1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh ở Afganistan: từ năm 1979 đến nay

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi chipheovd, 01/01/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến tranh Afghanistan (2001 -- > nay) tiếp theo
    Vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001
    Năm 1999, lãnh đạo tổ chức Al-Qaeda ở Kandahar phê duyệt lần cuối cùng những gì đã trở thành cái gọi là Vụ tấn công 11 tháng 9. Cá nhân Bin Laden, đã chọn hai không tặc tương lai sẽ chiến đấu thay mặt cho Taliban để tham dự một chương trình đào tạo đặc biệt tại trại Mes Aynak. Cuối năm đó, bốn thành viên của những gì được gọi là tế bào Hamburg của các phi công không tặc đã đến Kandahar, Afghanistan, nơi họ hội họp với lãnh đạo Al-Qaeda lần đầu tiên và họ đã nhận được các hướng dẫn về âm mưu này. Một phi công nói rằng đã đến trại al Faruq trong năm 2000 để sớm được tham gia lựa chọn ngay lập tức. Mười ba "không tặc cơ bắp" đã được lựa chọn bởi bin Laden từ trại huấn luyện al-Qaeda từ năm 2000 đến đầu năm 2001. Vào tháng 7 năm 2001 tất cả các không tặc đã đến Hoa Kỳ.
    Vào ngày 11 tháng 9 gần 3.000 người đã thiệt mạng trong các vụ tấn công phối hợp vào Trung tâm Thương mại Thế giới và Lầu năm góc bằng máy bay dân sự. Các cuộc tấn công đã nhanh chóng được liên tưởng tới Bin Laden và Al-Qaeda. Ít hơn một tuần sau khi các sự kiện trong ngày 11 tháng 9 năm 2001 xảy ra, Tổng thống U. S. George W. Bush chỉ rõ đặc biệt nghi ngờ Osama bin Laden là thủ phạm của các cuộc tấn công. Osama bin Laden được hiểu là đang ở tại Afghanistan vào lúc đó. Ngày 20 tháng 9 năm 2001, tại một phiên họp chung với Quốc hội, Tổng thống Bush đã ban hành một tối hậu thư đòi hỏi chính phủ Taliban ở Afghanistan:
    ? Phải giao nộp các nhà lãnh đạo al-Qaeda ở Afghanistan cho chính quyền Hoa Kỳ
    ? Thả tự do tất cả các công dân nước ngoài bị giam cầm, bao gồm cả công dân Mỹ
    ? bảo vệ các nhà báo nước ngoài, các nhà ngoại giao, và những người làm công tác hỗ trợ tại Afghanistan
    ? Đóng cửa các trại huấn luyện khủng bố tại Afghanistan và giao nộp " tất cả các tên khủng bố và những kẻ hỗ trợ chúng cho chính quyền"
    ? Cung cấp cho Hoa Kỳ mọi sự truy cập một cách đầy đủ đến các trại huấn luyện khủng bố để xác minh rằng chúng đã được đóng cửa thật sự hay chưa.
    "Họ sẽ phải bàn giao những kẻ khủng bố hoặc họ sẽ chia sẻ số phận với chúng" Bush nói. Không có chi tiết cụ thể được gắn liền với lời đe dọa này, mặc dù theo sau đó là một tuyên bố về hành động quân sự: "cuộc chiến chống khủng bố của chúng tôi đã bắt đầu để chống lại al-Qaeda, nhưng nó không dừng lại ở đó." Tuy vậy nhiều người chú ý rằng trong số người đàn ông 19 người tham gia tấn công cảm tử bằng máy bay ngày 11 tháng 9, không hề có người Afghanistan (mười lăm người trong số không tặc đến từ Saudi Arabia, hai đến từ Các Tiểu Vương quốc A-rập Thống nhất, một trong họ đến từ Ai Cập, và một từ Li-băng). Họ cũng không sống ở Afghanistan (họ sống ở Hamburg). Họ không được đào tạo tại Afghanistan (họ được đào tạo Florida). Không người nào học lái máy bay ở tại Afghanistan (mà việc đào tạo diễn ra ở bang Minnesota).
    Chính quyền Taliban trả lời thông qua các đại sứ quán của họ ở Pakistan, khẳng định rằng không có bằng chứng để cho thấy sự liên quan giữa bin Laden và vụ tấn công 11 tháng Chín. Họ cũng nhấn mạnh rằng Bin Laden là vị một khách tại đất nước của họ. Các tập quán của người Pashtun và Taliban đòi hỏi phải có thái độ hiếu khách với người tị nạn. Sau đó, ngày 22 tháng 9 năm 2001, Các Tiểu Vương quốc A-rập Thống nhất, và ngày hôm sau, Saudi Arabia rút lại sự công nhận của họ rằng Taliban là chính quyền hợp pháp của Afghanistan, chỉ còn nước láng giềng Pakistan là quốc gia duy nhất còn giữ mối quan hệ ngoại giao. Trước khi sự khởi đầu của các hành động thù địch quân sự, ngày 07 tháng 10 năm 2001, Taliban đã đề nghị bin Laden đến một Tòa án Hồi giáo ở tại Afghanistan. Lời đề nghị này đã bị từ chối bởi Hoa Kỳ, và việc ném bom các mục tiêu bên trong Afghanistan do các lực lượng Hoa Kỳ và Anh đã bắt đầu. Ngày 14 tháng 10 năm 2001, bảy ngày sau chiến dịch ném bom của Anh ?" Mỹ, Taliban đã đề nghị gửi bin Laden tới một nước thứ ba để xét xử, nếu ném bom tạm dừng và họ sẽ cho thấy bằng chứng về sự tham gia của ông ta trong các vụ tấn công khủng bố 11 tháng 9. Lời đề nghị này cũng bị từ chối bởi Tổng thống Bush, người đã tuyên bố "Không cần gì phải thảo luận về sự vô tội hay có tội. Chúng tôi biết rằng ông ta có tội." ( Nhiều lúc bác Bush còn hài hước hơn cả Xuân Hinh)
    Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (UNSC) đã không ủy quyền cho chiến dịch quân sự do Mỹ dẫn đầu tạiAfghanistan (Operation Enduring Freedom). Có một số cuộc tranh về việc liệu thực sự có ủy quyền của UNSC, và tập trung vào các câu hỏi liệu cuộc xâm lược là một hành động tự vệ tập thể theo Điều 51 của Hiến chương Liên Hợp Quốc, hay đây chỉ một hành động trả thù bột phát. Chính quyền Bush đã không tuyên bố chiến tranh, và cho rằng quân lính Taliban chỉ là những kẻ ủng hộ khủng bố chứ không phải là người chiến sĩ, họ (Hoa kỳ) từ chối sự tuân theo các Công ước Geneva về tù binh chiến tranh và tuân theo đúng các thủ tục của pháp luật quốc tế. Điểm này đã được tranh đấu thành công tại Tòa án tối cao Hoa kỳ và được đặt câu hỏi ngay cả bởi các luật sư quân đội chịu trách nhiệm truy tố các tù nhân bị đang bị giam giữ. Ngày 20 Tháng 12 năm 2001, UNSC đã ủy quyền cho việc lập ra một Lực lượng Gìn giữ An ninh Quốc tế - International Security Assistance Force (ISAF) với quyền hạn để giúp đỡ chính phủ Lâm thời Afghanistan trong việc duy trì an ninh. Việc điều hành ISAF được chuyển giao cho NATO vào ngày 11 tháng 8 năm 2003.
    Năm 2001: cuộc tấn công ban đầu
    Sau lời từ chối của chế độ Taliban là sẽ chấm dứt che chở cho al Qaeda, ngày 07 tháng 10 năm 2001, chính phủ Mỹ bắt đầu tiến hành các hoạt động quân sự tại Afghanistan. Mục đích của những hoạt động đã được nêu như là để làm gián đoạn việc sử dụng của Afghanistan như là một căn cứ của các hoạt động khủng bố và tấn công tiêu diệt sức mạnh quân sự của chế độ Taliban.
    Các chiến dịch trước đó đã được tiến hành và hoàn thành bởi nhân viên của Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) và lực lượng đặc biệt (SOF) phối hợp với các nhóm đối lập Afghanistan trên bộ, đặc biệt là Liên minh phương Bắc. Vương quốc Anh và Australia cũng đã triển khai lực lượng và các nước khác cung cấp căn cứ, hệ thống vận tải, và cho phép bay qua không phận của họ.
    Các đội đặc nhiệm Special Activities Division (SAD) của CIA là lực lượng quân sự đầu tiên của Hoa Kỳ đặt chân lên đất Afghanistan và bắt đầu hoạt động chiến đấu. Họ đã nhanh chóng được cùng gia nhập bởi Lực lượng đặc biệt Hoa kỳ đến từ đơn vị số 5 ( Special Forces Group) và các đơn vị khác đến từ USSOCOM. Những kết hợp lực lượng này được chỉ huy bởi Liên minh phương Bắc để lật đổ chế độ Taliban ở Afghanistan với một mất mát tối thiểu về nhân mạng của người Mỹ. Họ đã thành công mà không cần sử dụng đến lực lượng quân sự thường trực của Hoa Kỳ. ( Các lực lượng đặc nhiệm của Hoa kỳ chủ yếu cũng chỉ làm nhiệm vụ chỉ điểm và dẫn bắn cho Không quân mà thôi)
    Vào ngày 07 Tháng Mười 2001, có các cuộc tấn công bằng không kích vào thủ đô Kabul (nhà máy điện bị phá hủy), và vào sân bay quân sự cũng như thành phố trung tâm đầu não Kandahar (nhà của Lãnh tụ tối cao Taliban Mullah Omar), và cũng vào cả thành phố Jalalabad.
    Tại 17:00 UTC, Tổng thống Bush khẳng định về những cuộc không kích trên truyền hình quốc gia và Thủ tướng Tony Blair cũng công bố như vậy tại Vương quốc Anh. Tổng thống Bush nói rằng cùng một lúc các căn cứ quân sự và đào tạo khủng bố của Taliban sẽ bị nhắm mục tiêu, các nguồn cung cấp thực phẩm, dược phẩm sẽ giảm xuống, và " đàn ông, phụ nữ và trẻ em Afghanistan sẽ phải chịu đựng cái đói và sự đau khổ ".
    CNN độc quyền phát hành cảnh Kabul bị đánh bom trên tất cả các kênh truyền hình Mỹ lúc khoảng 05:08 ngày 07 tháng 10 năm 2001. Một số công nghệ tiên tiến đã được ứng dụng trong các đợt công. Tướng Không quân Hoa kỳ Richard Myers, tổng tham mưu trưởng quân lực Hoa Kỳ (chairman of Joint Chiefs of Staff,), nói rằng khoảng 50 quả tên lửa hành trìnhTomahawk, được bắn bởi tàu ngầm và tàu chiến của Anh và Mỹ, và từ 25 máy bay tấn công xuất phát từ các tàu sân bay, USS Carl Vinson và USS Enterprise và 15 máy bay ném bom của lực lượng không quân, như các loại B-1 Lancer, B-2 Spirit, pháo đài bay B-52 tham gia vào đợt tấn công đầu tiên, cất cánh từ Diego Garcia. Vào ngày đầu tiên của cuộc tấn công hai máy bay phản lực vận tải C-17 Globemaster thả xuống 37.500 xuất ăn hàng ngày cho người tị nạn bên trong Afghanistan vào.
    Một băng video của Osama bin Laden ghi hình trước đó đã được đưa ra công chúng trước khi cuộc tấn công bắt đầu, trong đó ông ta lên án bất kỳ cuộc tấn công nào chống lại Afghanistan., kênh tin tức vệ tinh tiếng A-rập Al Jazeera, thông báo rằng họ đã nhận được quấn băng không lâu trước khi cuộc không kích bắt đầu. Trong quấn băng video bin Laden tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ thất bại tại Afghanistan và sau đó sẽ sụp đổ, cũng giống như những gì đã xảy ra với Liên Xô. (Bác Bin Laden quả là một nhà tiên tri đại tài, và quả thật là không có Đô la từ Trung Của thì có lẽ Hoa kỳ đã sụp đổ vào đầu năm 2009 rồi hé hé)
    (còn tiếp)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 09:07 ngày 29/12/2009
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến tranh Afghanistan (2001 -- > nay) tiếp theo
    Chiến dịch không kích
    Máy bay ném bom hoạt động ở độ cao ra khỏi phạm vi của vũ khí phòng không và ném bom các trại huấn luyện al-Qaeda và lực lượng phòng không của Taliban. Trong giai đoạn đầu ngay trước cuộc tấn công thực tế, có thông tin được lan truyền trong các phương tiện truyền thông rằng Taliban có thể sẽ sử dụng tên lửa phòng không vác vai Stinger sản xuất bởi Hoa kỳ, đó là lại tên lửa bắn rơi nhiều máy bay trực thăng của Liên Xô trong thời gian quân đội Liên Xô chiếm đóng Afghanistan vào những năm 1980. Nếu một trong những quả tên lửa này còn tồn tại vào thời điểm của chiến dịch không kích, chúng đã không bao giờ được sử dụng và Hoa Kỳ đã không bị mất bất kỳ một chiếc máy bay nào bởi hỏa lực của đối phương. máy bay Mỹ, bao gồm cả các máy bay trực thăng gunship Apache, đã hoạt động mà không bị giáng trả trong suốt khoảng thời gian của chiến dịch.
    Các cuộc tấn công đầu tiên tập trung vào các khu vực bên trong và xung quanh các thành phố Kabul, Jalalabad và Kandahar. Trong vòng một vài ngày, hầu hết các trại huấn luyện của al-Qaeda đã bị phá hủy nặng nề và lực lượng phòng không của Taliban cũng đã bị phá hủy. Các chiến dịch sau đó tập trung vào mục tiêu là các cơ quan chỉ huy, điều khiển, và liên lạc để làm suy yếu khả năng liên lạc của lực lượng Taliban. Tuy nhiên, đối với lực lượng Liên minh phương Bắc Afghanistan ở trên bộ vẫn chưa có những trận đánh thành công ở chiến tuyến. Hai tuần sau chiến dịch không kích, Liên minh miền Bắc yêu cầu các chiến dịch không khích phải tập trung hơn vào giới tuyến ở phía trước. Trong khi đó, hàng ngàn dân quân người Pashtun từ Pakistan đổ vào đất nước Afghanistan, để tăng cường cho lực lượng chống Mỹ do Taliban lãnh đạo.
    Giai đoạn tiếp theo của chiến dịch bắt đầu với việc máy bay chiến đấu F/A-18 Hornet xuất phát từ các tàu sân bay bắt đầu tấn công một cách chính xác vào các phương tiện vận chuyển của Taliban, trong khi đó máy bay Mỹ bắt đầu đánh bom chùm (daisy cutter) vào các vị trí phòng thủ của Taliban. Lần đầu tiên trong năm, chỉ huy của Liên minh phương Bắc cuối cùng cũng đã bắt đầu thấy được những kết quả đáng kể mà họ đã mong muốn từ lâu ở tiền tuyến.
    Vào đầu tháng 11, các chiến tuyến phía trước của Taliban đã bị không kích bởi loại bom daisy cutter, và các máy bay chiến đấu AC-130. Các chiến binh Taliban chưa có kinh nghiệm đối phó với hỏa lực của Mỹ, và thường thậm chí đóng ở những nơi không có địa hình, địa vật bảo vệ. Lực lượng đặc biệt có thể dễ dàng định vị họ và yêu cầu không kích hỗ trợ. Vào ngày 2 tháng 11, các vị trí tiền tuyến của Taliban bị tiêu hao, dường như lần đầu tiên Liên minh miền Bắc có thể hành quân vào Kabul.
    Các chiến binh người nước ngoài của al-Qaeda đã nắm quyền kiểm soát an ninh ở các thành phố Afghanistan, điều này chứng tỏ sự bất ổn của chế độ Taliban. Trong khi đó Liên minh miền Bắc và các cố vấn của họ như Cơ quan Tình báo Trung ương/ Lực lượng đặc biệt lên kế hoạch cho giai đoạn tiếp theo của các công kích của họ. Quân đội Liên minh miền Bắc sẽ chiếm giữ thành phố Mazari Sharif, do đó sẽ cắt đứt được đường dây cung cấp hậu cần cho Taliban và tạo điều kiện cho việc vận chuyển các thiết bị từ các quốc gia ở phía bắc, để chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào chính Kabul.
    Trong tháng 10 năm 2008, bài báo được đăng bởi tờ Washington Post điều hành bởi một biên tập viên là cựu thành viên của Hải quân Hoa kỳ, John Lehman, có viết:
    Những gì được thực hiện trong các chiến dịch ở Afghanistan là một bước ngoặt trong lịch sử quân sự của Hoa Kỳ bởi tất cả các nhiệm vụ đều được tiến hành bởi lực lượng đặc biệt cùng với sự trợ giúp về vũ khí chiến thuật của lực lượng Hải quân và Không quân, các hoạt động của Liên minh miền Bắc Afghanistan và CIA là không kém phần quan trọng và mức độ hợp tác là hoàn hảo. Không cần phải sử dụng đến các lực lượng lớn bộ binh và lính thủy đánh bộ để hoàn thành sứ mệnh.
    Các khu vực được nhắm mục tiêu nhiều nhất
    Trong những tháng đầu của cuộc chiến tranh quân đội Mỹ đã có một sự hiện diện hạn chế trên mặt đất. Theo kế hoạch Lực lượng đặc biệt, và các sỹ quan tình báo sẽ thu thập các thông tin quân sự, và phục vụ như là các liên lạc viên của dân quân Afghanistan chống đối Taliban, sẽ tiến lên phía trước sau khi sự kết dính của lực lượng Taliban đã bị gián đoạn bởi sức mạnh của không quân Mỹ.
    Ngọn núi Tora Bora nằm ở khoảng phía đông thủ đô Kabul của Afghanistan, đây chính là khu vực gần biên giới với Pakistan. Các nhà phân tích tình báo Mỹ tin rằng Taliban và al-Qaeda đã cho đào và củng cố mạng lưới các hang động và tạo nơi trú ẩn sâu dưới lòng đất. Khu vực này đã phải chịu một loạt các vụ oanh kích nặng nề bởi máy bay ném bom B52.
    Các lực lượng Hoa Kỳ và Liên minh Bắc cũng đã bắt đầu phân ra các mục tiêu của họ. Trong khi Mỹ đang tiếp tục tìm Osama bin Laden, Liên minh miền Bắc đã được áp lực để hỗ trợ nhiều hơn trong những nỗ lực của họ để kết thúc chế độ Taliban và kiểm soát đất nước.
    Scott Peterson, viết trong tờ Christian Science Monitor, trích dẫn câu chuyện của một kẻ bỏ ngũ mà ông mô tả là Thứ trưởng Nội vụ Taliban và "xếp hạng cao nhất trong những kẻ rời bỏ hàng ngũ của Taliban cho đến nay". Theo Peterson người này mô tả các cuộc không kích của Mỹ là rất có hiệu quả, "thành phố Kabul đã nhìn thấy rất nhiều quả rốckét, nhưng đây là một điều khác" và " người Mỹ ném bom vào chiến hào, xe hơi, và quân đội của Taliban làm cho chúng tôi bị đánh bại. Tất cả mọi con đường đều bị phong tỏa do đó, không có cách nào để mang thức ăn hoặc đạn dược cho tiền tuyến. Tất cả các chiến hào của Taliban đã bị phá hủy, và nhiều người bị giết. "
    Trận Mazar-i Sharif
    Trận Mazari Sharif được xem là cực kỳ quan trọng, không chỉ vì thành phố này có lăng mộ của Hazrat Ali hoặc "Blue Mosque", một địa điểm Hồi giáo thiêng liêng, mà còn bởi vì nó có hai sân bay chính và một con đường chính dẫn tới Uzbekistan. Vào ngày 09 tháng mười một năm 2001, lực lượng Liên minh miền Bắc dưới sự chỉ huy của tướng Abdul Rashid Dostum và Ustad Atta Mohammed Noor, đã vượt qua cây cầu Pul-i-Imam Bukhri, tiêu diệt một số đề kháng, và chiếm được căn cứ quân sự và sân bay chính của thành phố.
    Lực lượng đặc biệt Hoa kỳ (cụ thể là ODA595, sĩ quan bán quân sự CIA và các đội Hướng dẫn Tấn công bằng Đường không - Air Force Combat Control Team) di chuyển trên lưng ngựa và sử dụng sự hỗ trợ bằng Không quân để tấn công vào thành phố Mazari Sharif thuộc tỉnh Balkh để hỗ trợ cho Liên hiệp Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo Afghanistan ( thuộc Liên minh miền Bắc). Sau một chiến đấu đẫm máu kéo dài 90 phút, lực lượng Taliban, những người đã kiểm soát thành phố từ năm 1998, rút khỏi thành phố, Liên minh miền Bắc tiến vào thành phố trong sự hân hoan đón tiếp của nhân dân trong thành phố. ( vì vùng này không phải là vùng có nhiều dân tộc Pastun sinh sống)
    Taliban đã trải qua ba năm chiến đấu với Liên minh miền Bắc để chiếm lấy thành phố Mazar-i-Sharif, sự thất thủ nhanh chóng thành phố này báo trước sự sụp đổ lớn của chế độ Taliban ở Afghanistan. Sự sụp đổ của thành phố là một "đòn điểm huyệt" vào Taliban và cuối cùng đã chứng tỏ rằng nó là một "cú sốc lớn", vì Trung tâm Chỉ huy Hoa Kỳ (CENTCOM) đã tin rằng khi nào thành phố vẫn còn trong tay Taliban, thì bất kỳ tiến triển nào của cuộc chiến sẽ là "một bước tiến rất chậm chạp".
    Sau khi trú ẩn ở các làng xa xôi hẻo lánh để lẩn tránh các cuộc không kích chính xác của Không lực Hoa kỳ, khoảng 5,000-12,000 lính Taliban và chiến binh nước ngoài - bao gồm cả người Chechnya, Pakistan, Ả Rập, Uzbek và Uyghurs Trung Quốc, Họ bắt đầu rút khỏi thành phố theo hướng Kunduz, trong xe tải pickup, SUV và xe tải được gắn các khẩu ZSU 23-2 ( súng phòng không được sử dụng cho lực lượng bộ binh), trong một nỗ lực để tập hợp lại.
    Mazar-i-Sharif là một cửa ngõ có tầm quan trọng chiến lược, khi Liên minh miền Bắc chiếm được nó gần như ngay lập tức họ mở ra được một hành lang trên bộ tới biên giới Uzbekistan, cho phép Hoa Kỳ vận chuyển lực lượng quân sự của Liên minh miền Bắc, và bắt đầu triển khai các lực lượng của riêng mình với số lượng lớn tại Afghanistan. Nó cũng cho phép viện trợ nhân đạo để giảm bớt cuộc khủng hoảng lương thực của người dân Afghanistan, vốn đang là mối đe dọa hơn sáu triệu người. Một tỷ lệ lớn người có nhu cầu cho những đồ dùng cấp thiết nhất cho sự sống ở các vùng nông thôn ở phía nam và tây thành phố Mazar-i-Sharif.
    Mặc dù theo một số tài liệu của các nhà nghiên cứu châu Âu thì việc chiếm được thành phố Mazar-i-Sharif là một chiến thắng quân sự, những người khác thấy rằng sự rút lui của Taliban như là sự khởi đầu của sự sụp đổ của họ. Đây được coi là thất bại lớn đầu tiên của Taliban và các đồng minh của họ.
    (còn tiếp)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 11:18 ngày 29/12/2009
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến tranh Afghanistan (2001 -- > nay) tiếp theo
    Sau sự sụp đổ của thành phố Mazar-I-Sharif
    Sau khi có tin đồn rằng Mullah Dadullah đã ủng hộ để tái chiếm thành phố với khoảng 8.000 chiến binh Taliban, một ngàn lính Mỹ thuộc đơn vị sơn cước số 10 được vận chuyển bằng đường không vào thành phố, tạo ra một bàn đạp vững chắc đầu tiên mà từ đó có thể tiến đến Kabul và Kandahar. Trong khi các chuyến bay quân sự trước lúc đó thường phải cất cánh từ Uzbekistan hoặc các Tàu sân bay trong Biển Ả Rập, Nay người Mỹ đã tổ chức được sân bay của riêng của họ tại Afghanistan điều này cho phép họ xuất kích để thường xuyên hơn và cũng thuận tiện hơn cho các nhiệm vụ tiếp tế và viện trợ nhân đạo. Những phi vụ cho phép chuyên chở các lô hàng viện trợ nhân đạo lớn ngay lập tức được chở đến cho hàng trăm ngàn người Afghanistan hiện đang phải đối mặt với nạn đói ở trên đồng bằng phía Bắc của đất nước.
    Sau khi Lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ rời thành phố để tiến hành các hoạt động xa hơn nữa ở trong và xung quanh thành phố Konduz, người ta đã có báo cáo về danh sách xử tử và thường dân bị bắt cóc bởi Liên minh miền Bắc. Các báo cáo cũng cho biết rằng nhiều người trẻ tuổi bị bắt, bị đối sử bạo ngược, và bị ngược đãi bởi Liên minh miền Bắc để nhằm mục đích đòi tiền chuộc từ gia đình của họ để được trở về nhà. Một số người trong số họ vẫn còn bị tống giam. (Ai dám bảo là Taliban tệ hơn Liên minh miền Bắc nào???)
    Người ta cũng thấy rằng sân bay đã được cài mìn (booby trapped ) bởi lực lượng Taliban khi họ bỏ đi, với các vật liệu nổ được chôn xung quanh vùng đất này, cũng như cơ sở hạ tầng đang bị hư hỏng nặng và hệ thống hỗ trợ Không lưu bị phá hủy nặng nề bởi người Taliban để ngăn chặn ngăn chặn việc nó được sử dụng bởi kẻ thù. Đường băng bị tiêu huỷ trong sân bay được vá lại bởi nhân sự của lực lượng Không quân Ngựa đỏ Hoa Kỳ (U.S. Air Force Red Horse ) và người Afghanistan địa phương được thuê để lấp các hố bom với đường nhựa asphalt bằng tay không, và chuyến máy bay chở hàng đầu tiên đã có thể tiếp đất vào khoảng mười ngày sau trận đánh. Căn cứ đã được tuyên bố đi vào hoạt động kể từ ngày 11 tháng 12.
    Bây giờ lực lượng được Hoa kỳ ủng hộ đã kiểm soát thành phố và họ ngay lập tức cho phát sóng đài Radio Mazar-i-Sharif, trên kênh phát sóng cũ của Taliban Voice of Sharia ở tần số 1.584 kHz, trong đó có một bài phát biểu của cựu Tổng thống Burhanuddin Rabbani. Âm nhạc cũng đã được phát sóng trên đài phát thanh Kabul lần đầu tiên trong vòng 5 năm, và các bài hát được giới thiệu bởi một nữ phát thanh - một bước đột phá lớn cho một thành phố, nơi mà phụ nữ đã bị cấm được học hành, tham gia công việc xã hội, và nhiều tự do dân sự khác kể từ năm 1996.
    Sự sụp đổ của Kabul
    Trong đêm 12 tháng 11, lực lượng Taliban lợi dụng bóng tối để tháo chạy khỏi thành phố Kabul. Cùng vào khoảng thời gian này lực lượng Liên minh miền Bắc đã đến nơi trong buổi chiều ngày 13 tháng 11, chỉ có miệng hố bom, cây cối bị đốt cháy, và các đống vỏ đạn từ các vị trí đặt súng của Taliban đã có mặt để chào đón họ. Một nhóm khoảng hai mươi chiến binh cực đoan Ả Rập ẩn nấp trong công viên của thành phố là vị trí phòng thủ duy nhất còn lại. Nhóm Taliban này bị tiêu diệt trong 15 phút đấu súng. Sau khi toán chiến binh này đã bị vô hiệu hóa, thành phố Kabul đã nằm trong tay của lực lượng US/ NATO và Liên minh miền Bắc.
    Sự sụp đổ của Kabul đánh dấu sự khởi đầu của sự sụp đổ của hàng loạt các vị trí của Taliban trên bản đồ. Trong vòng 24 giờ, tất cả các tỉnh của Afghanistan dọc theo biên giới Iran, bao gồm cả các thành phố chính như Herat, đã thất thủ. Các chỉ huy địa phương người Pashtun và các lãnh chúa đã xuất hiện trên khắp vùng đông bắc Afghanistan, bao gồm cả ở các thành phố chính của Jalalabad. Lực lượng Taliban ở phía Bắc, chủ yếu là tình nguyện quân Pakistan, đã lui trở lại thành phố phía bắc Kunduz để phòng thủ. Vào ngày 16 tháng 11, cứ điểm cuối cùng của Taliban ở miền bắc Afghanistan đã bị bao vây bởi lực lượng Liên minh miền Bắc. Gần 10.000 chiến binh Taliban, chủ yếu là các chiến binh người nước ngoài, từ chối đầu hàng và tiếp tục chiến đấu. Và sau đó, Taliban đã bị buộc phải quay trở lại vùng căn cứ chính của họ ở đông nam Afghanistan xung quanh Kandahar.
    Vào ngày 13 tháng 11, al-Qaeda và lực lượng Taliban, và khả năng có cả sự tham gia của Osama bin Laden, đã tập hợp lại và đưa lực lượng của họ vào trong khu vực hang động phức tạp ở Tora Bora, trên biên giới Pakistan 50 km (30 dặm) về phía tây nam Jalalabad, để chuẩn bị cho một chỗ đứng cho việc chống Liên minh miền Bắc và lực lượng US / NATO. Gần 2.000 chiến binh al-Qaeda và Taliban ẩn nấp ở các Boongke và các hang động ở Tora Bora, và vào ngày 16 Tháng 11, Mỹ bắt đầu dùng không quân để đánh bom các pháo đài trong vùng núi này. Cùng thời gian đó, các điệp viên của CIA và Lực lượng đặc biệt đã xuất hiện làm việc trong khu vực, ở Tora Bora họ đã tuyển và và trả tiền cho các lãnh chúa địa phương để họ tham gia chiến đấu và lập kế hoạch một cuộc tấn công vào vùng núi Tora Bora đầy phức tạp.
    Sự sụp đổ của Kunduz
    Cũng đồng thời với các đợt oanh kích ở Tora Bora đang được leo thanh, cuộc vây hãm Kunduz bắt đầu vào ngày 16 tháng 11 và tiếp tục được triển khai. Cuối cùng sau chín ngày chiến đấu dữ dội và và phải chịu sự không kích ác liệt của Hoa kỳ, các chiến binh Taliban đã đấu đầu hàng lực lượng Liên minh miền Bắc vào ngày 25 - > 26 tháng 11. Ngay trước khi có sự đầu hàng này, máy bay của Pakistan đã hạ cánh để di tản một vài trăm nhân viên tình báo và quân nhân, những người đã từng ở Afghanistan từ trước cuộc xâm lược Mỹ với mục đích để giúp cho cuộc chiến đang tiếp diễn giữa Taliban và Liên minh miền Bắc. Tuy nhiên, cầu hàng không này bị cáo buộc là đã sơ tán đến năm ngàn người khỏi khu vực chiến sự, trong đó có lính Taliban và al-Qaeda liên minh với người Pakistan tại Afghanistan
    Trận Qala-i-Jangi
    Ngày 25 tháng 11, ngày mà các chiến binh Taliban đang đồn trú tại Kunduz đầu hàng và đã bị giam giữ tại pháo đài Qala-I-Janghi ở gần Mazar-I-Sharif, một vài lính Taliban đã tấn công một số binh lính Liên minh miền Bắc, lấy vũ khí của họ và nổ súng. Việc này đã nhanh chóng kích hoạt sự cố về một cuộc nổi dậy lan rộng của 300 tù nhân, Những người nổi dậy nhanh chóng chiếm lấy một nửa phía nam, một phần của chiếc pháo đài phức tạp có từ thời trung cổ này, Họ còn chiếm được một kho chứa vũ khí hạng nhẹ, Nhân viên CIA bán quân sự làm công tác xét hỏi tù nhân, Johnny Micheal Spann, đã bị giết, đánh dấu cái chết trong chiến đấu đầu tiên của người Mỹ trong cuộc chiến này.
    Cuộc nổi dậy này cuối cùng đã bị đàn áp sau bảy ngày chiến đấu quyết liệt với các lực lượng SBS cùng với một số đơn vị Đặc nhiệm Hoa kỳ và Liên minh miền Bắc, máy bay chiến đấu AC-130 gunship và các máy bay khác đã tham gia oanh kích nhiều lần, và cuối phải sử dụng một vụ không kích bằng bom. Tổng cộng chỉ còn có 86 người trong số các tù nhân Taliban còn sống sót, và khoảng 50 binh sĩ Liên minh miền Bắc bị giết. Cuộc nổi dậy bị đàn áp đánh dấu sự kết thúc của những trận đánh ở miền bắc Afghanistan, nơi Liên minh các lãnh chúa địa phương miền Bắc bây giờ đã kiểm soát một cách vững chắc vùng đất của mình. ( Sau này em sẽ giới thiệu kỹ hơn về trận này, kênh truyền hình National Geographic cũng đã làm 01 phim tài liệu về nó)
    (còn tiếp)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:28 ngày 29/12/2009
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Củng cố và chiếm lĩnh Kandahar
    Đến cuối tháng mười một, Kandahar, nơi phát sinh của phong Taliban, cũng là thành lũy cuối cùng của nó, đã phải chịu những áp lực ngày càng gia tăng. Gần 3.000 chiến binh bộ tộc, do Hamid Karzai (cũng là vị tổng thống xuất sắc về tham nhũng và gian lận trong bầu cử hiện nay), một người trung thành với nhà vua Afghanistan trước đây, và Gul Agha Sherzai, thống đốc của Kandahar trước khi Taliban nắm quyền, gây áp lực lên các lực lượng Taliban từ phía đông và cắt đứt các đường cung cấp cho Taliban từ phía bắc đến Kandahar. Các mối đe dọa của Liên minh miền Bắc đến từ phía bắc và đông bắc.
    Trong khi đó, lực lượng đáng kể đầu tiên của quân đội chiến đấu Hoa Kỳ đã đến nơi. Gần 1.000 lính thủy quân lục chiến, được không vận bởi máy bay trực thăng CH-53E Super Stallion và C-130, thiết lập một Trung tâm điều hành chuyển tiếp ( Forward Operating Base) được gọi là Trại Rhino trong sa mạc ở phía nam Kandahar vào ngày 25 tháng 11. Đây là căn cứ chiến lược đầu tiên của Liên quân (Mỹ và NATO không phải Liên minh miền Bắc) tại Afghanistan, và Liên quân từng bước thiết lập nhiều căn cứ điều hành khác. Các trận chiến quan trọng đầu tiên liên quan đến lực lượng trên bộ của Mỹ đã xảy ra một ngày sau khi Trại Rhino bị chiếm giữ sau khi 15 xe bọc thép tiến đến gần căn cứ này và họ đã bị tấn công bởi các trực thăng gunship, phá hủy nhiều chiếc trong số này. Trong khi đó, Liên quân tiếp tục Không kích các vị trí của Taliban bên trong thành phố, nơi Mullah Omar đang trú ẩn. Omar, nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Taliban, vẫn ngoan cố thách thức mặc dù trên thực tế phong trào của ông chỉ còn kiểm soát 4 trong số 30 tỉnh của Afghanistan vào cuối tháng 11 và kêu gọi các lực lượng của mình chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng.
    Khi Taliban đang có nguy cơ cao trong việc mất nốt căn cứ cuối cùng của mình, thì sự tập trung của Hoa Kỳ lại hướng vào khu vực Tora Bora ngày càng tăng lên. Dân quân thuộc các bộ lạc địa phương, số lượng khoảng trên 2.000 được trang bị mạnh và được trả tiền cùng với Lực lượng đặc biệt và nhân viên bán quân sự CIA - SAD, tiếp tục các cuộc tấn công như ném bom hạng nặng vào các vị trí bị nghi ngờ là của al-Qaeda. 100-200 thường dân đã được báo cáo là bị giết chết khi 25 quả bom rơi vào một ngôi làng ở chân của khu vực Tora Bora và khu vực núi Trắng.
    Ngày 02 Tháng 12, một nhóm khoảng 20 lính Commando Hoa kỳ được vận chuyển tới nơi bằng trực thăng để hỗ trợ các hoạt động tác chiến. Ngày 05 tháng 12, dân quân Afghanistan (đánh thuê cho Hoa kỳ) bất thình lình kiểm soát phần thấp dưới các hang động trong núi từ tay chiến binh al-Qaeda và thiết lập vị trí để mạng xe tăng đến nổ súng vào lực lượng đối phương. Các chiến binh Al-Qaeda rút lui cùng với súng cối, RPG, và súng trường tấn công để củng cố các vị trí cao hơn và tiếp tục cho trận đánh. Lực lượng bán quân sự của CIA đi chèn ngang vào một lực lượng dân quân Afghanistan được đào tạo rất tốt và kết quả là đã nổ súng vào nhau, nhưng họ vẫn tiếp tục cuộc chiến (với al-Quaeda) mặc dù bị thương vong đáng kể.
    Vào ngày 06 tháng 12, chính phủ Mỹ bác bỏ bất kỳ sự ân xá nào cho Omar hay bất cứ nhà lãnh đạo Taliban nào. Ngay sau đó vào ngày 07 Tháng 12, Omar thoát ra khỏi thành phố Kandahar với một nhóm chiến binh trung thành của mình và di chuyển về phía tây bắc vào vùng núi của tỉnh Uruzgan, từ bỏ lời hứa các chiến binh của Taliban sẽ đầu hàng và hạ vũ khí của họ. Theo báo cáo cuối cùng ông được nhìn thấy lái xe đi ra với một nhóm các chiến binh của mình trên một đoàn xe máy.
    Các thành viên khác của ban lãnh đạo Taliban đã chạy sang Pakistan bằng cách vượt qua các tỉnh Paktia và Paktika. Và tất nhiên Kandahar, thành phố cuối cùng do Taliban kiểm soát đã thất thủ, và phần lớn các chiến binh Taliban đã bị giải tán. Thị xã biên giới Spin Boldak đã đầu hàng trong cùng một ngày, đánh dấu sự kết thúc của chế độ Taliban ở Afghanistan. Các lực lượng của bộ tộc Afghanistan theo Gul Agha chiếm thành phố Kandahar trong khi Thủy quân lục chiến nắm quyền kiểm soát bên ngoài sân bay và thành lập một căn cứ của Hoa Kỳ.
    Trận Tora Bora
    Các chiến binh Al-Qaeda vẫn giữ được vùng núi Tora Bora, tuy nhiên, khi mà một bộ tộc chống Taliban dần dần đẩy lùi bin Laden trở vào địa hình khó khăn, và được hỗ trợ bởi Lực lượng đặc biệt Anh cùng với các cuộc không kích của Hoa Kỳ. Đối mặt với thất bại các lực lượng al-Qaeda đã đồng ý một cuộc ngưng bắn để cho họ có thời gian để đầu hàng và hạ vũ khí của mình. Tuy nhiên, nhiều người tin rằng cuộc ngưng bắn là mưu kế để cho phép các nhân vật quan trọng của al-Qaeda bao gồm cả Osama bin Laden, chạy thoát. Ngày 12 tháng 12, chiến sự bùng một lần nữa, có thể được bắt đầu bởi những người ở toán hậu quân phía sau, mục đích là nhằm kéo dài thời gian cho các lực lượng chính thoát sang dãy núi trắng vào đi vào các khu vực bộ tộc của Pakistan. Một lần nữa, các lực lượng bộ lạc được trả tiền bởi Anh và Hoa Kỳ và các lực lượng biệt kích được hỗ trợ bởi Không quân ra tăng sức ép vào vị trí đã được củng cố của al-Qaeda trong các hang động và boongke rải rác khắp vùng miền núi này.
    Vào ngày 17 tháng 12, chiếc cuối cùng trong số các hang động phức tạp đã bị chiếm và và lực lượng phòng thủ của họ đã bị tràn ngập. Một chiến dịch tìm kiếm trong khu vực do lực lượng Mỹ và Anh tiếp tục tiến hành vào tháng 1 năm 2002, nhưng không có dấu hiệu nào của bin Laden hay lãnh đạo khác của al-Qaeda được tìm thấy. Người ta gần như nhất trí tin rằng họ đã đi vào khu vực bộ tộc của Pakistan ở phía nam và phía đông. Người ta cũng ước tính rằng có khoảng 200 chiến binh al-Qaeda đã thiệt mạng trong trận đánh, cùng với một số lượng không rõ dân quân của các bộ tộc được thuê để chống lại al-Qaeda đã thiệt mạng. Không có thương vong nào Mỹ hoặc Anh được báo cáo.
    Các nỗ lực ngoại giao
    Sau khi Taliban bỏ chạy khỏi Kabul trong tháng 11 2001 và rời khỏi thành lũy cuối cùng của mình, thành phố miền nam Kandahar, trong tháng 12 năm 2001, người ta nói chung đều hiểu rằng các nhà lãnh đạo chính của Al-Qaeda và Taliban đã chạy trốn qua biên giới vào Pakistan.
    Để điền vào các khoảng trống chính trị, tháng 12 năm 2001 Liên Hiệp Quốc tổ chức Hội nghị Bonn ở Đức. Đây là cuộc họp của các nhà lãnh đạo Afghanistan khác nhau được tổ chức bởi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Taliban không được tham giự. Những người tham gia bao gồm đại diện của bốn nhóm đối lập Afghanistan. Quan sát viên bao gồm đại diện các nước láng giềng và các nước lớn khác, kể cả Hoa Kỳ.
    Kết quả là Hiệp định Bonn đã tạo ra chính phủ Lâm thời Afghanistan mục đích hoạt động là để bảo tồn "chủ quyền của Afghanistan" và vạch ra cái gọi là Quy trình Petersberg, Một tiến trình chính trị hướng tới một hiến pháp mới và bầu một chính phủ mới cho Afghanistan.
    Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc ngày 14 tháng 11 2001, bao gồm "lên án Taliban cho phép sử dụng Afghanistan để như một căn cứ cho việc xuất khẩu các hoạt động khủng bố của mạng lưới Al-Qaeda và các nhóm khủng bố khác và cung cấp ẩn náu an toàn cho Osama bin Laden, Al-Qaeda và những kẻ khác liên kết với chúng, và trong bối cảnh này phải hỗ trợ những nỗ lực của người dân Afghanistan để thay thế chế độ Taliban ".
    Để giúp bảo đảm cung cấp để hỗ trợ cho chính phủ Lâm thời Afghanistan, Liên Hiệp Quốc cho phép một lực lượng gìn giữ an ninh quốc tế - Security Assistance Force (ISAF) đến Afgha nistan với một sứ mệnh giúp duy trì an ninh tại Kabul và các khu vực xung quanh thủ đô của Afghanistan.
    Những nỗ lực cứu trợ nhân đạo
    Trước khi có cuộc xâm lược do Hoa kỳ lãnh đạo, đã có lo ngại rằng cuộc xâm lược sẽ làm gián đoạn các hoạt động cứu trợ nhân đạo gây ra nạn đói lan rộng và người tị nạn.
    Chương trình Lương thực Thế giới của Liên Hiệp Quốc tạm đình chỉ hoạt động trong lãnh thổ Afghanistan kể từ khi có những vụ không kích bằng bom đầu tiên nhưng họ lại tiếp tục sau sự sụp đổ của Taliban.
    (còn tiếp)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 17:14 ngày 29/12/2009
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến tranh Afghanistan (2001 -- > nay) tiếp theo
    Năm 2002: Chiến dịch Anaconda
    Sau Tora Bora, lực lượng Hoa Kỳ và các đồng minh Afghanistan của họ củng cố vị trí của họ ở trong nước. Sau một Loya jirga hay hội đồng lớn của các phe phái chính, các lãnh đạo bộ tộc, và lưu vong trước đây của Afghanistan, một chính phủ lâm thời Afghanistan tại Kabul đã được thành lập dưới sự điều hành của Hamid Karzai. Lực lượng Hoa Kỳ thành lập căn cứ chính của họ tại Bagram phía bắc thủ đô Kabul. Sân bay Kandahar cũng trở thành một căn cứ quan trọng của Hoa Kỳ trong khu vực. Một số tiền đồn đã được thành lập tại các tỉnh miền đông để săn lùng các thành viên đang đào tẩu của Taliban và al-Qaeda. Số lượng binh lính Liên quân do Hoa kỳ lãnh đạo đang hoạt động tại quốc gia này cuối cùng đã lên tới hơn 10.000 người
    Trong khi đó, Taliban và al-Qaeda đã không chịu từ bỏ. Al-Qaeda bắt đầu nhóm lại lực lượng của họ ở vùng núi Shahi-Kot thuộc tỉnh Paktia trong cả tháng Giêng và tháng 2 năm 2002. Một lãnh đạo Taliban đang đào tẩu ở tỉnh Paktia, Mullah Saifur Rehman, Cũng bắt đầu tạo lại một lực lượng dân quân của mình trong hỗ trợ chống lại quân chiếm đóng Hoa Kỳ. Họ có quân số lên đến trên 1.000 vào đầu tháng 3 năm 2002. Mục đích của quân nổi dậy sử dụng như là vùng này như vùng căn cứ cơ sở để phát động các cuộc tấn công du kích và có thể là những cuộc tấn công lớn theo cách của những người Mujahideen đánh lại quân đội của người Liên Xô trong thập niên 1980.
    Các lực lượng Liên quân và Hoa Kỳ thu thập được các nguồn tin tình báo về các lực lượng Afghanistan dân quân đang sớm tụ họp tại tỉnh Paktia và chuẩn bị một chuẩn bị một chiến dịch lớn để tiêu diệt họ. Vào ngày 2 tháng Ba 2002, Hoa Kỳ và các lực lượng an ninh Afghanistan đã phát động một công kích vào cứ điểm của lực lượng al-Qaeda và Taliban ở vùng núi Shahi-Kot phía đông nam tỉnh Gardez. lực lượng Thánh chiến, những người sử dụng vũ khí hạng nhẹ, súng phóng lựu RPG, và súng cối, đã bám vào các hang động và boongke ở sườn đồi ở độ cao phần lớn là trên 10.000 feet (3.000 m).
    Họ đã sử dụng chiến thuật " đánh và chạy", nổ súng vào lực lượng Hoa Kỳ và lực lượng an ninh Afghanistan và sau đó rút lui vào hang động và trở lại các boongke của họ để tránh những cuộc không kích liên tục của các lực lượng Hoa Kỳ. Để tổng hợp tình hình cho Liên quân, chỉ huy Hoa Kỳ đã đánh giá thấp sức mạnh ban đầu Taliban và al-Qaeda như là một lực lượng bỏ túi bị cô lập với số lượng ít hơn 200. Sau này người ta mới phát hiện ra rằng quân nổi dậy có từ 1,000-5,000 người vì người ta nghĩ rằng họ đã nhận được tiếp viện.
    Trong ngày 06 tháng 3, tám lính Mỹ và bảy binh sĩ Afghanistan đã bị thiệt mạng và 400 quân nổi dậy cũng được báo cáo là đã bị giết trong cuộc giao tranh. Những thương vong Liên quân bắt nguồn từ một sự cố bắn nhầm làm chết một người lính, những người nổi dậy bắn rơi hai máy bay trực thăng bằng súng phóng lựu RPG và dùng vũ khí hạng nhẹ bắn chết bảy binh sĩ Hoa kỳ, và nổ súng vào lực lượng Hoa Kỳ lúc này đang cố đổ bộ xuống nơi mà họ đặt biệt danh là " Objective Ginger " kết quả là hàng chục người nữa bị thương. Tuy nhiên, vài trăm du kích đã thoát ra khỏi khu vực này và kéo đến vùng các khu vực bộ tộc Waziristan giáp biên giới Pakistan.
    Trong Chiến dịch Anaconda và các sứ mạng khác trong năm 2002 và 2003, các lực lượng đặc biệt từ vài quốc gia phương Tây khác cũng tham gia vào hoạt động. Họ bao gồm Trung đoàn đặc biệt của Úc, Joint Task Force 2 Canada, KSK Đức, Lính đặc nhiệm Không quân New Zealand và Lính thủy đánh bộ đặc nhiệm Na Uy - Marinejegerkommandoen.
    Tình hình Afghanistan sau chiến dịch Anaconda
    Sau trận chiến ở Shahi-Kot, người ta bắt đầu tin rằng chiến binh al-Qaeda có thể bảo vệ căn cứ của họ ở Khu bảo tồn giữa các bộ tộc của Pakistan, từ đó họ lấy lại sức mạnh của mình và sau đó đã bắt đầu tung ra các cuộc tấn công qua biên giới vào lực lượng Hoa Kỳ trong những tháng mùa hè năm 2002. Các đơn vị du kích quân, số lượng từ 5 đến 25 người đàn ông, vẫn thường xuyên vượt biên từ Khu bảo tồn của họ ở Pakistan để bắn rocket vào các căn cứ quân sự Mỹ và phục kích các đoàn xe convoy và tuần tra của Mỹ, cũng như quân đội quốc gia Afghanistan, các lực lượng dân quân Afghanistan đánh thuê cho Liên quân do Mỹ đứng đầu, và các tổ chức phi chính phủ. Tại khu vực xung quanh các căn cứ của Mỹ ở Shkin trong tỉnh Paktika đã xuất hiện một số các hoạt động quân sự đáng lo ngại nhất (tất nhiên là của lực lượng nổi dậy).
    Trong khi đó, lực lượng Taliban vẫn tiếp tục ẩn náu ở lại trong các vùng nông thôn của bốn tỉnh phía Nam mà đã hình thành khu trung tâm của họ, các tỉnh Kandahar, Zabul, Helmand, và Uruzgan. Trong chiến dịch Anaconda Lầu Năm Góc yêu cầu Thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh những người được đào tạo rất cao trong chiến tranh ở vùng rừng núi, được triển khai. Họ thực hiện một số nhiệm vụ trong vài tuần với các kết quả khác nhau. Lực lượng Taliban, những người trong mùa hè năm 2002 chỉ với con số vài trăm, đã cố gắng tránh giao chiến với lực lượng Hoa Kỳ và các đồng minh Afghanistan của họ càng nhiều càng tốt và biến vào trong hang động và hầm hố của các dãy núi ở vùng xa xôi của Afghanistan hoặc vượt qua biên giới vào Pakistan trong thời gian chiến dịch Anaconda được tiến hành.
    Giai đoạn 2003-2005: Sự trỗi dậy trở lại của Taliban
    Sau khi cố gắng để né tránh lực lượng Hoa Kỳ trong suốt giữa năm 2002, tàn quân Taliban bắt đầu dần dần lấy lại được sự tự tin và bắt đầu để bắt đầu chuẩn bị để khởi động các cuộc nổi dậy mà Mullah Muhammad Omar đã hứa hẹn trong ngày cuối cùng mà Taliban vẫn nắm quyền lực. Trong tháng 9, lực lượng Taliban bắt đầu một đợt tuyển dụng tại các khu vực người Pashtun ở cả Afghanistan và Pakistan để khởi động một cuộc nổi dậy mới "chiến tranh Hồi giáo"Hay thánh chiến chống lại chính phủ Afghanistan và Liên quân do Mỹ dẫn đầu. Tờ rơi được phân phối bí mật vào ban đêm cũng bắt đầu xuất hiện ở nhiều làng ở vùng trung tâm Taliban trước đây ở đông nam Afghanistan để cổ vũ cho phong trào chiến tranh Hồi giáo.
    Các trại huấn luyện di động nhỏ đã được thiết lập dọc theo biên giới với Pakistan bởi những thành viên al-Qaeda và Taliban đã tẩu thoát khỏi sự truy đuổi của Hoa kỳ để đào tạo nhân viên mới tuyển về chiến tranh du kích và chiến thuật khủng bố , theo các nguồn tin từ Afghanistan và một báo cáo của Liên Hiệp Quốc. Hầu hết các thành viên mới tuyển được đến từ các trường học tôn giáo của các khu vực bộ tộc của Pakistan, từ đó Taliban đã bắt đầu hồi sinh. Một vài căn cứ lớn, với khoảng 200 chiến binh, đã được lập ra trong các khu vực bộ tộc miền núi của Pakistan vào mùa hè năm 2003. Sự sẵn sàng của các đơn vị bán quân sự Pakistan đồn trú tại biên giới trong việc ngăn ngừa những xâm nhập như vậy đã được đặt câu hỏi, và các hoạt động quân sự của Pakistan đã chứng minh là có ít tính hữu dụng.
    Để phối hợp chiến lược, Omar chỉ định một hội đồng gồm 10 người lãnh đạo cuộc kháng chiến, cùng với mình lúc đầu. Năm khu hoạt động được tạo ra, phân công các chỉ huy Taliban khác nhau như nhà lãnh đạo chủ chốt của Taliban Mullah Dadullah, phụ trách hoạt động ở tỉnh Zabul. Chiến binh Al-Qaeda ở phía đông đã có một chiến thuật táo bạo tập trung vào người Mỹ và gây thương vong cho họ phần lớn bằng chiến thuật phục kích.
    Dấu hiệu đầu tiên cho thấy lực lượng Taliban đang tập hợp lại là vào ngày 27 tháng 1 năm 2003, trong Chiến dịch Mongoose, khi một băng nhóm chiến binh liên minh với Taliban và tổ chức Hezb-i-Islami bị phát hiện và tấn công bởi quân đội Hoa Kỳ tại Ghar Adi vùng hang núi phức tạp khoảng 15 dặm (24 km) về phía bắc của Spin Boldak. 18 phiến quân bị giết và không có báo cáo về thương vong của Hoa Kỳ báo cáo. Vị trí này bị nghi là một căn cứ để làm kênh cung cấp quân nhu và chỗ trú ẩn cho chiến binh từ Pakistan. Các cuộc tấn công vào các mục tiêu cô lập đầu tiên của các nhóm Taliban tương đối lớn ở Afghanistan cũng xuất hiện trong khoảng thời gian đó.
    Khi mùa hè vẫn tiếp tục, các cuộc tấn công dần dần tăng lên ở tần số rất cao trong " khu trung tâm Taliban " Hàng chục binh sĩ chính phủ Afghanistan, tổ chức phi chính phủ vàngười làm công tác cứu trợ nhân đạo, và một số binh sĩ Mỹ thiệt mạng trong cuộc tấn công, phục kích, và tấn công bằng rốckét. Ngoài các cuộc tấn công du kích, chiến binh Taliban đã bắt đầu xây dựng lực lượng của họ ở huyện Dai Chopan, một huyện thuộc tỉnh Zabul nằm sát Kandahar và Uruzgan đây có thể coi là trung tâm của khu trung tâm Taliban.
    Huyện Dai Chopan là một góc xa và thưa thớt dân cư ở khu vực đông nam Afghanistan gồm các núi đá cao chót vót, xen kẽ với các hẻm núi hẹp. Chiến binh Taliban đã quyết định chọn nó là khu vực hoàn hảo để thực hiện một cuộc nổi dậy để chống lại chính phủ Afghanistan và lực lượng Liên quân. Trong suốt mùa hè, đây là nơi có sự tập hợp với mật độ đông nhất các dân quân Taliban kể từ khi có sự sụp đổ của chế độ Taliban, với khoảng 1.000 du kích được nhóm họp lại. Hơn 220 người, trong đó có vài chục cảnh sát Afghanistan, đã thiệt mạng trong tháng 8 năm 2003 và đồng thời các chiến binh du kích Taliban đã lấy lại được sức mạnh của mình.
    Phản ứng của Liên quân
    Kết quả, lực lượng Liên quân đã bắt đầu chuẩn bị chiến dịch tấn công để đánh bật gốc các lực lượng phiến quân. Vào cuối tháng tám năm 2005, lực lượng chính phủ Afghanistan được hậu thuẫn của quân đội Mỹ và những trận không kích dữ dội đã tiến vào các vị trí phòng thủ của Taliban ở trong núi. Sau một trận chiến kéo dài 1 tuần, lực lượng Taliban đã rút lui với khoảng 124 chiến binh (theo số ước lượng của chính phủ Afghanistan) đã thiệt mạng. Tuy nhiên, người phát ngôn của lực lượng Taliban, đã chối bỏ con số thương vong cao như vậy và người Mỹ cũng ước lượng con số thương vong của Taliban là thấp hơn một chút.
    (còn tiếp)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 11:20 ngày 30/12/2009
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến tranh Afghanistan (2001 -- > nay) tiếp theo
    Năm 2006: Hoạt động của NATO ở miền nam Afghanistan
    Từ tháng 1 năm 2006, một Lực lượng Quốc tế Trợ giúp Gìn giữ An ninh (ISAF) dưới sự chỉ huy của NATO đã bắt đầu thay thế quân đội Hoa Kỳ, lúc này đang tiến hành chiến dịch Operation Enduring Freedom (OFF) ở miền nam Afghanistan. Trung đoàn Tấn công Đường không Anh số 16 (AAB16 - sau này được tăng cường bởi Thủy quân lục chiến Hoàng gia) hình thành nòng cốt của lực lượng ISAF ở miền Nam Afghanistan, cùng với binh lính và máy bay trực thăng của Úc, Canada và Hà Lan. Lực lượng ban đầu gồm khoảng 3.300 lính Anh, 2.300 lính Canada, 1.963 lính Hà Lan, 290 lính Đan Mạch, 300 lính Úc, và 150 lính từ Estonia. Hỗ trợ Không lực được cung cấp bởi máy bay chiến đấu và trực thăng của Mỹ, Anh, Hà Lan, Na Uy và Pháp.
    Trong tháng 1 năm 2006, NATO tập trung ở miền nam Afghanistan là để hình thành các đội tái thiết cấp tỉnh với người Anh dẫn đầu tại tỉnh Helmand trong khi đó người Hà Lan và Canada dẫn đầu sự triển khai tương tự trong tỉnh Orūzgān và tỉnh Kandahar tương ứng. Lực lượng Taliban địa phương đã lên tiếng chống đối các lực lượng ISAF vừa mới kéo đến và cam kết để chống lại họ.
    Miền nam Afghanistan trong năm 2006 phải đối mặt với các cơn mưa lũ bạo lực chết chóc nhất tại nước này kể từ khi Lực lượng Liên quân do Mỹ cầm đầu lật đổ chế độ Taliban vào năm 2001, khi vừa mới được triển khai các binh sĩ NATO đã phải lâm trận với dân quân nổi dậy. Hoạt động quân sự của NATO được lãnh đạo bởi các chỉ huy Anh, Canada và Hà Lan. Lực đẩy hoạt động núi được phóng vào ngày 17 tháng năm 2006, với mục đích là để cắt rễ lực lượng Taliban. Vào tháng Bảy, Canada đưa quân vào chiến dịch Medusa trong một nỗ lực dọn dẹp sạch sẽ các chiến binh Taliban tại vùng này chỉ bằng một chiến dịch, dưới sự hỗ trợ của lực lượng Hoa Kỳ, Anh, Hà Lan và Đan Mạch.
    NATO tiếp tục các hoạt động quân sự bao gồm trận Panjwaii, Chiến dịch Mountain Fury và Chiến dịch Falcon Summit. Các trận chiến của các lực lượng NATO đã diễn ra với cường độ cao trong suốt nửa cuối năm 2006. NATO cũng đã thành công trong việc đạt được một số thắng lợi chiến thuật vào Taliban và các khu căn cứ họ, nhưng Taliban đã không hoàn toàn bị đánh bại, và NATO phải tiếp tục hoạt động vào năm 2007.
    Năm 2007: các chiến dịch tấn công của Liên quân
    Trong tháng Giêng và tháng 2 năm 2007, Thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh tiến hành chiến dịch Volcano để dọn sạch quân nổi dậy tại các điểm xung đột ở làng Barikju, phía bắc Kajaki. Sau đó là chiến dich Achilles, một cuộc tấn công lớn nhằm quét sạch quân nổi dậy được bắt đầu từ tháng ba và kết thúc vào cuối tháng 5. Bộ quốc phòng Anh công bố ý định của mình để nâng số lượng quân Anh tại nước này lên đến 7.700 người (cam kết kéo dài đến 2009). Hơn nữa các chiến dịch, chẳng hạn như Silver và Silicon, đã được tiến hành để đáp trả những áp lực của Taliban với hy vọng ngăn chăn các đợt tấn công dự kiến của họ (Taliban) vào mùa xuân.
    Vào ngày 04 tháng 3 năm 2007, ít nhất 12 thường dân bị thiệt mạng và 33 người khác bị thương bởi Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tại quận Shinwar của tỉnh Nangrahar Afghanistan, như là phản ứng của người Mỹ khi bị phục kích bằng một quả bom. Sự kiện này đã trở thành vụ được gọi là thảm sát Shinwar. Các thành viên đơn vị 120 TQLC Hoa kỳ phải chịu trách nhiệm về vụ tấn công này đã được yêu cầu rời khỏi đất nước vì làm hỏng mối quan hệ của đơn vị với nhân dân Afghanistan địa phương.
    Vào ngày 12 tháng 5 năm 2007, lực lượng ISAF đã giết chết Mullah Dadullah, một chỉ huy hàng đầu Taliban phụ trách các hoạt động quân sự ở phía nam của đất nước; mười một chiến binh khác của Taliban cũng bị giết trong cùng một trận đánh.
    Chiến dịch Achilles kết thúc vào ngày 30 tháng 5 năm 2007, và ngay lập tức bắt đầu chiến dich Lastay Kulang đêm đó. Trong suốt mùa hè, các lực lượng NATO đã đạt được một số thắng lợi chiến thuật với Taliban tại trận Chora trong tỉnh Orūzgān , Nơi lực lượng ISAF Hà Lan và Úc được triển khai. Ngày 28 tháng 8 năm 2007, ít nhất 100 chiến binh Taliban và một lính Quân đội Quốc gia Afghanistan đã thiệt mạng trong cuộc giao tranh tại một số điểm thuộc quận Shah Wali Kot - tỉnh Kandahar
    Vào ngày 28 tháng 10 năm 2007, khoảng 80 chiến binh Taliban đã thiệt mạng trong một trận chiến kéo dài 24 giờ với lực lượng Liên quân do Hoa kỳ lãnh đạo ở tỉnh tại Helmand Afghanistan. Trong những ngày cuối cùng của tháng 10, lực lượng Canada đã bao vây khoảng 300 dân quân ở gần Arghandab và giết chết ít nhất 50 người trong số họ. Sự kiện này có thể đã chặn đứng được một cuộc tấn công tiềm năng của Taliban vào Kandahar.
    Sức mạnh của lực lượng Taliban được ước tính bởi các chính khách phương Tây và các nhà phân tích là vào khoảng 10.000 chiến binh tại bất kỳ thời gian nhất định nào đó. Theo một bài báo đăng ngày 30 tháng 10 năm 2007 của tờ The New York Times. trong số đó " chỉ có 2.000 đến 3.000 chiến binh nổi dậy chuyên nghiệp hoạt động liên tục ". Phần còn lại là các chiến binh hoạt động bán thời gian, gồm những cảm tình viên, thanh niên Afghanistan giận dữ vì các đợt không kích ném bom vào thường dân hoặc chiến đấu để được trả tiền. Trong năm 2007, nhiều chiến binh nước ngoài đã được nhìn thấy tại Afghanistan nhiều hơn bao giờ hết. Theo các quan chức Afghanistan và Hoa Kỳ, ước tính khoảng 100-300 chiến binh hoạt động đủ thời gian là người nước ngoài, thường đến từ Pakistan, Uzbekistan, Chechnya, các nước Ả Rập khác và thậm chí cả Thổ Nhĩ Kỳ và miền tây Trung Quốc. Họ có xu hướng cực kỳ cuồng tín và bạo lực, và họ thường mang tới các kỹ năng như khả năng gửi những đoạn quay video phức tạp hơn trên Internet hoặc chuyên gia chế tạo bom mìn. ( không chừng có cả người Mỹ vì cảnh sát Pakistan mới bắt giữ 5 người Mỹ bị tình nghi là tìm cách tham gia lực lượng Taliban)
    Ngày 02 tháng 11 năm 2007, lực lượng an ninh Afghanistan giết chết một chỉ huy dân quân cao cấp, Mawlawi Abdul Manan, sau khi ông này đang cố gắng để thâm nhập vào Afghanistan từ nước láng giềng Pakistan. Taliban cũng xác nhận cái chết của ông. Ngày 10 tháng 11 năm 2007, lực lượng Taliban một phục kích đội tuần tra ở miền đông Afghanistan, giết chết sáu lính Mỹ và ba binh sĩ Afghanistan, trong khi đó chỉ mất có một quân nổi dậy. Cuộc tấn công này đã mang số tử vong của lính Hoa kỳ trong năm 2007 lên 100 người, làm cho nó chở thành năm chết chóc nhất đối với người Mỹ tại Afghanistan (chở về trước).
    Các chiến dịch an ninh đã được tiến hành ở phía bắc bởi lực lượng ISAF và an ninh Afghanistan, bao gồm cả các chiến dịch Harekate Yolo I & II. Con số người chết chính xác không được tiết lộ vào thời điểm đó, nhưng theo báo cáo tin tức từ quân đội Na Uy "khoảng 20 và 25 quân nổi dậy" đã thiệt mạng trong chiến dịch, Bộ quốc phòng Đức xác nhận thêm 14 chiến binh thù địch bị giết trong chiến dịch (Na Uy và Đức là hai quốc gia có lực lượng tham gia vào hoạt động quân sự này). Các hoạt động quân sự kết thúc vào ngày 06 tháng 11 / 7.
    Trận Musa Qala diễn ra trong tháng 12 năm 2007. Các đơn vị an ninh Afghanistan là những lực lượng chiến đấu chính, được sự hỗ trợ của quân đội Anh. Lực lượng Taliban đã buộc phải rút khỏi Musa Qala.
    (còn tiếp)]
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 14:48 ngày 30/12/2009
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến tranh Afghanistan (2001 -- > nay) tiếp theo
    Năm 2008: đánh giá lại và gia hạn cam kết
    Đô đốc Mike Mullen, Chủ tịch Hội đồng tham mưu Liên quân ( Staff Chairman of the Joint Chiefs of Staff), nói rằng tình hình ở Afghanistan là "bấp bênh và cấp bách," sẽ không có nổi 10.000 quân tiếp viện cần thiết dù huy động "bằng bất cứ cách nào", trừ khi việc rút khỏi Iraq được tiến hành. Tuy nhiên, Mullen nói rằng "tôi ưu tiên... Trao cho tôi bởi tổng tham mưu trưởng là: Đầu tiên tập trung vào Iraq. Người ta đã làm theo cách đó trong một khoảng thời gian.. Tập trung vào Afghanistan là bước thứ hai."
    Trong 5 tháng đầu năm 2008, số lượng quân đội Mỹ tại Afghanistan đã tăng lên tới 80% với một sự đột biến của việc thêm hơn 21.643 quân, nâng tổng số binh sĩ Hoa Kỳ tại Afghanistan từ 26.607 tới 48.250 quân trong tháng Sáu. Trong tháng 9 năm 2008, tổng thống Bush đã công bố việc rút hơn 8.000 quân khỏi Iraq trong những tháng tới và tăng thêm đến 4.500 quân Mỹ tại Afghanistan.
    Trong tháng 6 năm 2008, thủ tướng Anh Gordon Brown công bố số lượng quân đội phục vụ Anh tại Afghanistan sẽ tăng đến 8.030 - một sự gia tăng 230 binh lính. Cùng một tháng, Vương quốc Anh bị mất đến người lính thứ 100 của nó trong chiến tranh từ năm 2001.
    Ngày 13 tháng 6, chiến binh Taliban liên tục chứng tỏ sức mạnh của mình, tất cả các tù nhân ở Kandahar được giải phóng tù. Kế hoạch giải thoát 1.200 tù nhân đã được thực hiện rất tốt, 400 người trong số đó là tù nhân chiến tranh Taliban, Sự kiện này gây ra một cú sốc lớn cho NATO tại một trong các trung tâm hoạt động quân sự lớn nhất của họ tại đất nước này.
    Ngày 13 tháng 7 năm 2008, một cuộc tấn công phối hợp của Taliban đã được tiến hành vào một căn cứ ở vùng xa của NATO tại quận Wanat thuộc tỉnh Kunar. Vào ngày 19 tháng 8, quân Pháp phải chịu một thương vong tệ nhất của họ tại Afghanistan trong một vụ phục kích. Sau đó cũng trong tháng này, một trận Không kích nhắm vào mục tiêu là một chỉ huy Taliban ở tỉnh Heart đã giết chết 90 thường dân.
    Cuối tháng 8 người ta thấy một trong những hoạt động quân sự lớn nhất của lực lượng NATO tại tỉnh Helmand, chiến dịch Eagle Summit, với mục tiêu đưa lại điện cho khu vực này. ( quá nực cười phải không các bác)
    Ngày 03 tháng 9, chiến tranh trên lãnh thổ Pakistan lần đầu tiên nổ ra khi các nhóm biệt kích Mỹ ( Commando) trang bị vũ khí hạng nặng, được cho là Lực lượng Đặc biệt Hoa kỳ, đổ bộ bằng máy bay trực thăng và tấn công ba căn nhà ở một ngôi làng gần một cứ điểm được biết là của Taliban và Al-Qaeda lũy. Cuộc tấn công giết chết hai mươi bảy người. Theo người dân địa phương, người chết chỉ là thường dân. Pakistan phản ứng một cách giận dữ và lên án cuộc tấn công. Bộ ngoại giao Pakistan tại Islamabad gọi đó là một cuộc xâm lược "một sự vi phạm lãnh thổ của Pakistan".
    Ngày 06 tháng 9, trong một sự phản ứng rõ ràng với các cuộc tấn công xuyên biên giới gần đây, chính phủ liên bang (Pakistan) đã thông báo cắt đứt các kết nối của đường dây cung cấp cho lực lượng Liên quân đồn trú tại Afghanistan đi ngang qua Pakistan cho một khoảng thời gian vô hạn.
    Vào ngày 11 tháng 9, dân quân Taliban giết chết hai lính Mỹ ở phía đông của đất nước này. Sự kiện này đưa tổng số lính Mỹ thiệt mạng lên đến 113 người, làm cho năm 2008 chở thành năm chết chóc nhất của quân đội Mỹ tại Afghanistan kể từ khi bắt đầu cuộc chiến. Năm này cũng là năm chết chóc nhất đối với một số quốc gia châu Âu có quân lính tại Afghanistan.
    Taliban tấn công vào đường dây cung cấp đi qua Pakistan
    Vào tháng và tháng 12 năm 2008, đã có nhiều vụ việc trộm cắp lớn, cướp tài sản, đốt phá và tấn công lớn vào các đoàn convoy cung cấp hậu cần của lực lượng NATO tại Pakistan. Các công ty vận tải ở phía Nam Kabul cũng đã báo cáo phải trả tiền bảo vệ cho Taliban (Taliban lại làm bảo kê cho các thầu phụ của Hoa kỳ này). Trong một cuộc tấn công ngày 11 tháng 11 năm 2008, chiến binh Taliban ở Peshawar đã tấn công vào một đoàn xe của NATO chở vật tư từ Karachi tới Afghanistan. Các chiến binh đã chiếm lấy hai Humvees để làm diễu hành và họ xuất hiện trước các phương tiện truyền thông như những nhà vô địch. ( quá hài hước)
    Trong mỗi tháng lực lượng Liên quân phải vận chuyển tới 70% nguồn cung cấp đi qua Pakistan, tổng số là khỏang 2.000 xe tải hạng nặng.
    Tại khu vực phía đông của đèo Khyber ở Pakistan các cuộc tấn công được thấy diễn ra rất thường xuyên. Xe tải vận tải hàng hóa và xe Humvees đã bị đốt cháy bởi dân quân Taliban. Một nửa tá các cuộc tấn công ban ngày vào hệ thống nhà kho và nguồn cung cấp của NATO ở gần Peshawar tiêu huỷ 300 xe tải chở hàng và xe Humvees trong tháng 12 năm 2008. Taliban phá hủy một cây cầu sắt trên đường cao tốc giữa Peshawar và đèo Khyber vào tháng 2 năm 2009.
    Các tuyến đường cung cấp khác đi xuyên qua Pakistan, qua lối vào Chaman, đã bị ngắt quãng một thời gian ngắn vào đầu năm 2009. Ngày 10 tháng 1, các thành viên của bộ tộc địa phương đã sử dụng xe cộ để chặn đường phản đối một đợt tấn công của lực lượng an ninh Pakistan để truy tìm ma tuý đã làm một dân làng thiệt mạng. Những người biểu tình đã rút lui vào ngày 14 tháng 1 sau khi cảnh sát hứa sẽ chuyển khiếu nại của họ lên chính quyền tỉnh. (có vẻ như đây chính là điểm yếu nhất của lực lượng Liên quân)
    Các vấn đề trong việc liên minh với Pakistan
    Một quan chức cao cấp của Ngũ Giác Đài nói với kênh truyền hình BBC rằng ở một số khoảng thời gian giữa ngày 12 tháng 7 và 12 tháng 9 năm 2008. Tổng thống George W. Bush ban hành một mệnh lệnh cho phép Quân đội Hoa kỳ mở các cuộc tấn công chống lại lực lượng dân quân tại Pakistan. Tuy nhiên Pakistan cho biết họ sẽ không cho phép lực lượng nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ của mình và sẽ mạnh mẽ bảo vệ chủ quyền của mình. Trong tháng 9, quân đội Pakistan nói rằng họ đã ban hành lệnh "nổ súng" vào binh sĩ Mỹ, những người vượt biên giới Pakistan trong việc truy đuổi các lực lượng dân quân.
    Vào ngày 25 tháng 9 năm 2008, quân đội Pakistan đã bắn về phía trực thăng của ISAF, mà những trực thăng này thuộc về quân đội Mỹ. Điều này gây ra sự nhầm lẫn và sự tức giận tại Lầu Năm Góc, và họ đã yêu cầu một lời giải thích đầy đủ về vụ việc, và họ từ chối rằng trực thăng chiến đấu của người Mỹ đã xâm phạm không phận của Pakistan. Tổng thống Pakistan Asif Ali Zardari đã nhanh chóng phủ nhận rằng những phát đạn đã được bắn và chỉ nhấn mạnh rằng quân đội Pakistan đã bắn pháo sáng để cảnh báo người Mỹ rằng họ đang ở trên không phận Pakistan. Sự kiện này đã làm tăng lên các nghi ngờ đã được thể hiện qua một số quan chức Lầu Năm Góc và thành viên của chính quyền của Tổng thống Bush về các khả năng của các lực lượng vũ trang Pakistan trong việc đối đầu với mối đe dọa từ lực lượng dân quân.
    Sự kiện này càng làm tăng thêm các mối chia rẽ xảy ra khi quân đội Mỹ hạ cánh trên đất Pakistan để thực hiện một hoạt động quân sự chống lại lực lượng dân quân ở tỉnh Biên giới Tây-Bắc nhưng ?oPakistan đã phản ứng giận dữ với hành động này, và nói rằng 20 dân làng vô tội đã bị giết bởi quân đội Hoa Kỳ?. Vào ngày 1 tháng 10 năm 2008, một máy bay không người lái của Hoa Kỳ bị nghi ngờ bắn một tên lửa để tiêu diệt chỉ huy lực lượng dân quân bên trong phía Bắc của tỉnh Biên giới phía Tây gần biên giới Afghanistan. Người ta cho rằng có sáu người chết trong vụ này. Các cuộc tấn công như vậy đã rút ra một phản ứng cứng rắn từ Islamabad, cáo buộc Hoa Kỳ vi phạm không phận của họ, mặc dù người Mỹ đã bày tỏ sự thất vọng về việc có quá ít hoặc không có hành động của phía Pakistan để chống lại các tổ chức dân quân trên đất Pakistan. Tuy nhiên, bất chấp những căng thẳng xảy ra giữa Pakistan và Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đã liên tục gia tăng việc sử dụng máy bay không người lái điều khiển từ xa thí điểm tại khu vực biên giới của Pakistan, đặc biệt là khu vực thuộc quyền quản lý của Liên hiệp các Bộ tộc (fata) và Baluchistan, vào đầu năm 2009, mục tiêu máy bay không người lái tấn công đã tăng lên đến 183% kể từ năm 2006.
    Một cuộc thăm dò do Gallup Pakistan tiến hành trong mùa hè năm 2008 cho thấy chỉ có 9% người Pakistanis ủng hộ các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái của Mỹ và 67 phần trăm chống lại, với đa số người dân Pakistan thì Hoa Kỳ dường như là một mối đe dọa còn lớn cho Pakistan, hơn các đối thủ hiện nay của họ như Ấn Độ hay Taliban - Pakistan. ( iem không hiểu tại sao Huê kỳ đã bỏ bao nhiêu đô la ra để bao chư hầu Pakistan mà vẫn bị ghét như vậy nhỉ)
    (còn tiếp)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 13:23 ngày 31/12/2009
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Năm 2009: Những hoạt động quân sự của Hoa kỳ ở miền nam Afghanistan
    Trung tâm liên kết tình báo
    Trung tâm phối hợp biên giới vùng Khyber giữa Hoa Kỳ, Pakistan, và Afghanistan, tại Torkham phía bên phía đèo Khyber của Afghanistan, đã hoạt động trong chín tháng. Nhưng quan chức Mỹ tại Trung tâm Khyber nói rào cản ngôn ngữ, tranh chấp biên giới giữa các sỹ quan người Pakistan và Afghanistan, và sự mất lòng tin kéo dài trong ba lực lượng quân sự đã cản trở các tiến bộ.
    Hệ thống phân phối phía bắc
    Để đối phó với các rủi ro khi bắt buộc phải gia tăng gửi nguồn cung cấp thông qua Pakistan, Hoa kỳ đã bắt đầu làm việc để thành lập một mạng phân phối phía Bắc (Northern Distribution Network - NDN) quá cảnh qua nước Nga và một số nước cộng hòa Trung Á. Sự cho phép ban đầu để quân đội Hoa Kỳ có thể vận chuyển các nguồn cung cấp quân nhu đi qua khu vực này được bắt đầu vào ngày 20 tháng 1 năm 2009, sau một chuyến thăm khu vực này của tướng Petraeus. Các chuyến hàng đầu tiên dọc theo tuyến đường NDN bắt đầu từ ngày 20 tháng 2 từ Riga, Latvia, Sau đó đi 3.212 dặm (5.169 km) đến thị trấn Termez của Uzbekistan trên biên giới Afghanistan. Chỉ huy quân Hoa Kỳ tuyên bố họ hy vọng rằng mỗi ngày 100 container sẽ được vận chuyển dọc theo NDN. So sánh với hiện nay trung bình 140 container được chuyển một ngày qua đèo Khyber.
    Ngày 11 tháng năm 2009, tổng thống Uzbekistan Islam Karimov thông báo rằng sân bay Navoi của Uzbekistan chỉ được phép sử dụng để vận chuyển hàng hóa không phải là vũ khí sát thương vào Afghanistan. Do có mối quan hệ vẫn còn bất ổn giữa Uzbekistan và Hoa Kỳ sau vụ thảm sát Andijon năm 2005 và sau đó ông ta (Karimov) trục xuất lực lượng Hoa Kỳ ra khỏi căn cứ Karshi-Khanabad, lực lượng Hoa Kỳ không tham gia vào vận chuyển nguồn cung cấp của các lô hàng này. Thay vào đó là hãng hàng không Korean Air của Nam Hàn, và hãng này hiện nay cũng đang tham gia vào đại tu sân bay Navoi, chính thức xử lý khâu hậu cần tại căn cứ này.
    Ban đầu chỉ có các hàng hóa không phải là vũ khí sát thương được vận chuyển trên tuyến NDN. Tuy nhiên, trong tháng 7 năm 2009, ngay trước một chuyến thăm của tổng thống Obama đến Moscow, các quan chức Nga đã thông báo rằng người Mỹ có thể sử dụng không phận của nước này để vận chuyển vũ khí tới Afghanistan.
    Một số nhà phân tích lo lắng rằng việc sử dụng tuyến vận tải NDN sẽ làm gia tăng nhu cầu về hệ thống phòng thủ tên lửa của Nga và việc mở rộng NATO, trong khi những người khác lại thấy không có vấn đề nếu hệ thống lá chắn phòng thủ tên lửa được tháo dỡ. Ngoài ra, các tổ chức quyền con người quan ngại rằng Hoa Kỳ lại một lần nữa làm việc với chính phủ của Uzbekistan, mà đây là chính phủ thường bị cáo buộc có những hành vi vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên, các quan chức Hoa Kỳ vẫn cam kết sẽ tăng cường hợp tác với Uzbekistan, bao gồm hỗ trợ thêm thiết bị hiện đại để biến sân bay Navoi thành một trung tâm phân phối lớn trong khu vực cho cả nhu cầu về vận chuyển hàng hóa quân sự của Liên quân và cũng như cho mục đích dân sự. (Đang chết đuối vớ phải cọc thì sẵn sàng chơi với quỷ chứ không phải và ba vụ vi phạm nhân quyền lẻ tẻ)
    Tăng quân đội Hoa Kỳ
    Vào tháng Giêng, khoảng 3.000 lính Mỹ từ Trung đoàn dã chiến số 3 (3rd Brigade Combat Team )của sư đoàn sơn cước số 10 (10th Mountain Division) đã được vận chuyển đến các tỉnh Logar và Wardak. Số binh sĩ này là đợt đầu tiên của một dự kiến tăng quân ban đầu được yêu cầu bởi George W. Bush và được thực hiện bởi Barack Obama.
    Vào giữa tháng hai, người ta đã thông báo rằng 17.000 quân bổ sung được triển khai ở đất nước này với hai lữ đoàn và quân bổ sung khác nữa, Lữ đoàn Viễn chinh TQLC số 2 ( 2nd Marine Expe***ionary Brigade ) chuyển sang khoảng 3.500 trong số 7.000 Thủy quân lục chiến, và lữ đoàn số 5 thuộc sư đoàn bộ binh số 2, Một Lữ đoàn Stryker với khoảng 4.000 trong số 7.000 binh sĩ của nó. Tư lệnh Hoa Kỳ tại Afghanistan, tướng David McKiernan, đã kêu gọi phải có tới 30.000 quân bổ sung, tức là tăng gấp đôi số quân Mỹ tại quốc gia này (lúc đó). Trong tháng 10 2009, đã có 72 lính Mỹ tử trận, chỉ trong một ngày 28 tháng 11 đã có 8 lính Mỹ tử trận. Tổng số có 255 lính Mỹ tử trận trong năm 2009 (tới lúc bài này được viết), tăng 43% so với năm ngoái.
    Vào ngày 23 tháng 9, kênh NBC News đưa tin rằng theo một đánh giá xếp loại cuộc chiến tại Afghanistan do tướng McChrystal tiến hành bao gồm một kết luận của ông là chiến lược chống quân nổi dậy sẽ thành công nếu quân đội Hoa kỳ có 500.000 quân và 5 năm để chiến đấu.
    Trong tháng 11, đại sứ Hoa Kỳ tại Kabul đã gửi hai bức điện tín đến Washington bày tỏ mối quan tâm sâu sắc về việc gửi thêm binh sĩ Hoa Kỳ tới Afghanistan cho đến khi chính phủ của Tổng thống Hamid Karzai chứng tỏ rằng nó sẵn sàng chống tệ nạn tham nhũng cũng như ngăn chặn việc mất kiểm soát tình hình, những lý do chính đã khiến sức mạnh của Taliban gia tăng. Đại sứ Karl W. Eikenberry, một viên tướng ba sao đã nghỉ hưu một trong những chỉ huy của quân đội Mỹ tại Afghanistan trong những năm 2006-2007, cũng bày tỏ sự thất vọng với sự thiếu thốn của các quỹ dành cho chi tiêu phát triển và tái thiết tại Afghanistan.
    Ngày 26 tháng 11 năm 2009, Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai đã thực hiện một lời yêu cầu công khai đến Hoa Kỳ để tham gia vào các cuộc đàm phán trực tiếp với các lãnh đạo Taliban. Trong một cuộc phỏng vấn với phóng viên Christiane Amanpour của kênh CNN, Karzai nói rằng đó là một sự " cần thiết khẩn cấp" để đàm phán với Taliban, ông này cũng nói rõ rằng chính quyền Obama phản đối một cuộc đàm phán như vậy. Không có phản ứng chính thức từ phía Mỹ.
    Vào ngày 01 tháng 12 năm 2009 Tổng thống Barack Obama công bố tại tại Học viện Quân sự Quốc gia Hoa Kỳ Westpoint rằng Mỹ sẽ gửi thêm 30.000 quân tới Afghanistan. Các tổ chức chống chiến tranh tại Hoa Kỳ trả lời một cách nhanh chóng, và các cuộc biểu tình diễn ra ngày 02 tháng 12 ở các thành phố trên toàn nước Mỹ là câu trả lời (cho quyết định tăng quân của Obama). Nhiều người biểu tình so sánh quyết định triển khai thêm quân tại Afghanistan vào việc mở rộng Chiến tranh Việt Nam của chính quyền Johnson.
    Trong đầu tháng 12 năm 2009, Taliban đề nghị cung cấp cho Hoa Kỳ "đảm bảo quy phạm pháp luật - legal guarantees " rằng họ sẽ không cho phép (Hoa kỳ) sử dụng Afghanistan để tấn công vào các nước khác. Không có phản ứng chính thức từ phía Mỹ.
    Ngày 07 tháng 12, tổng thống Afghanistan Karzai nói rằng chính quyền của ông ta cần 5 năm nữa trước khi quân đội của ông có thể sẵn sàng để đối phó với quân nổi dậy. Karzai cũng cho biết lực lượng an ninh của Afghanistan cần Mỹ hỗ trợ trong vòng 15-20 năm nữa. ( con đòi bú tới 15, 20 năm thì mẹ nào lấy ra sữa bây giờ nhỉ)
    Hàng chục tổ chức trên khắp nước Mỹ đã lên kế hoạch một tuần hành toàn quốc vì hòa bình tại Washington DC vào ngày 20 tháng 3 năm 2010. ( các bác chuẩn bị bật tivi xem đi nha)
    Chiến dịch ở tỉnh Kunduz
    Trong tháng tư, lực lượng quân đội Đức tiến hành những nỗ lực của họ để chiếm lại một số khu vực nổi loạn ở tỉnh Kunduz, đây được coi là một vùng nguy hiểm nhất ở miền Bắc Afghanistan bởi tướng McChrystal chỉ huy ISAF. Các trung tâm đề kháng nằm rải rác ở các khu vực phía tây và phía nam của thành phố Kunduz với trọng tâm chính là một khu vực giữa thị trấn Chahar Dara ở phía tây và sông Kunduz ở phía đông (thành phố). Tính đến nay chiến dịch này bao gồm một số các đợt tấn công lớn được tạo thành bởi vô số các cuộc giao tranh và đấu súng. Các hoạt động quân sự của quân đội Đức, Afghanistan và Bỉ vẫn đang tiếp diễn tại tháng 12 năm 2009 và lực lượng quân đội Mỹ cuối cùng cũng đã tham gia họ vào đầu tháng 11. Dân quân nổi dậy có hơn 650 thương vong trong giai đoạn này. Ít nhất 86 binh sĩ Liên quân đã chết hoặc bị thương.
    Các chiến dịch Khanjar và Panther Claw
    Ngày 25 tháng 6 năm 2009, các quan chức Mỹ đã thông báo sự ra mắt của chiến dịch Khanjar. Khoảng 4.000 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ từ 2 Lữ đoàn Viễn chinh TQLC và 650 binh sĩ Afghanistan hiện đang tham gia vào chiến dịch Khanjar, chiến dịch này được tiến hành dọc theo sông Helmand. Đây có thể coi là chiến dịch lớn nhất kể từ Lầu Năm Góc tăng thêm quân vào cuộc xung đột trước đó trong năm 2009. Chiến dịch Khanjar sau một chiến dịch của quân đội Anh được đặt tên chiến dịch Panther Claw trong cùng khu vực này và đây là cố gắng lớn đầu tiên kể từ khi tướng Hoa kỳ Stanley McChrystal nắm quyền chỉ huy Liên quân. Nhiều quan chức gọi nó là hoạt động quân sự lớn nhất của lực lượng thủy quân lục chiến kể từ trận tấn công thành phố Fallujah, Iraq năm 2004. Chiến dịch Panther Claw là nhằm để bảo đảm an ninh ở một số các con kênh và vượt sông để thiết lập một căn cứ đồn trú của lực lượng ISAF trong khu vực.
    Ban đầu, các binh sĩ Afghanistan và Mỹ di chuyển vào thị xã dọc theo sông Helmand để bảo đảm an ninh cho dân thường từ tay Taliban. Mục tiêu chính của chiến dịch này là để tiến quân vào các cứ điểm của quân nổi dậy dọc theo con sông. Sau khi quân đội Hoa Kỳ chiếm giữ được khu vực này, trách nhiệm giữ gìn an ninh được chuyển giao cho các binh sĩ Afghanistan. Mục tiêu thứ hai là để mang lại an ninh cho vùng thung lũng Helmand trong thời gian của cuộc bầu cử tổng thống, được tiến hành vào ngày 20 tháng 8.
    Đợt tấn công đầu tiên kéo dài 36 giờ, sau đó mục tiêu thứ cấp lại được tiến hành đầu tiên. Mục tiêu chính của cuộc tấn công bao gồm các huyện Garmsir và Nawa, nằm ở biên giới phía phía nam với Pakistan.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:47 ngày 31/12/2009
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến tranh Afghanistan (2001 -- > nay) tiếp theo
    Ưu thế của lực lượng Taliban
    Ngày 10 tháng 8 năm 2009, Stanley McChrystal, tướng Mỹ vừa mới được bổ nhiệm làm chỉ huy ở Afghanistan, nói rằng Taliban hiện đang chiếm được ưu thế và rằng ISAF không thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh đã kéo dài 8 năm. Trong một chiến lược được tiến hành một cách đều đặn trong các chiến dịch tấn công của Taliban vào hồi mùa hè, lực lượng dân quân đã làm lây lan mạnh ảnh hưởng của họ về phía bắc và phía tây Afghanistan, và từng bước leo thang các cuộc tấn công của họ trong một nỗ lực nhằm phá vỡ cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 20 tháng 8. Gọi Taliban là một kẻ thù "rất hung dữ", ông này nói thêm rằng chiến lược của Mỹ trong tháng tới là để ngăn chặn đà tiến triển của họ và chú trọng các công tác giữ gìn an ninh và bảo vệ thường dân Afghanistan, trong khi cũng gọi đó là "công việc khó khăn".
    Tuyên bố của Taliban đòi chấm dứt cuộc bầu cử ngày 20 tháng 8 phần lớn là điều đang gây tranh cãi, và đã tạo ra hơn 135 vụ bạo lực; các phương tiện truyền thông được yêu cầu không công bố về bất kỳ sự cố bạo lực nào, và đã biến cuộc bầu cử thành như là một thành công, mặc dù một số người ước tính số các cử tri đi bỏ phiếu ít hơn 70 % so với dự kiến. Ở miền Nam Afghanistan nơi Taliban có quyền thống trị về thế lực cao nhất, đã có một số lượng cử tri thấp và bạo lực lẻ tẻ nổ ra nhằm vào cử tri và nhân viên an ninh. Theo quan sát viên trưởng của Liên Minh Châu Âu làm nhiệm vụ giám sát cuộc bầu cử, tướng Philippe Morillon, cho biết cuộc bầu cử đã được tổ chức "nói chung là công bằng" nhưng "không có tự do".
    Nhóm các nước phương Tây và các quan sát viên bầu cử gặp khó khăn khi muốn tiếp cận vào các vùng phía nam của Afghanistan, nơi ít nhất có 9 thường dân Afghanistan và 14 thành viên của lực lượng an ninh đã thiệt mạng trong các cuộc tấn công nhằm mục đích hăm doạ cử tri. Taliban phát hành quấn video một vài ngày sau các cuộc bầu cử, quay phim con đường giữa Kabul và Kandahar, một tuyến đường chính tại Afghanistan vào ngày bầu cử, nơi họ cho dừng tất cả các xe buýt, xe hơi, và yêu cầu kiểm tra các ngón tay của hành khách. Quấn video ghi hình mười người đàn ông những người đã đi bỏ phiếu, và họ được nói chuyện với một dân quân Taliban, Lực lượng Taliban nói rằng họ có thể sẽ tha thứ cho các cử tri bởi vì đang là tháng Thánh Ramadan. Taliban cũng tấn công thị xã với tên lửa và các phương tiện chiến tranh gián tiếp khác. Giữa những tuyên bố về sự gian lận đang được công bố một cách rộng rãi, cả hai địch thủ đối đầu, Hamid Karzai và Abdullah Abdullah, tuyên bố chiến thắng trong cuộc bầu cử. Các báo cáo cũng cho thấy số cử tri đi bầu cử là thấp hơn so với cuộc bầu cử cuối cùng, và có lo ngại rằng vụ tranh chấp kết quả có thể biến thành bạo lực, mặc dù cả hai ứng cử viên thề không để kích động bạo lực trong trường hợp một người bị thất bại.
    Sau chiến thắng bị cáo buộc của Karzai với 54% số phiếu, đã ngăn chặn được một cuộc tái đấu với đối thủ của ông ta, Abdullah Abdullah, thì hơn 400.000 phiếu đã được chuyển sang cho Karzai (đáng nhẽ phải là của Abdullah ), và nhiều hơn nữa với hàng trăm ngàn phiếu bầu cử đang bị nhiều người buộc tội là gian lận. Bởi vì con số cử tri thực sự của cuộc bầu cử thấp hơn rất nhiều so với con số chính thức, nên nhiều quốc gia đã chỉ trích cuộc bầu cử như là "tự do nhưng không công bằng".
    Trong tháng chín, Hội đồng quốc tế về an ninh và phát triển cho phát hành một bản đồ cho thấy rằng Taliban đã có một sự hiện diện "thường trú" ở trên 80% của đất nước, với "sự hiện diện thường trú" được xác định bởi các địa phương mà trung bình có một (hoặc nhiều hơn) các vụ tấn công của quân nổi dậy (gây chết hoặc không gây chết người) mỗi tuần.
    Nguy cơ của một nhà nước thất bại
    Trong tháng 11 năm 2006, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã cảnh báo rằng Afghanistan có thể trở thành một nhà nước thất bại do bạo lực gia tăng của lực lượng Taliban, sự phát triển sản xuất ma túy bất hợp pháp, và sự mong manh dễ vỡ của các thể chế nhà nước. Trong năm 2006, Afghanistan đã được đánh giá đứng thứ 10 theo chỉ số các quốc gia không thành công (trong 9 kia không biết có Vịt ta hay không hé hé), tăng từ thứ 11 vào năm 2005. Từ 2005-2006, số lượng các vụ tấn công tự sát, trực tiếp nổ súng tấn công, và sử dụng thiết bị nổ tự tạo đều tăng. Thông tin từ các tài liệu tình báo được giải mật vào năm 2006 gợi ý rằng các an toàn khu của Al Qaeda, Taliban, mạng Haqqani và Hezb-i-Islami đã tăng lên gấp bốn lần tại Afghanistan. Các chiến dịch thành công tại Afghanistan với việc bắt Taliban phải từ bỏ quyền lực, nhưng đã không có thành công đáng kể nào trong việc đạt được các mục tiêu chính là đảm bảo rằng Al-Qaeda không còn có thể hoạt động tại Afghanistan.
    Trong năm 2006, tạp chí Chính sách Đối ngoại của Hoa kỳ và tổ chức "Quỹ vì Hòa bình" đã xếp hạng Afghanistan ở vị trí thứ 10 "ở chỉ số thất bại của nhà nước". Các tác giả nói chỉ số của họ dựa trên "hàng chục ngàn bài báo" từ nhiều nguồn khác nhau mà họ đã thu thập được trong vòng một vài tháng trong năm 2005. Điểm số này được dựa trên 12 tiêu chí bao gồm: " phát triển kinh tế không đồng đều theo các nhóm", "di sản của sự hận thù ", " vi phạm rộng rãi quyền con người", "sự nổi lên của các tầng lớp bè phái", và sự can thiệp "của các quốc gia khác hoặc các nhân tố bên ngoài".
    Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, cựu người đứng đầu quân đội Mỹ tại Iraq và bây giờ làngười đứng đầu Sở chỉ huy quân đội Hoa Kỳ (U.S. Central Command), tướng David H. Petraeus, nhấn mạnh rằng Taliban đang lấy lại được sức mạnh. Ông ta đưa ra những dẫn chứng gần đây về các cuộc tấn công ở Afghanistan và ở nước láng giềng Pakistan. Petraeus cũng nhấn mạnh rằng những thách thức phải đối mặt tại Afghanistan thì phức tạp hơn nhiều những gì đã phải đối mặt tại Iraq và để xoay chuyển tình hình chiến cuộc ông ta yêu cầu phải xóa bỏ các An toàn khu bảo tồn và các thành lũy của dân quân, hiện đang được phổ biến rất rộng rãi bên trong Afghanistan.
    Vào ngày 1 tháng 10 năm 2008, tướng đứng đầu của quân đội Hoa kỳ tại Afghanistan, David McKiernan, cảnh báo rằng tình hình tại Afghanistan có thể phải chịu rất nhiều điều tồi tệ hơn. Các lực lượng quốc tế bên trong vùng lãnh thổ Afghanistan sẽ không thể giữ vững địa bàn của họ vì bị thiếu quân số. Vì lý do này ông ta thường hô hào kêu gọi tăng cho thêm ít nhất là ba lữ đoàn chiến đấu (khoảng 20.000 quân). Nếu không có một cách khẩn cấp lực lượng tăng viện này thì Taliban có thể sẽ trở lại kiểm soát Afghanistan sau khi đã bị đánh bại bởi quân đội quốc tế. Viên tướng đã nói rằng có nhiều điều có thể được nhận thấy trở nên tồi tệ hơn trước khi trở thành tốt hơn. (ông này cũng tự sướng chăng??)
    Các nhà quan sát cũng đã cho rằng sứ mạng tại Afghanistan bị cản trở bởi một sự thiếu thỏa thuận về mục tiêu, thiếu các nguồn lực, thiếu sự phối hợp, tập trung quá nhiều vào chính quyền trung ương mà không đủ chi phí cho các chính quyền địa phương và các tỉnh, và tập trung quá nhiều vào Afghanistan thay vì khu vực (biên giới, vùng sâu vùng xa).
    Cơ quan CIA từ một yêu cầu của tướng Stanley McChrystal, chỉ huy lực lượng NATO tại Afghanistan, đang có kế hoạch tăng các đội hoạt động, bao gồm cả các sỹ quan ưu tú bán quân sự của họ từ Lực lượng Đặc biệt Hoạt động (Special Activities Division), từ lực lượng đặc biệt của quân đội Mỹ (đám này nổi tiếng về các hành động chặt đầu, moi gan trong CTVN). Sự phối hợp này làm việc rất tốt ở Iraq và đây là điều được tin tưởng sẽ mang lại thành công trong đợt tăng quân. CIA cũng gia tăng nhiều chiến dịch của mình bằng cách sử dụng tên lửa tấn công từ máy bay không người lái Predator vào tổ chức Al Qaeda ở Pakistan. Số lượng các cuộc tấn công này trong năm nay là 37 vụ, đã vượt quá số vụ của năm 2008, theo dữ liệu biên soạn về cuộc chiến của Long Journal, theo dõi về các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái tại Pakistan. ( Lúc này chưa xảy ra vụ đánh bom và xóa sổ Trung tâm CIA ở tỉnh Khost, Đông Afghanistan)
    Trong tháng 11, 2009, Malalai Joya, Một cựu thành viên của Quốc hội Afghanistan và tác giả của quấn " Raising My Voice " bày tỏ phản đối với sự mở rộng sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Afghanistan và mối quan tâm về tương lai của đất nước của mình. "Tám năm trước, Mỹ và NATO - đem theo các quảng cáo về các quyền của phụ nữ, nhân quyền, và dân chủ - chiếm đóng đất nước tôi và đẩy chúng tôi vào lửa đạn. Tám năm là đủ để biết sự tốt hơn về hệ thống mafia tham nhũng của Tổng thống Hamid Karzai. Người dân của chúng tôi đang bị nghiền nát giữa hai kẻ thù hùng mạnh. Từ trên bầu trời, lực lượng chiếm đóng trút bom đạn và giết dân thường ... và từ trên mặt đất, Taliban và các lãnh chúa địa phương tiếp tục tội ác của họ. Tốt hơn là họ nên rời khỏi nước tôi, những người mà tôi đang chán ghét. Chiếm đóng sẽ không bao giờ mang lại giải phóng, và nó không thể đem lại dân chủ từ chiến tranh. "
    Cũng trong tháng 11, 2009 UNICEF báo cáo, tám năm sau cuộc xâm lược của Mỹ dẫn đầu lật đổ Taliban, Afghanistan trở thành nơi nguy hiểm nhất trên thế giới cho một đứa trẻ được sinh ra. Afghanistan có Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao nhất trên thế giới 257/ 1000 được sinh ra, và 70% dân số không được tiếp cận với nguồn nước sạch, cơ quan này nói.
    Vào tháng 5 năm 2009, Afghanistan trượt xuống đứng thứ ba trong chỉ số minh bạch quốc tế hàng năm về nhận thức tham nhũng, trở thành đất nước thứ hai trên thế giới về tệ nan tham nhũng cấp chính phủ chỉ sau có Somalia.
    (còn tiếp)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:21 ngày 05/01/2010
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến tranh Afghanistan (2001 -- > nay) tiếp theo
    Có thể có sự hiện diện lâu dài về vai trò quân sự của Hoa Kỳ
    Nhiều chục ngàn binh sĩ Mỹ tại Afghanistan đang đóng căn cứ trong những vị trí mà những chuyên gia thường nói những căn cứ thường trú lớn.
    Trong tháng hai năm 2005, Thượng nghị sỹ Hoa kỳ John McCain kêu gọi thành lập các căn cứ quân sự thường trú của Mỹ tại Afghanistan, ông này nói rằng các căn cứ như vậy sẽ "bảo vệ lợi ích của người dân Mỹ, vì lợi ích an ninh lâu dài, chúng ta phải có mặt trong khu vực".
    Ông này đã phát biểu khi đến thăm Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai tại Kabul như là một phần của một phái đoàn năm thành viên Thượng viện đến khu vực này để tiến hành các cuộc đàm phán về các vấn đề an ninh. Phái đoàn cùng cũng bao gồm, thượng nghị sĩ Hillary Clinton, bây giờ là bộ trưởng ngoại giao Hoa kỳ.
    Vào giữa tháng 3, 2005, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Liên quân, tướng Hoa kỳ Richard Myers nói với các phóng viên tại Kabul rằng Bộ Quốc phòng Hoa kỳ đã nghiên cứu sự khả thi của các căn cứ quân sự thường trú. Vào cuối tháng ba, quân đội Mỹ đã thông báo rằng nó đã chi tiêu 83 triệu USD vào hai căn cứ không quân chính của nó tại Afghanistan, Căn cứ không quân Bagram ở phía bắc thủ đô Kabul và sân bay Kandahar ở phía nam của đất nước.
    Một vài tuần sau khi loạt các công bố từ phía Mỹ, vào tháng 4 năm 2005, trong chuyến thăm bất ngờ đến Kabul của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld, Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai ám chỉ sự hiện diện thường trú có thể có quân đội Mỹ tại Afghanistan, nói rằng ông cũng thảo luận các vấn đề với Tổng thống Bush. Rumsfeld từ chối không khẳng định việc Hoa Kỳ muốn có một cách vĩnh viễn các căn cứ quân sự của Mỹ tại Afghanistan, ông này nói rằng quyết định cuối cùng sẽ đến từ Nhà Trắng.
    Tính đến tháng 7 năm 2008, hàng trăm triệu đô la đã được chi cho cơ sở hạ tầng lâu dài của các căn cứ quân sự nước ngoài ở Afghanistan, trong đó có một ngân sách 780 triệu USD để phát triển hơn nữa các cơ sở hạ tầng chỉ ở căn cứ không quân Kandahar, nơi đây được mô tả như là "một thành phố quân sự và là nhà ở cho 13.000 binh sĩ đến từ 17 quốc gia khác nhau - những nơi mà bạn có thể ăn tại một nhà hàng Hà Lan cùng với rất nhiều các binh sĩ đến từ Lục quân Hoàng gia Hà Lan". Căn cứ không quân Bagram, do quân đội Mỹ quản lý, cũng đã được mở rộng theo các quan chức quân đội Hoa kỳ, với đất mua từ những người dân địa phương Afghanistan ở những nơi khác nhau để tiện cho việc mở rộng hơn nữa các căn cứ này.
    Tính đến tháng 1 2009, Hoa kỳ đã rót vào trên 1,6 tỷ USD để thiết lập căn cứ quân sự thường trú tại Kandahar.
    Trong tháng 2 năm 2009, tờ The Times ra báo rằng Hoa Kỳ sẽ xây dựng hai căn cứ quân sự lớn ở miền nam Afghanistan. Một sẽ được xây dựng tại Maiwand thuộc tỉnh Kandahar gần biên giới với tỉnh Helmand, - Một địa điểm rất nổi tiếng vì đây đã từng là căn cứ bị hủy diệt của một đạo quân Anh trong Chiến tranh Afghanistan lần thứ hai. Chiếc căn cứ quân sự mới khác của Mỹ sẽ được xây dựng tại Zabul, Một tỉnh bây giờ phần lớn được điều hành bởi Taliban và các băng nhóm tội phạm.
    Trong một bài viết trong tờ Time Magazine, căn cứ của Mỹ tại quận Shkin ở tỉnh Paktika đã được miêu tả là:
    "một pháo đài theo kiểu kỵ binh miền Tây Hoang dã (bác nào hay xem phim cao bồi chắc biết ngay), bao quanh bởi các cuộn dây thép gai. Một lá cờ Mỹ gợn sóng trên bức tường bằng bùn dày 3ft, và một tháp canh có tầm nhìn rộng tới 9.000 ft quét vào các rặng núi phía rừng thẳm, đây được đánh dấu là vùng biên giới. Khi có sự cố, nó thường đến từ hướng này. "
    Chiến lược xây dựng căn cứ quân sự dựa vào yếu tố địa lý
    Kịch bản xây dựng một cách vô hạn các căn cứ quân sự của lực lượng đang hiện diện do Hoa kỳ lãnh đạo tại Afghanistan đang tạo những bất ổn về việc phân chia quyền lực và ảnh hưởng trong khu vực, bao gồm cả nước Nga. Nga đã đồng ý để cho Hoa Kỳ và NATO sử dụng không phận của mình cho mục đích hậu cần, tuy nhiên.
    "Có tất cả những thứ này để chỉ chống lại một số lượng dân quân Taliban từ khoảng 10.000, đến 12.000 người?" Zamir Kabulov, đại sứ Nga đến Kabul, đã phát biểu. "Có thể các căn cứ quân sự, cơ sở hạ tầng này, [là] không chỉ cho mục đích nội bộ mà còn có cả mục đích cho khu vực. "
    Nga xem việc xây dựng các căn cứ quân sự lớn và vô hạn như một mối đe dọa tiềm năng " vì vị trí địa lý của Afghanistan có một tầm quan trọng chiến lược," Kabulov nói. "Nó rất gần với ba khu vực dầu khí chính của thế giới: Vịnh Ba Tư, Biển Caspi, Trung Á."
    Các nhà quan sát cũng chú ý rằng thông qua sự hiện diện quân sự mạnh mẽ hơn tại Afghanistan, Mỹ có thể tìm cách củng cố vị trí của mình trong khu vực để can thiệp vào các mối quan hệ ngày càng trở nên ấm hơn giữa Ấn Độ, Trung Quốc và Nga.
    Cùng với việc tiếp cận với các nguồn năng lượng lớn khu vực Trung Á rộng lớn và Biển Caspi và chèn vào giữa các cường quốc trong khu vực như Ấn Độ, Trung Quốc và Nga, Afghanistan cũng có ý nghĩa chiến lược về biên giới với Iran.
    (còn tiếp)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 17:16 ngày 05/01/2010

Chia sẻ trang này