1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh ở Lào từ 1954 đến 1975

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi abtomat47, 11/10/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    NGƯỜI MIÊU:LỊCH SỬ CỦA MỘT DÂN TỘC LƯU VONG
    Qua cuộc chiến Đông Dương và Việt Nam, sự liên hệ của các sắc tộc miền núi đã đóng một vai trò không kém phần quan trọng, thường được báo chí Tây phương nhắc đến, nhất là ở Lào. Khi cuộc chiến kết liễu với sự thắng thế của phe c ộng sản vào giữa thập niên 70, đã có một làn sóng di dân tị nạn ồ ạt kéo dài nhiều năm sau đó. 
    Phần lớn dân thiểu số ở Lào sau khi vượt sông Mêkông lánh nạn sang Thái Lan đều an cư ở vùng đồi núi Bắc Thái; một số khác được định cư ở Hoa Kỳ cùng với khối lượng lớn lao người đồng bằng của 3 nước Việt, Miên, Lào. 
    Với hơn hai thập niên đầu định cư, vì những nhu cầu và dịch vụ xã hội, đã có sự giao tiếp hòa đồng của các sắc dân Đông Dương trên vùng đất mới. Chúng ta đã làm quen với những người miền núi của thượng Lào với y phục cổ truyền có màu sắc sặc sỡ khác lạ mắt mà những người lớn tuổi vẫn còn mặc khi đi khám bệnh, đi chợ, đi xe buýt hoặc đến sở welfare vv... Riêng nói đến người Lào thì trong khối sắc dân hỗn tạp này, nhiều người Việt chúng ta đã không phân biệt được người Lào đồng bằng, người Lào miền núi (còn gọi là Lào thừng), người Miên (đừng nhầm với người Cao Miên, hay Khmer), người Hmong (mà ở Việt-Nam hay gọi là Mông, Miêu, Mèo), người Kh''mú (còn gọi là người Kha phía nam Lào). Họ có tiếng nói và phong tục văn hóa khác biệt hẳn nhau.
    So với người Việt, thì người Miên và người Hmong chỉ có một số ít họ tộc rất dễ nhận: Đối với người Miên thì thường là Saeteurn, Saechao, Saephanh, Saefong, Saelee vv...; còn người Hmong thì có: Ly hay Lee, Moua, Hang, Xiong, Vue, Lo, Thao vv... Với chúng ta thì tên Vang Pao lại cũng rất là quen thuộc.
    Nhóm sắc tộc Lào, vốn thích nghi với miền núi và canh tác, khi đến Mỹ đã tụ tập với nhau ở một số địa phương như Minesota, Fresno, Sacramento, Modesto, Spokane và Seattle...Và theo đà tiến triển, các thế hệ trẻ đã chóng thích nghi với đời sống mới và đạt lắm thành công rực rỡ trong nhiều mặt như học vấn và kinh doanh. 
    Riêng với sắc tộc Hmong, mà ta hay gọi là Miêu tộc hay người Mèo, ước tính hiện có khoảng hơn 6 triệu dân trên thế giới, mà đại đa số lại sống ở Trung quốc. Số còn lại sống rãi rác ở miền bắc các nước Việt, Lào, Thái và Miến điện. Có khoảng 80 ngàn người đã được định cư tại Hoa Kỳ. Đã có khá nhiều sách báo Tây phương, nhất là Mỹ nghiên cứu về sắc dân này. Càng tìm hiểu thì chúng ta sẽ càng ngạc nhiên về lịch sử hùng tráng và lâu đời của một dân tộc kém may mắn, đã bị suy vong mai một mà trở thành một sắc tộc miền núi. Ôi thật là tang thương ngẫu lục với trò dâu biển ngậm ngùi. 
    Người Trung hoa xưa phân biệt sắc tộc Hmong ra làm hai loại: loại đã thuần (shu) và loại hoang (sheng). Loại Hmong thuần là nhóm đã được đồng hóa với người Hoa, còn loại hoang là nhóm sống biệt lập trong rừng, thoát ngoài vòng kiềm tỏa của chính quyền. Những nhà truyền giáo Tây phương lần đầu tiếp xúc với nhóm Hmong sống hoang dã ở vùng Tứ- xuyên, Vân-nam vào thế kỷ 17 rất lấy làm ngạc nhiên là họ không có nét thuần Á châu mà lại phảng phất giống caucasian, nhiều người lại có màu tóc hung hoặc bạch kim, và vài người lại có mắt xanh. Có thể là vì thế mà người Hoa gọi họ là Miêu, hay Mèo chăng? Số người giống caucasian này còn lại tương đối ít vì các chính quyền liên tiếp của Trung-quốc luôn luôn tìm cách sát hại họ, dù họ đã trốn sang Lào, không nương tay, ngay cả đến thời Dân quốc và Trung c ộng ngày nay. 
    Sự kiện này đã làm các nhà truyền giáo bấy giờ bỏ công tìm hiểu thêm về nguồn gốc của người Hmong. Nhưng sử sách của người Hoa lại hầu như muốn bỏ quên giống dân này, chẳng có mấy sách cổ nhắc đến một cách rõ ràng, không khác gì khi nói về nguồn gốc của Việt tộc. Ngay cả các nhà sử học người Hoa vẫn cho rằng người Hmong là kẻ thù đầu tiên của Hoa tộc, và xuyên suốt sử Tàu kể từ triều đại đầu tiên cho đến nhà Mãn Thanh,  người Hmong đã không ngừng nổi dậy và bị truy diệt bởi quan quân Trung quốc. 
    Cuốn sách đầu tiên đề cập tương đối đầy đủ về giống Hmong là cuốn "Histoire des Miao" (Lịch sử về Miêu tộc) do nhà truyền giáo F. M. Savina, thuộc Hội truyền giáo hải ngoại, trụ sở đặt tại Paris, cho phát hành năm 1924 sau một thời gian dài chung sống với nhiều bộ tộc Hmong ở Bắc kỳ và Lào.
    Lược bỏ đoạn một đoạn kể về lịch sử người Hmong từ khoảng 3000 trước TL đến 1200 trước TL đến thời điểm phù hợp với khoảng thời gian của topic
    Lý Foung Touby
    Sau vụ nổi dậy bất thành của Trịnh Chiếu ở Vân-nam, Tứ-xuyên, người Hản và Miêu trốn chạy sang Lào. Trong số đó có một người họ Lý đến được Nong Het năm 1865. Y lập gia đình và có 3 con; trong số có cậu Foung rất thông minh. Foung lấy con gái của Lo Bliayao tên May. Hai người có 2 đứa con, trai tên là Touby và gái tên Mousong. Foung lấy thêm vợ bé, và May buồn rầu tự vận. Điều này làm cho quan hệ giữa hai họ Lo và Lý trở nên căng thẳng. Các thổ hào liền phải nhờ quan Pháp can thiệp, và để tránh rắc rối nhà cầm quyền liền chia cho họ Lý cai quản Miêu tộc vùng Keng Khoai và họ Lo xem vùng Phac Boun. Năm 1935 Lo Bliayao qua đời, con là Tou Song thay thế chức kiatong. 
    Cùng năm này người Hmong lần đầu theo học trường tiểu học của Pháp mở tại Xieng Khoảng. Các danh gia họ Lo, Lý và Moua đều cho con đi học để hy vọng tranh dành ngôi thứ chính trị về sau. Theo thời gian, Touby Lý đỗ xong trung học và theo học trường Hành chánh mở tại Vientiane.
    Lo Tou Song ít học lại ham mê cờ bạc nên thâm lạm công quĩ rất phật lòng quan cai trị người Pháp. Nhưng Lý Foung lại khôn khéo đem tiền của mình đền bù giùm nên được lòng tin của quan bảo hộ. Từ đấy mà chẳng mấy chốc vai trò chính trị xán lạn của đứa con trai Lý Touby đã được dọn sẳn. Đến khi người Pháp sa thải Tou Song khỏi chức kiatong ở Phac Boun, Touby liền được thay thế. Nhưng người em của Tou Song là Faydang rất lấy làm bất bình sinh oán hận Touby, khiếu nại đến hoàng thân Phetsarath ở Vientiane nhưng vẫn bị người Pháp lấn át. 
    Sau khi ra trường Hành chánh, với chỗ đứng vững chãi trong guồng máy chính trị, uy thế của Touby càng gia tăng. Y đã dùng sản lượng nha phiến do người Hmong trồng trọt để làm áp lực với người Pháp, vì Pháp đang muốn chiếm độc quyền thị trường thế giới lúc bấy giờ. Y còn thuyết phục người Pháp nâng cao vai trò của người Hmong trong xã hội Lào.
    Đến năm 1949 Trung-quốc hoàn toàn do đảng C ộng sản thống trị, làm cho nguồn cung cấp nha phiến ở Vân-nam và biên giới Miến điện vốn nằm dưới sự cai quản của tàn dư quân đội Quốc dân đảng bị cắt đứt. Nguồn cung cấp từ Iran và A-phú-hản lại quá đắt, cho nên Pháp tận dụng nguồn nha phiến của người Hmong để chiếm lĩnh thị trường. Năm 1953 Liên hiệp quốc ký công hàm chấm dứt việc các chính phủ tham gia buôn bán nha phiến, dẫn đến thị trường chợ đen. Sản lượng càng gia tăng và lợi nhuận càng cần thiết cho việc tài trợ việc tái chiếm Đông dương vì chiến tranh leo thang. 
    Hợp tác với Pháp chống Nhật​
    Khi nước Pháp bị Đức Quốc Xã cai trị vào năm 1940, quân Nhật liền chiếm đóng Đông Dương. Toàn quyền Decoux được Nhật để yên tiếp tục phụ trách hành chánh, đã ra lệnh quân Pháp không kháng cự. Nhưng đến tháng 8 năm 1944, khi Paris được giải phóng thì cuộc diện liền thay đổi. De Gaule vội tiến hành kế hoạch phản công ở Đông Dương. Tháng 11, quân biệt động Pháp được thả dù xuống Cánh đồng Chum để lập khu kháng chiến. Không quân Mỹ lại dội bom các hải cảng ở Việt-nam. 
    Tháng 3, 1945 Nhật liền đảo chánh và ra lệnh tước khí giới của quân Pháp ở Đông Dương. Tuy vậy Pháp vẫn âm thầm tăng phái quân nhảy dù từ Ấn-độ vào thượng Lào với sự bao che của người Hmong. Khi Nhật biết có sự dính líu của người Hmong vào kế hoạch bí mật cuả Pháp, họ liền bắt Lý Touby và định đem xử bắn, nhưng nhờ giám mục Mazoyer ở Vientiane can thiệp nên được tha. Chẳng sờn lòng, Touby liền liên lạc với Đại úy Bichelot, chỉ huy quân biệt động Pháp để hợp tác chống Nhật.
    Việc này làm cho quân Nhật điên cuồng, họ liên tục tàn phá các bản làng người Miêu nghi ngờ hợp tác với Pháp, và vô tình làm cho Miêu tộc càng ủng hộ Touby thêm nữa. Nhưng không phải người Miêu nào cũng ủng hộ người Pháp, trái lại nhóm Miêu theo Faydang lại hợp tác với người Nhật truy diệt lính Pháp. 
    Tháng 3, 1945 người Nhật bắt giam tất cả viên chức chính quyền thực dân Pháp ở Lào, khuyến cáo vua Vong Sisavang tuyên bố Lào độc lập. Hoàng thân Phetsarath xây dựng đảng Lao Isalla (hay Lào tự do), và đứng ra thành lập tân chánh phủ vào tháng 10. Nhưng đội biệt động Pháp ra tay tấn công Luang Prabang, chiếm hoàng cung và ép vua Lào tuyên bố hủy bỏ độc lập và tước hết quyền của Phetsarath. Đảng Lao Isalla cầu cứu với *********, cùng với nhóm Hmong của Faydang để chống Pháp, thế là bộ đội ********* được chính thức mời vào lãnh thổ Lào cùng với một khối cư dân Việt. ********* lại còn tuyên bố Xieng Khoảng là một căn cứ của Việt-nam. Tháng 11,  lực lượng biệt động Pháp phối hợp với dân quân Hmong của Touby đánh bật ********* ra khỏi Xieng Khoảng. Pháp kết án Faydang là c ộng sản, và đến mùa hè năm 1950 Faydang gia nhập đảng Pathet Lào (đảng C ộng sản Lào). 
    Lúc bấy giờ Hoa Kỳ, là đồng minh với Liên Xô chống phe trục, lại âm thầm liên lạc và trang bị vũ khí cho du kích quân ********* để quấy phá quân Nhật ở Đông dương làm cho thế lực của ********* gia tăng thêm. Đến khi Nhật đầu hàng đồng minh vào tháng 8, 1945, Hồ-chí-Minh cướp thời cơ dành lấy chính quyền ở Hà-nội, thành lập chánh phủ liên hiệp và tuyên bố Việt-nam độc lập. Khi bị tước khí giới, quân Nhật lại không chịu giao lại cho Pháp mà lại giao cho *********. 
    Pháp không chịu công nhận Việt-nam độc lập, nhưng lại mời Hồ chí Minh sang Pháp để thương thảo điều kiện để Pháp ở lại Đông dương, và dời chuyện trao trả độc lập đến 1947 sau khi trưng cầu ý dân. Đồng thời Pháp lại hổ trợ cho một nội các chống ********* được dựng lên ở Sàigòn, và còn có ý định lập một nước Nam Kỳ độc lập. Nhưng cuộc sống hòa bình gượng gạo với ********* không kéo dài được lâu. Tháng 11, 1946 một cuộc đụng độ võ trang Việt - Pháp ở Hải Phòng dẫn đến cuộc chiến tranh toàn Đông dương.
    Năm 1946, Pháp thuận cho Lào được độc lập trong Liên Hiệp Pháp và mở cuộc bầu cử dân biểu quốc hội. Một người trong gia đình Touby đắc cử vùng Xieng Khoảng, đó là Lý Foung Toulia. Họ tranh đấu để được đối xử bình đẳng như công dân Lào, và có đại diện trong hội đồng tỉnh. Và để tranh thủ mối lợi nha phiến Pháp đề cử Touby làm phó tỉnh trưởng Xieng Khoảng, từ đó y gia tăng ảnh hưởng của người Hmong trong chính quyền Lào.
    ********* cũng chú ý đến nguồn lợi nha phiến để mua vũ khí ở biên giới Tầu. Sản lượng thuốc phiện của một tỉnh có thể trang bị vũ khí cho một sư đoàn. Người ta ước tính là chỉ riêng năm 1947, trị giá của mùa thu hoạch nha phiến lên đến 400 triệu đồng bạc Đông dương, gần bằng với trị giá tổng số gạo xuất cảng của toàn Đông dương cùng năm. Vì thế Pháp đã bằng mọi giá phải kiểm soát được nguồn tài nguyên này, năm 1948, một nghị định của Cao ủy Đông dương cho phép người Hmong hầu như độc quyền trồng nha phiến ở Lào. 
     Cùng năm, Touby được đưa về Sàigòn để Phủ cao ủy giao công tác thành lập một lực lượng biệt động địa phương chống *********. Từ năm 1951 cho đến 1954, tư lệnh tối cao quân viễn chinh Pháp cho thi hành "chiến dịch X" để tài trợ trang bị các lực lượng người thiểu số. Phi cơ quân sự được lệnh chở thuốc phiện cuả người Hmong từ vùng đông bắc Lào về Sàigòn, giao cho Lê văn Viễn, tức Bảy Viễn, bấy giờ là Giám đốc Cảnh sát phân phối. Qua một thời gian ngắn đó, Touby đã nhận được khoảng 4 triệu đô-la cho lực lượng người Hmong. 
  2. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
     NGƯỜI MIÊU:LỊCH SỬ CỦA MỘT DÂN TỘC LƯU VONG
    G.C.M.A.​
    Cuối năm 1950, quân Pháp không còn kiểm soát nổi vùng biên giới Việt-Hoa sau những trận đánh đẫm máu với Việt-minh. Việt-minh quyết làm chủ mạn bắc là cốt mở rộng đường bộ để dễ dàng tiếp nhận viện trợ vũ khí từ c ộng sản Hoa lục, mà trước đây chỉ nhờ dân công chuyển qua đường rừng núi. 
    Việt-minh mở những trận phản công lại trùng với chiến cuộc Cao-ly, nên trước những đe dọa phối hợp của C ộng sản quốc tế, tổng thống Hoa Kỳ Truman ra lệnh viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông dương trong vòng 4 năm lên đến 3 tỷ đô-la để tiếp tục ngăn chận Việt-minh.
    Đầu năm 1950, đại tá Grall được Pháp bổ nhiệm chỉ huy một bộ phận hoạt động bí mật mang tên là GCMA (Groupement de Commandos Mixtes Aeroportes: Đội Biệt Động Dù) có 20 sĩ quan chuyên tuyển mộ, huấn luyện và trang bị cho nhiều toán du kích người sắc tộc thiểu số Đông dương, đặc biệt ở 4 khu: Bắc, Nam, Cao nguyên trung phần Việt nam và Lào. Đại tá Roger Trinquier phụ trách khu Lào. GCMA lại được điều khiển bởi Cơ quan Tình báo và Phản gián của Pháp ở Hải ngoại; tiền tài trợ dĩ nhiên là qua kinh tài ma túy. (CIA về sau cũng áp dụng y như vậy!). Toán du kích tân tuyển được đưa về Cap St. Jacques (Vũng Tàu) để huấn luyện. Touby cũng đã được huấn luyện tại đây để về lãnh đạo hệ thống du kích Hmong ở Phong Saly, Xieng Khoảng và Sầm Nứa.
     Trinquiner quyết gấp rút thành lập một lực lượng du kích ở tây bắc Lào để gây rối an toàn khu của Việt-minh tại Sip Song Chau Thai, phía tây Hắc giang và gần biên giới Việt-Lào. Y chọn Lo Quang Chao, tù trưởng Hmong ở Lào Kay sức vóc hơn người, mang bí danh là Sô-cô-la. Đến tháng 4 năm 1952,  GCMA ở Hà nội đã thả dù cho Lo 2.500 cây súng trường để đám này kiểm soát vùng Lào Kay và núi Hoàng Su Phi. Trinquiner hài lòng với những chiến công của Lo, đến nỗi y đồng hóa cấp Trung úy quân viễn chinh Pháp cho Lo, và truy tặng Anh dũng bội tinh bằng cách thả dù huy chương xuống căn cứ cho Lo Quang Chao. Lo tung hoành ở vùng biên giới Việt-Hoa một thời gian nhưng rốt cuộc bị giết chết vào tháng 8 năm 1953, và nhóm du lích của y tan rã 
    Tháng 4 năm 1953, ********* và Pathet Lào phối hợp chia thành hai gọng kìm tấn công Sầm Nứa và Luang Prabang, Faydang có mặt ở tuyến đầu. Pháp vội xây dựng phi trường dã chiến tại Cánh đồng Chum để tăng phái quân cơ động. Nhờ sự đưa tin hiệu quả của nhóm Hmong thuộc cánh Touby, và nay có thêm một phụ tá trẻ Vang Pao. Pháp đã đẩy lui được các cuộc tấn công của địch tại Lào, và ********* rút quân về lại Việt nam để tập trung vào chiến dịch Điện biên phủ.
    Vang Pao và Ảnh hưởng của Chú Sam​
    Pháp bị đại bại tại Điện biên phủ vào tháng 5 năm 1954, đưa đến hiệp định Geneva.  Pháp rút lui dần khỏi địa bàn Đông dương. Việt nam tạm bị chia cắt thành 2 miền theo vĩ tuyến 17. Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower cương quyết chận đứng sự lan tràn c ộng sản ở Đông Nam Á nên gia tăng viện trợ mọi mặt và gởi cố vấn sang các nước Thái lan, Nam Việt và Lào. Hoạt động của CIA cũng gia tăng không ngừng trong vùng để khuynh đảo các chính quyền địa phương, và đã đi vào con đường mà GCMA đã vẽ ra. 
    Quân Bắc Việt chỉ rút về một số, nhưng phần lớn ở lại Lào để gây dựng quân đội Lào c ộng (Neo Lao Hak Sat ), đưa đến việc tranh dành quyền lực với Hoàng gia Lào. Năm 1957, Lào c ộng được tham gia vào chính phủ liên hiệp Lào. Chính phủ này chỉ kéo dài được 8 tháng khi phe hữu làm đảo chánh và bắt giam đại biểu của Pathet Lào. Quân độ Bắc Việt liền chiếm  hết những tỉnh của Lào chạy dọc theo đường mòn Hồ-chí-Minh, và yểm trợ cho quân Lào c ộng trong cuộc chiến. Hoa Kỳ hậu thuẩn phe Hoàng gia.
    Cuối năm 1960, đại úy Kong Le của Quân đội hoàng gia, tự cho mình là trung lập,  làm đảo chánh với kỳ vọng chấm dứt được cuộc nội chiến, đã ra lệnh cho các lực lượng ngoại quốc phải rút ra khỏi lãnh thổ Lào. Chỉ vài tháng sau, cánh hữu được CIA ủng hộ lật đổ Kong Le, làm cho phe trung lập phải liên kết với Pathet Lào, lại đưa Lào vào chiến tranh. 
    Dù phe hữu nắm quyền ở Vientiane, nhưng luôn thất bại ở chiến trường, nên đến tháng 7 năm 1962, một chính phủ liên hiệp khác được thành lập gồm 3 thành phần do hoàng thân Souvana Phouma lãnh đạo. Phe c ộng không chịu đựng được sự khuynh đảo trắng trợn của Hoa Kỳ vào chính trường Lào, bất lợi cho họ nên đã rút vào rừng tiến hành vũ trang với sự tiếp tay của quân Bắc Việt. Cuộc chiến giằng co mãi làm Hoa kỳ sốt ruột, quyết định dội bom ồ ạt phe cộng trên Cánh đồng Chum từ 1968 cho đến 1972, nhưng chẳng làm nghiêng được cán cân. 
    Đến cuối năm 1972, Mỹ quyết định rút khỏi Lào và cả Đông dương. Thủ tướng Souvana Phouma vội thương thảo với Pathet Lào để thành lập chính phủ liên hiệp trong thế yếu vào ngày 21 tháng 2 năm 1973. Phe Pathet Lào tìm mọi cách chiếm ưu thế nên chiến tranh lại bộc phát từ 1974 cho đến 1975. Tháng 3 năm 1975 Pathet Lào và quân Bắc Việt mở các cuộc tấn công cuối vào các cứ điểm của quân Hoàng gia, dẫn đến chiến thắng hoàn toàn của phe c ộng vào tháng 8. Tháng 12, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào được thành lập do Souvanouvong làm chủ tịch, và bải bõ chế độ quân chủ ở Lào.
    Trong cuộc chiến ở Lào, phe có tử vong cao nhất lại là người Hmong, có lẽ đến 1/3 dân số Miêu tộc, và 1/2 số trai tráng trên 15 tuổi đã bị hy sinh. Số phận của họ đều nằm trong tay một người phụ tá của Ly Foung Touby vốn là một cậu bé chạy giấy cho lính biệt động Tây, rồi lên chức đội cò và theo thời gian với chiến cuộc gia tăng đã leo lên đến cấp tướng trong quân đội hoàng gia Lào, đó là Vang Pao.
    Suy Ngẫm​
    Đọc lịch sử nổi trôi của một bộ tộc suốt mấy ngàn năm, đã từng một thời chen vai thích cánh với các sắc dân khác ở Trung quốc. Nhưng đã không may thất thổ rồi mai một trước tham vọng bành trướng của Hoa tộc mà trở nên một sắc tộc miền núi, sống đậu vào các nước khác ở Đông Nam Á. Luật đào thải tự nhiên luôn luôn là nguyên lý. Mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, nước lớn luôn tìm cách thôn tính nước bé. Một khi sức tự cường của một dân tộc không còn thì sự tồn vong chắc là chóng mai một. 
     Tìm hiểu lịch sử để chúng ta phải thấm sâu ơn nghĩa đối với tổ tiên Hồng Lạc, qua bao đời đã không chịu khuất phục trước mọi kẻ thù của dân tộc gần và xa. Bọn xâm lăng này, ngày nay tinh vi hơn ngụy trang dưới nhiều lớp áo vẫn không ngừng chực chờ cơ hội để xâu xé và ngay cả âm mưu xóa tên Việt Nam khỏi bản đồ thế giới. Cha ông ta, qua bao đời đã kiên cường liên tục đánh đuổi lũ xâm lược to lớn gấp trăm lần để cho con cháu vui hưởng độc lập. Hậu duệ có quên được điều đó chăng?
    [​IMG]  Trần Trúc-Lâm  Tháng Giêng, 1999  Mùa Giổ Tổ Hùng Vương
    Tài liệu tham khảo[​IMG]1. Cultural Atlas of China, Caroline Blunden, Mark Elvin - Facts on File, Inc. N.Y. 1983. 2.  A Short History of the Chinese, Mary A. Nourse - 3rd E***ion, The New York Library,  N.Y.  1943. 3. Trung Hoa Sử Cương, Đào Duy Anh - Xuất Bản Bốn Phương, 1942. 4. Hmong - History of a People, Keith Quincy, EWU Press, 2nd E***ion, 1995. 5. Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim - CSXB Đại Nam tái bản 1971. 6. Microsoft Encarta 97 Encyclopedia CD, Microsoft Corporation.
  3. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Người Hmong tại Lào và khu Tam Giác Vàng
    Lược bỏ đoạn một đoạn kể về lịch sử người Hmong từ khoảng 3000 trước TL đến 1200 trước TL đến thời điểm phù hợp với khoảng thời gian của topic
    Sau khi ký hiệp ước bảo hộ miền Bắc và miền Trung năm 1884, Pháp tiến vào các vùng rừng núi phía Tây Bắc Việt Nam thám hiểm và mở rộng lãnh thổ. Năm 1893 vương quốc Lào được Pháp khai sinh, quân Hồ và quân Xiêm bị đánh đuổi ra khỏi vùng đất bảo hộ. Ðể giản dị hóa việc bảo hộ, Pháp giao cho người Lào cai trị tất cả các sắc tộc miền núi, điều này không làm người Hmong vừa lòng vì từ trước đến đến nay quen sống độc lập và chỉ hợp tác với các nhóm người Hoa. Năm 1918, Pachai Vu, một thủ lãnh Hmong trắng tại Bắc Lào nổi lên chống lại người Lào và bị dập tắt trong máu lửa. Lo ngại vương quốc Lào bị tan vỡ, năm 1920 Pháp giao cho Lo Bliayao quyền cai quản huyện Nong Het, tỉnh Xieng Khoan, nơi người Hmong trắng tập trung đông nhất. Nong Het, nằm trên cánh đồng Chum, có một vị thế chiến lược quan trọng tại Bắc Ðông Dương, nối liền Vinh và Luang Prabang bởi quốc lộ 7.
    Nong Het quá lớn và quá đông dân, Lo Bliayao không đảm nhiệm nổi đã mời Tougeu Lyfung, một lãnh tụ Hmong khác, cộng tác. Lo Bliayao cai quản hạt Kengkhoai và Tougeu Lyfung hạt Phac Boun. Năm 1935 Lo Bliayao qua đời, Tougeu Lyfung trở thành người có quyền lực nhất tại Xieng Khoan. Tháng 9-1939, đến lượt Lyfung qua đời, con của ông là Touby Lyfung và con của Lo Bliayao là Faydang tranh quyền lãnh đạo Nong Het. Cuối cùng Touby Lyfung được Pháp nhìn nhận là người lãnh đạo chính thức cộng đồng người Hmong tại Xieng Khoan; Faydang rút vào bóng tối hợp tác với hoàng gia Lào và các phe chống đối khác.
    Touby Lyfung đã tỏ ra trung thành với Pháp với hy vọng được cho hưởng quy chế tự trị, ông đã toại nguyện. Ðể có tiền mở trường học, xây bệnh xá và đào tạo cán sự hành chánh nhằm nâng cao dân trí và mức sống người Hmong, Touby Lyfung tăng thuế và cho dân trả bằng thuốc phiện. Biện pháp này làm mức sản xuất thuốc phiện tại Xieng Khoan tăng cao, Touby Lyfung là người Hmong duy nhất được kết nạp làm hội viên danh dự ủy Ban Mua Thuốc Phiện của Pháp. Trong cuộc chiến tranh Ðông Dương lần thứ nhất (1945-1954), người Hmong dưới sự lãnh đạo của ông theo Pháp đánh quân ********* trên khắp các chiến trường tại Lào. Ðể tạ ơn, năm 1947 Touby Lyfung được vua Sisavangvong phong tước Phagna, một tước danh dự dành riêng cho những người không thuộc hoàng gia Lào (trong lịch sử của người Hmong tại Lào, chỉ có ba người được phong tước Phagna là Tougeu Lyfung, Touby Lyfung và Vang Pao) và cộng đồng người Hmong được nhìn nhận là thần dân của vương quốc Lào (điều 4, hiến pháp 14-9-1949).
    Sau hiệp định Genève 1954, người Hmong tại Lào bị lôi kéo vào cuộc tranh chấp ý thức hệ quốc gia và c ộng sản. Faydang theo hoàng thân Souphanouvong và Pathet Lào, được ********* yểm trợ. Touby Lyfung theo vua Sisavangvong, được Hoa Kỳ đỡ đầu. Năm 1960, Touby Lyfung giữ chức bộ trưởng bộ tư pháp, những người Hmong theo ông giữ nhiều chức vụ cao trong chính quyền và quân đội Lào.
    Nhưng những biến động chính trị và quân sự sau đó làm suy yếu chính quyền trung ương Lào (chính phủ trung lập bị giải tán tháng 7-1958; phe Pathet Lào rút về vùng Ðông Bắc tháng 7-1959; đại úy Khong Le đảo chánh ngày 9-8-1960; chính phủ trung lập gồm ba thành phần thành lập ngày 23-7-1962 bị tan vỡ ngày 19-4-1964...), Hoa Kỳ cần một loại người khác đủ khả năng chống lại sự xâm nhập người và vũ khí của phe c ộng sản từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam trên đất Lào. Người Hmong trắng, một sắc dân thiện chiến trên vùng rừng núi, được Hoa Kỳ chú ý. Năm 1959, một sĩ quan nhảy dù do Pháp đào tạo, Vang Pao (sinh năm 1931), làm chỉ huy trưởng tiểu đoàn 10 bộ binh trên Cánh Ðồng Chum. Trong chức vụ này, Vang Pao đã tỏ ra có khả năng và trở thành một lãnh tụ chống c ộng được cơ quan tình báo CIA Mỹ nhiệt tình nâng đỡ. Từ 1961 trở đi, các phái đoàn quân sự và nhân viên tình báo CIA thành lập nhiều đội dân phòng Hmong (HADC-Hmong Auto Defense d''Choc) và đơn vị du kích (HSGU-Hmong Special Guerilla Unit) giúp Hoa Kỳ truy tìm và phá hủy các căn cứ của quân c ộng sản. Cho đến 1975, có hơn 30.000 tay súng Hmong đứng dưới cờ hoàng gia Lào (và Mỹ) đánh lại quân c ộng sản. Những cuộc giao tranh trên bộ tại Lào phần lớn chỉ xảy ra giữa người Hmong và quân c ộng sản miền Bắc Việt Nam; quân đội hoàng gia và Pathet Lào chỉ làm nhiệm vụ canh gác.
    Trong cuộc chiến tại Lào (1960-1975), Thái Lan cũng có một vai trò tích cực. Cảnh sát biên phòng Thái và các toán biệt kích Mỹ đào tạo dân làng Hmong cách sử dụng mìn bẫy và võ khí tự động. Thanh niên Hmong được đưa sang Thái Lan huấn luyện quân sự tại Phitsanulok và Nam Pung Dam. Chỉ về sau, khi cuộc chiến leo thang, người Hmong mới được huấn luyện trực tiếp tại hai căn cứ Sam Thong và Long Tieng trên Cánh Ðồng Chum. Các lực lượng Hmong được đưa về bảo vệ đế đô Luang Prabang và các thôn làng dọc vùng biên giới giáp ranh với Việt Nam tại Xieng Khoan, Hua Phan, Sam Nua và Kham Muon. Vào lúc cao điểm nhất của cuộc chiến (năm 1971), Hoa Kỳ phải tuyển mộ thêm người Hmong tại Thái Lan để bổ sung quân số. Người Nùng tại miền Nam Việt Nam cũng được tuyển sang cao nguyên Boloven chiến đấu. Những binh sĩ sắc tộc này gây nhiều thiệt hại cho quân đội miền Bắc trên các đường mòn Hồ Chí Minh và Sihanouk.
    Cuộc chiến tại Lào tuy ít được dư luận quốc tế biết đến nhưng cường độ không thua gì tại Việt Nam. Cánh đồng Chum, đường số 7 và 9 nối liền Luang Prabang với Vinh và Tchépone với Khe Sanh là những chiến trường đẫm máu, số bộ đội Bắc Việt chết vì bom đạn tại đây cũng nhiều bằng ở miền Nam Việt Nam. Tổng kết cuộc chiến tại Lào tháng 12-1975, hơn 200.000 phi vụ dội trên 2 triệu tấn bom xuống các vùng rừng núi làm 700.000 người sắc tộc (2/3 dân số) phải rời nơi cư trú về miền xuôi lánh nạn. Người Hmong có lẽ là cộng đồng chịu nhiều thiệt hại hơn hết: trên 35.000 người Hmong (trên tổng số 400.000) đã bị thiệt mạng, hơn phân nửa là binh lính; 250.000 người phải rời nơi cư trú trên miền núi về đồng bằng năm 1965 để không quân Hoa Kỳ tự do oanh tạc; canh tác nông nghiệp và nghề trồng cây á phiện bị đình trệ. Ðầu năm 1976, khoảng 400.000 người Lào đã vượt sông Mékong sang Thái Lan tị nạn, trong đó có hơn 200.000 người Hmong và 30.000 người Kha (người Thượng hay Lao Theung theo tiếng Lào). Năm 1985, gần 325.000 người Lào đã được Hoa Kỳ và các quốc gia phương Tây khác nhận vào định cư, trong đó có khoảng 180.000 người Hmong (160.000 tại Hoa Kỳ, 10.700 tại Pháp và 1.300 tại Guyane thuộc Pháp, số còn lại tại Úc, New Zealand và Canada).
    Sau 1975, CIA vẫn tiếp tục yểm trợ người Hmong chống lại quân Pathet Lào và bộ đội Việt Nam cho tới cuối thập niên 1980. Một vài binh sĩ Hoa Kỳ đào ngũ (bị coi là mất tích-MIA) đã ở lại miền Bắc Lào tham gia phong trào buôn ma túy. Trong các trại tị nạn, những binh sĩ Hmong rã ngũ được Khun Sa, trùm buôn lậu thuốc phiện trên khu Tam Giác Vàng, tuyển dụng. Năm 1981 hơn 24.000 người Hmong đã rời Thái Lan về lại quê cũ sinh sống. Hiện nay không còn người Hmong nào trong các trại tị nạn, tất cả đều về lại quê cũ, tình nguyện hay cưỡng bách.
    Người Hmong về lại Lào bị chỉ định cư trú tại tỉnh Kham Muon để dễ kiểm soát. Tuy vậy cũng có một số người về lại Xieng Khoan và Hua Phan sinh sống. Ðời sống quá nghèo khổ buộc người Hmong canh tác cây á phiện cung cấp cho các tổ chức buôn lậu dọc các vùng biên giới. Thuốc phiện do người Hmong sản xuất tại Lào rất được giới buôn bán và tiêu thụ ưa chuộng vì có chất lượng tốt. Một cơ hội lớn đối với người Hmong là các trung tâm sản xuất ma túy lớn như tại Trung Mỹ, Trung Ðông, Afghanistan, Thái Lan và Miến Ðiện bị cơ quan bài trừ ma túy và ngăn người tội ác (ODCCP) của Liên Hiệp Quốc kiểm soát gắt gao trong khi nhu cầu tiêu thụ ma túy không suy giảm, địa bàn sản xuất thuộc phiện của người Hmong tại Bắc Lào càng được các tổ chức buôn lậu chiếu cố vì chưa bị kiểm soát. Khu Tam Giác Vàng cho tới nay vẫn còn là một vùng đầy bí hiểm.
    Nhưng làm sao chuyển lượng thuốc phiện sản xuất từ khu Tam Giác Vàng xuống đồng bằng và xuất khẩu sang các quốc gia tiêu thụ khác? Ðó là bài toán mà các tổ chức buôn lậu thuốc phiện đang tìm giải pháp và cũng là vấn đề mà cơ quan bài trừ ma túy quốc tế đang tìm cách phá vỡ. Những biến động gần đây tại Lào giải thích phần nào những cố gắng đó.
  4. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Người Hmong tại Lào và khu Tam Giác Vàng
    Khu Tam Giác Vàng
    Từ sau 1945, chiến cuộc tại Lào và miền Bắc Việt Nam leo thang, người Hmong bị lôi kéo vào cuộc chiến và địa bàn sinh sống của họ trở nên bất an. Một biến cố lớn làm bùng lên phong trào buôn bán thuốc phiện là sự xuất diện của tàn quân Quốc Dân Ðảng Trung Hoa năm 1950, nghề canh tác cây á phiện chuyển qua Thái Lan và Miến Ðiện.
    Tháng 10-1949, Quốc Dân Ðảng Trung Hoa bị phe c ộng sản đánh bật ra khỏi lãnh thổ. Thành phần chủ lực theo Tưởng Giới Thạch ra đảo Ðài Loan lập căn cứ, số còn lại chạy về phía Nam trốn trong những vùng rừng núi giáp ranh với Miến Ðiện, Thái Lan và Lào dựng lập chiến khu. Ðược CIA yểm trợ, tàn quân Quốc Dân Ðảng tuyển mộ và huấn luyện các sắc dân thiểu số chống lại quân c ộng sản tại Hoa Lục. Năm 1951, Quốc Dân Ðảng tại đây có hơn 4.000 tay súng, năm 1952 tăng lên 30.000. Nhưng, vì được tuyển mộ một cách gấp rút và thiếu kinh nghiệm chiến đấu, những tân binh này không chống cự lại bộ đội c ộng sản Trung Quốc, có lý tưởng và có kỷ luật chiến đấu hơn. Kết quả: hơn 16.000 người bị giết, số còn lại phân rã thành nhiều nhóm nhỏ ẩn náu trong dân. Với thời gian, ý chí khôi phục lục địa phai dần, các đám tàn Quốc Dân Ðảng trở thành những băng đảng sinh sống bằng nghề buôn bán thuốc phiện.
    Sự hiện diện của tàn quân Quốc Dân Ðảng làm thay đổi toàn bộ sinh hoạt của các sắc dân trong vùng và biến nơi đây thành một trong những trung tâm sản xuất thuốc phiện lớn nhất và khó bài trừ nhất thế giới. Thuốc phiện thành một nguồn lợi lớn, giá đắt như vàng nên từ thập niên 1950 khu vực biên giới phía Bắc ba nước Lào, Thái Lan và Miến Ðiện có biệt danh là khu Tam Giác Vàng. Mỗi năm khu này cung cấp trên 4.000 tấn thuốc phiện hay 335 tấn heroin tinh chế. Theo số liệu do tổ chức bài trừ ma túy Hoa Kỳ, trong năm 1990 chỉ riêng một mình Miến Ðiện đã sản xuất gần phân nửa số thuốc phiện tiêu thụ trên toàn thế giới: 2.365 tấn hay 197 tấn heroin, sản lượng thuốc phiện hiện càng tăng lên gấp nhiều lần.
    Miến Ðiện hay Myanmar (48,1 triệu dân) là một liên bang gồm 7 tiểu bang người Miến (Mang hay Birman) và 7 tiểu quốc sắc tộc: Kachin (một triệu), Shan (2,5 triệu), Kayah (1,2 triệu), Karen (3 triệu), Môn (một triệu), Arakan (1,3 triệu) và Chin (800.000). Những sắc tộc này, trừ người Arakan (gốc Ấn Ðộ) sinh sống dọc bờ biển, đều có liên quan không nhiều thì ít đến sản xuất hay áp tải thuốc phiện. Người Karen và Môn tuy không sản xuất thuốc phiện nhưng là những nhóm áp tải và vận chuyển thuốc phiện có thế lực nhất xuống vùng biển để sau đó xuất khẩu sang các quốc gia khác. Người Shan gần như nắm độc quyền về nghề sản xuất thuốc phiện vì nơi sinh trú, ở cao độ từ 500 đến 1.500 mét, rất thuận lợi cho nghề trồng cây á phiện. Nhưng quan trọng nhất là các nhóm người Hoa tại Kokang, tuy chỉ có một dân số trên dưới một triệu người nhưng từ khi liên kết với lực lượng Quốc Dân Ðảng trở thành nhóm chủ chốt trong việc phân phối thuốc phiện từ miền núi xuống đồng bằng.
    Trước nguồn lợi quá lớn do thuộc phiện mang lại, chính phủ quân sự gồm toàn người Mang tại Rangoon cũng không bỏ lỡ cơ hội. Từ sau 1950, quân đội Miến đã nhiều lần tiến vào khu Tam Giác Vàng đánh quân Quốc Dân Ðảng nhưng đều thảm bại. Năm 1954, Rangoon yêu cầu Liên Hiệp Quốc buộc Ðài Loan rút quân về nước, không thành công; năm 1960 hợp tác với Trung Quốc đánh đuổi các lực lượng Quốc Dân Ðảng ẩn náu dọc biên giới, không kết quả. Năm 1965, Rangoon thay đổi chiến lược bằng các thành lập những đội dân phòng người sắc tộc (Kha Kwe Yei) để cạnh tranh với những đội áp tải do Quốc Dân Ðảng đỡ đầu. Biện pháp mới này không ngờ mang lại hiệu quả, các đội dân phòng được quân đội bảo vệ áp tải thuốc phiện từ cao nguyên xuống đồng bằng một cách an toàn. Năm 1973, các đội dân phòng được trang bị như quân đội chính quy trở thành các đội dân quân du kích (Pyi Thu Sit) để tránh tai tiếng cho quân đội.
    Cùng với chiến dịch loại trừ tàn quân Quốc Dân Ðảng năm 1950, Rangoon muốn chiếm luôn địa bàn sản xuất thuốc phiện bằng cách hạn chế thế lực của các lãnh chúa (sahopa) người Shan, đồng minh của Quốc Dân Ðảng. Shan là một sắc tộc lớn gốc Thái, sinh sống trong thung lũng sông Salween giữa tỉnh Vân Nam và Thái Lan. Trước biện pháp mới này, người Shan đe dọa tách khỏi liên bang, Rangoon phải nhượng bộ năm 1958 nhưng đồng thuận quốc gia đã mất. Một tướng người Shan, Sao Gnar Kham, thành lập quân đội riêng năm 1956, cùng những lãnh chúa Shan khác tiếp tục quản trị vùng đất rộng lớn miền Ðông Bắc và liên kết với các lực lượng Quốc Dân Ðảng, được Bangkok đỡ đầu, chống lại Rangoon. Làng Ban Hin Taek, tỉnh Chieng Rai (Thái Lan) trở thành đại bản doanh của quân đội Shan. Năm 1962, các nhóm võ trang Quốc Dân Ðảng và Shan tôn Moh Heng, một người Hoa tại Kokang, lãnh đạo cuộc kháng chiến. Thay vì chống lại Rangoon, năm 1964 những nhóm này kết hợp lại thành hai đạo quân lớn tại tỉnh Chieng Mai (Thái Lan) để bảo vệ các vùng canh tác và áp tải thuốc phiện xuống đồng bằng: Ðạo quân thứ 3 do tướng Li Wen Huan chỉ huy, bộ tham mưu đặt tại làng Feng và Ðạo quân thứ 5 do tướng Duan Shi Wen lãnh đạo, bộ chỉ huy đóng tại làng Mae Salong.
    Lợi tức do buôn bán thuốc phiện quá hấp dẫn, những nhóm sắc tộc nhỏ hơn cũng tham gia phong trào buôn lậu. Năm 1950, Trung Quốc giúp người Kachin thành lập Mặt Trận Nhân Dân, trang bị hơn 6.000 tay súng chống lại tàn quân Quốc Dân Ðảng. Bắc Kinh bị hố to, với số lượng vũ khí có được, các nhóm võ trang Kachin hợp tác với Quốc Dân Ðảng sản xuất và áp tải thuốc phiện. Những nhóm nhỏ hơn như người Pao (200.000 dân), người Wa (500.000 dân), người Paluang (200.000 dân), người Lahu (100.000 dân) cũng thành lập những lực lượng võ trang riêng để được Quốc dân Ðảng và người Shan chia phần.
    Miền Ðông Bắc Miến Ðiện trở thành vùng đất vô chính phủ, mỗi sắc tộc, mỗi làng đều có một lực lượng võ trang riêng. Ai cũng muốn chiếm phần lợi về phía mình, những nhóm nhỏ kết hợp với những nhóm lớn để trở thành những liên minh lớn hơn, qua đó được chia phần nhiều hơn. Nhóm nào chịu đặt dưới sự chỉ đạo của Quốc Dân Ðảng thì trở nên mạnh nhất. Trong thấp niên 1960 có bốn nhóm được coi là mạnh lớn nhất , đó là lực lượng võ trang Shanê, những chiến sĩ trẻ can trường , đạo quân thứ 3 và đạo quân thứ 5 của Quốc Dân Ðảng. Tranh chấp võ trang và thanh toán nội bộ giữa các nhóm và lãnh tụ sắc tộc cũng xảy ra thường xuyên. Thủ lãnh Sao Gnar Kham bị Quốc Dân Ðảng ám sát tại Thái Lan năm 1964 sau một vụ chia chác không đồng đều. Năm 1966, Moh Heng rời lực lượng võ trang Shan để thành lập lực lượng cách mạng thống nhất dưới quyền điều động của Ðạo quân thứ 3 của tướng Li Wen Huan; Lo Hsing Han dẫn lực lượng Kokang theo Ðạo quân thứ 5 phò tướng Duan Shi Wen (Lo Hsing Han sản xuất heroin 999 tinh chất nhất Ðông Nam Á); những chiến sĩ trẻ can đảm rủ người Lahu phục vụ tướng Naw Seng vùng Ðông Bắc, v.v...
    Sự phân công trên khu Tam Giác Vàng cũng khá rõ ràng: các nhóm sắc tộc lớn nhỏ sản xuất thuốc phiện nguyên chất bán lại cho những nhóm lớn chế biến lại thành heroin rồi giao cho các đội võ trang thuộc các sắc tộc khác áp tải thuốc phiện về đồng bằng bán lại cho các đường dây buôn lậu để tiêu thụ tại chỗ hay xuất khẩu. Việc phân phối thuốc phiện và heroin tại đồng bằng hay trong các thành phố lớn đều do các băng đảng xã hội đen được Quốc Dân Ðảng hải ngoại đỡ đầu nắm giữ. Trái với lầm tưởng của nhiều người, những băng đảng xã hội đen của tại Hồng Kông và Ma Cao không là gì so với những tổ chức mafia của Quốc Dân Ðản, họ có lý tưởng hơn nhưng cũng tàn bạo hơn. Giá cả, thị trường và dịch vụ phân phối thuốc phiện tại Ðông Nam Á, kể cả tại Trung Quốc, cũng do những tổ chức xã hội đen này định đoạt.
    Nguồn thuốc phiện trong khu Tam Giác Vàng phân phối ở đâu? Ðó là câu hỏi mà các tổ chức bài trừ ma túy và ngăn ngừa tội ác quốc tế đang tìm ra manh mối. Trong thực tế, lượng thuốc phiện và heroin do các nhóm võ trang mang về đồng bằng giao cho các băng đảng xã hội đen được phân tán qua hàng ngàn công ty buôn sỉ và bán lẻ lớn nhỏ của người Hoa khắp vùng Ðông Nam Á, dưới đủ mọi hình thức, để tiêu thụ tại chỗ hay xuất khẩu sang Châu Â và Hoa Kỳ, qua trung gian những hãng tàu đi biển và công ty xuất nhập khẩu hàng hóa vô thưởng vô phạt tại những quốc gia không dính líu gì đến thuốc phiện. Số tiền thu được, sau khi trừ mọi phí tổn, được hợp thức hóa trong một hệ thống chằng chịt những ngân hàng do người Ðài Loan và người Hoa tại Ðông Nam á làm chủ, sau đó chuyển vào quỹ của Quốc Dân Ðảng một cách an toàn, rất khó tìm ra đầu mối.
    Hệ thống ngân hàng OCBC (Overseas Chinese Banking Corporation) của Ðài Loan và Liên Phòng Thương Mại và Kỹ Nghệ phụ trách trục Philippines-Ðài Loan và Singapore-Malaysia-Indonesia thống lãnh các nguồn tài chánh tại Ðông Nam á. Ðó là chưa kể nhiều ngân hàng khác, dưới quyền điều khiển của Ðài Loan, như Overseas Union Bank, Bangkok Bank, v.v... tham gia chia chác thị trường. Cũng nên biết người Hoa nắm trong tay 90% kinh tế Thái Lan, 80% kinh tế Indonesia, 60% kinh tế Mã Lai, 40% kinh tế Philippines và làm chủ 12 trên tổng số 26 ngân hàng của nước này.
    Sau chiến tranh Việt Nam, các nhóm buôn lậu thuốc phiện trong khu Tam Giác Vàng mất độc quyền sản xuất và áp tải thuốc phiện về tay Khun Sa, một ngôi sao mới xuất hiện trên vòm trời Tam Giác Vàng. Tuy vậy các băng đảng xã hội đen do Quốc Dân Ðảng đỡ đầu vẫn độc quyền phân phối thuốc phiện đi khắp thế giới, Khun Sa cũng chỉ là người sản xuất cung cấp mà thôi.
  5. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Người Hmong tại Lào và khu Tam Giác Vàng
    Khun Sa, trùm buôn lậu
    Trước sự chia rẽ và tranh chấp lẫn nhau giữa các nhóm buôn bán thuốc phiện, năm 1965 Khun Sa kết hợp những nhóm võ trang nhỏ lại một khối lớn hơn chống lại Quốc Dân Ðảng trong khu Tam Giác Vàng.
    Khun Sa tên thật là Lo Chang, là một người Shan gốc Hoa tại Kokang (tên Miến là Kwan Kywa, tên Hoa là Ki Yan), sinh năm 1932 tại làng Loi Maw, huyện Mong Yai, Miến Ðiện. Ðể tạo cho mình một huyền thoại riêng, năm 1950 Lo Chang tự xưng là Chang Chi Fu khi gia nhập vào lực lượng Quốc Dân Ðảng địa phương thuộc đạo quân thứ 3 do tướng Li Wen Huan chỉ huy. Năm 1958, Chang Chi Fu rời Quốc Dân Ðảng để gia nhập lực lượng võ trang thống nhất chống chủ nghĩa xã hội của người Shan, một tổ chức du kích địa phương nhỏ, rồi từ đó vận động người Haw (người Hoa theo đạo Hồi tại Vân Nam di cư vào miền Bắc Miến Ðiện và Thái Lan từ 1949 đến 1952, khoảng 50.000 người) và binh sĩ Hmong tại Lào thành lập một lực lượng buôn thuốc phiện riêng do ông lãnh đạo. Thế lực của Lo Chang ngày càng lớn mạnh và áp đảo các tổ chức do Quốc Dân Ðảng đỡ đầu và chiếm lĩnh toàn bộ thị trường buôn bán thuốc phiện vùng Bắc Thái Lan và Lào. Trước thế lực mới đang lên này, lực lượng võ trang Shan bực mình trước sự chèn ép của Quốc Dân Ðảng gia nhập tổ chức của Chang Chi Fu .
    Năm 1969, trên đường áp tải thuốc phiện, Chang Chi Fu bị cảnh sát Miến Ðiện bắt. Ðệ tử của ông bắt cóc hai bác sĩ Liên Xô làm việc tại miền Bắc Miến Ðiện để chuộc Chang Chi Fu. Ra khỏi tù năm 1973, Chang Chi Fu tự xưng là Khun Sa (Khun là một tước vị quí tộc nhỏ của người Thái, Sa là ông Trùm; người Shan gọi ông là Sao Mong Khawn, người Miến là Khun Yo) và đặt tên tổ chức mới của ông thành lực lượng thống nhất Shan (SUA-Shan''s Unify Army) cho có vẻ dân tộc. Tổ chức mới này không ngừng lớn mạnh, các lực lượng võ trang người Lahu, Wa và Pao, kể cả đảng c ộng sản Miến Ðiện, đều xin gia nhập để được bảo vệ khi bị phe Quốc Dân Ðảng tấn công trên đường áp tải.
    Thế lực của Khun Sa lên tột đỉnh khi tuyển mộ được những biệt kích Hmong từ Lào sang Thái Lan tị nạn năm 1976. Từ đó Khun Sa trở thành nhân vật mạnh nhất và là người được kính nể nhất trong giới buôn bán thuốc phiện tại Tam Giác Vàng. Cơ quan CIA còn giúp lực lượng Khun Sa tổ chức những cuộc đột kích vào đất Lào tìm kiếm người Mỹ mất tích và móc nối với những người Hmong khác. Quân đội của các chính quyền Rangoon và Bangkok chỉ bao vây hoặc canh chừng từ phía xa các căn cứ địa của Khun Sa trên Tam Giác Vàng chứ không dám đến gần.
    Với lực lượng mới này, năm 1977 Khun Sa đánh chiếm đại bản doanh của người Hoa tại Kokang, đạo quân thứ 5 do Duan Shi Wen chỉ huy tại Mae Hongson và của lực lượng chiến sĩ trẻ can trường tại Ban Hin Tek trên đất Thái Lan. Các đạo quân thứ 3 và thứ 5 cùng những tổ chức vệ tinh bị mất phần lớn địa bàn sản xuất thuốc phiện chạy xuống miền Tây Nam Thái Lan kết hợp với tướng To Lao chỉ huy trưởng sư đoàn 93 Quốc Dân Ðảng, bản doanh đặt tại Kanchanaburi từ 1957 trên lãnh thổ người Môn, gần đèo Ba Chùa (Tam Tự ải). Sư đoàn 93 sinh sống bằng nghề buôn lậu và áp tải thuốc phiện, đá quí và gỗ rừng từ Miến Ðiện qua Thái Lan, bán lại cho các công ty người Hoa. Năm 1980 quân đội Miến đẩy lùi sư đoàn 93 về biên giới Thái Lan, To Lao kết hợp người Môn thành lập quốc gia Môn tự trị trên đất Thái, thủ đô đặt tại Prachuab Kiridan, để độc quyền chuyến thuốc phiện ra biển Aman và vịnh Thái Lan.
    Nhờ số tiền khổng lồ thu được do buôn bán thuốc phiện, Khun Sa mua chuộc gần hết chính giới và quân đội Thái Lan và Miến Ðiện để được dễ dàng trên đường áp tải hàng xuống đồng bằng. Cũng nhờ số tiền đó, lực lượng võ trang của Khun Sa được trang bị những loại vũ khí tối tân nhất (máy bay trực thăng, hệ thống radar, truyền tin, phòng không, chống chiến xa và các phòng y tế dã chiến) mua lại từ các kho vũ khí của Thái Lan và Ðài Loan, vũ khí cá nhân mua trực tiếp từ Trung Quốc do các tổ chức buôn lậu khác cung cấp. Tổng số binh sĩ dưới trướng Khan Sa có trên 30.000 người, đó là chưa kể gần một triệu người gồm đủ mọi sắc tộc được ông che chở và nuôi dưỡng.
    Vấn đề của Khun Sa là làm sao tiêu thụ số lượng thuốc phiện (nha phiến và heroin) khổng lồ do hơn 20 nhà máy chế biển sản xuất ra. Cơ hội đã đến khi người Karen và Môn xung đột với nhau năm 1983 buộc quân đội Thái Lan và Miến Ðiện ra tay can thiệp, con đường áp tải thuốc phiện ra biển bị bỏ trống. Các nhóm võ trang Karen tấn công các đoàn áp tải thuốc phiện của người Môn từ Miến Ðiện qua Thái Lan cho Quốc Dân Ðảng tại đèo Ba Chùa (Tam Tự Ðèo) trên bán đảo Mã Lai. Người Karen tố cáo người Môn không trả tiền mãi lộ xứng đáng và không biết ơn họ đã bảo vệ chống lại quân Miến Ðiện khi bị tấn công hồi đầu thập niên 1980. Khun Sa cùng với các lực lượng võ trang người Shan, người Haw và người Wa kết hợp với các sắc tộc nhỏ hơn như người Pao, người Kayan và Kerenni, mở một con đường khác từ Tam Giác Vàng xuống vịnh Thái Lan và biển Aman, hai bên bán đảo Mã Lai. Ðảng c ộng sản Miến Ðiện (mất nguồn tài trợ của Trung Quốc) cũng nhân cơ hội mở một con đường khác từ Mae Hongson xuống đồng bằng buôn lậu thuốc phiện và mua hàng hóa điện tử bán cho Trung Quốc.
    Trước sự lộng hành này, chính quyền Rangoon đưa ba sư đoàn bộ binh nhẹ (sư đoàn 88 tại Kentung, sư đoàn 77 tại Mong Hsu và sư đoàn 99 tại Lasho) lên cao nguyên Shan ngăn chặn đường dây buôn lậu của Khun Sa nhưng tất cả đều bị mua chuộc để bất động, nguồn thuốc phiện vẫn được sản xuất bình thường và đưa xuống đồng bằng một cách đều đặn. Năm 1982, Bangkok dẫn đại quân tấn công bản doanh của Khun Sa tại Ban Hin Taek, tỉnh Cheng Rai. Quân Khun Sa chống trả không lại, rút qua biên giới Miến Ðiện. Tại đây Khun Sa, một mặt, kết hợp với lực lượng võ trang Kachin và đảng c ộng sản Miến (cả hai lực lượng này cung cấp 70% lượng thuốc phiện tại Miến) phòng thủ lãnh địa mới và, mặt khác, mở một rộng địa bàn sản xuất tại Lào do người Hmong phụ trách. Năm 1984, tất cả các tổ chức lớn nhỏ liên quan đến việc buôn bán hay áp tải thuốc phiện trong khu Tam Giác Vàng đều đặt dưới quyền của ông. Ðể thách thức dư luận quốc tế, Khun Sa mời phóng viên các đài truyền hình lớn quốc tế vào bản doanh của ông làm phóng sự.
    Hoa Kỳ và Việt Nam nhập cuộc
    Thế lực ngày càng lớn của Khun Sa khiến chính phủ Hoa Kỳ lo ngại. Sau khi kềm chế những trung tâm sản xuất cocaine lớn tại Trung Mỹ (Nicaragua, Venezuela, Bolivie và Colombie) cuối thập niên 1980, số lượng ma túy đưa lén vào Hoa Kỳ vẫn không thuyên giảm. Nguồn bạch phiến (heroin) từ khu Tam Giác Vàng do các tổ chức buôn lậu đưa vào Hoa Kỳ và Châu Âu tiếp tục tràn ngập các thị trường tiêu thụ bù đắp lượng ma túy từ Trung Mỹ bị chặn đứng. Ðây là một vấn nạn lớn, không quốc gia sản xuất hay tiêu thụ nào có thể giải quyết một mình vì tất cả đều là nạn nhân.
    Hoa Kỳ đã tỏ ra tích cực trong việc bài trừ ma túy vì quyền lợi và sức khỏe của dân chúng Mỹ đang bị đe dọa. Từ đầu thập niên 1980 đến nay, Hoa Kỳ đã hợp tác chặt chẽ với các chính quyền Miến Ðiện và Thái Lan trong việc bài trừ ma túy. Số lượng ma túy sản xuất từ hai quốc gia này mỗi năm là bao nhiêu đều được biết rõ, chỉ riêng tại Lào con số vẫn còn bí ẩn. Theo tổ chức ODCCP, Lào là quốc gia sản xuất thuốc phiện đứng hàng thứ ba trên thế giới, sau Miến Ðiện và Afghanistan. Số đất đai canh tác cây á phiện tại đây tăng đều mỗi năm, tăng 40% từ 1992 đến nay. Tám tỉnh Bắc Lào canh tác 26.800 hecta đất rừng, cung cấp mỗi năm 125 m3 thuốc phiện (tương đương 2.140 tấn/năm), một con số báo động cho một quốc gia có dân số chưa tới 4,5 triệu người vì 57% lượng thuốc phiện được tiêu thụ ngay trong nước.
    Ðối với chính quyền Pathet Lào, thủ phạm chính là người Hmong. Trong thời chiến tranh, địa bàn cư trú của người Hmong bị bom đạn tàn phá nên phải di tán về đồng bằng, việc canh tác cây á phiện bị đình trệ. Năm 1976 phần lớn người Hmong di tản sang Thái Lan tị nạn, nhưng từ khi Thái Lan đóng cửa các trại tị nạn, người Hmong trở về quê cũ đông hơn. Ðời sống thiếu thốn buộc người Hmong trở về nghề canh tác cây á phiện. Với thời gian, sản lượng thuốc phiện do người Hmong cung cấp tăng lên nhanh chóng vì các trung tâm sản xuất khác đang bị Hoa Kỳ, qua trung gian chương trình bài trừ ma túy (UNDCP-Drug Control Program của Liên Hiệp Quốc), ngăn chặn. Lào vẫn còn là một ngoại lệ trước khi Hoa Kỳ tái lập quan hệ ngoại giao năm 1992.
    Chiến dịch bài trừ ma túy tại Lào không phải chỉ mới đây, nó bắt đầu từ năm 1985 khi các phái đoàn tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích đã đến Lào làm việc trên các vùng rừng núi, những vùng canh tác á phiện đều được phát giác, phần lớn nằm trong khu vực sinh trú của người Hmong. Người Mỹ đã hoạt động tích cực tại Lào từ 1960 đến 1973 và còn tiếp tục sau đó, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Lào chưa bao giờ bị cắt đứt. Sau 1975, các cơ quan phát triển quốc tế (USAID-Agency for International Development) và thông tin (USIA-Information Agency) của Hoa Kỳ vẫn còn hoạt động tại Lào nhưng ở mức tối thiểu.
    Một vấn đề lương tâm đặt ra cho Hoa Kỳ là làm sao ngăn cản người Hmong sản xuất thuốc phiện mà không bị họ phiền lòng? Trước kia người Hmong đã theo Mỹ chống lại quân  cộng sản một cách cuồng nhiệt và ngày nay còn đang trả giá cho chọn lựa này. Nhưng quyền lợi và sức khỏe của dân Mỹ quan trọng hơn hết, Hoa Kỳ không thể nương tay trong vụ này. Cách hay nhất là bán cái cho Liên Hiệp Quốc, vừa không mang tiếng phản bội đồng minh cũ, vừa ngăn chặn được nguồn sản xuất thuốc phiện. Chính sách bài trừ ma túy của Hoa Kỳ là giúp đỡ các quốc gia sản xuất thuốc phiện phá hủy các vùng canh tác cây á phiện mà vùng rừng núi tại Bắc Lào là một trong những trung tâm chính. Từ 1989 đến nay, tổ chức bài trừ và ngăn ngừa tội ác của Liên Hiệp Quốc, do Hoa Kỳ chủ động, đã giúp chính phủ Pathet Lào trên 80 triệu USD để phá hủy những vùng trồng cây á phiện, năm 2000 dự trù sẽ giúp thêm 4,7 triệu USD.
    Sáu quốc gia liên quan tới khu Tam Giác Vàng (Lào, Thái Lan, Miến Ðiện, Kampuchea, Trung Quốc và Việt Nam) cũng thế, từ 1993 chương trình bài trừ ma túy của Liên Hiệp Quốc đã tài trợ nhiều số tiền lớn để phá hủy những nơi sản xuất thuốc phiện. Miến Ðiện là quốc gia hợp tác ngay từ đầu, mục đích của nhóm quân phiệt Rangoon không phải để ngăn chặn buôn lậu thuốc phiện mà là được thế giới nhìn nhận như là một chính quyền hợp pháp. Khun Sa không những không bị đe dọa mà còn có biệt thự riêng tại Rangoon và xây một xa lộ từ Khu Tam Giác Vàng ra biển Aman để chuyển vận thuốc phiện ra các bến cảng. Thái Lan tuy bề ngoài tỏ vẻ hợp tác với chương trình bài trừ ma túy nhưng bên trong vẫn để cho quân đội và cảnh sát biên phòng làm tiền các đoàn áp tải thuốc phiện xuống Vịnh Thái Lan. Trung Quốc cũng lợi dụng sự giúp đỡ này mở rộng ảnh hưởng xuống phía Nam để kiểm soát nguồn thuốc phiện sản xuất tại đây. Chỉ còn lại ba nước Ðông Dương c ộng sản. Hoa Kỳ đã làm đủ mọi cách để ba nước này hội nhập bình thường vào cộng đồng quốc tế để tham gia chương trình bài trừ ma túy. Tại Kampuchea, từ sau 1991, lực lượng UNTAC của Liên Hiệp Quốc kiểm soát gắt gao vùng biên giới giáp ranh với Lào, ngăn chặn luồn chuyển vận thuốc phiện trên sông Mékong, các đoàn áp tải phải băng qua biên giới Thái Lan và Việt Nam giao hàng.
    Từ sau 1986 Vientiane mở cửa đón nhận đầu tư quốc tế. Một số tư nhân và công ty Ðài Loan và Thái Lan do người Hoa làm chủ cũng nhân cơ hội vào Lào khai thác nguồn thuốc phiện sản xuất tại đây mang đi nơi khác. Các đường dây buôn lậu ngày càng công khai, quân đội và cán bộ Pathet Lào cũng được móc nối để tham gia áp tải thuốc phiện về các thành phố lớn giao cho các tư nhân và công ty vừa nói. Ðụng độ võ trang và thanh toán nội bộ xảy ra thường xuyên giữa các nhóm buôn lậu, một vài tay phiêu lưu người Pháp nhảy vào kiếm ăn nhưng bị loại ra nhanh chóng. Tình trạng vô chính phủ tại Bắc Lào vẫn còn kéo dài cho tới ngày nay.
    Tại Việt Nam, sau khi được Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận năm 1992, bộ đội và công an biên phòng vào Sơn La và Lai Châu khuyến dụ người Hmong phá hủy những vườn trồng cây á phiện. Một số làng chấp nhận phá hủy với điều kiện Hà Nội giúp đỡ họ canh tác các loại hoa màu khác (trà và cà phê) và cho phép du khách ngoại quốc tự do đến thăm viếng để có thêm lợi tức. (...)
    (...) nản chí các công ty Hoa kiều Ðông Nam á và Ðài Loan chỉ vào Việt Nam khai thác nguồn thuốc phiện từ Bắc Lào mang vào, phần lớn đã rời Việt Nam sang Miến Ðiện và Thái Lan. Từ 1992 trở đi, lượng ma túy thay vì được các nhóm Hoa Kiều vừa nói trung chuyển sang những quốc gia khác đã được tiêu thụ tại chỗ, giới trẻ Việt Nam là những nạn nhân trực tiếp. Những án tử hình không làm nản chí những người buôn bán và áp tải, một người bị bắt hàng chục người khác vào thay. Lên án Hà Nội xuất khẩu thuốc phiện cũng hơi oan vì làm gì có thị trường tiêu thụ để mà xuất khẩu, tất cả những đường dây mua bán hay phân phối đều nằm trong tay những băng đảng xã hội đen do Quốc Dân Ðảng hải ngoại nắm giữ. Lực lượng Khun Sa cũng chỉ là người cung cấp cho các tổ chức này mà thôi.
  6. haiCANSA

    haiCANSA Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2008
    Bài viết:
    296
    Đã được thích:
    0
    Xin phép góp vài lời với các bác ! Nhà em ở Sơn La từ bé đến giờ bạn em có đủ người Thái , người Mèo , người Kinh . Nói chung thì mọi dân tộc sồng hòa bình , về phần em thì chả bao giờ nghĩ tộc này tộc nọ . Nhưng gần như cùng thời điểm với vụ Tây Nguyên , huyện Sông Mã tỉnh em cũng có chuyện đòi thành lập xứ mèo , cán bộ tỉnh phải vào vận động cùng với bộ đội công an nhiều lắm . Giờ nhà mình đưa cán bộ người dân tộc h''mông lên kết hợp dân vận cùng an ninh ắc lắm mấy năm nay chả thấy gì nữa !
  7. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Bác ơi, tài liệu để tham khảo, và tài liệu do người ở hải ngoại viết, bác có đọc thấy đoạn nào viết không tốt về các dân tộc anh em ở VN không? Tớ đã tự kiểm duyệt, bỏ đi những đoạn cực đoan hay ngoài lề (những đoạn nằm trong dấu (...), và có ghi rõ là lược trích mà) tuy nhiên kể cả những đoạn tớ bỏ đi đó theo tớ cũng không có phá hoại tình đoàn kết các dân tộc anh em, vả lại tài liệu này nói về người H''Mông ở Lào, và do họ có người lãnh đạo kiểu Vàng Pao nên người ngoài nhìn vào thấy thế, mà thật ra thì đúng thế, không phải nói về VN mà.
    Xin pót nốt phần cuối của: 

    Người Hmong tại Lào và khu Tam Giác Vàng
    Không riêng gì Việt Nam, Hoa Kỳ cũng là nạn nhân trực tiếp của thuốc phiện, nạn nghiện ngập trong giới trẻ Hoa Kỳ cũng đang ở mức báo động. Chính vì thế, từ thập niên 1990 Hoa Kỳ đã tích cực giúp Hà Nội và Vientiane, qua trung gian chương trình bài trừ ma túy, phá hủy các vùng sản xuất thuốc phiện. (...) Nhưng chiến dịch bài trừ này không phải dễ vì miền Bắc Lào nằm trong khu Tam Giác Vàng, địa bàn hoạt động của nhóm Khun Sa. Với số tiền do thuốc phiện mang lại, lực lượng võ trang của Khun Sa được trang bị rất tối tân, có cả hỏa tiễn phòng không và chống chiến xa, đó là chưa kể lượng súng ống và mìn bẫy khổng lồ nằm trong tay những sắc tộc thiện chiến trong vùng rừng núi sẵn sàng chống trả lại bất cứ lực lượng nào muốn xâm nhập vào. Nhóm Khun Sa vẫn tiếp tục làm chủ các vùng sản xuất thuốc phiện tại miền Bắc Lào. Không phải tình cờ mà một phi cơ quân sự của Việt Nam bị rơi trên khu vực sản xuất thuốc phiện của người Hmong ngày 27-5-1998, làm thiệt mạng tổng tham mưu trưởng quân đội c ộng sản Việt Nam, Ðào Trọng Lịch, cùng nhiều sĩ quan cao cấp khác.
    Sau chuyến viếng thăm của bộ trưởng quốc phòng Mỹ, William Cohen, tại Việt Nam tháng 5-2000, quyết tâm bài trừ ma túy của Hà Nội dứt khoát hơn. Mọi ngã ra vào khu vực cư trú của người Hmong tại Bắc Lào đều bị kiểm soát chặt chẽ, nguồn thuốc phiện không thoát ra được khiến người Hmong dưới trướng Khun Sa phản ứng. Quên đội Lào quá yếu để chống lại, phải nhờ Việt Nam. Sự can thiệp này chỉ nhằm ngăn chặn những nhóm buôn lậu chứ không phải để khống chế Lào.
    Còn tướng Vang Pao? ông năm nay đã già (70 tuổi - thời điểm 5 năm trước - DinhPhDc), hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ, không còn lãnh đạo lực lượng biệt kích Hmong nữa. Cộng đồng người Hmong tại Hoa Kỳ tuy khá đông (160.000 người) nhưng phần lớn làm nghề tay chân hay canh tác nông nghiệp, lợi tức kiếm được chỉ đủ sống không thể giúp người Hmong trong nước chống lại Vientiane như báo chí quốc tế loan tin. Những biến động võ trang hiện nay tại Lào chỉ giới hạn trong chương trình bài trừ ma túy.
    Những vụ đặt bom gần đây tại một số thành phố lớn là một cảnh cáo của các nhóm buôn lậu do Khun Sa cầm đầu đối với chính quyền Vientiane: để họ yên thì sẽ được yên. Một giải pháp quân sự nhằm thay đổi chế độ chính trị tại Lào khó có thể trở thành hiện thực vì Thái Lan ngày nay không phải là Thái Lan của thập niên 1980. Thái Lan dung dưỡng một số phong trào chống đối võ trang tại Lào chỉ nhằm mục đích khuyến khích chính quyền Pathet Lào cởi mở hơn tại các cửa khẩu ra vào Thái Lan. Nguồn lợi khai thác gỗ rừng, quặng mõ, đá quí và thuốc phiện tại Lào không thể chỉ dành độc quyền cho Việt Nam. Trung Quốc cũng nhân cơ hội chiêu dụ Lào ngã về phía Trung Quốc bằng cách đề nghị giúp xây dựng hạ tầng cơ sở các tỉnh phía Bắc Lào, đồng thời võ trang các nhóm sắc tộc nhỏ trừ nhóm Khun Sa chống lại hay phá rối nền an ninh của Lào trước sự bất lực của phe thân chế độ c ộng sản Việt Nam. Nếu một phần nguồn thuốc phiện và heroin sản xuất tại Lào được chuyển qua lãnh thổ Trung Quốc, rồi trung chuyển sang những quốc gia phương Tây khác, đó là một nguồn lợi lớn về ngoại tệ cho Trung Quốc. Thực ra, về ma túy, giới buôn lậu Trung Hoa chỉ là một.
    Bài trừ được nạn ma túy không? Rất khó trả lời. Những tổ chức đầy lý tưởng như Quốc Dân Ðảng Trung Hoa, các đảng c ộng sản Miến Ðiện và Thái Lan, các tổ chức tôn giáo của người Haw và Kachin, sau một thời gian dính líu đến thuốc phiện đều rời bỏ lý tưởng ban đầu để tham gia buôn lậu thuốc phiện. Cảnh sát và quân đội Thái Lan và Miến Ðiện cũng thế, tất cả đều có liên quan không nhiều thì ít vào các đường dây buôn lậu quốc tế. Tại Trung Quốc, không biết bao nhiêu án tử hình đã được thi hành mỗi năm, nhưng số người bị đưa ra trước cột xử bắn chưa có triệu chứng suy giảm, tăng thêm là đằng khác. Quân đội và cảnh sát biên phòng Việt Nam và Pathet Lào cũng rất khó làm ngơ trước nguồn lợi to lớn do dịch vụ này mang lại, nhiều vụ án lớn đã xảy ra trong đó có những sĩ quan và cán bộ cao cấp dính líu vào.
    Vấn nạn ma túy vẫn còn và sẽ còn đe dọa mọi người chừng nào những băng đảng và tổ chức buôn lậu của người Hoa chưa bị phá vỡ. Nếu theo dõi kỹ sinh hoạt những công ty xuất nhập khẩu và hệ thống ngân hàng chằng chịt tại Ðông Nam á do người gốc Hoa làm chủ, người ta sẽ khám phá bằng cách nào lượng thuốc phiện du nhập vào các thị trường tiêu thụ quốc tế và số thu vào đã được tẩy trắng.
    Nguyễn Văn Huy
  8. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Bây giờ là tài liệu trong nước, xin được tóm tắt:
    Các giai đoạn phát triển của cách mạng Lào từ 1945-1975.
    Lợi dụng thời cơ phát xít Nhật đầu hàng, từ ngày 23 ?" 8 ?" 1945, nhân dân Lào đã nổi dậy và thành lập chính quyền cách mạng ở nhiều nơi. Ngày 12 ?" 10 ?" 1945, nhân dân thủ đô Viêng Chăn khởi nghĩa giành chính quyền, chính phủ Lào ra mắt quốc dân và trịnh trọng tuyên bố trước thế giới nền độc lập của nước Lào.
    Tháng 3/1946, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, nhân dân Lào đứng lên kháng chiến chống Pháp. Được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào phát triển mạnh mẽ: phong trào kháng chiến ngày càng mở rộng, và từ năm 1947, các chiến khu dần dần được thành lập ở Tây Lào, Thượng Lào, Đông Bắc Lào.
    Ngày 20/1/1949 quân giải phóng nhân dân Lào chính thức được thành lập do Cayxỏn Phômvihản chỉ huy.
    Ngày 13/8/1950, Đại hội toàn quốc kháng chiến của nhân dân Lào họp, Mặt trận Lào tự do và Chính phủ kháng chiến Lào thành lập do Hoàng thân Xuphanvông đứng đầu.
    Từ 1953-1954, Quân giải phóng nhân dân Lào đã sát cánh cùng các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam mở nhiều chiến dịch lớn (chiến dịch Trung Lào, Hạ Lào năm 1953, chiến dịch Thượng Lào năm 1954) nhằm phối hợp chặt chẽ với chiến trường Việt Nam trong thời gian này, đặc biệt quan trọng là trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954.
    Thắng lợi của nhân dân Lào, Campuchia cùng với chiến thắng to lớn của nhân dân Việt Nam (Đông Xuân 1953-1954) buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ. Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương, công nhận nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Lào.
    Sau khi Pháp thất bại, đế quốc Mĩ phát động chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của Mĩ trên đất nước Lào.
    Thông qua ?oviện trợ? kinh tế và quân sự, đế quốc Mĩ đã dựng nên chính quyền, quân đội tay sai và nắm quyền chi phối mọi mặt ở Lào. Giữa năm 1955, Mĩ điều khiển quân đội tay sai Viêng Chăn tấn công vào hai tỉnh tập kết của lực lượng cách mạng Lào ở Sầm Nưa, Phôngxalì; tiến hành càn quét, đàn áp lực lượng kháng chiến cũ ở khắp các tỉnh trong cả nước, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Lào.

    Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cách mạng Lào (thành lập vào 3/1955) quân và dân Lào đã đánh bại được các cuộc tấn công quân sự của địch, giải phóng thêm nhiều vùng rộng lớn ở Thượng Lào, Trung Lào và Hạ Lào (đến đầu những năm 60, vùng giải phóng Lào đã nối liền từ Thượng Lào đến Trung Lào và Hạ Lào.
    Cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân chống đế quốc Mĩ xâm lược cũng dâng cao mạnh mẽ ở khắp mọi nơi, kể cả thủ đô Viêng Chăn.
    Đến đầu những năm 1960 vùng giải phóng chiếm 2/3 diện tích, 1/3 dân số trong cả nước. Từ 1963-1973 nhân dân Lào đã đánh bại cuộc ?ochiến tranh đặc biệt? của Mĩ, buộc Mĩ và tay sai kí Hiệp định Viêng Chăn (21/3/1973) lập lại hoà bình, thực hiện hoà hợp dân tộc ở Lào.
    Năm 1964, Mĩ bắt đầu sử dụng không quân ném bom tàn sát dã man các vùng giải phóng, phái hàng ngàn cố vấn quân sự sang trực tiếp điều khiển cuộc chiến tranh và đưa nhiều đơn vị lính đánh thuê Thái Lan sang tham chiến ở Lào. Cũng từ đó, cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Lào chính thức chuyển sang hình thái ?ochiến tranh đặc biệt? và được nâng lên đỉnh cao nhất của nó ?" chiến tranh đặc biệt tăng cường? từ năm 1969, sau khi Níchxơn trúng cử lên làm Tổng thống Mĩ. Mĩ đã ném 3 triệu tấn bom xuống Lào (tính trung bình mỗi người dân Lào phải chịu đựng 1 tấn bom) và liên tiếp mở những cuộc hành quân lớn nhằm đánh chiếm vùng giải phóng, tiêu diệt lực lượng cách mạng. Nhưng quân dân Lào đã từng bước đánh bại các kế hoạch leo thang chiến tranh của đế quốc Mĩ. Vì vậy, ngày 21 ?" 2 ?" 1973, Mĩ và tay sai buộc phải kí hiệp định Viêng Chăn lập lại hoà bình, thực hiện hoà hợp dân tộc ở Lào.
    Thắng lợi của cách mạng Việt Nam (30/4/1975) đã cổ vũ và tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào từ tháng 5 đến tháng 12/1975, nhân dân Lào nổi dậy giành chính quyền.
    Ngày 2/12/1975, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào chính thức thành lập. Cách mạng Lào bước sang thời kì phát triển mới, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân rồi tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
    Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với Lào.
    - Cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào có mối quan hệ mật thiết với nhau:
    + Thời kỳ chống Pháp: 3/1951, Liên minh Việt ?" Miên ?" Lào được thành lập nêu cao tinh thần đoàn kết chiến đấu chống Pháp của nhân dân ba nước Đông Dương. Những năm 1953-1954, quân dân Việt Nam phối hợp với quân dân Lào mở các chiến dịch ở Trung Lào, Thượng Lào để phá sản bước đầu kế hoạch Nava. Khi Pháp bị thất bại trong chiến dịch Điện Biên Phủ buộc chúng phải ký kết Hiệp định Giơnevơ công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương, trong đó có Lào.
    + Thời kỳ chống Mĩ: Tháng 3/1970, Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương thể hiện tinh thần đoàn kết chống Mĩ cứu nước. Những thắng lợi của quân dân Việt Nam và Lào trong những năm 1972-1973 làm thất bại Việt Nam hoá và Đông Dương hoá chiến tranh của Mĩ. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975 ở Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước.
    Được DinhPhDc sửa chữa / chuyển vào 23:35 ngày 08/01/2009
  9. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    VỀ NGƯỜI ĐẶC CÔNG ĐÃ THAM GIA GIẢI CỨU HOÀNG THÂN XUPHANUVÔNG
    Tìm mãi, giờ trên tay tôi là bản photo tờ báo Quân Đội Nhân Dân năm 1960, hồi còn in typô bằng chữ chì sắp bằng tay. Ở góc trang 1 có một tin nối sang trang 4: Hoàng thân Xu Pha Nu vông cùng các lãnh tụ Neo Lào Hắc Xạt đã thoát khỏi trại giam Viên Chăn. Bài báo dẫn nguồn "tin nước ngoài" cho biết đêm 23 rạng ngày 24 tháng 5 năm 1960, Hoàng thân Xu Pha Nu Vông cùng 14 lãnh tụ và cán bộ cao cấp của Neo Lào Hắc Xạt bị giam giữ một cách trái phép từ tháng 7 năm 1959 đã trốn thoát khỏi trại giam Phôn Khiêng, Viên Chăn. Có 9 lính gác cũng đã mang vũ khí đi theo. Lúc này Hoàng thân Xu Pha Nu Vông đang là thủ tướng chính phủ kháng chiến, chủ tịch BCH trung ương Neo Lào Hắc Xạt, nghị sĩ quốc hội tỉnh Viên Chăn, bộ trưởng bộ Kế hoạch xây dựng trong chính phủ liên hiệp. Cùng với ông là các đồng chí cũng nổi tiếng khác như: Phu Mi Vông Vi Chít, Nu Hắc Phum Xa Vẳn, Xi Xa Nạ Xi Xan, Si Thôn Com Ma Đăng, Khăm Thai Bu Tha, Phun Xi Pa Sớt...
    [​IMG][​IMG]ông NGUYỄN NGÔN
              Thời kỳ ấy, chính phủ hoà hợp dân tộc Lào lần đầu tiên được thành lập do hoàng thân Suvana Phu Ma làm thủ tướng. Tiếp đó là cuộc tổng tuyển cử bổ sung ngày 4/ 5/ 1958 đã diễn ra với thắng lợi vang dội của Neo Lào Hắc Xạt chiếm 13/ 21 ghế trong quốc hội Vương quốc Lào. Nhưng bọn ********* phái hữu và quan thầy của chúng đã tổ chức lật lọng, xé bỏ hiệp nghị đã ký kết. Ngày 22/ 7/ 1958 chúng lật đổ chính phủ Phu Ma, đưa Phủi Sa Na Ni Kon, đầu sỏ phái hữu ********* lên làm thủ tướng, đình chỉ hoạt động của quốc hội, đóng cửa toà báo Neo Lào Hắc Xạt, bao vây và tước vũ khí 2 tiểu đoàn vũ trang Pa Thét Lào (sau này tiểu đoàn 2 đã anh dũng phá vòng vây ở cánh đồng Chum, trở về được căn cứ và trở thành lực lượng nòng cốt của phong trào chuyển hướng), mở chiến dịch càn quét khủng bố các tổ chức, cơ sở của mặt trận Neo Lào Hắc Xạt ở khắp đất nước Lào. Ngày 26/ 7/ 1959, Phủi Sa Na Ni Kon ra lệnh tống giam đồng chí Xu Pha Nu Vông và các lãnh tụ Neo Lào Hắc Xạt (Đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hản, tổng bí thư Đảng nhân dân cách mạng Lào, đồng chí Khăm Tày Si Phăn Đon và một vài đồng chí trung ương uỷ viên khác thoát cuộc vây bắt này) vào một trại giam đặc biệt ngay trong doanh trại của bộ tổng tư lệnh quân đội phái hữu đóng tại đồi Phôn Khiêng do đại tá Lăm Ngân, chỉ huy trưởng lực lượng hiến binh trực tiếp canh giữ vô cùng chỉn chu và cẩn thận. Âm mưu của chúng là sẽ đưa Hoàng thân Xu Pha Nu Vông và các lãnh tụ Neo Lào Hắc Xạt ra toà án binh xử với những án tử hình chờ sẵn...
              Trong tình hình nước sôi lửa bỏng ấy, một kế hoạch giải thoát các đồng chí lãnh đạo Neo Lào Hắc Xạt được vạch ra do chính đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hản, tổng bí thư ban chấp hành trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào phê duyệt. Theo đó, một nhóm 9 chiến sĩ cả tình báo, cơ yếu báo vụ, trinh sát, phiên dịch và đặc công Việt Nam được phái sang Lào giúp bạn thực hiện kế hoạch. Nhóm do đồng chí Phan Dĩnh làm tổ trưởng tổ công tác, nhưng người chỉ huy trên đường đi là ông Trần Văn quý (nguyên là bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Trung Lào, tên Lào là Bun Coong, sau hiệp nghị Giơnevơ tập kết về nước, là cán bộ cục nghiên cứu, sau này tiếp tục hoạt động tại Viên Chăn), phó là ông Ngôn, còn ông Dĩnh đã sang Lào trước, nên thực chất đoàn chỉ còn 8 người, 4 của tổng cục 2 và 4 là đặc công khu 5, hầu hết đã từng hoạt động ở Lào. Ông Dĩnh nguyên là Việt Kiều có tên Lào là Khăm Sỉng, lớn lên ở Viên Chăn, đã từng học trường trung học Pvie, bộ đội tình nguyện Việt Nam, nguyên là uỷ viên ban cán sự đảng bộ tỉnh Viên Chăn, hoạt động giúp nước bạn Lào liên tục 37 năm, sau này là đại tá tổng cục 2 bộ quốc phòng, hiện nay về hưu ở Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Ngôn phụ trách nhóm đặc công khu năm 4 người có nhiệm vụ là "quả đấm thép" trong việc giải cứu...
    (...)
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp(...) người trực tiếp gặp gỡ giao nhiệm vụ cho nhóm công tác đặc biệt trước khi lên đường mà giờ chỉ còn 3 người còn sống. Trong nhóm đặc công khu năm 4 người do ông chỉ huy giờ cũng chỉ còn mình ông. (Ông Ngôn tha thiết nhờ tôi là đăng tên tất cả nhóm công tác đặc biệt 9 người ngày ấy để nếu in báo, may ra gia đình các chiến sĩ biết được. Danh sách cụ thể như sau: 3 người còn sống: đại tá Phan Dĩnh, hiện ở Hà Nội. Đại uý Nguyễn Ngôn hiện ở thành phố Pleiku. Đại uý Nguyễn Văn Vinh, 82 tuổi hiện ở Hồng Lạc, Hải Dương. 6 người đã hy sinh, không phải trong cuộc giải cứu mà sau này, gồm: Trương Văn Quý (cán bộ cục nghiên cứu, bộ TTM, quê Nghệ An), Trần Văn Khiết (cơ yếu,Thừa Thiên Huế), Kiều Sơn Đen (Đặc công, Quảng Nam), Nguyễn Văn Du (đặc công, Quảng Nam), Nguyễn Lầu (đặc công, Phú Yên), Trần Văn Điển (phiên dịch, Hà Nội). Hôm ấy vào chúc thọ có rất nhiều đoàn cao cấp đều phải đăng ký qua văn phòng, riêng 3 ông trong nhóm đặc biệt được đại tướng trực tiếp viết giấy hẹn trước. Gần nửa thế kỷ trôi qua, đại tướng vẫn nhớ rõ công việc của nhóm ngày ấy... Và cũng vì đây là công việc đặc biệt nên một thời gian dài nó được giữ kín, chính đại tướng Võ Nguyên Giáp hẹn các ông: sống để dạ, chết mang theo, rồi lâu quá cũng nhiều người quên. Nhưng bây giờ thì nó trở thành niềm tự hào không chỉ của các ông, mà còn của quân đội Việt Nam, của tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Lào... Chính các bạn Lào sau này cũng nói: Nếu không có cuộc giải cứu lịch sử ngày ấy thì chưa biết tình hình phong trào cách mạng Lào sẽ như thế nào?..
    (...)
              Năm 1959, khi ông đang học tại trường quân chính quân khu 4 thì được lệnh rút về thực hiện nhiệm vụ đặc biệt. Ban đầu ông cự nự cấp trên: Tôi chưa được học hành gì nhiều, ước ao ra miền Bắc để được học. Hãy để tôi học xong rồi vào Nam guýnh tiếp, vội gì. Nhưng cấp trên giải thích đây là nhiệm vụ đặc biệt giúp bạn, mà ông đã quen đánh bên Lào ban ngày rồi nên cấp trên tin tưởng ông, vì công việc này cũng cần đánh ban ngày. Thế thì ông nhận lời ngay, thu dọn tư trang về phòng chính trị Quân khu 4. Cấp trên cho phép ông chọn 3 người nữa. Ông xin về đơn vị làm công tác tư tưởng anh em. Sau đó ông chọn các chiến sĩ đặc công: Kiều Sơn Đen, người giỏi đánh cả dưới nước lẫn trên bờ, có thể bơi cả ngày trên sông Hồng. Nguyễn Lầu, Nguyễn Văn Du. Tổng cục 2 điều cho nhóm các ông đồng chí Trần Văn Điển làm phiên dịch. Như thế chính thức nhóm đặc công của ông có 5 người. Cả nhóm ra Hà Nội gặp đồng chí Trần Hiệu, lúc bấy giờ là cục trưởng và đồng chí Vũ Thắng, trưởng phòng huấn luyện. Hai đồng chí yêu cầu nhóm đặc công thực tập đột nhập ngay vào cơ quan bộ Tổng và phải để 1 vật làm tin ngay trên bàn làm việc của đồng chí trưởng phòng tình báo chiến dịch. Cuộc đột nhập này có thông báo trước cho lính gác và cả cán bộ chiến sĩ trong cơ quan xem, và được quy định thời gian là từ 21 giờ đến 4 giờ sáng. Ông Ngôn nghiên cứu địa hình và quyết định chia làm 2 mũi. Một mũi 3 người đột nhập vào phía có đèn sáng nhất, nhiều lính gác nhất, dễ bị lộ nhất và nhờ thế mà... vào an toàn. Còn mình ông mặc quân phục đàng hoàng đi vào cổng chính khi có một chiếc xe chở ông tư lệnh quân khu 4 qua cổng. Lính gác thì tưởng ông là người trên xe xuống, còn người trên xe lại tưởng ông là... lính gác. Sau đó ông lẩn vào một gốc cây thay đồ và tiềm nhập. Sau khi đặt lên bàn tờ giấy ghi 3 chữ Kiều Sơn Đen, ông thổi còi, ai đứng đâu ở đấy chờ cấp trên đến kiểm tra. Tất nhiên là quá đạt yêu cầu. Bao nhiêu người gác được báo trước. Rất nhiều người xem nữa, thế mà vẫn vào được. Sau đấy cả nhóm ra thực hành ở một cái ao thước thợ ở khu Đống Đa, cũng biểu diễn trước rất đông người. Rồi ra sông Hồng. Tất cả đều đạt yêu cầu. Trước bao nhiêu cặp mắt chuyên nghiệp theo dõi, đội của ông vẫn không bị phát hiện, bình yên vô sự. Trong khi chờ đợi ngày giờ xuất phát, nhóm của ông được nghỉ ngơi an dưỡng. Tháng 5 năm 1959, toàn đội được đại tướng gọi vào giao nhiệm vụ. Đại tướng yêu cầu: Việc đầu tiên là phải tuyệt đối bí mật. Không được mang theo giấy tờ tài liệu. Bởi nếu lộ thì các thế lực phương tây sẽ lu loa can thiệp ngay. Việc nữa là mọi công việc đều do trung ương Đảng bạn quyết định. Đưa hay không đưa ra, đưa như thế nào,... tuỳ tình hình cụ thể, ta phải phục tùng bạn.
              Nhóm đặc công (hợp với các cán bộ tổng cục 2 nữa là 8 người) được đưa vào Nghệ An rồi bắt đầu sang Lào. Vừa đi vừa xây dựng cơ sở, vừa cắt đường, vừa lo hậu cần ăn uống và bảo mật... vô cùng vất vả. Tròn một tháng bảy ngày thì đến thành phố Viên Chăn. Đến nơi, gặp các đồng chí Lào và tình báo của ta do đồng chí Phan Dĩnh phụ trách thì nhận được lệnh của đại tướng: Ta không trực tiếp đưa Hoàng thân và các lãnh tụ Lào ra, mà huấn luyện cho các bạn Lào tự làm, nhóm đặc công chỉ hỗ trợ và nghi binh. Thế là các ông chọn được tám người Lào để huấn luyện, trong đó có 4 người các ông vận động làm cơ sở dẫn đường trong 37 ngày thâm nhập từ Việt Nam vào Lào. Những người này đã làm bè bằng luồng để chở nhóm công tác đặc biệt đi. Cũng làm sa bàn rồi thực địa. Căng dây rừng thay kẽm gai. Khó nhất là học tiềm nhập dưới ánh điện, vì ở trong rừng tất nhiên là không có điện. Thế là các ông xin phép được vào đồn địch để tập trực tiếp, lộ đâu đánh đó. Thực tập như thế liên tục 2 đêm, nghỉ hai đêm, đêm thứ 5 tổng duyệt. 4 chiến sĩ đặc công Việt Nam kèm 8 bạn Lào đột nhập vào đồn, rồi vào thành phố Viên Chăn, vừa tập vừa quan sát dò đường để sau này rút. Thành công. Đồng chí UVBCT, quyền bí thư thành phố Viên Chăn yêu cầu đặc công Việt Nam đánh thực mấy cái đồn trong đêm giải thoát Hoàng Thân để làm mấy việc: Làm cho dân chúng tin tưởng là phong trào cách mạng vẫn còn, lực lượng vũ trang vẫn còn. Và như thế là địch sẽ hoang mang. Thu hút lực lượng địch để bộ phận đưa Hoàng thân rút ra an toàn. Tất nhiên lúc này tình báo ta (nhóm đồng chí Phan Dĩnh) và cơ sở Lào đã chuẩn bị sẵn sàng cho việc giải thoát, các đồng chí lãnh tụ Lào trong trại giam cũng đã được báo trước, mọi kế hoạch đã khớp đến từng chi tiết. Một số lính gác trở thành người của ta. Tối 23 tháng 5 năm 1960 ấy, sau khi tên đại tá Lăm Ngân trực tiếp đến kiểm tra lần cuối xong thì mọi người lập tức thay đổi trang phục thành lính gác, cùng 9 lính gác thật đã được giác ngộ và 4 bạn Lào đã được huấn luyện chia làm ba toán "đi tuần" dưới ánh đèn pha sáng rực, điềm nhiên ra khỏi cổng, căn thẳng hướng tây bắc rút. Lúc này là 0h30 ngày 25 tháng 5. Còn 4 chiến sĩ đặc công Việt Nam cùng 4 bạn Lào còn lại thì rút về hướng đông, vừa rút vừa chiến đấu nghi binh để thu hút địch. Phải đến 6 giờ sáng hôm sau khi đổi gác chúng mới biết tù nhân đã trốn thoát và hè nhau đuổi về hướng đông, hướng có súng nổ. Đoàn lãnh tụ Lào đi về hướng Tây bắc để tới Sầm Nưa cũng có một chút trục trặc nên phải ngủ một đêm trong rừng ngoài dự kiến. Nhưng rồi cuối cùng cũng đã về đến căn cứ an toàn. Còn nhóm ông Ngôn thì vừa đi vừa khiêu khích đánh địch, chỉ không đầy 10 ngày đã về đến Việt Nam. Số 8 chiến sĩ Lào được các ông huấn luyện sau này đều trở thành sĩ quan cao cấp trong quân đội Lào. Riêng ông Ngôn, hết cuộc chiến tranh, ông về hưu vẫn với quân hàm đại uý. Ông nói với tôi: đi sao về vậy. Tức ngày ông sang Lào đã là trung uý. Nhưng sau chuyến đi ấy, ông trở ra bắc về tổng cục 2 rồi lại được điều về quân khu năm chiến đấu thì ông đã là đại uý. Cứ đánh nhau liên miên thế, ai có thì giờ đâu mà nghĩ đến quân hàm. Hoà bình khi ông hỏi tổng cục thì được hướng dẫn về quân khu làm thủ tục, về quân khu thì lại bảo ông là quân tổng cục. Rồi ông về hưu vẫn là đại uý, nhưng ông bảo, ông vẫn còn may mắn hơn rất nhiều 6 anh em đã mất kia, không biết gì là hoà bình, là độc lập tự do và hạnh phúc như họ hằng mong ước và hứa hẹn với nhau trong những ngày tháng gian nan mong manh sự sống cái chết thuở ấy. Mà chuyện quân hàm, ông cũng chỉ hỏi có một lần rồi thôi. (...)
      V. C. H.
    Xem thêm ở đây
    Được DinhPhDc sửa chữa / chuyển vào 01:46 ngày 11/01/2009
  10. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Mặt trận 972 mở ra theo lệnh của Quân uỷ TƯ và Bộ Tổng tư lệnh định giải phóng toàn bộ hai tỉnh Bôrikhămxay và Khăm Muộn, trong đó có thị xã Thà Khẹt. Nhưng rồi Nixon đã tráo trở không kịp ký hiệp định vào những ngày cuối tháng 10/1972 theo như đã thoả thuận Mặt trận 972 do quân khu Bốn phụ trách chỉ giải phóng hoàn toàn tỉnh Bôrikhămxay và hầu hết tỉnh Khăm Muộn, còn Thà Khẹt tỉnh lị Khăm Muộn ta chỉ tập kích rồi rút ra chứ không chủ trương chiếm giữ. Nước Lào vẫn bị cắt ngang ở đoạn trên và Thà Khẹt còn đó. Thà Khẹt tiếng Lào là Bến Khách, nằm ở bờ bên này sông Mê Kông và bờ bên kia là Na Khon Phanom của Thái Lan có căn cứ của Bộ chỉ huy tập đoàn không quân chiến lược số bảy Mỹ và sân bay B 52 ngày đêm đi gây tội ác trên bầu trời Hà Nội và chiến trường phía Bắc Đông Dương.
    Thà Khẹt có khá đông gia đình Việt kiều làm ăn sinh sống từ những ngày Pháp còn cai trị ba nước Đông Dương. Cách mạng tháng Tám thành công ở VN thì cách mạng cũng nổ ra vào thời gian đó trên đất nước Lào. Ở Hà Nội, Hồ Chủ tịch tuyên bố thành lập nước VN mới và mời nhà vua Bảo Đại vừa thoái vị cùng Hoàng thân Xuphanuvông lúc đó đang ở Vinh ra thủ đô tiếp kiến. Chuyến đi ấy với Hoàng thân gần như là chuyến đi lịch sử. Hoàng thân cũng nhận được tin ở Vientiane vào ngày 12/10/1945 thành lập Chính phủ Tự do Lào (Lào Itxala) do Hoàng thân anh cả là Phệtxarạt làm Thủ tướng và mời ngài tham gia chính phủ. Hoàng thân Xuphanuvông quay về Huế tiếp kiến các đồng chí lãnh đạo của ta ở Huế như Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, rồi theo đường Chín trở về Xavanakhét. Một đoàn cán bộ quân sự VN được cử tri theo bảo vệ Hoàng thân cùng với tổ thư ký giúp việc trong đó có Hoàng Xuân Bình, Lê Thiệu Huy, Nguyễn Tử Quỹ... Những cuộc mít tinh lớn mừng độc lập được diễn ra ở Xavanakhét, ở Xêpôn... Nhưng rồi Hoàng thân Xuphanuvông đã chuyển đại bản doanh của mình về Thà Khẹt của tỉnh Khăm Muộn. Từ đây ngài mau chóng ngược lên Vientiane gặp Hoàng thân Phệtxarạt nhận chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Tổng tư lệnh các lực lượng kháng chiến Lào rồi lại mau chóng trở lại thị xã Thà Khẹt. Cùng với gây chiến ở Nam Bộ và gây hấn ở Hải Phòng, Nha Trang của VN, giặc Pháp tấn công chiếm lại Xavanakhét, chiếm ngã ba đường 12 và đường 13 phía Bắc thị xã Thà Khẹt vào ngày 21/3/1946 với 3.000 quân viễn chinh có máy bay, xe tăng và pháo binh yểm trợ. Liên quân Lào Việt dưới sự chỉ huy của Hoàng thân Tổng tư lệnh Xuphanuvông đã chiến đấu rất ngoan cường bảo vệ từng tấc đất, làm chậm từng bước tiến của giặc để cho những chiếc thuyền của bà con vượt sông. Chỉ tới khi giặc sẵn sàng xông tới người mới chịu xuống chiếc canô chờ sẵn cùng tổ thư ký và chiến sĩ cảnh vệ sang bờ bên kia. Nhưng máy bay giặc bám lấy canô của ngài bắn phá. Sau này ngài kể lại rằng, tôi nghe một tiếng kêu ối và quay sang thì ôi thôi, nhà toán học trẻ tuổi của VN vừa tốt nghiệp xuất sắc ở Paris về đã bị trúng đạn máu ra đầm đìa và dần dần tắt thở. Người trong cuộc khi ấy nói là chính Lê Thiệu Huy khi thấy máy bay lao xuống đã nằm ngang chắn đạn cho Hoàng thân. Nhưng rồi trước khi sang tới bờ bên kia yên hàn Hoàng thân cũng bị thương khá nặng. Người được các bác sĩ Thái Lan tận tình cứu chữa nên đã qua khỏi. Ít ngày sau Hoàng thân Thủ tướng Phệtxarạt và Hoàng thân Bộ trưởng Xuvanna Phuma cũng sang Bangkok. Cuối năm 1949 ấy Hoàng thân đã gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh ở chiến khu Việt Bắc để rồi Chính phủ kháng chiến Lào được thành lập và liên minh kháng chiến Việt Lào ra đời.
    Thị xã Thà Khẹt còn chứng kiến những ngày sôi động khi bắt đầu chiến cục Đông Xuân 1953 - 1954 diễn ra để dẫn tới Điện Biên Phủ lẫy lừng và Hiệp nghị Geneva về Đông Dương được ký kết. Ngày 22/12/1953 trung đoàn Sông Hương bộ đội Bình Trị Thiên từ Phuắc giáp ranh giữa Bôrikhămxay và Khăm Muộn phối hợp với trung đoàn 18 và trung đoàn 66 và các đơn vị Pathet Lào đánh tràn vào căn cứ Khăm Hè do một tiểu đoàn Âu Phi tinh nhuệ của Pháp chiếm giữ giành toàn thắng, bắt sống gần 100 tù binh thu nhiều vũ khí trong đó có bốn khẩu pháo 105 li mới toanh. Ngày 23/12/1953 các đơn vị ta lại nổ súng tiêu diệt hai tiểu đoàn Âu Phi quân viễn chinh hung ác và một đại đội công binh chốt giữ ở Khăm Ma và truy kích địch tới tận ngã ba Nhomalat giữa quốc lộ số 12 và quốc lộ số 8. Tiếp đến bộ đội liên quânViệt- Lào đánh tràn qua Naphao - Pha Nốp, đuổi địch qua Xêbăngphai xóa sổ tổng cộng 6 tiểu đoàn cơ động Âu Phi tinh nhuệ quân viễn chinh Pháp, tiêu diệt hơn 300 tên, bắt sống gần 2.000 tù binh và 16 giờ ngày 25/12/1953 tiến vào thị xã Thà Khẹt giữa lúc kẻ thù hoang mang tháo chạy.
    Đồng chí Bí thư tỉnh uỷ Khăm Muộn Văn Thoong nói với Tư lệnh chiến dịch Nguyễn Văn Thuận và Chính uỷ Lê Đình Sô cùng cán bộ các đơn vị VN rằng, cách mạng Lào không có cách mạng VN thì không thể thành công được, ngược lại cách mạng VN không có cách mạng Lào thì sẽ gặp muôn vàn khó khăn. Ngày ấy chúng tôi đã không vào được thị xã Thà Khẹt. Nhưng bóng dáng của những con người thời đại như Hoàng Thân Xuphanuvông và bao chiến sĩ Lào, bao chiến sĩ VN, bao bà mẹ Lào cùng bao bà mẹ VN cứ hiện ra trong trí tưởng tượng của tôi về thị xã Thà Khẹt.
    Tư lệnh Nguyễn Văn Thuận sau này là Thiếu tướng Nguyễn Văn Thuận đã không còn nữa, còn Chính ủy chiến dịch Lê Đình Sô nay là Thiếu tướng nghỉ hưu tại khu tập thể Nam Đồng - Hà Nội. Tôi hay đến nhà ông chơi. Và rất hay nói với nhau về những chuyện ngày xưa. Nhân Thủ tướng hai nước VN và Thái Lan cùng dự lễ khánh thành làng hữu nghị Nachok và Bảo tàng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Nachok tôi hỏi ông Sô sao từ đó sang Thà Khẹt rất gần, lãnh tụ của chúng ta có về gặp đồng bào mình ở Thà Khẹt không? Hai mắt ông Sô sáng lên. Ông nói, gần hết cuộc đời chiến đấu của mình gắn bó với Trung và Nam Lào nên cũng muốn tìm hiểu điều này. Mình cũng đã đôi lần hỏi Văn Thoong và Chủ tịch tỉnh Khăm Muộn Thoong Đăm nhưng cả hai ông đều trả lời chưa hề nghe nói tới bao giờ. Cho tới một ngày cuối chiến dịch 972 năm ấy, ông Lê Đình Sô và ông Văn Thoong đang ngồi với nhau trong một hang đá ở khu vực Bản Xóm - Khôôc Toòng thì có ông Xum Beng và ông Co người Noong Bôôc tới chơi. Câu chuyện đang xoay quanh cuộc chiến đấu đầu năm 1946 ở Thà Khẹt do Hoàng thân Xuphanuvông chỉ huy chẳng biết từ lúc nào dẫn đến hoạt động của Thầu Chín ở Nakhon Phanom. Hai mắt Xum Beng sáng lên. Ông khẳng định: ?oThầu Chín có tới Thà Khẹt!?. Xum Beng cho biết: ?oTôi khi ấy còn bé. Biết gì. Nhưng cha tôi kể lại chính người có gặp Thầu Chín. Người nói rõ khi ấy là mùa thu năm 1928 hay 1929 gì đó. Thầu Chín từ Nakhon Phanom sang Pắcxế, lên Xavanakhet và tới bản Xiêng Vang thuộc huyện Noong Bôôc phía Nam thị xã Thà Khẹt, nơi ấy có mấy chục gia đình Việt kiều. Rồi người lên Thà Khẹt và đi đi về về giữa Thà Khẹt với bản Xiêng Vang. Một thời gian sau người lại quay về Thái Lan. Xum Beng khẳng định: ?oTrước khi mất, tiền bối của tôi nói rằng Thầu Chín, chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của nhân dân VN và cũng là của nhân dân Lào.
    Thì ra vậy! Sau này tôi tình cờ tìm được cuốn sách Sổ tay tra cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh do Nhà xuất bản Hải Phòng phát hành năm 1998 khẳng định điều đó. Tận hôm nay, Thà Khẹt mãi mãi trong tôi là thị xã nhỏ xinh hiền hòa bên bờ sông Mê Kông, cũng như Pạc Hin Bun, hay Pạc Cà Đinh ở phía Bắc nhưng lớn hơn nhiều và quan trọng hơn nữa là hình bóng Bác Hồ và hình bóng Hoàng thân Xuphanuvông cùng bao bậc tiền bối yêu nước khác và đồng bào in đậm hơn nơi đây. Những năm 1949 và 1950 ấy Hoàng thân Xuphuvông ở Việt Bắc đã viết thư cho cụ Lê Thước là thân sinh ra liệt sĩ Lê Thiệu Huy với lời lẽ đầy xúc động: "Thưa ngài, anh Lê Thiệu Huy người con yêu quý nhất của ngài mất đi, không những trong gia quyết mất một người con yêu dấu mà nước VN và nhân dân Lào mất một chiến sĩ đầy tinh thần hi sinh vì công lý. Riêng tôi, cái chết của anh không khỏi làm cho lòng bùi ngùi thương tiếc."
     Bức thư được ký tên Xuphanuvông và đóng dấu Chính phủ kháng chiến Lào.
    Ký ức Thà Khẹt: Bóng dáng những con người thời đạiTô Đức Chiêu21/12/2004

Chia sẻ trang này