảo đảm để bộ đội có thể trụ bám được. Thị xã Lạng Sơn vẫn đang là mục tiêu của địch nên sắp tới sư đoàn còn phải đánh với những lực lượng đông hơn, ác liệt hơn. Trước mắt, sư đoàn điều chỉnh thế bố trí trận địa như vậy alf kịp thời và cần thiết. Địch càng tiến vào sâu, tốc độ phát triển càng chậm, tổn thất càng tăng. Đó là dấu hiệu của sự thất bại và nhất định chúng sẽ thất bại nặng như đã từng thất bại ở biên giới Xô-Trung năm trước.
    Ngày hôm đó, trên toàn tuyến biên giới, địch bị chặn đứng lại trước các mục tiêu then chốt của chúng. Ở Cao Bằng, 2 quân đoàn 41, 42 và 1 sư đoàn độc lập có xe tăng yểm trợ đã bị đánh thiệt hại nặng ở Tà Sa, Nà Ngần, Bản Chan, Tĩnh Túc, Khâu Đôn, Khâu Chỉ... Ở Lào Cai, 4 sư đoàn của 2 quân đoàn 13, 14 và 2 tiểu đoàn xe tăng bị bám đánh liên tục ở tây Lào cai, Cốc Sân, Thanh Bình, Bản Lầu, ga Phố Mới... Ở Hà Tuyên, Quảng Ninh, tiếng súng chặn địch vẫn vang lên từ ngày 17-2-1979. Càng tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, địch càng lúng túng. các mục tiêu chiến dịch đặt ra trong 48 giờ đồng hồ đến nay vẫn chưa đạt được. Cay cú, Hứa Thế Hữu và Dương Đắc Chí quyết định tung thêm các đơn vị bộ binh, pháo binh, xe tăng, lấy các binh đoàn chủ lực làm lực lượng đột phá, đánh chiếm bằng được các mục tiêu quy định, trong đó thị xã Lạng Sơn là mục tiêu chủ yếu của chúng.
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    TRƯỚC CỬA NGÕ THỊ XÃ LẠNG SƠN
    (Trích kí sự lịch sử Sư đoàn Sao Vàng)
    Đêm 22-2, thường vụ đảng uỷ và bộ tư lệnh sư đoàn họp. Vấn đề trung tâm được đưa ra thảo luận là nên đưa trung đoàn 12 lập trận địa mới hay tiếp tục tổ chức đánh chiếm lại các trận địa vừa bị mất trên hướng chủ yếu ở Đồng Đăng ? Có ý kiến cần tập trung toàn bộ lực lượng khôi phục lại các điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, 339 bởi giá trị chiến dịch của nó có tính chất quyết định đối với việc bảo vệ Lạng Sơn. Mất khu vực cửa ngõ này, mũi vu hồi của địch ở Tam Lung có điều kiện tiến về Lạng Sơn nhanh hơn vì nó không còn bị đe doạ từ phía sau lưng. Có ý kiến nếu tập trung sức của sư đoàn để phản kích thì sẽ khôi phục được trận địa vì ở Thâm Mô và điểm cao 339 ta vẫn còn giữ được một phần đất để làm bàn đạp, nhưng sự tiêu hao sinh lực sẽ lớn. thêm nữa, địch vẫn liên tiếp tăng quân và đang dồn lực lượng vào hướng chủ yếu. Diệt hết lớp này, lớp khác lại tràn đến thay thế. Trong khi ấy lực lượng ta có hạn, nhất là trung đoàn 12 phải tính đến từng người. Do đó không thể đánh theo lối "đá bóng" như vậy mãi được.
    Giữa chừng hội nghị, đồng chí Lê Thanh phó tư lệnh Quân khu 1 đến. Sau khi nghe tóm tắt tình hình và những ý kiến thảo luận của hội nghị, đồng chí nhất trí với quyết định của sư đoàn điều trung đoàn 12 tổ chức trận địa phòng ngự ở đường 1B. Đồng chí nhắc sư đoàn những ý kiến của Bộ về mũi vu hồi ở Tam Lung, địch đã không thực hiện được ý định thì bây giờ khi chiếm được Thâm Mô, Pháo Đài, 339 chúng sẽ biến mũi vu hồi Tam Lung thành hướng tiến công chính. Bởi vậy, sư đoàn phải nhanh chóng tập trung sức củng cố ngay thế trận để chặn đánh địch ngay trong ngày mai vì trung đoàn 870 địch đã tập kết dưới chân điểm cao 811.
    Từ tình hình cụ thể của sư đoàn và những ý kiến của đồng chí phó tư lệnh quân khu, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định đưa trung đoàn 12 và tiểu đoàn 1 Bắc Thái (tức tiểu đoàn 1 của trung đoàn 197 Bắc Thái-chiangshan) về lập trận địa mới trên hướng đường 1B từ Nà Pia đến Lũng Pảng. Đồng thời tập trung lực lượng bộ binh, pháo binh trên đường 1A sẵn sàng đánh phủ đầu trung đoàn 870 địch khi chúng bước vào tác chiến.
    Suốt đêm hôm ấy, sư đoàn 3 khẩn trương di chuyển. tiểu đoàn 5 sau những ngày chiến đấu dũng cảm ở khu vực Tân Yên được lệnh qua Đồng Uất. Tiểu đoàn 4 và 6 rời khu vực Thâm Mô, 339 tới khu vực Chóc Vỏ, 393. Tiểu đoàn 1 và 7 nhanh chóng từ Thâm Mô, Khôn Làng trở lại nam Tam Lung làm lực lượng cơ động cho sư đoàn. Tiểu đoàn 1 Bắc Thái chiếm lĩnh trận địa ở Nà Pia, Khôn Làng. Các đơn vị trực thuộc cũng được bố trí lại theo đội hình phòng ngự của từng hướng.
    Để phục vụ cho sư đoàn điều chỉnh lực lượng, cơ quan hậu cần các cấp làm việc rất khẩn trương, linh hoạt. Công tác hậu cần chiến dịch thực hiện tốt một phần do chi việc của hậu phương và cấp trên kịp thời, đắc lực, kết hợp với sự nỗ lực, năng động của các cán bộ, chiến sĩ từ cơ quan đến các đơn vị vận tải, quân y, các kho, trạm, xưởng quân giới. Chủ nhiệm hậu cần sư đoàn Nguyễn Xuân Khá cùng các trưởng ban trong mọi cuộc di chuyển đều có mặt ở các mối đường kiểm tra, đôn đốc, bổ sugn kịp thời các mặt cho từng đơn vị theo đúng yêu cầu nhiệm vụ. Trong khi đó, các sĩ quan tham mưu, chính trị cũng xuyên rừng, lội suối đến các trận địa tham gia thực hiện các phương án chiến đấu.
    Đêm rời khỏi khu vực Đồng Đăng gợi các chiến sĩ trong sư đoàn nhớ tới đêm rời khu vực Bồng Sơn vào mùa thu ănm 1972. Khung cảnh hoang vắng của những bản làng mà sư đoàn hành quân qua, tội ác dã man của bọn bành trướng đã đốt cháy thêm lòng căm thù sâu sắc của cán bộ chiến sĩ đối với quân xâm lược.
    Mọi người đều hiểu trong hình thái phòng ngự của sư đoàn lúc đó, việc chủ động tổ chức lại trận địa là 1 quyết định chính xác. Sư đoàn cần có thời gian dù là rất ngắn để củng cố lực lượng. Mặt khác, tổ chức phòng ngự ở khu vực mới sư đoàn có điều kiện tập trung được lực lượng mạnh để tăng cường cho hướng phòng ngự chủ yếu, mở các đợt phản kích với quy mô trung đoàn nhằm đánh quỵ các lực lượng đột kích chính của địch.
    Cuộc di chuyển đội hình đã diễn ra một cách chủ động và bí mật, đến nỗi sáng 23-2, ở nhiều nơi địch vẫn bắn pháo rồi xung phong ồ ạt lên các trận địa đã trống không. 7 ngày liên tiếp tổ chức tiến công, ném vào họng súng của đối phương hàng ngàn binh lính, hàng trăm xe tăng, xe cơ giới và pháo binh, bọn xâm lược Trung Quốc tiến được vẻn vẹn 4km. Người ta nói rằng đó là một tốc độ tiến quân chậm nhất, tổn thất và tốn kém nhất so với bất kì cuộc chiến tranh xâm lược nào trong lịch sử.
    Bị Hứa Thế Hữu và Dương Đắc Chí thúc ép, vì 1 tuần lễ rồi vẫn chưa đánh tan được sư đoàn Sao Vàng để tới Lạng Sơn, sau khi chiếm được khu vực Đồng Đăng, bộ chỉ huy địch trên hướng Lạng Sơn chủ trương không để cho đối phương kịp hồi sức đã tổ chức đánh ngay vào khu vực phòng ngự của sư đoàn ở Tam Lung. Chúng đinh ninh có bàn đạp Đồng Đăng với nhiều trận địa pháo vừa được thiết lập và sư đoàn 3 đã bị thiệt hại nặng nề ở Thâm Mô, Pháo Đài, 339 không thể nào đứng vững được trước đòn tiến công tập trung cao độ của chúng. Nhưng một lần nữa chúng phải trả giá cho sự chủ quan hợm mình đó.
    7 giờ 30 ngày 23-2-1979, hầu như toàn bộ lực lượng pháo binh địch trên hướng Lạng Sơn đều đổ đạn vào cụm điểm tựa Tam Lung. Bỗng nhiên, trong những phút cuối của trận mưa đạn ấy, đài quan sát trung đoàn 2 báo cáo, pháo địch còn bắn nhưng 1 tiểu đoàn bộ binh của chúng đang di chuyển dưới trung tâm toạ độ bắn phá hoại ấy. Nhận thấy địch đang có thủ đoạn mới, trung đoàn trưởng Nguyễn Lư vội cầm máy yêu cầu tiểu đoàn 3 ở Chậu Cảnh báo cáo cụ thể. Một lát, tiểu đoàn trưởng Đỗ Ngọc Ngòi cho biết, sau khi bắn đạn thật, địch bắn pháo giấy lên trận địa ta cho bộ binh tiếp cận. Anh đã thông báo cho bộ đội biết và đang chuẩn bị chiến đấu.
    Trung đoàn trưởng thở phào. Anh điện cho tiểu đoàn 2 nhắc địch đang nghi binh bắn pháo giấy để chiếm Phai Môn. Chú ý cảnh giác và đánh cho thật tốt.
    Vừa buông ống nói, anh đã nghe tiếng súng rộ lên trên trận địa của tiểu đoàn 3. Đinh ninh với thủ đoạn bắn pháo giấy, địch ùn ùn kéo lên Phai Môn, một điểm cao nằm cách khu đồi Chậu Cảnh 500m về phía nam. Sở dĩ lần này địch tiến đánh Phai Môn trước vì Phai Môn là một mắt xích trọng yếu trong trận địa phòng ngự bảo vệ Lạng Sơn của sư đoàn. Chiếm được Phai Môn, địch sẽ khống chế khu đồi Chậu Cảnh, Bản Phân và các khu vực khác. Nhưng ở điểm cao này, sư đoàn 3 đã chuẩn bị 1 trận giáng trả đích đáng đối với bọn xâm lược bằng đòn tiến công chặt chẽ giữa bộ binh và pháo binh. Suốt đêm 22-2, mặc dù vừa trải qua một ngày chiến đấu khốc liệt, sư đoàn đã nhanh chóng hoàn chỉnh thế trận phòng ngự mới, tập kết toàn bộ lực lượng cơ động của mình trên hướng chủ yếu, xác định toạ độ bắn cho pháo binh vào các khu vực dự kiến tác chiến, đặc biệt đã bí mật đưa trận địa pháo 85mm bắn thẳng lên điểm cao 417 cách Phai Môn chưa đầy 1km để chi viện trực tiếp cho bộ binh. Tất cả khối công việc khổng lồ đó chỉ diễn ra trong 1 đêm, khiến cho địch khi ào ạt tràn lên Phai Môn đã hứng chịu một trận tập kích bất ngờ, dữ dội của pháo binh ta giáng xuống. Đội hình chúng lạp tức rối loạn, số xông lên đỉnh đồi bị các chiến sĩ địa đội 10 đánh hất xuống, số tụt xuống suối bị pháo ta giã vào. Hàng trăm tên địch đã bỏ mạng trong những đợt tiến công ấy.
    Sau lần xung phong thứ 6, địch buộc hpải rút về điểm cao 611 và 409. Lập tức sư đoàn ra lệnh cho trung đoàn 2 dùng lực lượng cơ động cắt rừng đánh thốc vào sườn đội hình chúng. Hàng trăm xác chết nằm ngổn ngang trên đường rút chạy của chúng.
    Một tiếng đồng hồ sau, trinh sát sư đoàn báo cáo, 1 cánh quân địch từ Đồng Đăng xuống nhập bọn với đám tàn quân vừa thua trận lại kéo vào Phai Môn. Bộ tư lệnh sư đoàn nhận định địch đã tung lực lượng dự bị vào để chiếm bằng được Phai Môn. Lập tức, lệnh chiến đấu được truyền ngay xuống các đơn vị.
    14 giờ, khi pháo địch đang bắn lên trận địa Phai Môn, sư đoàn ra lệnh cho pháo binh ta bắn trùm lên cụm xuất phát tiến công của địch ở dưới chân đồi. Sau đó, khi địch thực hành xung phong thì lực lượng cơ động của trung đoàn 2 cũng được lệnh xuất kích diệt địch từ lưng chừng đồi, phối hợp với đại đội 10 từ đỉnh đồi đánh xuống. Trận kịch chiến diễn ra hàng tiếng đồng hồ.
    Giữa 4 về là địch, đại đội 10 dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Phan Bá Mạnh và chính trị viên Nguyễn Xuân Phúc đã bình tĩnh đánh trả hết toán quân này đến toán quân khác của chúng. Mỗi người đều khoác trên mình 2, 3 khẩu súng để diệt địch. Đại đội trưởng Phan Bá Mạnh vừa dùng AK vừa bắn B40, ở đâu khó khăn là có anh. Trong một lần di chuyển, anh đã trúng 1 quả đạn ĐKZ của địch. Phan Bá Mạnh hy sinh để lại tấm gương chiến đấu oanh liệt và niềm thương tiếc vô hạn cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị. Thay thế Mạnh, chính trị viên Nguyễn Xuân Phúc tiếp tục chỉ huy đơn vị đánh hất địch xuống chân đồi, giữ vững trận địa.
    Không chiếm được Phai Môn, địch dồn quân đánh vào Chậu Cảnh lúc 15 giờ 45. Tại đây địch không ngờ toàn bộ đội hình tiến công của chúng đã phơi lưng một cách lộ liễu trước trận địa pháo bắn thẳng của sư đoàn và các trận địa hoả lực của trung đoàn 2. Một trận bắn pháo dữ dội và chính xác của ta đã giáng xuống đội hình dày đặc của địch. Trong cảnh hoảng loạn của chúng, trung đoàn 2 ra lệnh cho một bộ phận tiểu đoàn 3 xuất kích, tiến công từ bên sườn, phối hợp với các chiến sĩ từ trên điểm tựa đánh xuống. Hàng trăm xác địch bỏ lại trận địa, đánh dấu thất bại nặng nề của trung đoàn 870 địch sau 12 lần tiến công vào Tam Lung.
    Nắng chiều tắt dần trên các điểm cao. Không gian trở lại yên ắng. Một ngày chiến đấu căng thẳng nữa đã trôi qua. Dưới các thung lũng về phía bắc, địch đang lặng lẽ thu thập tàn quân và quát nạt nhau qua sóng đài 2W vì không tìm thấy "thủ trưởng số 2" (mật danh của tên trung đoàn phó). Hơn 1.000 tên địch bị tiêu diệt trong ngày hôm đó.
    Vào lúc 15 giờ ngày hôm ấy, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay mặt Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng dẫn đầu đoàn cán bộ lên kiểm tra hướng Lạng Sơn, tới sở chỉ huy làm việc với bộ tư lệnh sư đoàn 3. Sư đoàn trưởng đã báo cáo với đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị toàn bộ diễn biến và kết quả chiến đấu trong 7 ngày qua với tất cả những ưu điểm, thiếu sót trong công tác chỉ huy, bảo đảm cũng như tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ.
    Khi sư đoàn trưởng trình bày xong, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị nói đại ý : so với những ngày đầu đánh Mĩ, sư đoàn đã vận dụng chiến thuật nhạy bén và chững chạc hơn nhiều. Bộ đội có bản lĩnh vững vàng nên trong mọi tình huống vẫn độc lập tác chiến và đánh khá tốt ở nhiều khu vực. Phải nhanh chóng phát huy những hành động anh hùng, bất khuất của cán bộ, chiến sĩ và những phân đội đã đánh giáp lá cà, đánh bằng mọi thứ vũ khí, quả cảm, quên mình bảo vệ trận địa. Đồng chí còn cho biết 7 ngày vừa qua sư đoàn đã đánh với ba phần tư lực lượng của 2 quân đoàn địch có hàng trung đoàn xe tăng yểm trợ. Đó là một cố gắng rất đáng kể. Tuy vậy những thiếu sót về tổn thất vũ khí, phương tiện và duy trì kỉ luật chiến trường đối với cơ sở cần chú ý nghiêm khắc hơn. Các khu vực phòng ngự phải có kế hoạch bảo đảm để bộ đội có thể trụ bám được. Thị xã Lạng Sơn vẫn đang là mục tiêu của địch nên sắp tới sư đoàn còn phải đánh với những lực lượng đông hơn, ác liệt hơn. Trước mắt, sư đoàn điều chỉnh thế bố trí trận địa như vậy alf kịp thời và cần thiết. Địch càng tiến vào sâu, tốc độ phát triển càng chậm, tổn thất càng tăng. Đó là dấu hiệu của sự thất bại và nhất định chúng sẽ thất bại nặng như đã từng thất bại ở biên giới Xô-Trung năm trước.
    Ngày hôm đó, trên toàn tuyến biên giới, địch bị chặn đứng lại trước các mục tiêu then chốt của chúng. Ở Cao Bằng, 2 quân đoàn 41, 42 và 1 sư đoàn độc lập có xe tăng yểm trợ đã bị đánh thiệt hại nặng ở Tà Sa, Nà Ngần, Bản Chan, Tĩnh Túc, Khâu Đôn, Khâu Chỉ... Ở Lào Cai, 4 sư đoàn của 2 quân đoàn 13, 14 và 2 tiểu đoàn xe tăng bị bám đánh liên tục ở tây Lào cai, Cốc Sân, Thanh Bình, Bản Lầu, ga Phố Mới... Ở Hà Tuyên, Quảng Ninh, tiếng súng chặn địch vẫn vang lên từ ngày 17-2-1979. Càng tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, địch càng lúng túng. các mục tiêu chiến dịch đặt ra trong 48 giờ đồng hồ đến nay vẫn chưa đạt được. Cay cú, Hứa Thế Hữu và Dương Đắc Chí quyết định tung thêm các đơn vị bộ binh, pháo binh, xe tăng, lấy các binh đoàn chủ lực làm lực lượng đột phá, đánh chiếm bằng được các mục tiêu quy định, trong đó thị xã Lạng Sơn là mục tiêu chủ yếu của chúng.
  10. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Sau hội nghị đảng uỷ sư đoàn đêm 23-2 và những chỉ thị của đoàn kiểm tra Quân ủy Trung ương, sư đoàn gấp rút bố trí thế trận trên hướng đường 1B, điều chỉnh lực lượng phòng giữ ở hướng đường 1A. Đại tá Nguyễn Ngọc Diệp, cục trưởng cục nhà trường, người sẽ thay thế chính ủy sư đoàn Nguyễn Khắc Hào đi nhận nhiệm vụ mới, cùng các phái viên Bộ Tổng Tham mưu, phái viên QK1 xuống thẳng trung đoàn 12 hướng dẫn rút kinh nghiệm chiến đấu, tham gia tổ chức thực hiện phương án mới và động viên quyết tâm chiến đấu của bộ đội.
    Bộ Tư lệnh QK1 tăng cường cho sư đoàn các đơn vị binh chủng kĩ thuật : B72, A72, xe tăng, công binh. Tự vệ các cơ quan, xí nghiệp, nhà máy quanh thị xã Lạng Sơn được trang bị thêm súng đạn. Bộ đội địa phương các huyện Văn Quan, Chi Lăng, Hữu Lũng, các tiểu đoàn trực thuộc huyện Gia Lâm, Đông Anh, Thanh trì, Từ Liêm mới được nhân dân Hà Nội gửi lên Lạng Sơn sẵn sàng ra tuyến trước tham gia chiến đấu, biểu hiện sinh động ý chí đánh địch từ xa của quân dân Hà Nội bảo vệ Thủ đô yêu dấu.
    Suốt 3 ngày 24, 25, 26-2, mặt trận Lạng Sơn lắng dịu. Trong khi ta khẩn trương bố trí lại thế trận phòng ngự thì địch cũng gấp rút chuẩn bị cho những đợt tiến công mới. Quân đoàn 54 dự bị chiến dịch cùng sư đoàn 129 (quân đoàn 43) được tung nốt vào khu vực tác chiến. Trong khi đó, từ phía sau những cuộc dồn quân, thay quân của chúng vẫn khẩn trương thực hiện. Hàng ngàn xe tải phủ bạt kín chạy thâu đêm sang tận Đồng Đăng đổ lính, đổ hàng. Tuyến xe lửa Bằng Tường-Nam Quan tăng ngày 4 chuyến, chở từ 2.000-3.000 quân và hàng ngàn tấn phương tiện. Khác với ngày 17-2, các cánh quân vu hồi lần này không thực hiện trước khi nổ súng mà triển khai trong quá trình tiến công với độ sâu từ 4-6km.
    6 giờ 05 sáng 27-2-1979, một đợt tiến công mới của quân Trung Quốc xâm lược vào trận địa phòng ngự của sư đoàn 3 bắt đầu. Với 3 sư đoàn bộ binh (129, 160, 161), 90 xe tăng, 500 khẩu pháo các cỡ của 12 trung đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn tên lửa, địch đã ồ ạt tiến công trên một chiều dài 20km từ xã Hồng Phong huyện Văn Lãng đến xã Cao Lâu huyện Cao Lộc.
    Bằng một lực lượng đông gấp 3 trên 1 về số lượng đơn vị, 6 trên 1 về binh lực và hoả lực, địch tin chắc sẽ nhanh chóng phá vỡ trận địa phòng ngự của sư đoàn 3. Nhưng ở khắp nơi chúng đã bị chặn đứng và đánh trả dữ dội.
    Suốt ngày hôm đó, sư đoàn 129 địch không sao đột phá nổi trận địa cơ bản của trung đoàn 141. Các chiến sĩ tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn địa phương huyện Cao Lộc đã cản phá nhiều đợt xung phong của 1 trung đoàn địch bằng các bãi mìn liên hoàn, các trận tập kích hoả lực, xung lực. Mỗi thước đất đi Bản Xâm, Thanh Loà đều thấm đầy máu giặc.
    Ở hướng đường 1B, sư đoàn 161địch cũng bị ghìm lại trước trận địa của trung đoàn 12. Tiểu đoàn 1 Bắc Thái, đơn vị đảm nhiệm khu vực then chốt của trung đoàn, hợp đồng chặt chẽ với tiểu đoàn 5 và được sự chi viện kịp thời của tiểu đoàn pháo 23 đã đánh lui 11 đợt xung phong của hơn 1 trung đoàn địch có 40 xe tăng yểm trợ. Riêng đại đội 1 ở phía bắc điểm cao 500 đã quần lộn với 2 tiểu đoàn địch. Tiểu đội 7 khi hết đạn đã nhất loạt dùng lưỡi lê, báng súng đánh giáp lá cà với chúng. Gần 600 tên địch và 7 xe tăng bị tiêu diệt trong ngày hôm đó.
    Ở hướng đường 1A, trung đoàn 2 cùng một lúc vừa chặn đánh sư đoàn 160 địch từ phía bắc xuống, vừa đánh với 1 cánh quân vu hồi của sư đoàn 161 địch từ hướng tây bắc thọc sang. Những trận chiến đấu không cân sức diễn ra dai dẳng trên các mỏm đồi Không Tên, Chuồng Cu, 417, 477 từ sáng sớm đến tối mịt. cùng với bộ binh, các pháo thủ tiểu đoàn 11 trung đoàn pháo 68 đã chiến đấu hết sức kiên cường trên các trận địa bắn thẳng Cồn Chủ, 417. Vừa tiêu diệt xe tăng, trận địa hoả lực địch, các pháo thủ vừa hạ thấp nòng pháo bắn tung từng tốp lính khi chúng la hét tràn lên định chiếm trận địa.
    14 giờ ngày hôm đó, trong khi các trận đánh dồn dập diễn ra khắp nơi, 1 tiểu đoàn địch lặng lẽ luồn qua phía sau tiểu đoàn 1, bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt đài quan sát pháo binh sư đoàn. Mất điểm cao 800, trận địa phòng ngự của trung đoàn 2 bị một lỗ rò chiến thuật lớn. DO đó, mặc dù đã đánh thiệt hại nặng trung đoàn 850 địch (trung đoàn này mới được tung vào thay thế trung đoàn 870), tiêu diệt hàng ngàn tên, thế trận của ta ở phía tây đường 1A từ tây Cốc Chủ đến điểm cao 417 đã bị chọc thủng. Địch ùn ùn dồn tới từ phía điểm cao 800.
    Biết tổ chức đánh chiếm điểm cao 800 không kịp nữa, bộ tư lệnh sư đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 6 nhanh chóng lập trạn địa từ khu vực Kéo Càng nối liền với trận địa tiểu đoàn 3 ở đông Quán Hồ. Đồng thời ra lệnh cho trung đoàn 141 củng cố thêm các điểm tựa, nhất là điểm cao 449. Tất cả đều phải gấp rút hoàn thành trước khi trời sáng.
    Trước đó 2 ngày, vào chiều 25-2, tại Mai Sao, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đã họp với các đồng chí chỉ huy tiền phương QK1, đại diện tỉnh ủy, bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn và các cán bộ chủ chốt của các sư đoàn ở mặt trận Lạng Sơn. tại cuộc họp quan trọng này, đồng chí công bố quyết định của Bộ Quốc phòng về việc thành lập quân đoàn 14 thuộc Quân khu 1 và thành lập Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn. Các đơn vị nằm trong đội hình quân đoàn gồm sư đoàn 3, sư đoàn 327, sư đoàn 337 (đang từ QK4 ra), sư đoàn 338 và sau này có thêm sư đoàn 347 cùng với các đơn vị trực thuộc.
    Quân đoàn 14 được thành lập đáp ứng đòi hỏi việc tăng cường lực lượng và chỉ huy thống nhất, hình thành những quả đám mạnh của lực lượng chủ lực đồng thời báo hiệu một đợt phản kích trên quy mô lớn nhằm tiêu diệt quân Trung Quốc trên mặt trận Lạng Sơn.
    Đêm hôm ấy, tư lệnh quân đoàn 14 tới sở chỉ huy sư đoàn 3. Sau khi nắm lại tình hình khu vực tác chiến, đồng chí truyền đạt ý định của tiền phương QK1: các đơn vị pháo binh, xe tăng trước đây tăng cường cho sư đoàn 3 này sẽ do quân đoàn trực tiếp chỉ huy. Sư đoàn 337 chính thức đảm nhiệm chiến đấu tại cầu Khánh Khê. từ ngày 28-2, sư đoàn 327 sẽ bước vào chiến đấu, đảm nhiệm phòng ngự tại thị xã Lạng Sơn và thị trấn Kỳ Lừa. Những quyết định đó đã tạo điều kiện cho sư đoàn 3 tạp trung sức diệt địch bảo vệ trận địa, chặn bước tiến của chúng.
    Chiếm được khu vực Tam Lung và điểm cao 800, bộ chỉ huy quân sự địch liền ra lệnh cho các đơn vị của chúng tiến công thị xã Lạng Sơn vào sáng 28-2. Chúng khẳng định lực lượng sư đoàn 3 không còn bao nhiêu và không chịu nổi lần tiến công áp đảo này. Nhưng một lần nữa chúng đã tính nhầm.
    Suốt ngày 28-2-1979 rồi ngày 1, 2-3, tuy đã đổ vào hướng tiến công này gần 5 sư đoàn bộ binh, địch vẫn không sao vượt nổi đoạn đường 4km để vào thị xã. Những trận đánh nảy lửa đã diễn ra tại đông và tây Quán Hồ (nam Tam Lung). Các tiểu đoàn bộ binh, các đại đội hoả lực 12,7mm, ĐKZ, cối 82mm của ta được pháo binh chi viện đã trụ bám đánh trả dai dẳng trên từng đoạn đường, từng mỏm đồi. Mỗi thước đất ở đây đều thấm đầy máu giặc. Mỗi khúc đường, mỗi ngọn đồi đều ghi dấu tích anh hùng của các chiến sĩ ta quyết hy sinh chiến đấu để bảo vệ trận địa. Trên đồi Kéo Càng, đại đội 61, đơn vị anh hùng đã từng nổi tiếng với chiến công Cây Rui năm 1972 và mới đây ở điểm cao 339, đã lại đánh 1 trận vô cùng oanh liệt.
    Hôm ấy (28-2), 3 tiểu đoàn địch từ 3 hướng đánh vào Kéo Càng, nơi chúng được báo là có sở chỉ huy trung đoàn 2, đơn vị đã làm cho chúng tổn thất nặng nề và khốn quẫn hơn chục ngày nay ở Tam Lung. Những cay cú và tổn thất đó giờ đây được chúng đổ vào đồi Kéo Càng. Một ngọn đồi mấy trăm mét vuông chúng bắn liên tục nửa tiếng đồng hồ bằng đủ thứ đạn pháo và hoả tiễn. Sau đó bọn bộ binh chia thành nhiều mũi luồn rừng ào tới. Nhưng sở chỉ huy trung đoàn 2 đã di chuyển. Đại đội 61 do chính trị viên Nguyễn Văn Biết và chính trị viên phó Bùi Đình Hưng chỉ huy đang chờ chúng. Được chi viện của trận địa 12,7mm, đại đội 61 đã đánh trả quyết liệt. Từng công sự, từng gốc cây đều trở thành điểm tựa vững chắc của các chiến sĩ. Cuộc chiến đấu kéo dài từ sáng đến chiều. Địch bị diệt hàng trăm tên nhưng vòng vây của chúng quanh đại đội 61 mỗi lúc càng hẹp lại. Thấy trước kết cụ có thể xảy ra, Nguyễn Văn Biết ra lệnh cho Bùi Đình Hưng nhanh chóng đưa anh em thương binh ra. Thấy Hưng do dự, Biết nói : "Chúng ta phải còn người để xây dựng đơn vị nếu muốn tiếp tục chiến đấu !". Hưng và số anh em vừa ra khỏi một lúc thì đạn pháo địch lại giội xuống đồi Kéo Càng và sau đó là tiếng súng AK, B40 rộ lên từng chặp hàng tiếng đồng hồ nữa mới ngừng hẳn. Chính trị viên Nguyễn Văn Biết và các chiến sĩ của anh đã chiến đấu tới người cuối cùng, viên đạn cuối cùng.
    Cũng như Phạm Ngọc Yểng, Hoàng Quý Nam, Phan Bá Mạnh ở Thâm Mô, Pháo Đài, Chậu cảnh, Nguyễn Văn Biết và chiến sĩ đại đội 61 đã chiến đấu như những anh hùng. Mọi người vẫn nhớ nghị quyết hội nghị bất thường của chi bộ đại đội 61 ở điểm cao 339 khi hàng trung đoàn địch có xe tăng yểm trợ bao vây tiến công lên trận địa trong mấy ngày đầu chiến tranh : "Chúng ta quyết bảo vệ 339 như đại đội ta đã từng bảo vệ Cây Rui năm xưa !". Và những đảng viên, cán bộ, chiến sĩ đại đội 61 đã thực hiện quyết tâm đó một cách trọn vẹn. Họ đã bảo vệ trận địa 339 với những khẩu 85mm bắn thẳng làm xe tăng, bộ binh địch kinh hồn; những khẩu cối 120mm, 82mm bắn đâu trúng đó và cuối cùng là những trận chiến đấu bằng AK, B40, súng trường hết ngày này qua ngày khác giữa 4 bề quân địch, kể cả khi Pháo Đài, Thâm Mô đã bị địch chiếm. Một lần nữa, các chiến sĩ đại đội 61 lại làm cho địch phải khâm phục. 1 đại đội ta đã đương đầu với lực lượng gần 1 trung đoàn của chúng và đã chiến đấu tới cùng chứ không chịu để bị bắt sống, cũng không hề nghĩ đến chuyện rút lui mặc dù vẫn còn có điều kiện làm việc đó.
    Tất cả những điều ấy dường như không thể tưởng tượng được đối với bọn xâm lược. Mấy ngày qua, những trận địa mà chúng chiếm được chứng tỏ đối phương chẳng có lực lượng bao nhiêu, và những người hy sinh chỉ còn những khẩu súng đã hết sạch đạn, đã bật sẵn lưỡi lê hoặc chỉ còn 1 đoạn súng gãy nát nắm trong tay.
    Rạng sáng ngày 2-3-1979, sau khi tung thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54, bộ chỉ huy quân sự địch ra lệnh cho 6 sư đoàn cùng tiến công trên nhiều hướng hòng chiếm thị xã Lạng Sơn ngay ngày hôm đó. Nhưng một lần nữa chúng lại không thực hiện được ý định tưởng đã cầm chắc phần thắng ấy.
    Sau những đợt bắn pháo và hoả tiễn điên cuồng lên trận địa ta, xe ătng, bộ binh địch từ các ngả tràn ra như kiến cỏ. Những trận kịch chiến bắt đầu từ đó. Trung đoàn 42 (sư đoàn 327) của ta chặn đánh cánh quân địch ở bắc thị trấn Kỳ Lừa. Lực lượng còn lại của tiểu đoàn 6 (trung đoàn 12) và trung đoàn 2 (sư đoàn 3) chặn đánh cánh quân địch ở bắc Tam Thanh nhằm bẻ gãy 2 gọng kìm của chúng. Trung đoàn pháo 166, trung đoàn cao xạ 272 vừa chi viện cho bộ binh vừa bắn vào đội hình xe tăng và bộ binh địch trên đồng trống. Đại đội 5 xe bọc thép K63 xuất kích đánh địch từ Tam Thanh đến Kỳ Lừa. Khu vực tác chiến cứ ngày một loang ra trên một chính diện rộng. Từ Tùng Huống đến Lục Khoang, từ Tam Thanh đến bắc sông Kỳ Cùng những trận chiến đấu diễn ra không lúc nào dứt.
    Trên trận địa phòng ngự của trung đoàn 141, kết hợp với những trận phản kích, trung đoàn thực hiện có hiệu quả nhwũng trận tập kích bằng hoả lực, gây cho địch nhiều thiệt hại. Chỉ sau 2 ngày tiến công, sư đoàn 129 địch đã phải tung lực lượng dự bị vào đối phó với những trận đánh của ta. Ở điểm cao 449, 473, tiểu đoàn 7 và 8 giành đi, giật lại với địch mỗi ngày 5, 6 lần, có trận ta và địch giành nhau từng đoạn àho, từng công sự. Địch đánh vào sở chỉ huy trung đoàn, các đường dây điện thoại và toàn bộ hệ thống liên lạc bị cắt đứt. Tuy vậy các đơn vị vẫn chủ động đánh địch và đến ngày 2-3 tiếng súng vẫn nổ dữ dội trên điểm cao 614.
    Trên hướng đường 1B, trung đoàn 12 từ sáng ngày 28-2 lại bước vào những trận quyết chiến mới.
    Bị chặn đứng trước trận địa tiểu đoàn 1 Bắc Thái và tiểu đoàn 5, sư đoàn 161 địch vội vã tổ chức những cánh quân vu hồi, đánh chiếm điểm cao 555, 559, ngầm Khánh Khê và phong toả bờ bắc sông Kỳ Cùng. Đường 1B đoạn Điềm He đi Đồng Uất bị địch khống chế. Trung đoàn 12 trở thành đơn vị tác chiến trong lòng địch từ đó.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này