1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Một số trận đánh giữa Saladin và quân thập tự chinh trước khi nổ ra cuộc Thập tự chinh lần 3



    Trận Hattin


    Tóm tắt trận đánh


    Thời gian của trận đánh: ngày 4 tháng 7 năm 1187
    Địa điểm: tại làng Hittin ở gần vùng Tiberia
    Kết quả: Triều Ayyubid chiến thắng chiến lược

    Các bên Tham chiến

    Người Thiên chúa giáo:

    Vương quốc Jerusalem
    Hiệp sĩ Templar
    Knights Hospitaller
    Hiệp sỹ St. Lazarus
    Công quốc Antioch


    Chỉ huy

    Guy của Lusignan
    Raymond III của Tripoli
    Gerard de Rideford
    Balian của Ibelin
    Raynald của Châtillon


    Lực lượng

    20.000 quân

    • 15.000 bộ binh
    • 1.200 hiệp sĩ
    • 500 cung kỵ

    Thương vong và thiệt hại

    Khoảng 17.000 người cả bị chết và bắt tù binh


    Người Hồi giáo:

    Triều Ayyubid

    Chỉ huy

    Saladin

    Lực lượng

    Khoảng 30.000 quân

    Thương vong và thiệt hại

    Không có số chính xác nhưn nhẹ hơn quân Thiên chúa giáo nhiều lần


    Trận Hattin diễn ra vào ngày thứ Bảy mồng 4 tháng 7 năm 1187, giữa Vương quốc Jerusalem của quân thập tự chinh và lực lượng của triều đại Ayyubid ( của Ai Cập và Syria).

    Quân đội Hồi giáo dưới sự chỉ huy của Saladin đã bắt hoặc giết chết phần lớn lực lượng của người Thập tự chinh và loại bỏ khả năng theo đuổi chiến tranh của họ. Kết quả trực tiếp của trận chiến là lực lượng Hồi giáo lại một lần nữa trở thành quyền lực quân sự hùng mạnh nhất tại vùng Đất Thánh, người Hồi giáo đã tiến hành tái chiếm thành công Jerusalem và các thành phố cứ điểm chiến lược khác của Thập tư quân tại Palestine. Việc người Kitô giáo bị đánh bại đã dẫn đến một cuộc Thập tự chinh lần thứ ba được bắt đầu hai năm kể từ sau trận Hattin.

    Trận chiến diễn ra gần Tiberias ở Israel ngày nay. Bãi chiến trường ở gần thị trấn Hittin, về mặt địa lý thì đây là một ngọn đồi đôi ( "Sừng của Hattin") bên cạnh một con đèo nối vùng núi phía bắc giữa Tiberias và đường từ thành phố Acre ở phía tây. Con đường Darb al-Hawarnah được xây dựng bởi người La Mã là con đường đông-tây nối giữa các pháo đài ở Jordan, bờ biển Galilee với bờ biển Địa Trung Hải.

    Bối cảnh nổ ra trận đánh

    Guy của Lusignan trở thành vua của Jerusalem năm 1186, để thay mặt Sibylla-vợ ông, sau cái chết của Baldwin V-con trai của Sibylla. Vương quốc Jerusalem là vào thời gian này bị chia rẽ giữa "phe Triều đình" của Guy, Sibylla, và những người có liên quan đến vương quốc như Raynald của Châtillon, cũng như Gerard của Ridefort-đại sư phụ của Hiệp sĩ Templar và "'phe quý tộc" dẫn đầu bởi Raymond III của Tripoli, người đã là nhiếp chính cho nhà vua trẻ Baldwin V ( cháu trai của vua bị bệnh hủi Baldwin IV) và đã phản đối kế của Guy. Quá chán nản Raymond của Tripoli chỉ còn cách ngồi nhìn những quý tộc trẻ tuổi của Jerusalem l.ă.ng xăng làm lễ cúi đầu trước nhà vua Guy và hoàng hậu Sibylla. Vị thủ lĩnh vĩ đại của xứ Tripoli quyết định phi ngựa theo chiều ngược lại, lên thung lũng sông Jordan để đến Tiberias. Tình hình rất căng thẳng và gần như sẽ nổ ra một cuộc chiến tranh giữa Raymond và Guy-người đã muốn bao vây Tiberias, một pháo đài được nắm giữ bởi Raymond qua hôn nhân, vợ ông là Eschiva-Quận chúa của Galilee. Chiến tranh đã được tránh khỏi thông qua sự hòa giải của Balian xứ Ibelin người ủng hộ Raymond.

    Trong khi đó, các quốc gia Hồi giáo xung quanh vương quốc Jerusalem đã được thống nhất trong những thập kỷ 1170 và 1180 bởi Saladin. Saladin đã được bổ nhiệm làm tể tướng của triều đình Ai Cập trong năm 1169 và nhanh chóng cai trị đất nước như một ông vua. Năm 1174, ông đã áp đặt sự cai trị của mình vào Damascus, quyền lực của ông kéo dài đến Aleppo vào năm 1176 và Mosul vào năm 1183. Lần đầu tiên, Vương quốc Jerusalem bị bao quanh bởi một lãnh thổ thống nhất của người Hồi giáo dưới sự cai trị của duy nhất một quân vương. Quân viễn chinh đã đánh bại Saladin ở Trận Montgisard trong năm 1177, và trong những năm đầu của thập kỷ 1180 hai bên đã có một thỏa thuận ngừng bắn mà nó vốn không làm thỏa mãn cả hai phe, rồi thỏa thuận này bị phá vỡ bởi các cuộc đột kích của Raynald vào các đoàn xe Hồi giáo đi qua lãnh địa của ông ở Oultrejordain. Raynald lại còn đe dọa sẽ tấn công vào chính thánh địa Mecca của người Hồi giáo.

    Khi Guy trở thành vua, Raymond đã thực hiện một thỏa thuận ngừng bắn riêng rẽ với Saladin và năm 1187 cho phép quốc vương Hồi giáo gửi một đội quân vào phía bắc của vương quốc Jerusalem. Đồng thời, lúc đó có một phái đoàn đang trên đường từ Jerusalem đến Tripoli để thương lượng một cuộc hòa giải giữa Raymond và Guy. Phái đoàn này đã bị đánh bại tại trận Cresson vào tháng 1, bởi một lực lượng nhỏ dưới sự chỉ huy của Al-Afdal. Raymond ăn năn với tội lỗi của mình ( vì đã để cho người Hồi giáo vượt qua đất của mình và đột kích vào Jerusalem) đã tìm cách hòa giải với Guy, người lúc này đang tập hợp toàn bộ quân đội của vương quốc và tiến về phía Bắc để ứng chiến với Saladin.

    Cuộc vây hãm Tiberias

    Sau khi hòa giải, Raymond và Guy đã gặp nhau ở Acre với số lượng lớn của quân đội thập tự chinh. Theo tuyên bố của một số nguồn tin châu Âu, đội quân này bao gồm 1.200 hiệp sĩ, một số lượng lớn kỵ binh hạng nhẹ và có lẽ có tới 10.000 lính bộ binh bao gồm cả lính bắn nỏ vốn được bổ sung từ các hạm đội thương đoàn của Ý cùng một số lượng lớn lính đánh thuê ( lính cung kỵ Turcopoles khả năng là người Thổ?) với tiền thuê được tài trợ bởi quốc vương Henry II của nước Anh. Ngoài ra họ còn mang theo với quân đội thánh tích của True Cross bởi giám mục của Acre, mang nó thay cho giáo trưởng Heraclius ốm yếu.

    Ngày 02 tháng 7, Saladin muốn thu hút Guy di chuyển quân đội của ông ta ra khỏi Saffuriya nên bản thân ông đã dẫn đầu một cuộc bao vây của pháo đài của Tiberias Raymond, trong khi lực lượng chính của quân Hồi giáo đã ở lại Kafr Sabt. Các đơn vị đồn trú tại Tiberias tìm cách trả tiền cống nộp cho Saladin nhưng ông đã từ chối. Pháo đài bị thất thủ trong cùng ngày hôm đó, một tháp canh bị đào hầm và nó đã sụp đổ, quân của Saladin xông vào và chỉ chém giết những người còn cố gắng chống cự số còn lại thì bắt tù binh.

    Eschiva-vợ của Raymond bị bao vây trong tòa thành này. Và khi việc đào hầm được bắt đầu để phá các bức tường thành, Saladin đã nhận được thông tin là Guy đã cho di chuyển quân đội người Frank ( người Hồi giáo gọi chung những Thập tự quân đến từ châu Âu là người Frank) của mình về phía Đông. Vị thủ lĩnh Thập tự quân đã bị mắc bẫy.

    Quyết định của Guy rời khỏi hệ thống phòng thủ an toàn của ông cũng là kết quả của một cuộc họp của hội đồng chiến tranh của Thập tự quân được tổ chức vào đêm ngày 02 tháng 7. Mặc dù các báo cáo về những gì đã xảy ra tại cuộc họp này là bị ảnh hưởng bởi thành kiến do mối hận thù cá nhân giữa những người Frank, có vẻ như Raymond đã lập luận rằng một cuộc hành binh từ Acre để đến Tiberias chính xác là những gì mà Saladin mong muốn trong khi Sephoria là một vị trí mạnh mẽ cho quân Thập tự chinh để phòng thủ. Hơn nữa, Guy không nên lo lắng về Tiberias vì đây chỉ là một tài sản cá nhân của Raymond và sẵn sàng từ bỏ nó vì sự an toàn của vương quốc. Để đối phó với lập luận này, và mặc dù đã có sự hòa giải giữa họ (phe Triều đình mạnh hơn), Raymond đã bị buộc tội hèn nhát bởi Gerard và Raynald. Hai người kia đã gây ảnh hưởng vào Guy để ông này hạ lệnh tấn công ngay lập tức.

    Do đó Guy ra lệnh cho quân đội hành quân để tấn công vào Saladin ở Tiberias, đó thực sự là những gì mà Saladin đã lên kế hoạch, vì ông đã tính toán rằng đánh bại quân viễn chinh chỉ trong một trận trên chiến trường thì dễ dàng hơn là đào công sự bao vây của họ.

    Trận chiến


    Quân viễn chinh bắt đầu hành quân từ Sephoria vào ngày 03 tháng 7. Raymond dẫn đầu đội tiên phong; Guy chỉ huy đội trung quân còn Balian, Raynald và các Hiệp sỹ thánh chiến thì tạo thành các hậu đội. Các quân viễn chinh đã gần như ngay lập tức bị theo đuôi và quấy rối từ các khinh binh của Hồi giáo từ trên lưng ngựa.

    Vẫn còn chín dặm nữa (14 km) mới đến được Tiberias. Mới chỉ hành quân được có nửa ngày, bất kỳ mọi cố gắng để đi tìm nguồn nước chắc chắn sẽ chở thành mục tiêu ( của người Hồi giáo ) trong ngày hôm đó, trong khi họ vẫn phải chịu đựng các cuộc tấn công quấy rối liên tục của quân đội của Saladin, thật quá là dại dột. (Năm 1182 quân đội Frank chỉ có thể tiến 8 dặm (13 km) trong một ngày để đối mặt với đối phương và năm 1183 Guy đã rất cố gắng nhưng chỉ tiến được sáu dặm (10 km) trong một tình huống tương tự, trong một ngày.) Tuy nhiên, là Saladin đã viết, "quỷ Satan đã xúi giục Guy làm những gì đi ngược lại mục đích của mình." Đó là, vì lý do gì không rõ, Guy tiếp tục ra lệnh trong buổi chiều hôm đó, tiếp tục tiến binh về phía trước và về phía Tiberias.

    Trong các trận giao tranh sau đó, hậu đội của quân Frankish đã bị buộc phải ngừng lại bởi các cuộc tấn công liên tục và do đó đã giữ cho toàn bộ quân đội của họ phải đóng trên cao nguyên. Do đó quân viễn chinh bị buộc phải hạ trại và họ lúc này hoàn toàn bị bao quanh bởi người Hồi giáo. Vào lúc này họ hoàn toàn không còn nước uống cũng không hy vọng nhận được bất kỳ quân nhu hay tiếp viện.

    Sáng ngày 04 tháng 7, quân viễn chinh đã bị mất tầm nhìn do khói từ các đám cháy mà lực lượng của Saladin đã đốt để thêm vào đau khổ cho quân đội của người Frank, qua các làn khói này kỵ binh Hồi giáo đã bắn vào họ 400 bó tên vốn đã được đưa đến trong buổi đêm. Gerard và Raynald khuyên Guy tạo thành đường chiến đấu và tấn công và nó đã được thực hiện bởi Amalric- anh trai của Guy. Raymond chỉ huy đạo quân đầu tiên với Raymond của Antioch, con trai của Bohemund III của Antioch, trong khi Balian và Joscelin III của Edessa tạo nên các hậu đội. Trong khi việc ngày được tiến hành có năm hiệp sĩ của Raymond đã đào thoát sang phía Saladin và kể với họ về tình hình khủng khiếp trong doanh trại của quân thập tự chinh.

    Quá khát và mất tinh thần, quân viễn chinh đã bỏ trại của họ và đổi hướng quay về khúc đường cong ở Hattin, nhưng các đợt tấn công của họ rất lẻ tẻ và bị nghiền nát bởi quân đội của Saladin đang chặn đường và không cho phép xẩy ra bất cứ một cuộc rút lui nào. Bá tước Raymond tung ra hai đợt tấn công trong một nỗ lực để đột phá và để tìm nguồn cung cấp nước tại Biển Galilee. Sau đợt tấn công lần thứ 2 ông thấy mình bị cắt ra khỏi đội quân chính và bị buộc phải rút lui. Hầu hết các lính bộ binh của quân thập tự chinh đã bỏ chạy bằng cách di chuyển trên các sừng của Hattin. Guy đã cố gắng một lần nữa để ngăn chặn kỵ binh Hồi giáo, nhưng vì không có bộ binh bảo vệ ngựa của các hiệp sĩ đã bị bắn hạ bởi các cung thủ Hồi giáo và thế là các kỵ binh đã buộc phải bỏ ngựa để chiến đấu. Sau đó, họ cũng rút về phía Horns.

    Giờ đây, quân viễn chinh đã bị bao vây và, mặc dù họ đã tung ra ba cuộc phản công đầy tuyệt vọng vào vị trí của Saladin, cuối cùng tất cả các cuộc phản công này đều đã bị đánh bại. Một tài liệu được ghi lại bởi nhân chứng của sự kiện này-chính là al-Afdal, con trai của Saladin. Được trích dẫn bởi Ibn al-Athir:

    Khi vua của người Frank [Guy] rút lên trên ngọn đồi với binh lính của ông ta, họ đã tiến hành một đợt xung phong cực kỳ ghê gớm vào những người Hồi giáo phải đối mặt với họ, và họ đã xua được những người này ( người Hồi giáo ) xuống chỗ của cha tôi [Saladin]. Tôi nhìn về phía ông và ông đã khắc chế được sự lo lắng ( sợ người Thập tự chinh phá được vây ) và da của ông xám lại. Ông đã giữ lấy bộ râu của mình rồi tiến lên và hô to "Hãy bắt Quỷ dữ nằm xuống!" người Hồi giáo tập hợp, quay trở lại để chiến đấu và leo lên ngọn đồi. Khi tôi thấy rằng người Frank rút lui và bị truy đuổi bởi những người Hồi giáo, tôi hét lên vì vui mừng, "Chúng tôi đã đánh bại họ!" Tuy nhiên, người Frank đã tập hợp lại và lại tấn công một lần nữa cũng dữ dội như lần đầu tiên rồi lại đẩy người Hồi giáo xuống chỗ cha tôi. Ông lặp lại hành động như ông đã làm vào lần đầu tiên và người Hồi giáo lại quay lại và đẩy người Frank trở lại ngọn đồi. Tôi lại hét lên, "Chúng ta đã đánh bại họ!" nhưng cha tôi nhìn thẳng vào tôi và nói, "Hãy yên lặng đi! Chúng ta vẫn chưa đánh bại họ cho đến khi chiếc lều [của Guy] đổ xuống" Đúng lúc ông đang nói chuyện với tôi, thì chiếc lều đổ xuống. Nhà vua xuống ngựa và làm lễ lạy tạ ơn Chúa Toàn Năng
    và khóc trong niềm vui sướng.

    Hậu quả


    Người Hồi giáo đã chiếm được chiếc lều hoàng gia của vua Guy, cũng như chiếc Thánh tích True Cross sau khi Đức Giám mục của Acre bị giết trong cuộc chiến. Các tù binh bao gồm Guy, Amalric II-anh trai của ông, Raynald, William V của Montferrat, Gerard de Ridefort, Humphrey IV của Toron, Hugh của Jabala, Plivain của Botron, Hugh của Gibelet, và nhiều người khác. Có lẽ chỉ khoảng 3.000 Kitô hữu chạy thoát khỏi chiến trường. Tài liệu ẩn danh De Expugnatione Terrae Sanctae per Saladinum Libellus cho rằng Raymond, Joscelin, Balian và Reginald của Si-đôn đã chạy trốn khỏi bãi chiến trường vào lúc giữa trận đánh và chà đạp lên cả "các Kitô hữu, người Thổ Nhĩ Kỳ và cả thập giá" trong quá trình chạy trốn, nhưng điều này không được chứng thực bởi các tài liệu khác và phản ánh thái độ thù địch của tác giả với Polein-phe quý tộc của Raymond xứ Tripoli.

    Những kẻ bị giam cầm đã kiệt sức được đưa đến lều của Saladin, nơi Guy được mời một cốc nước đá như thể hiện một dấu hiệu của sự hào phóng của Saladin. Khi Guy chuyển chiếc cốc cho Raynald-người đồng bào của ông, Saladin đã cho phép ông già này uống (Raynald đã khoảng 60 tuổi), nhưng ngay sau đó nói rằng ông không muốn mời nước cho Raynald và không bị ràng buộc bởi các quy tắc hiếu khách của người Hồi giáo. Khi Saladin buộc tội Raynald phá bỏ lời tuyên thệ ( về hiệp ước đình chiến trước đó ), Raynald trả lời " các vị vua vẫn luôn luôn hành động như vậy, tôi cũng làm như vậy. Không có gì hơn." sau đó Saladin tự tay chặt đầu Raynald và chặt đầu ông ta bằng thanh kiếm của mình. Guy quỳ xuống ( để đợi bị chặt đầu) khi nhìn thấy xác chết của Raynald nhưng Saladin ra lệnh cho binh lính của mình đỡ ông ta đứng lên, nói rằng "người đàn ông này đã bị giết chết chỉ vì bản tính tàn ác và sự phản trắc của mình."

    Thánh tích True Cross đã bị đóng lộn ngược trên đầu một giáo và được gửi tới Damascus. Một số người của Saladin lúc này rời khỏi quân ngũ, mang theo các tù nhân người Frank với họ như những nô lệ.

    Ngày chủ nhật mùng 5 tháng bảy, Saladin hành quân thêm sáu dặm (10 km) để chiếm Tiberias và Nữ bá tước Eschiva đã ra lệnh cho chiếc pháo đài của thành phố đầu hàng. Bà ta được phép rời đến Tripoli với tất cả gia đình và tài sản. Raymond của Tripoli, sau khi thoát khỏi trận chiến đã chết vì viêm màng phổi vào cuối năm 1187 ( khả năng bác này hít quá nhiều khói trong trận đánh ).

    Ngày thứ hai mùng 6 tháng 7, hai ngày sau khi trận chiến nổ ra, Các tù binh là hiệp sỹ dòng Đền ( Templar ) và Hiệp sỹ cứu tế ( Hospitaller) có cơ hội để chuyển đổi sang đạo Hồi ( khả năng là có ít người xin chuyển, đa số nhận cái chết).

    Cuộc hành quyết được tiến hành (một trong chỉ hai mệnh lệnh hành quyết tù nhân được ra lệnh bởi Saladin). Trong một hành động để tỏ tình đoàn kết, nhiều người trong số các thập tự quân bị bắt cũng nhận làm hiệp sĩ Templar, để người của Saladin chặt luôn đầu của họ. Saint Nicasius, một Hiệp sỹ cứu tế (Hospitaller Knight) được tôn kính như là một liệt sĩ của Kitô giáo, được cho là một trong những nạn nhân. Guy được đưa tới Damascus như là một tù nhân và những người khác cuối cùng đã được chuộc. Đến giữa tháng Chín, Saladin đã chiếm Acre, Nablus, Jaffa, Toron, Sidon, Beirutn và Ascalon. Tyre được cứu bởi sự xuất hiện bất ngờ của Conrad của Montferrat. Jerusalem đã được bảo vệ bởi Nữ hoàng Sibylla, Giáo trưởng Heraclius và Balian, người sau đó thương lượng đầu hàng của Jerusalem với Saladin trong ngày 02 tháng 10

    Tin tức về sự thất bại thảm hại tại Hattin được đưa đến châu Âu bởi Joscius, Đức-giám-mục của Tyrre, cũng như những người hành hương khác. Kế hoạch đã ngay lập tức thực hiện cho một cuộc thánh chiến mới; Giáo hoàng Gregory VIII đã ban hành sắc lệnh Au***a tremendi và ở Anh và Pháp thuế thập phân Saladin đã được ban hành để tài trợ chi phí của cuộc Thập tự chinh mới.

    Tuy nhiên cuộc Thập tự chinh lần thứ ba đã không được tiến hành cho đến năm 1189, nó cũng đã tạo ra ba đội ngũ Thập tự quân riêng biệt do Richard Lionheart, Philip Augustus, và Frederick Barbarossa chỉ huy.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trận chiến

    Saladin tiếp tục cuộc hành binh của ông về hướng Jerusalem và nghĩ rằng Baldwin sẽ không dám bám theo ông chỉ với một toán quân lèo tèo vài người như vậy. Ông đã tấn công các vùng Ramla, Lydda và Arsuf, nhưng vì cho rằng Baldwin không phải là một mối nguy hiểm, ông cho phép quân đội của mình dàn trải ra trên một diện tích lớn để cướp bóc và tìm kiếm lương thực. Tuy nhiên, Saladin lại chưa biết rằng lực lượng mà ông để lại để ngăn chặn vị vua của Jerúalem là không đủ và bây giờ cả Baldwin và các Hiệp sỹ Templar đã hành quân để đánh chặn ông ta ( Saladin) trước khi ông tới được Jerusalem.
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc vây hãm Jerusalem (1187)



    Cuộc vây hãm Jerusalem đã diễn ra từ ngày Ngày 20-02 tháng 10, 1187. Nó dẫn đến sự tái chiếm của Jerusalem của Saladin, và làm sụp đổ gần như toàn bộ Vương quốc Jerusalem của quân thập tự chinh. Điều này đã kích động cuộc Thập tự chinh lần thứ ba bằng cách tạo ra mục tiêu chính của nó - chiếm lại Jerusalem cho người Thiên Chúa giáo lần thứ hai.

    Bối cảnh


    Vương quốc Jerusalem, bị suy yếu do tranh chấp nội bộ, đã hoàn toàn đánh bại trong trận Hattin vào ngày 04 tháng 7 năm 1187. Hầu hết các quý tộc của vương quốc này đã bắt làm tù binh, trong đó có vua Guy và trong suốt mùa hè Saladin nhanh chóng tràn vào vương quốc. Đến giữa tháng 9, Saladin đã chiếm được Acre, Nablus, Jaffa, Toron, Sidon, Beirut và Ascalon. Những người sống sót trong những trận chiến và người tị nạn khác đã trốn sang Tyre, thành phố chỉ có thể cầm cự chống lại Saladin do có sự xuất hiện bất ngờ của Conrad của Montferrat.

    Tình hình tại Jerusalem


    Tại Tyre, Balian của Ibelin đã yêu cầu Saladin cho ông ta đến Jerusalem an toàn để đón vợ là Maria Comnena và gia đình của họ. Saladin chấp nhận yêu cầu của ông, miễn là Balian không cầm vũ khí để chống lại ông và không ở Jerusalem nhiều hơn một ngày. Tuy nhiên, khi đến thành phố thánh, giáo trưởng Heraclius, Nữ hoàng Sibylla và những người dân còn lại xin ông phụ trách bảo vệ thành phố. Heraclius-người đã lập luận rằng ông phải ở lại vì lợi ích của Kitô giáo cấp sự tha thứ cho việc ông vi phạm lời thề và Balian đã đồng ý.

    Ông đã gửi tin nhắn về quyết định của mình đến Saladin ở Ascalon, thông qua một đại diện của tầng lớp thị dân, những người đã từ chối lời đề nghị của quốc vương Hồi giáo về một cuộc thương lượng cho sự đầu hàng của Jerusalem. Tuy nhiên, Saladin vẫn bố trí một đội hộ tống để đưa Maria cùng con cái và tất cả gia đình của họ đến Tripoli. Bởi vì ông ta là lãnh chúa có thứ hạng cao nhất còn lại ở Jerusalem, theo nhà sử gia Ibn al-Athir, Balian được nhìn thấy bởi những người Hồi giáo như là đang nắm giữ vị trí "ít nhiều ngang ngửa với một vị vua."

    Balian thấy tình hình ở Jerusalem cực kỳ thảm khốc. Thành phố lúc này đầy ắp những người tị nạn chạy trốn khỏi cuộc chinh phục của Saladin và tiếp tục kéo đến đông hơn hàng ngày. Có ít hơn mười bốn hiệp sĩ trong toàn thành phố, do đó, ông đã phong sáu mươi hiệp sĩ mới từ cấp bậc Squiresvõ-sinh thực tập (con cái những quý tộc muốn chở thành Hiệp sỹ phải đi làm võ sinh cho một Hiệp sỹ càng danh tiếng càng tốt) và thị dân. Ông chuẩn bị lưu trữ thực phẩm và tiền bạc cho một cuộc vây hãm không thể tránh khỏi do. Quân đội của Syria và Ai Cập đã được dưới sự chỉ huy của Saladin và sau một cuộc bao vây ngắn vào Tyre không thành công, quân đội của Sultan đã đến bên ngoài Jerusalem vào ngày 20.

    Người ta không biết Saladin đã mang đến Jerusalem bao nhiêu binh sĩ. Một số người tin rằng quốc vương Hồi giáo đã tập trung quân Hồi giáo, những người còn sống sót tại Horn của Hattin, cùng với một vài ngàn binh sĩ khác đến từ Syria và Ai Cập. Nhưng những người khác lại tin rằng những con số có thể đã lên tới 200.000 người, đó là số binh sĩ lớn nhất mà Saladin có trong toàn bộ quân đội của mình.

    Trận vây hãm


    Các cuộc đàm phán đã được tiến hành giữa Saladin và Balian, thông qua sự trung gian của Batit Yusuf, một trong những giáo sĩ củaChính thống giáo phương Đông, phần lớn trong số họ bị đàn áp bởi sự cai trị của Thiên chúa giáo La tinh và biết rằng họ sẽ có nhiều quyền tự do hơn nếu thành phố được trả lại cho người Hồi giáo. Saladin muốn có thành phố mà không có đổ máu, nhưng những người bên trong lại từ chối rời khỏi thành phố thánh của họ, và họ thề sẽ phá hủy nó trong chiến đấu cho đến chết còn hơn là nhìn thấy nó được chuyển giao một cách hòa bình. Do đó cuộc bao vây được bắt đầu.

    Quân đội của Saladin đã phải đối mặt với Tháp David và cổng Damascus. Các cung thủ của ông liên tục dội tên vào hệ thống đồn lũy kiên cố. Mỗi lần.những chiếc Tháp công thành được đẩy về phía các bức tường nhưng lại bị đẩy trở lại. Trong sáu ngày, các cuộc giao tranh đã có kết quả là hàng ngàn người Hồi giáo và Saracens thiệt mạng. Ngày 26 tháng 9, Saladin đã cho di chuyển trại của mình đến một phần khác của thành phố, trên núi Olives, nơi không có cửa chính mà từ đó quân viễn chinh có thể phản công. Các bức tường được liên tục bị bắn phá bởi các máy công thành catapult, mangonel, petrary, lửa Hylạp, cung nỏ... Một phần của bức tường đã bị đào hầm và nó sụp đổ vào ngày 29. Quân viễn chinh đã không thể đẩy quân đội của Saladin trở vị trí ban đầu nhưng đồng thời người Hồi giáo không thể chiếm được lối vào thành phố. Người Hồi giáo lúc này đông hơn quân viễn chinh nhiều lần và ( Quân thập tự chinh ) chỉ còn có độ hai tá hiệp sĩ và một số binh sỹ còn lại có khả năng mang vũ khí và bảo vệ các bức tường, không còn tìm ra nhiều người nữa ngay cả khi hứa trả một khoản tiền rất lớn.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Một số lớn thường dân đã tỏ ra cực kỳ tuyệt vọng. Theo một đoạn văn có thể được viết bởi Ernoul, một võ sinh của Balian, trong bản Old French Continuation of của William xứ Tyre, các giáo sĩ đã tổ chức một đám rước chân trần trên các bức tường, nhiều giáo sĩ tham gia vào cuộc Thập tự chinh đầu tiên cũng đã tiến hành một đám rước chân trần bên ngoài các bức tường năm 1099. Tại Mount Calvary, phụ nữ trẻ em cắt tóc của họ, sau khi ngâm chúng sâu tới cằm trong những chậu nước lạnh. Những hành động thể hiện sự sám hối được nhằm chuyển cơn thịnh nộ của Thiên Chúa ra khỏi thành phố, nhưng " ... Chúa Giêsu đã không đoái hoài đến để nghe những lời cầu nguyện hoặc tiếng ồn đã được thực hiện trong thành phố nghìn năm. Đối với mùi hôi thối của tội ngoại tình, sự kinh tởm của lãng phí và các tội khác chống lại con người sẽ không làm cho lời cầu nguyện của họ đến được tai của Thiên Chúa. "

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Các cuộc đàm phán giữa Balian và Saladin

    Vào cuối tháng Chín, Balian đã cử ra một sứ giả để đáp lại yêu cầu của quốc vương Hồi giáo, đó chính là việc đầu hàng mà ông đã bước đầu từ chối. Saladin đã không chấp nhận sự đàn phán này vì có thể thấy rằng khi họ đang nói chuyện thì người của ông ( Saladin) tiếp tục bắn phá các bức tường và lại tiến lên với những chiếc thang của họ. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau thập tự quân lại đẩy lùi được cuộc tấn công của họ. Saladin bằng lòng, và hai đồng ý rằng thành phố sẽ được bàn giao cho Saladin một cách hòa bình, và tìm cách ngăn ngừa các cuộc thảm sát hàng loại đã xảy ra khi quân viễn chinh chiếm thành phố vào năm 1099. Vị sultan nhận được một khoản tiền chuộc hai mươi đồng bezant cho nam giới, mười đồng cho phụ nữ, và năm đồng cho trẻ em, nhưng những người không thể trả được sẽ bị bán làm nô lệ. Balian lập luận rằng yêu cầu này là vô nghĩa vì có nhiều người không thể trả nổi tiền, có lẽ có đến 20.000 người tị nạn từ các nơi khác đến tại vương quốc này.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sau khi ( Balian) trở về Jerusale, người ta đã quyết định rằng bảy ngàn trong số những người dân nghèo có thể được chuộc từ tiền lấy ra từ kho bạc mà vua Henry II của Anh quốc đã lập nên ở đó, vốn dĩ kho bạc này được bảo vệ bởi các Hospitaller ( Hiệp sỹ cứu tế). Tiền này được sẽ sử dụng bởi Henry cho một cuộc hành hương hay một cuộc thánh chiến, trong việc đền tội cho cái chết của Thomas Becket ( còn cụ thể là ntn thì lại phải xem tiểu sử của Henry II của Anh quốc) nhưng nhà vua không bao giờ đến Jerusalem và một phần ngân quỹ đã được sử dụng để trả tiền cho lính đánh thuê trong trận Hattin.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Balian và Saladin lại gặp một lần nữa và lần này vị quốc vương Hồi giáo đã đồng ý giảm khoản tiền chuộc xuống mười bezant cho một người nam giới, năm cho phụ nữ, và một cho trẻ em. Balian vẫn cho rằng thế là quá lớn và Saladin đề nghị một khoản tiền chuộc là 100.000 bezant cho tất cả các cư dân. Balian vẫn nói là điều không thể và Saladin nói rằng ông sẽ đòi tiền chuộc bảy ngàn người không thấp hơn 50.000 bezant. Cuối cùng, cả hai đã quyết định phí để trả cho Saladin để có sự tự do của bảy ngàn người là 30.000 bezants; hai người phụ nữ hoặc mười trẻ em sẽ được phép thay thế bởi một người đàn ông cho cùng một giá ( tức là cứ một người đàn ông chấp nhận bị bắt làm nô lệ sẽ cứu được 2 phụ nữ hoặc 10 trẻ em – đã số binh lính của Jerusalem đã chấp nhận làm điều này).

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Jerusalems đầu hàng

    Balian bàn giao chìa khóa của tháp David, các thành lũy vào ngày 02 tháng 10. Người ta đã được thông báo rằng mọi người dân có khoảng một tháng để trả tiền chuộc của họ, nếu họ có thể (độ dài của thời gian có lẽ là 3-50 ngày, tùy thuộc vào nguồn). Saladin đã hào phóng và giải phóng một số trong những người bị buộc làm nô lệ; anh trai của ông Saphadin cũng làm như vậy ( tiền chuộc được chia cho từ vua đến lính Hồi giáo-về phần của Saladin ông đã không nhận tiền), và cả Balian và Heraclius tìm cách giải phóng nhiều người khác với tiền riêng của họ. Họ đã tự làm con tin cho các công dân còn lại (ít nhất là vài nghìn người) vì không có tiền chuộc để trả nhưng Saladin đã từ chối.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Saladin cho phép cho một cuộc ra đi trong trật tự từ Jerusalem. Các cư dân đã trả tiền chuộc đi trong ba cột; các Hiệp sỹ Templar và Hospitaller dẫn đầu hai cột đầu tiên còn Balian và vị giáo trưởng dẫn đầu cột thứ ba. Balian được phép đoàn tụ với gia đình nhà vợ và sống ở Tripoli. Heraclius đã được cho là có sơ tán một số bảo vật của nhà thờ và các hòm đựng thánh tích theo nhà sử gia Hồi giáo Imad ad-Din al-Isfahani mặc dù ông đã góp phần vào việc quyên góp tiền chuộc.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Saladin cho phép người Kitô giáo được hành hương tới Jerusalem, và cho phép Nhà thờ của Thánh Sepulchre vẫn còn thuộc về Thiên chúa giáo. Để quảng bá tuyên bố của Hồi giáo về Jerusalem, nơi có nhiều địa điểm mang tính Đất thánh bao gồm những được gọi là Đền thờ Hồi giáo Al-Aqsa Mosque đã được tiến hành nghi thức thanh tẩy với nước hoa hồng. Ông ( Saladin ) tiếp tục chiếm giữ một số pháo đài khác vẫn ra sức chống lại ông ta, bao gồm cả Belvoir, Kerak và Montreal và quay lại Tyre để bao vây nó lần thứ hai.

    Cùng với thất bại thảm hại của Quân Thập tự chinh ở trận Hattin, sự sụp đổ của Vương quốc Jerusalem đã làm chấn động châu Âu thời bấy giờ. Thậm chí người ta nói rằng khi nghe tin
    Jerusalem thất thủ Giáo hoàng Urban III đã ngã lăn ra chết vì đau tim. Nhà thờ Thiên chúa giáo Tây Âu sôi lên sùng sục để kêu gọi một cuộc thập tự chinh lần thứ 3, và sau 2 năm chuẩn bị cuộc thập tự chinh lần thứ 3 đã được bắt đầu bởi 3 nhà lãnh đạo của 3 vương quốc Thiên chúa giáo hùng mạnh nhất Tây Âu, đó là: Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Richard Lionheart của Ang quốc, Philip Augustus của Pháp quốc, và Frederick Barbarossa của Đức quốc. Nhưng tiếc thay ba người này lại chẳng ưa gì nhau mà có khi họ lại ghét nhau hơn cả ghét người Hồi giáo, kết quả là cuộc Thập tự chinh lần thứ 3 lại thất bại.

    Một số cảnh cuộc vây hãm Jerusalem lấy từ bộ phim cùng tên



    [​IMG]
    Balian ( do Orlando Boom đóng) quý tộc cao cấp nhất còn lại ở Jerusalem


    [​IMG]
    [/FONT][FONT=&quot] được nhân dân nhân dân chọn làm lãnh đạo của cuộc phòng thủ[/FONT]
    [FONT=&quot]

    và ông ta đã tiến hành phong Hiệp sỹ cho khoảng 60 binh sỹ và thị dân
    [​IMG]


    [/FONT][FONT=&quot][​IMG][/FONT]
    và quân Thiên chúa giáo hối hả chuẩn bị phòng thủ



    [FONT=&quot] [​IMG]
    Quân Hồi giáo tổ chức công phá tường thành vào ban đêm


    [​IMG]
    Các bức tường thành ở phía tháp David liên tục bị công phá


    [​IMG]
    Toàn bộ tòa thành
    [/FONT][FONT=&quot] chìm trong khói lửa[/FONT]
    [FONT=&quot]

    [​IMG]
    Quân hồi giáo tổ chức xung phong



    [​IMG]
    Với rất nhiều Tháp công thành


    [​IMG]
    Balian chỉ huy quân Thiên chúa giáo thủ thành rất vững, quân hồi giáo không thể chiiếm n
    [/FONT][FONT=&quot]ổi các bức tường thành[/FONT]
    [FONT=&quot]

    [​IMG]
    Saladin ra lệnh cho các tướng lĩnh của mình tìm một chỗ mà tường thành ở đó yếu nhất, đó chính là điểm đồi Olives



    [​IMG]
    và tăng cường công phá vào đây


    [​IMG]
    Phía bên trong bức tường thành quân Thiên chúa giáo cũng đã tập họp


    [​IMG]
    để sẵn sàng tử chiến


    [​IMG]
    Sau khi bức tường thành đổ sụp thì quân Hồi giaó tràn vào


    [​IMG]
    nhưng bị đánh chặn quyết liệt


    [/FONT][FONT=&quot][​IMG][/FONT]
    [FONT=&quot]Sau những trận xung phong dữ dội quân hai bên tử vong rất nhiều[/FONT]
    [FONT=&quot]

    [​IMG]
    Nhưng cửa mở vẫn thuộc về quân Thiên chúa giáo


    [​IMG]
    Balian phải bước qua xác binh lính hai bên


    [​IMG]
    để đàn phán với Saladin về sự đầu hàng của Jerusalem


    [​IMG]
    cuối cùng thỏa thuận đã đạt được và người Hồi giáo chiếm lại thành phố



    [​IMG]
    Còn người Thiên chúa giáo được phép ra đi trong hòa bình ( nhưng không phải là tất cả)
    [/FONT]
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Balian của Ibelin

    Balian của Ibelin (đầu những năm 1140-1193) là một nhà quý tộc quan trọng trong vương quốc Jerusalem của quân thập tự chinh trong thế kỷ 12.

    Tuổi trẻ


    Sau cái chết của người anh trai cả của Balian tên là Hugh năm 1169, lâu đài của nhà Ibelin được truyền lại cho Baldwin- em trai kế tiếp của ông này. Nhưng Baldwin lại thích ở lại lãnh chúa của Ramla nên đã trao nó cho Balian. Balian nhận Ibelin và chở thành một chư hầu của anh trai mình và gián tiếp chở thành một chư hầu của nhà vua Jerusalem kể từ khi Baldwin tiếp tục giữ Ramla.

    Tranh chấp thừa kế ngai vàng của Jerusalem


    Baldwin hỗ trợ Raymond III của Tripoli trong phe đ.ả.ng quý tộc Miles of Plancy như là nhiếp chính cho vua Baldwin IV năm 1174 và năm 1177 anh em họ đã có mặt tại trận Montgisard, nơi mà đội tiên phong hàng đầu đã xung phong và đánh thắng những vị trí mạnh nhất trong đội hình của quân Hồi giáo. Năm đó Balian kết hôn với Maria Comnena, góa phụ của vua Amalric I và trở thành cha dượng của công chúa Isabella ( con riêng của Maria Comnena). Ông đã nhận được lãnh địa Nablus, vốn được coi như một món quà cho Maria sau cuộc hôn nhân với Amalric. Năm 1179, Baldwin đã bị bắt bởi Saladin sau trận của Ford Jacob và Balian đã giúp thu xếp để lo tiền chuộc cho anh trai mình và ông này được thả vào năm sau, cuối cùng tiền chuộc đã được trả bởi Hoàng đế Byzantine Manuel I Comnenus, chú của Maria.

    Năm 1183 Balian và Baldwin ủng hộ Raymond chống lại Guy của Lusignan, chồng của Sibylla của Jerusalem và lúc này ( Guy) đã chở thành nhiếp chính của Baldwin IV, người đã chết vì bệnh phong. Nhà vua mới 5 tuổi cháu của ông Baldwin của Montferrat cũng được đăng quang làm vua ( mặc dù Baldwin IV chưa chết nhưng Baldwin V đã được đăng quang làm vua) trong một nỗ lực để ngăn chặn Guy thừa kế làm vua. Ngay trước khi qua đời vào mùa xuân 1185, Baldwin IV đã ra lệnh chính thức ra lệnh đội vương miện cho cháu trai của ông tại Nhà thờ Thánh Sepulchre. Trong đó Balian-một người đàn ông cao một cách đáng chú ý-người mang cậu bé con Baldwin V trên vai của mình tại buổi lễ, đánh dấu sự hỗ trợ của gia đình Isabella cho cháu trai của cô. Ngay sau đó, ở 8 tuổi cậu bé đã trở thành vị vua duy nhất (Baldwin IV chết). Và rồi thì nhà vua trẻ tuổi Baldwin V cũng chết nốt trong 1186, Balian và Maria, với sự hỗ trợ của Raymond, đã đưa ra Isabella-con gái của Maria, sau đó khoảng 14, như là một ứng cử viên cho ngai vàng. Tuy nhiên, Humphrey IV của Toron-chồng cô bé đã từ chối vương miện và thề trung thành với Guy. Balian cũng phải miễn cưỡng tỏ lòng tôn kính với Guy, trong khi anh trai của ông từ chối không làm như vậy và bị đi đày tới Antioch. Baldwin giao mhiệm vụ cho Balian nuôi dạy Thomas-con trai ông và sẽ là vua tương lai của Ramla, người không đi cùng với cha mình đến Antioch. ( và thực sự thì đúng Guy của Lusignan là kẻ bất tài nên đã dẫn đến thảm bại ở Hattin và sau đó là sự sụp đổ của Vương quốc Jerusalem)


    Hòa giải tranh chấp giữa Raymond và Guy


    Balian vẫn ở vương quốc Jerusalem như là một cố vấn cho Guy. Vào cuối năm 1186 Saladin đã trở thành quốc vương Hồi giáo của Ai Cập và Damascus, đã đe dọa biên giới của vương quốc sau khi đồng minh của Guy là Raynald của Châtillon, lãnh chúa của Oultrejordain, đã tấn công một đoàn người Hồi giáo. Saladin đã liên minh với các đơn vị đồn trú của Tiberias ở phía bắc của vương quốc, một lãnh thổ được nắm giữ bởi Raymond III. Guy tập hợp quân đội của mình ở Nazareth và lên kế hoạch để bao vây Tiberias, nhưng Balian không đồng ý với điều này và thay vào đó ông cho rằng Guy nên cử một sứ giả đến chỗ Raymond ở Tripoli, hy vọng cả hai có thể hòa giải trước khi Guy lại thực hiện một cuộc tấn công điên cuồng lớn hơn vào quân đội của Saladin. Đoàn thương thuyết đầu tiên đã thất bại và tình hình vẫn không thay đổi trong suốt những tháng đầu 1187. Sau sau lễ Phục Sinh năm đó, Balian, Gerard của Ridefort ( Đại thủ lĩnh của Knights Templar), Roger des Moulins(Đại thủ lĩnh của Hiệp sĩ Hospitaller ), Reginald của Sidon và Joscius Đức Tổng-Giám-Mục của Tyre đã được đến như là một đoàn thương thuyết mới tới Tripoli . Trong suốt cuộc hành trình của họ dừng lại ở Nablus-thái ấp của Balian và Balian có kế hoạch ở lại đó một thời gian ngắn trong khi những người khác vẫn tiến về phía trước. Ngày 01 Tháng 5, các Hiệp sỹ Templar và Hospitaller bị đánh bại bởi al-Afdal, con trai của Saladin ở trận Cresson; Balian vẫn còn ở lại một ngày sau và ông cũng đã dừng lại tại Sebastea để chào mừng một ngày lễ. Sau khi gặp nhau tại lâu đài La Fève, nơi mà các hiệp sỹ Templar và Hospitaller cắm trại, ông thấy rằng nơi này bị bỏ hoang và sớm được nghe tin tức về cuộc chiến thảm khốc từ số ít người sống sót. Raymond nghe nói về trận chiến và cũng đã gặp phái đoàn tại Tiberias và đồng ý đi cùng họ trở về Jerusalem.

    Trận Hattin

    Kể từ lúc quân đội của al -Afdal được phép tiến vào vương quốc Jerusalem qua liên minh của họ với Raymond, lúc này vị Bá tước lại hối hận về hành động của mình và tìm cách hòa giải với Guy. Guy hành quân ở phía bắc và đóng trại tại Sephoria và ra lệnh cho quân đội tiến vào một đồng bằng và khô để giải vây cho Tiberias. Quân đội của Thiên Chúa giáo không có nước uống và bị liên tục quấy nhiễu bởi quân đội của Saladin, và cuối cùng họ bị bao vây ở Horn của Hattin ở bên ngoài Tiberias vào đầu tháng 7. Trong trận chiến tiếp theo vào ngày 4, Balian và Joscelin III của Edessa chỉ huy lực lượng hậu đội, nhưng đội quân thập tự chinh đã hoàn toàn bị đánh bại. Tài liệu ẩn danh De Expugnatione Terrae Sanctae per Saladinum Libellus cho rằng Raymond, Joscelin, Balian và Reginald của Si-đôn đã chạy trốn khỏi bãi chiến trường vào lúc giữa trận đánh và chà đạp lên cả "các Kitô hữu, người Thổ Nhĩ Kỳ và cả thập giá" trong quá trình chạy trốn, nhưng điều này không được chứng thực bởi các tài liệu khác và phản ánh thái độ thù địch của tác giả với các Polein-phe đả.ng quý tộc của Raymond của Tripoli.

    Sự thất bại là một thảm họa đối với Vương quốc Jerusalem: vua Guy bị bắt làm tù binh, và gần như tất cả các thành phố và lâu đài nhanh chóng rơi vào Saladin. Balian, Raymond, Reginald, và Payen của Haifa là trong số ít các quý tộc đã chốn thoát đến Tyre. Raymond và Reginald ngay lập tức tham gia vào việc bảo vệ lãnh thổ của mình và bảo vệ Tyre dưới sự lãnh đạo của Conrad của Montferrat, chú của Baldwin V, người đã đến không lâu sau trận Hattin. Balian đã trở thành một trong những đồng minh thân cận nhất của ông. Tại Tyre Balian hỏi Saladin liệu có được phép quay trở lại qua con đường tới Jerusalem để hộ tống vợ và con cái của ông ta đến Tripoli. Saladin cho phép việc này, miễn là Balian rời khỏi thành phố và có một lời thề không bao giờ cầm vũ khí chống lại ông.


    Phòng thủ Jerusalem

    Khi Balian và nhóm nhỏ các hiệp sĩ của ông đến được thành phố, người dân cầu xin họ ở lại, và Balian được từ bỏ lời thề của mình với Saladin và được tha tội bởi Giáo trưởng Heraclius, người cho rằng yêu cầu của Thiên Chúa giáo là mạnh mẽ hơn lời tuyên thệ của ông với một người không phải là Thiên Chúa giáo. Balian đã được chỉ định để chỉ huy phòng thủ thành phố, nhưng ông thấy chỉ còn mười bốn Hiệp sỹ ,vì vậy ông đã phong thêm sáu mươi hiệp sĩ mới từ những thị dân tham gia phòng thủ. Nữ hoàng Sibylla dường như có có đóng chút gì đó trong công cuộc phòng thủ thành phố và đã tuyên thệ để bầu Balian làm lãnh chúa. Với Eraclius, ông chuẩn bị cho cuộc vây hãm không thể tránh khỏi bằng cách lưu trữ thực phẩm và tiền bạc. Saladin thực sự đến và bao vây thành phố trong tháng Chín, sau khi ông đã chinh phục gần như tất cả các phần còn lại của vương quốc này, bao gồm Ibelin, Nablus, Ramla, và Ascalon. Nhà vua cảm thấy không có ác ý gì trong việc Balian đã vi phạm lời thề của mình và sắp xếp cho một hộ tống để đi cùng với Maria và con của họ đến Tripoli. Khi là lãnh chúa có thứ bâ cao nhất còn lại ở Jerusalem, Balian, như Ibn al-Athir đã viết, đã được xem bởi những người Hồi giáo là "ít nhiều tương đương với một vị vua."

    Saladin đã có thể phá sập một phần của các bức tường, nhưng không thể chiếm được lối vào thành phố. Sau đó Balian đã cưỡi ngựa ra ngoài để nói với quốc vương Hồi giáo, để nói với ông rằng những người bảo vệ sẽ tự giết nhau và phá hủy thành phố hơn là nhìn thấy nó bị chiếm bởi lực lượng Hồi giáo. Sau các cuộc đàm phán, người ta đã quyết định rằng thành phố phải được bàn giao một cách hòa bình và rằng Saladin sẽ thả tự do bảy ngàn người để đổi lấy 30.000 bezant; hai người phụ nữ hoặc 10 trẻ em sẽ thay thế cho một người đàn ông. Balian bàn giao chìa khóa cho tháp của David vào ngày 02 tháng 10. Người dân thành Jerusalem có một thời hạn 50 ngày để trả tiền chuộc. Những người không thể trả tiền cho tự do của họ bị buộc làm nô lệ; Saladin đã giải phóng một số người trong số họ, tuy nhiên ông cho phép một cuộc ra đi trật tự từ Jerusalem và ngăn chặn các thảm sát như đã xảy ra khi quân Thập tự chinh chiếm thành phố vào năm 1099. Balian và Giáo trưởng Eraclius đã tưự nguyện làm con tin cho những công dân người Frank còn lại, nhưng Saladin đã từ chối. Các cư dân được chuộc đi trong ba cột. Balian và Giáo trưởng đi theo cột thứ ba, họ là những người cuối cùng rời khỏi thành phố, có thể là khoảng ngày 20 tháng 11. Balian cùng vợ và con của ông về sống ở Tripoli.

    Balian kẻ tạo vua và cuộc Thập tự chinh lần thứ ba

    Sự sụp đổ của Jerusalem và cái chết của Sibylla tại cuộc vây hãm Acre năm 1190, đã dẫn đến một cuộc tranh chấp ngôi vua của vương quốc. Isabella-con gái riêng của Balian giờ đây trở thành nữ hoàng hợp pháp, nhưng Guy đã từ chối thừa nhận danh hiệu của mình, và Humphrey-chồng của Isabella người đã bỏ cô trong năm 1186, vẫn trung thành với ông. Nếu Isabella được thừa kế, cô cần chấp nhận sự cố vấn về chính trị và quân sự của chồng, ứng cử viên rõ ràng là Conrad của Montferrat, người cũng có một số yêu cầu như chú về đằng nội của Baldwin V. Balian và Maria giữ Isabella và ép cô phải đồng ý ly dị Humphrey. Có tiền lệ: việc bãi bỏ hôn nhân của Amalric I với Agnes của Courtenay và những nỗ lực không thành công để buộc Sibylla ly dị Guy.

    Cuộc hôn nhân của Isabella được bãi bỏ bởi Ubaldo Lanfranchi-Đức Tổng-Giám-Mục của Pisa và là người thừa kế của giáo hoàng và Philip của Dreux, Đức Giám-mục-của Beauvais. Sau đó Đức Giám Mục của Beauvais gả cô ta cho Conrad ( điều còn đang tranh cãi). Việc tranh chấp thừa kế được kéo dài bởi sự xuất hiện của Richard I của Anh và Philip II của Pháp ở cuộc Thập tự chinh thứ ba: Richard hỗ trợ Guy, như là một chư hầu ở Poitevin, trong khi Philip hỗ trợ Conrad, người người em họ của người cha đã quá cố.

    Balian và Maria có nhiều vai trò trong vụ ly dị của Isabella và sự hỗ trợ của họ để lên làm vua Conrad đã nhận được những sự hận thù sâu sắc của Richard và những người ủng hộ ông này. Ngày 28 tháng 4 năm 1192, chỉ vài ngày sau khi vương quyền của ông được khẳng định bởi một cuộc bầu cử, Conrad đã bị ám sát trong Tyre. Người ta nói rằng một trong hai sát thủ-Hashshashin chịu trách nhiệm đã chà trộn vào gia đình Balian ở Tyre vài tháng trước đây và giả vờ làm một người đầy tớ để lén theo nạn nhân, còn người kia thì tương tự có thể thâm nhập vào gia đình Reginald của Sidon hay của Conrad. Richard bị nhiều người nghi ngờ rằng ông có tham gia trong vụ giết người này. Isabella, người lúc này đang chờ đợi để sinh đứa con đầu lòng ( Maria của Montferrat ) lại kết hôn với Henry II của Champagne chỉ một tuần sau đó.

    Balian đã trở thành một trong những cố vấn của Henry và cuối năm đó (cùng với William của Tiberias), ông chỉ huy đội hậu quân của Richard tại trận Jaffa. Sau đó, ông đã giúp hai bên thương lượng Hiệp ước Ramla giữa Richard và Saladin, kết thúc cuộc thập tự chinh. Theo hiệp ước này, Ibelin vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Saladin, nhưng nhiều địa điểm dọc theo bờ biển đã được chinh phục trong cuộc thập tự chinh vẫn được phép ở lại trong tay của người Thiên chúa giáo. Sau khi Richard bỏ về nước Anh, Saladin đã bồi thường cho Balian lâu đài Caymont và năm lâu đài khác ở gần đó, tất cả các lâu đài này đều ở bên ngoài Acre.

  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Các trận chiến của Saladin với Vua Baldwin IV ( Xảy ra trước trận Hattin)

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Baldwin IV của Jerusalem


    v\:-* {behavior:url(#default#VML);} o\:-* {behavior:url(#default#VML);} w\:-* {behavior:url(#default#VML);} .shape {behavior:url(#default#VML);} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Baldwin IV của Jerusalem (1161-16 tháng 3 năm 1185 ), được gọi là vua cùi hoặc vua bị bệnh phong, con trai của Amalric I của Jerusalem và người vợ đầu tiên của ông, Agnes của Courtenay, là vua của Jerusalem từ 1174-1185. em gái cùng bố mẹ với ông là Nữ hoàng Sibylla của Jerusalem và cháu trai của ông-con của em gái (người kế vị ông) là vua Baldwin V. Ông là một người em gái cùng cha khác mẹ từ cuộc hôn nhân lần thứ 2 của cha mình là công chúa Isabella của Jerusalem, và một người em trai nữa nhưng người này đã chết rất trẻ.

    Tuổi trẻ

    Baldwin đã dành tuổi trẻ của mình trong triều đình của cha của ông ở Jerusalem, ông cũng có chút ít liên lạc với mẹ của ông-Agnes của Courtenay, Nữ bá tước của Jaffa và Ascalon và sau đó là Nữ hoàng của Sidon, người mà cha của ông đã bị buộc phải ly dị. Baldwin IV được giáo dục bởi nhà sử gia William của Tyre (sau này là Đức Tổng-Giám-Mục của Tyre và cũng là một viên tướng của vương quốc), người đã phát hiện ra một biểu hiện đáng lo ngại của Hoàng tử: trong một ngày ông ( Baldwin IV ) và bạn bè của mình chơi với nhau và cố gắng để làm tổn thương lẫn nhau bằng cách cào móng tay của họ vào các cánh tay của mỗi ngươ, nhưng Baldwin cảm thấy không đau đớn. William ngay lập tức nhận ra đây là một dấu hiệu của một căn bệnh nghiêm trọng, nhưng ông cũng đã không kết luận được xác định đây là bệnh phong cho đến khi một vài năm sau đó: vào lúc có sự khởi đầu của tuổi dậy thì của Baldwin IV, thì căn bệnh phong của ông mới trở nên nghiêm trọng nhất.

    Cha của Baldwin qua đời vào năm 1174 và cậu bé đã lên ngôi ở tuổi mười ba, ngày 15 tháng 7 năm đó. Vương quốc bé nhỏ của ông được cai trị bởi hai nhiếp chính kế tiếp, đầu tiên là Miles của Plancy mặc dù không phải là chính thức và sau đó Raymond III của Tripoli, người anh em họ của cha ông. Năm 1175, Raymond III, thay mặt nhà vua của Jerusalem đã ký một hiệp ước với Saladin.


    Là một người bị bệnh phong, Baldwin đã không được dự kiến sẽ trị vì lâu dài hoặc sản hoặc tạo ra được một người thừa kế, và các cận thần và lãnh chúa tự cố tạo ảnh hưởng nhiều hơn vào những người thừa kế của Baldwin, như vào Sibylla-công chúa chị em ruột và Isabella-công chúa cùng cha khác mẹ của ông. Sibylla đã được mang đi bởi Ioveta-người dì của cô và sống trong tu viện Bethany, trong khi Isabella sống tại cung điện của mẹ cô- hoàng thái hậu Maria Comnena tại Nablus.


    Sự cai trị của Baldwin


    Raymond kết thúc thời kỳ nhiếp chính vào ngày kỷ niệm lễ đăng quang thứ hai của Baldwin: nhà vua trẻ bây giờ đã đủ tuổi. Ông đã không phê chuẩn hiệp ước của Raymond với Saladin và thay đó là tiến hành đột kích vào Damascus và các vùng xung quanh Thung lũng Beqaa. Ông bổ nhiệm Joscelin III-người chú về đằng mẹ làm Bá tước trên danh nghĩa của Edessa, và là người quản gia sau khi ông này được chuộc về ( ông bị bắt bởi người Hồi giáo). Joscelin là người có quyền thừa kế gần nhất ( đàn ông ) nhưng ông này không tuyên bố quyền thừa kế ngôi vị, vì vậy ông được đánh giá là một người ủng hộ đáng tin cậy, ông cũng đã chứng tỏ lòng trung thành thực sự của mình.

    Khi còn làm nhiếp chính, Raymond của Tripoli đã bắt đầu đàm phán về việc kết hôn của công chúa Sibylla với William của Montferrat, một người anh em họ đầu tiên của Louis VII của Pháp và Frederick I, Hoàng đế La Mã Thần thánh. William đã đến vào đầu tháng Mười và trở thành Bá tước của Jaffa và Ascalon sau cuộc kết hôn của mình. Người ta hy vọng rằng ông sẽ có thể trở thành người điều hành cho nhà vua khi ông này trở thành bất lực và kế thừa ngai vàng của ông ta cùng với Sibylla.


    Trong khi đó, Baldwin đã lập kế hoạch cho một cuộc tấn công vào căn cứ của Saladin ở Ai Cập. Ông đã gửi Raynald của Châtillon (cựu hoàng tử của Antioch qua hôn nhân với Constance của Antioch-họ hàng của Amalric I ) đến Constantinople làm phái viên để họp với Manuel I Comnenus, để có được sự hỗ trợ của hải quân Byzantine. Raynald lúc đó mới được thả từ nơi ông ta bị giam cầm ở Aleppo: Manuel chịu trả tiền chuộc ông ta vì ông này ( Manuel) là người cha dượng của Hoàng hậu Maria của Antioch. Manuel tìm kiếm sự phục hồi của ảnh hưởng của Chính thống giáo tại vương quốc này và sắp xếp cuộc hôn nhân của Bohemond III của Antioch với cháu gái lớn của ông-Theodora Comnena, em gái của hoàng thái hậu Maria. Reynald trở lại vào đầu năm 1177, và được khen thưởng bằng cách kết hôn với Stephanie của Milly, một nữ thừa kế góa bụa và giàu có. Cuộc hôn nhân này làm cho ông ta chở thành lãnh chúa của Kerak và Oultrejourdain. Baldwin đã cố gắng để đảm bảo rằng Reynald và William của Montferrat hợp tác để phòng thủ miền Nam. Tuy nhiên vào tháng Sáu, William qua đời ở Ascalon sau một số tuần, để lại Sibylla góa bụa đang mang thai nhà vua tương lai-Baldwin V.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Vào tháng 8 anh em họ đầu tiên của nhà vua, Philip của Flanders, đã đến Jerusalem để tham gia vào cuộc thập tự chinh. Philip yêu cầu cưới của chị gái của Baldwin để chở thành chư hầu của ông. Philip là họ hàng gần gũi nhất của về đằng nhà nội của Baldwin (ông là cháu trai của Fulk và là anh em họ đầu tiên của Baldwin, Raymond là cháu trai của Melisende và do đó là anh em họ đầu tiên của cha của Baldwin), tuyên bố nhiếp chính thay thế cho Raymond. Cour Haute từ chối không đồng ý điều này và Baldwin của Ibelin công khai xúc phạm Philip. Bị xúc phạm, Philip rời vương quốc và thay vào đó thì ông này tiến hành các chiến dịch ở Quận quốc Antioch. Gia đình Ibelin được bảo trợ của nữ hoàng thái hậu Maria và có thể là Baldwin của Ibelin hành động theo cách này với hy vọng rằng bản thân ông sẽ được kết hôn với một trong các chị em gái của Baldwin.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trong tháng 11, Baldwin và Raynald của Châtillon đã đánh bại Saladin với sự giúp đỡ của các Hiệp sĩ Templar ở trận Montgisard. cùng năm đó, Baldwin cho phép mẹ kế của ông được kết hôn với Balian của Ibelin, một động thái để thu phục được cả hai, nhưng nó mang những rủi ro cho tham vọng của nhà Ibelins. Với sự bảo trợ của Maria, nhà Ibelins đã cố gắng để tổ chức cho các công chúa Sibylla và Isabella kết hôn vào gia đình của họ.

    Năm 1179, nhà vua đã gặp một số thất bại quân sự ở miền Bắc. Ngày 10 tháng Tư, ông đã dẫn đầu một cuộc đột kích vào bãi thả gia súc của người Hồi giáo ở Banias, nhưng bị tấn công bất ngờ bởi Farrukh Shah-cháu trai của Saladin. Baldwin không thể leo lên ngựa và để cứu ông Humphrey II của Toron-vị hộ quốc công có nhiều uy tín của vương quốc đã phải bị tử thương. Ngày 10 tháng 6, để đáp lại các cuộc tấn công bằng kỵ binh ở gần Sidon, Baldwin dẫn đầu một lực lượng cùng với Raymond của Tripoli và Odo của St Amand-Đại thủ lĩnh của các Hiệp sỹ Templar đánh trận Marj Uyun. Họ đánh bại các toán cướp và sau đó lội con sông Litani, nhưng sau đó đã bị phản kích bởi lực lượng chính của Saladin. Nhà vua (không thể đi điều khiển ngựa chạy ngược lại mà không có trợ giúp – chân tay của ông bị phong nên phải quấn băng kín mít) và ông đã được mang ra khỏi chiến trường trên lưng của hiệp sĩ hộ vệ của mình. Bá tước Raymond phải chạy trốn sang Tyre và cha dượng của vua Reginald của Sidon đã cứu được một số kẻ bỏ chạy, nhưng những người bị bắt làm tù binh bao gồm Đại thủ lĩnh của các Hiệp sỹ Templar, Baldwin của Ibelin và Hugh của Tiberias, một trong các con riêng của vợ của Raymond. Trong tháng 8 chiếc lâu đài dở dang-Ford Jacob đã bị Saladin chiếm sau một cuộc bao vây chớp nhoáng với việc tàn sát một nửa các Hiệp sỹ Templar đang đồn trú trong pháo đài.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Baldwin và Guy của Lusignan

    Vào mùa hè năm 1180, Baldwin IV tổ chức kết hôn giữa Sibylla với Guy của Lusignan, anh trai của Hộ quốc công Amalric của Lusignan. Trước đó các sử gia cho rằng cuộc hôn nhân thứ hai của Sibylla là hoàn toàn do ảnh hưởng của bà mẹ nhà vua, tuy nhiên, Hamilton lập luận rằng điều này là để phản ánh những lời than phiền cá nhân của William của Tyre và của nhà Ibelins. Một kế hoạch kết hôn giữa Sibylla và Hugh III của Burgundy đã bị hỏng; Raymond của Tripoli dường như đã cố gắng để cưới cô này cho Baldwin của Ibelin để củng cố cơ sở quyền lực của mình. Một đám cưới với người nước ngoài là cần thiết cho vương quốc này, nó mang lại khả năng trợ giúp bên ngoài. Với vị vua mới của Pháp Philip II lúc này đang ở tuổi vị thành niên, tình trạng của Guy như là một chư hầu của người anh em họ-vua Henry II của Anh - người còn nợ Đức Giáo Hoàng một cuộc hành hương đền tội - là hữu ích trong khía cạnh này. Baldwin cũng cho đính hôn Isabella-em gái của ông mới 8 tuổi rưỡi với Humphrey IV của Toron, để trả một khoản nợ cứu mạng của người ông của Humphrey ở Banias và loại bỏ Isabella khỏi sự kiểm soát của mẹ cô và phe cánh nhà Ibelin.
    Guy trước đó đã liên minh với Raynald, người lúc này lợi dụng vị trí của mình tại Kerak để sách nhiễu các đoàn lữ hành giữa Ai Cập và Damascus. Sau khi Saladin đã trả đũa cho các cuộc tấn công trong chiến dịch Belvoir Castle trong 1182, Baldwin IV lúc này đã bị mù và không thể đi lại, ông phải bổ nhiệm Guy làm nhiếp chính của vương quốc.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tuy nhiên, năm 1183, Baldwin IV đã trở nên bị xúc phạm bởi hành động của Guy trong cương vị một nhiếp chính. Guy đã tham dự lễ hội cưới của Isabella (lúc đó khoảng 11 tuổi ) và Humphrey, được tổ chức tại Kerak, tuy nhiên, buổi lễ hội với các khách dự đám cưới bên trong vẫn bị gián đoạn bởi Saladin, người đã tổ chức bao vây pháo đài. Baldwin đã thống lĩnh quân đội đến cứu viện và cuộc bao vây bị dỡ bỏ, nhưng Guy đã từ chối chiến đấu với Saladin và quân đội của Saladin chỉ đơn giản là đi về nhà. Baldwin không thể chịu đựng được điều này và phế bỏ quyền nhiếp chính của Guy. Trong ô nhục, Guy đã về nghỉ tại Ascalon và mang theo vợ mình là công chúa-Sibylla đi cùng với ông ta.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Đồng làm vua với Baldwin V và cái chết của ông

    Mặc dù Baldwin dường như đã có một di chúc không ác ý đối với em gái mình, Baldwin IV bổ nhiệm người cháu trai mới 5 tuổi của ông ở Montferrat như mình là người thừa kế và kế nhiệm mình với sự hỗ trợ của Agnes và chồng là Reginald của Sidon, Raymond và nhiều thủ lĩnh khác mà loại trừ Sibylla khỏi việc kế vị. Raymond trở thành người giám hộ của người thừa kế trẻ tuổi, và sau đó là nhiếp chính nếu Baldwin IV chết, nhưng bản thân Baldwin IV vẫn tiếp tục cai trị. Người cháu trai lên ngôi như là vua Baldwin V vào ngày 20 tháng 11 năm 1183.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trong những tháng đầu năm 1184 Baldwin đã cố gắng để bãi bỏ cuộc hôn nhân giữa Sibylla và Guy. Cặp đôi này đã làm thất bại nỗ lực này bằng cách nhanh chóng chiếm giữ Ascalon và không tham dự các thủ tục bãi bỏ cuộc hôn nhân. Cuộc chinh phạt quân sự để giải vây cho Karak và các cuộc đấu đã trong nội bộ triều đình đã làm suy yếu đáng kể sức khỏe của Baldwin. Ông qua đời tại Jerusalem vào mùa xuân 1185 vài tháng sau cái chết của Agnes-mẹ của ông ở Acre vào cuối năm 1184. Mặc dù thường xuyên bị ảnh hưởng của bệnh phong và phải cầm quyền cùng với các nhiếp chính, Baldwin đã có thể tự mình duy trì làm vua lâu hơn thời gian mà người ta dự kiến. Như đã được quyết định, Baldwin V đã kế nhiệm ngai vàng của chú của mình và Raymond của Tripoli trở thành nhiếp chính.
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Montgisard



    Tóm tắt trận đánh


    Thời gian của trận đánh: Ngày 25 tháng 11 năm 1177
    Địa điểm: Montgisard, gần Ramla
    Kết quả: Quân Thập tự chinh chiến thắng chiến lược

    Các bên Tham chiến

    Người Thiên chúa giáo:

    Vương quốc Jerusalem
    Hiệp sĩ Templar

    Chỉ huy

    Baldwin IV của Jerusalem
    Raymond III của Tripoli
    Odo de St Amand
    Raynald của Châtillon


    Lực lượng

    475 Hiệp sỹ Templar,
    Vài nghìn lính bộ binh

    Thương vong và thiệt hại

    1.100 người thiệt mạng
    750 người bị thương

    Người Hồi giáo:

    Triều Ayyubid

    Chỉ huy

    Saladin

    Lực lượng

    Khoảng 26.000 quân

    Thương vong và thiệt hại

    Khoảng 23,000 người bị giết và bắt tù binh



    Trận Montgisard là trận chiến giữa Triều Ayyubids và Vương quốc Jerusalem vào ngày 25 tháng 11 năm 1177. Vào năm 16 tuổi vua Baldwin IV đang bị ảnh hưởng một cách trầm trọng bởi bệnh phong, nhưng ông vẫn dẫn đầu một số lực lượng Thiên chúa giáo chiến đấu chống lại quân đội của Saladin. Lực lượng Hồi giáo đã bị phá hủy và thương vong của họ là rất lớn, chỉ có một phần quân đội đã cố gắng chạy trốn đến được nơi an toàn.

    Bối cảnh của trận đánh

    Năm 1177, vua Baldwin IV và Philip của Alsace, người vừa đặt chân vào cuộc hành hương, đã lên kế hoạch liên minh với đế quốc Byzantine cho một cuộc tấn công bằng hải quân vào Ai Cập nhưng không số nào trong các kế hoạch này được thực hiện.

    Trong khi đó, Saladin lại có kế hoạch xâm lược của riêng mình vào Vương quốc Jerusalem từ Ai Cập. Biết được kế hoạch này của Saladin, Baldwin IV rời Jerusalem và mang theo William của Tyre và đi cùng chỉ với có 375 hiệp sĩ để cố gắng lập một phòng tuyến ở Ascalon, nhưng Baldwin đã bị chặn lại bởi một đội quân được cử đi bởi Saladin, người mà theo William của Tyre, phải có đến 26.000 lính. Cùng đi với Baldwin có Raynald của Châtillon, lãnh chúa của Oultrejordain, người chỉ mới được thả từ nơi bị giam cầm ở Aleppo trong năm 1176. Raynald là một kẻ thù quyết liệt của Saladin và là người chỉ huy quân đội có hiệu quả thay mặt vua Baldwin lúc này quá đau ốm với bệnh phong. Ngoài ra với quân đội Thiên chúa giáo còn được giúp đỡ bởi Odo de St Amand, Đại thủ lĩnh của Hiệp sĩ Templar, Baldwin của Ibelin-anh trai của Balian ( người chỉ huy trận Jerusalem), Reginald của Sidon và Joscelin III của Edessa. Một lực lượng Templar nữa đã cố gắng để gia nhập với Baldwin ở Ascalon, nhưng họ cũng lại bị bao vây tại Gaza.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trận chiến

    Saladin tiếp tục cuộc hành binh của ông về hướng Jerusalem và nghĩ rằng Baldwin sẽ không dám bám theo ông chỉ với một toán quân lèo tèo vài người như vậy. Ông đã tấn công các vùng Ramla, Lydda và Arsuf, nhưng vì cho rằng Baldwin không phải là một mối nguy hiểm, ông cho phép quân đội của mình dàn trải ra trên một diện tích lớn để cướp bóc và tìm kiếm lương thực. Tuy nhiên, Saladin lại chưa biết rằng lực lượng mà ông để lại để ngăn chặn vị vua của Jerúalem là không đủ và bây giờ cả Baldwin và các Hiệp sỹ Templar đã hành quân để đánh chặn ông ta ( Saladin) trước khi ông tới được Jerusalem.

    [FONT=&quot]Các Kitô hữu, được dẫn đầu bởi nhà vua Baldwin IV đã đuổi theo người Hồi giáo dọc theo bờ biển, cuối cùng đã chộp được kẻ thù của họ ở Mons Gisardi, gần Ramla. Saladin đã bị tấn công hoàn toàn bất ngờ. Quân đội của ông đang ở trong tình trạng lộn xộn, không có đội hình chiến đấu và mệt mỏi từ một cuộc hành quân kéo dài. Quân đội Hồi giáo, trong trạng thái hoảng loạn, đã tranh giành để lập phòng tuyến chiến đấu chống lại kẻ thù. Tuy nhiên, ở phía xa, quân đội Kitô giáo hoàn toàn câm lặng. Vua Baldwin đã ra lệnh đưa di tích của True Cross lên ở phía trước của các hàng quân. Nhà vua với một cơ thể thiếu niên đã bị tàn phá ghê gớm bởi bệnh phong, đã xuống ngựa dưới sự giúp sức của các võ sỹ hộ vệ của mình và quỳ xuống trước cây thánh giá. Ông đã cầu nguyện để Thiên Chúa mang cho họ chiến thắng và đứng lên trên đôi chân của mình để cổ vũ quân đội.
    [FONT=&quot]Khi quân đội của Saladin vội vàng để chuẩn bị chiến đấu, Baldwin đã bắt đầu cho phi ngựa tấn công trên mặt cát.

    [/FONT]
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Quân đội Jerusalem lao ầm ầm như núi lở vào người Hồi giáo lúc này vẫn đang cố gắng nhanh chóng sắp xếp đội hình và gây thương vong rất lớn cho người Hồi giáo. Nhà vua chiến đấu với hai bàn tay băng bó để che dấu vết thương khủng khiếp và nỗi đau đớn của mình và lao trận hỗn chiến dày đặc, quân đội của Saladin đã nhanh chóng bị áp đảo. Họ đã cố gắng chạy trốn nhưng rất khó để trốn thoát. Bản thân Saladin phải tránh để bị bắt sống bằng cách nhảy lên trên lưng một con lạc đà đua.

    Vua Baldwin đã chiến thắng hoàn toàn. Ông đã hoàn toàn phá hủy lực lượng xâm lược, chiếm lại được đoàn hành lý của Saladin và giết chết Ahmad-cháu trai của ông (con trai của Taqi ad-Din).

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Baldwin đã cho truy kích Saladin cho đến khi màn đêm xuống và sau đó rút về nghỉ ngơi ở Ascalon. Bị ngập lụt bởi mười ngày mưa lớn và đau khổ mất đến khoảng chín mươi phần trăm của quân đội của mình, bao gồm cả vệ sĩ riêng người Mamluk của ông, Saladin bỏ chạy trở lại Ai Cập và bị quấy rối bởi người Bedouins trên đường rút quân. Chỉ có chưa đến một phần mười quân đội của ông đã quay được trở lại Ai Cập cùng với ông ta.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Hậu quả

    Baldwin kỷ niệm chiến thắng của mình bằng cách dựng một tu viện Benedictine trên chiến trường, dành riêng cho St Catherine of Alexandria, người có ngày lễ trùng hợp vào ngày xẩy ra trận đánh. Tuy nhiên, đó là một chiến thắng khó nhọc; Roger des Moulins, Đại thủ lĩnh của Hiệp sĩ Hospitaller, ghi lại rằng phe Thập tự quân có 1.100 người bị giết và 750 người bị thương và trở về được nhà. Saladin, vì sợ rằng liên minh lỏng lẻo của Ai Cập với chư hầu Syria của ông sẽ bị tan vỡ bởi thất bại này nên đã cho tuyên truyền rằng các Kitô hữu đã bị bại trận trong trận chiến này.

    Trong khi đó, Raymond III của Tripoli và Bohemund III của Antioch đang hợp tác với Philip của Alsace để tiến hành một cuộc chinh phạt hiểm vào thành phố Ha-rim ở Syria, những cuộc vây hãm Ha-rim kéo dài đến tận năm 1178, và việc Saladin bị đánh bại tại Montgisard đã ngăn cản ông này giải vây cho chư hầu Syria của mình. Mặc dù vậy chit sau một năm tương đối hòa bình, vào năm 1179 Saladin đã có thể tiếp tục các cuộc tấn công của mình trên vương quốc Jerusalem, bao gồm cả chiến thắng của ông ta tại trận Marj Ayyun năm đó. Sự kiện này đã dẫn đến các cuộc chiến liên tục kéo dài gần một thập kỷ mà đỉnh cao của chiến thắng của Saladin trước Thập tự quân tại trận Hattin vào năm 1187.

    Một số cảnh trận Montgisard trong phim Arn Hiệp sỹ dòng Đền


    [​IMG]
    Quân Hồi giáo đang rầm rộ hành quân hướng đến Jerusalem



    [​IMG]
    Xa xa ai như vua Sa ladin đang dẫn đầu quân Hồi giáo


    [​IMG]
    Ồ mà đúng là ông ta

    [​IMG]
    Vua cùi Baldwin IV kéo 475 Hiệp sỹ và một vài nghìn lính bộ binh đến phục kích quân Hồi giáo, họ đang xuống ngựa để cầu Chúa ban cho chiến thắng ( phim này không có vua Baldwin mà nói về các Hiệp sỹ thánh chiến)


    [​IMG]
    Sau khi làm lễ xong quân Thiên Chúa Giáo nhảy lên ngựa


    [​IMG]
    Lên ngựa



    [​IMG]
    và tuốt kiếm



    [​IMG]
    Lên đi anh em


    [​IMG]
    Xung phong


    [​IMG]
    Xung phong


    [​IMG]
    xung phong


    [​IMG]
    Uẩy vua Saladin thấy có gì đó bất thường, nhưng biết đã muộn quân địch tấn công như núi lở



    [​IMG]
    Quân của ông ta cố găng thiết lập đội hình nhưng không thể đọ được những kỵ sỹ châu Âu đang sung sức.



    [​IMG]
    Viên cận thần rỉ tai Saladin " chạy thôi thưa Chúa thượng, thần sẽ ở lại cản địch) và hình như ông ta cũng tử trận


    [​IMG]
    Quân Thiên chúa giáo toàn thắng, 90% quân đối phương bị tiêu diệt ( trong tổng số gần 3 vạn), Saladin và một số ít sống sót chạy một mạch về Ai Cập.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} v\:-* {behavior:url(#default#VML);} o\:-* {behavior:url(#default#VML);} w\:-* {behavior:url(#default#VML);} .shape {behavior:url(#default#VML);} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  6. OngHoangBay

    OngHoangBay Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    11/05/2010
    Bài viết:
    75
    Đã được thích:
    0
    Bác Hồng Sơn thân mến!

    Có lẽ bác quên chưa giới thiệu sơ lược về Chiến lược, chiến thuật chính, trang bị, khí tài,.. của người Hồi giáo-lực lượng đang đối đầu với các Hiệp sĩ thép châu Âu,

    Kính và rất cảm ơn về topíc này!
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Ayyun Marj




    Tóm tắt trận đánh


    Thời gian của trận đánh: Ngày 10 tháng 6 năm 1179
    Địa điểm: Marjayoun, Lebanon

    Kết quả: Chiến thắng chiến lược của Triều Ayyubid

    Các bên Tham chiến

    Người Thiên chúa giáo:

    Vương quốc Jerusalem
    Hiệp sĩ Templar

    Chỉ huy

    Baldwin IV của Jerusalem
    Odo de St Amand của Hiệp sỹ dòng Đền
    Raymond III của Tripoli


    Lực lượng

    Vài trăm Hiệp sỹ + Hiệp sỹ thánh chiến
    Một nghìn lính bộ binh

    Thương vong và thiệt hại


    Không có con số chính xác nhưng thiệt hại nặng nề
    Odo de St Amand của Hiệp sỹ dòng Đền bị bắt sống

    Baldwin của Ibelin ( anh trai của Bailan Ibelin bị bắt sống)

    Người Hồi giáo:

    Triều Ayyubid

    Chỉ huy

    Saladin

    Lực lượng

    Không rõ số lượng nhưng lực lượng kỵ binh đông hơn quân Thiên chúa giáo nhiều lần

    Thương vong và thiệt hại

    Tử vong cũng tương đương nhưng không bị bắt tù binh


    Trận Marj Ayyun hay còn được gọi là trận Marj Ayyoun, là một trận đánh của quân đội của Triều đình Ayyubid dưới sự chỉ huy của Saladin đã đánh bại một đội quân Thập tự chinh do vua Baldwin IV của Jerusalem dẫn đầu vào ngày 10 tháng 6 năm 1179. Nhà vua Kitô giáo vì tàn tật do bệnh phong đã suýt bị bắt trên đường tháo chạy.

    Bối cảnh


    Năm 1177 quân đội Ayyubid của Saladin xâm lược Vương quốc Jerusalem của người Latin từ Ai Cập. Trong năm đó, vua Baldwin đã tấn công bất ngờ và đánh bại quân đội Ai Cập-Saracen trong trận Montgisard.

    Năm 1179 một lần nữa Saladin lại tiến hành xâm chiếm các thành bang của Thập tự quân từ Damascus. Ông lập căn cứ cho quân đội của mình ở Banias và cử các lực lượng đột kích để cươ
    ́p bóc làng và phá hoại cây trồng ở gần vùng Sidon và các vùng ven biển. Nông dân và người nghèo khổ ở thành thị bị người Saracen đột kích, cướp phá nên không thể trả tiền thuê đất cho các lãnh chúa người Frank của họ. Trừ phi bị chặn đứng, nếu không chính sách phá hoại của Saladin sẽ làm suy yếu vương quốc Thập tự chinh.

    Để đáp lại, Baldwin IV đã cho chuyển quân đội của mình đến Tiberias trên biển Galilee. Từ đó ông hành quân về phía bắc-tây bắc tới gần tòa thành của Safed. Tiếp tục theo cùng một hướng, ông đã đến được lâu đài Toron ( Tebnine ), khoảng 13 dặm (21 km) về phía đông-đông nam của Tyre. Cùng với các Templar Knights do Odo của St Amand và một lực lượng từ Công quốc Tripoli do Bá tước Raymond III chỉ huy, Baldwin di chuyển về phía đông bắc.

    Trận đánh


    Từ phía đông của vùng ven biển, quân Thập tự chinh đã nhìn thấy chiếc lều của Saladin ở phía xa. Baldwin và các quý tộc của ông đã quyết định tiến xuống vùng đồng bằng và tấn công cùng một lúc. Khi quân đội của người Frank di chuyển xuống phía dưới, quân kỵ binh đã sớm bỏ lại những người lính bộ. Sau khi bị chậm trễ một vài giờ, đội quân Thập tự chinh tập hợp lại, sau đó họ gặp và dễ dàng đánh bại các lực lượng đột kích của người Saracen, những người trở về từ các cuộc đột kích của họ.

    Tin rằng mình đã chiến thắng cuộc chiến này, người Frank cho phép các lính canh của họ nghỉ ngơi. Các hiệp sĩ của Raymond và Odo của St Amand của Templar chuyển lên một vùng đất cao giữa Ayyun Marj và sông Litani. Lính bộ binh của Thập tự quân cũng nghỉ nghơi để bù cho cuộc hành quân vội vã của họ trước đó trong ngày.

    Đột nhiên, đội quân chính của Saladin đã bất ngờ tấn công vào quân Thập tự chinh vốn không được chuẩn bị và đánh bại họ một cách nặng nề. Các nhà phân tích quân sự thời gian đó đổ lỗi thất bại cho Odo của St Amand, người đã bị bắt sống tại trận. Vua Baldwin hầu như suýt nữa không kịp chạy thoát, ông không thể nhảy lên ngựa vì bị bệnh tê liệt của mình ( do bị bệnh phong), ông đã được mang đến nơi an toàn bởi một hiệp sĩ, các vệ sĩ của ông mở một đường máu xuyên qua người Saracens. Nhiều người Frank sống sót sau cuộc chiến bỏ chạy tới nơi trú ẩn tại lâu đài Beaufort (Qala'at tro-Shaqif Arnoun) ở khoảng năm dặm về phía tây nam của chiến trường.

    Hậu quả


    Saladin ngay lập tức đã lợi dụng chiến thắng của mình để phá hủy vừa được thành lũy Le Chastellet vừa mới được xây dựng xong ở trong trận Ford Jacob. Trong những năm sau trận Marj Ayyun, các thủ lĩnh Frank trở nên thận trọng hơn và hai chiến dịch tiếp theo-các trận Belvoir Castle (1182) và trận Al-Fule (1183) công việc phòng thủ được thực hiện một cách nghiêm túc.



    Minh họa trận Marj Ayyun qua các hình trong phim Jerusalem và Arn hiệp sỹ dòng Đền



    [​IMG]
    Vua Baldwin dẫn quân đi truy kích quân Saracen, trong hình ông ta là người đeo mặt nạ vàng ở phía bên trái




    [​IMG]
    Do nóng vội nên các Hiệp sỹ Kitô giáo ồ lên phía trước




    [​IMG]
    Tấn công vào quân Hồi giáo





    [​IMG]
    Quân Thập tự chinh tiếp tục lao tới



    [​IMG]
    Tiến công


    [​IMG]
    Quân Hồi giáo cũng chẳng vừa, xung phong



    [​IMG]
    Xung phong


    [​IMG]
    Và chiến thắng thuộc về các Hiệp sỹ Thập tự chinh




    [​IMG]
    Cứ ngỡ trận chiến đã kết thúc quân Thập tự chinh lăn quay ra nghỉ ngơi sau 01 ngày hành quân và chiến đấu mệt nhọc



    [​IMG]
    Nhưng lúc này Sa ladin và đạo quân chính của Hồi giáo mới xuất hiện




    [​IMG]
    đạo quân chính của Hồi giáo mới xuất hiện



    [​IMG]
    Tấn công thôi thưa Chúa thượng




    [​IMG]
    Quân Hồi giáo ồ ạt tràn vào doanh trại của quân Thập tự chinh



    [​IMG]
    khí thế như núi lở




    [​IMG]
    Các Hiệp sỹ Thập tự chinh lúc này mới choàng dậy kẻ vớ lấy vũ khí




    [​IMG]
    người thì đi tìm ngựa




    [​IMG]
    nhưng quân Hồi giaó đã xông vào trong và đánh giết ầm ầm





    [​IMG]
    nhưng quân Hồi giaó đã xông vào trong và đánh giết ầm ầm



    [​IMG]
    nhưng quân Hồi giaó đã xông vào trong và đánh giết ầm ầm



    [​IMG]
    chết này




    [​IMG]
    chết nữa này



    [​IMG]
    một nhát rồi đời luôn này




    [​IMG]
    Sau phút bất ngờ quân Thập tự chinh co cụm lại




    [​IMG]
    và chống trả ác liệt




    [​IMG]
    nhưng quân Hồi giáo quá đông




    [​IMG]
    Nên quân Thập tự chinh bị tiêu diệt dần dần




    [​IMG]
    Trừ những người kịp bỏ chạy số còn lại của quân thập tự chinh hoặc bị bắt sống hoặc bị xạ tiễn đến khi ngã gục


    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------


    Đúng rồi em cũng tự nhận ở lần trước là thế mà, để hết cuộc thập tự chinh lần thứ 3, cuộc thập tự chinh hay nhất thì em sẽ bổ sung sau.
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Ford Jacob


    Tóm tắt trận đánh


    Thời gian của trận đánh: năm 1179
    Địa điểm: Gần sông Jordan phía bắc Israel ngày nay

    Kết quả: Triều Ayyubid Chiến thắng

    Các bên Tham chiến

    Người Thiên chúa giáo:

    Vương quốc Jerusalem

    Chỉ huy

    Baldwin IV của Jerusalem

    Lực lượng

    1.500 người

    Thương vong và thiệt hại


    700 người bị giết
    800 bị bắt sống

    Người Hồi giáo:

    Triều Ayyubid

    Chỉ huy

    Saladin

    Lực lượng

    Không rõ về số lượng nhưng đông hơn phe Thiên chúa giáo nhiều lần

    Thương vong và thiệt hại

    Không có con số chính xác



    Jerusalem được cho là một trong những thành phố linh thiêng nhất trên thế giới. Vì lý do này mà người Kitô giáo và người Hồi giáo đã liên tục chiến đấu với nhau để kiểm soát thành phố của vùng Đất Thánh trong nhiều thế kỷ. Khoảng năm 1095, các Kitô hữu từ châu Âu đã hành quân đến thánh địa để kiểm soát Jerusalem. Vào năm 1099, quân Thập tự chinh đã đạt được mục tiêu của họ và chiếm Jerusalem từ tay người Hồi giáo. Mặc dù tình trạng bất ổn hoành hành trên vùng Đất Thánh sau cuộc Thập tự chinh đầu tiên, quân Thập tự chinh liên tục đánh bại bất cứ quân đội Hồi giáo nào chống lại họ trong nhiều năm. Saladin, một trong những nhân vật nổi tiếng nhất trong lịch sử Hồi giáo, đã có thể chiếm lại Jerusalem năm 1187 sau gần một thế kỷ dưới sự cai trị của người Kitô giáo. Nhiều học giả tin rằng việc quân Hồi giáo chiếm lại được thành phố Đất Thánh có thể được bắt nguồn từ chiến thắng của người Hồi giáo trước Thập tự quân tại pháo đài Ford Jacob ở Syria, trận chiến xảy ra vào năm 1179 giữa Saladin-vua Hồi giáo và vua Baldwin IV-Thiên chúa giáo. Địa điểm này còn được gọi trong tiếng Latin là Vadum Iacob và trong tiếng Do Thái hiện đại là Ateret.

    Những người tham chiến trong năm 1179 đấu tranh cho quyền lực và sự khởi đầu của họ

    Saladin, một trong những nhà cai trị Hồi giáo nổi tiếng nhất, ông là vua của Ai Cập và vào năm 1174, ông trở thành sultan của Syria sau khi tiếp quản thành phố Damascus. Sau khi lên nắm chính quyền ở Syria, Saladin cam kết sẽ tạo thành một đế quốc Hồi giáo xung quanh Jerusalem. Đương nhiên, mục tiêu cuối cùng là để chiếm lại thành phố Thánh từ tay của quân Thập tự chinh, một bước quan trọng hướng tới sự kết thúc của Jihad ( phong trào Thánh chiến của người Hồi giáo). Tuy nhiên, kế hoạch (Jihad ) này cũng bao gồm việc chiếm được vùng Đất Thánh mà không có xung đột quân sự lớn. Baldwin IV đã kiểm soát được Vương quốc Jerusalem ở tuổi mười ba sau cái chết của cha mình là Amalric I trong năm 1174, cùng năm mà Saladin lên nắm quyền. Baldwin là một tín đồ trung thành của Kitô giáo và kết quả đây là vấn đề lớn nhất mà Saladin phải vượt qua. Mặc dù Baldwin là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ và giàu có nhưng ông lại bị mắc bệnh phong ở một độ tuổi rất trẻ. Vì thế nên đôi khi nếu được mô tả trong bộ phim và tranh vẽ, Baldwin sẽ được mô tả là có mang một chiếc mặt nạ sắt để dấu đi những đám loét trên khuôn mặt.

    Sau khoảng ba năm tại vị trên ngai vàng tại Jerusalem, Baldwin đã phải đối mặt với thách thức quân sự đầu tiên rất mình. Saladin xâm chiếm vương quốc Thiên chúa giáo trong khoảng năm 1177 và ép quân Thập tự chinh phải tháo chạy. Mặc dù Saladin đã có gần hai mươi năm chinh chiến và có kinh nghiệm hơn rất nhiều so với Baldwin, vị quốc vương trẻ trung của người Kitô giáo vẫn không bị lúng túng trong những tình huống căng thẳng. Baldwin và quân Thập tự chinh đã đánh bại một cách tuyệt đối người Hồi giáo tại trận Mont Gisard vào ngày 25 tháng 11 năm 1177. Một học giả người đã từng tham gia Thập tự chinh đã viết về trận Mont Gisard, "[trận đánh] là một thành tựu nổi bật của Baldwin – đây là thất bại duy nhất trong chiến trận mà Saladin đã phải nhận trước khi gặp phải Richard Lionheart và cuộc Thập tự chinh lần thứ ba ". Cuối trận đánh, Saladin đã buộc phải bỏ chạy trở lại Ai Cập sau khi thoát chết trong gang tấc. Mặc dù chiến thắng này cũng gây thiệt hại to lớn cho đội quân của Baldwin, hình ảnh của ông trên toàn vương quốc được nâng cao. Trong thực tế, một số Kitô hữu ở vùng Cận Đông đã thậm chí còn tin rằng "'phép màu' của chiến thắng của ông [tại Mont Gisard] xuất hiện như là một dấu hiệu của sự ủy nhiệm của Thiên Chúa."

    Jacob Ford và tòa lâu đài Chastellet

    Jacob Ford nằm ở vị trí khoảng một trăm dặm về phía bắc Jerusalem và tại con sông Jordan, nó chính là một con sông chính cắt ngang một trong những tuyến đường chính giữa Acre, Israel và Damascus. Jacob Ford cũng là một trong các cửa an toàn nhất của Jordan và vì vị trí và tầm quan trọng của nó, nó đã bị chiếm đóng bởi cả người Kitô giáo Palestine và Hồi giáo Syria như là một ngã tư lớn giữa hai nền văn minh. Trong thế kỷ thứ mười hai, Baldwin và Saladin liên tục tranh cãi về khu vực mà Jacob Ford được định vị. Như một động thái chiến lược táo bạo và là kết quả của chiến thắng quân sự của mình tại Mont Gisard, Baldwin đã quyết định hành binh đến Jacob Ford và xây dựng một pháo đài phòng thủ trên lãnh thổ của mình. Nhà vua và quân Thập tự chinh của ông đưa ra giả thuyết rằng đó là một pháo đài có thể bảo vệ Jerusalem khỏi một cuộc xâm lư.ợc từ phía Bắc và gây áp lực tới các đồn lũy của Saladin ở Damascus. Giữa tháng 10 năm 1178 và tháng 4 năm 1179, Baldwin đã bắt đầu giai đoạn đầu tiên xây dựng một hệ thống phòng thủ mới của ông, một pháo đài gọi là Chastellet tại Jacob Ford. Trong khi công cuộc xây dựng đang được tiến hành, Saladin đã nhận thức đầy đủ được ý nghĩa của tòa pháo đài này, ông sẽ phải vượt qua tại của Ford Jacob nếu ông ta còn muốn bảo vệ Syria và chinh phục Jerusalem. Vào lúc đó, ông đã không thể ngăn chặn công trình xây dựng của Chastellet bằng biện pháp quân sự bởi vì một phần lớn quân đội của ông đã đang đóng quân ở miền bắc Syria, để đánh dẹp người Hồi giáo nổi loạn. Một trong những tác giả Hồi giáo viết, "Saladin đã luôn luôn cho vẽ những bức tranh miêu tả mình là nhà vô địch của người Hồi giáo trong việc chống lại những kẻ xâm nhập từ châu Âu, mặc dù trong thực tế, ông đã dành rất nhiều, nếu không nói là gần như toàn bộ sự nghiệp của mình để tham gia vào một cuộc chiến tranh chống lại ... những người Hồi giáo khác" Do đó, vị sultan quay sang tìm cách hối lộ và sẽ nộp 60.000 dinar nếu Baldwin ngừng xây dựng pháo đài. Baldwin đã từ chối, nhưng Saladin đề nghị một giá mới là 100.000 dinar. Vị vua Thiên chúa giáo trẻ tuổi nhưng cứng đầu lại từ chối một lần nữa và tiếp tục xây dựng Chastellet. Đến mùa hè 1179, Baldwin lực lượng đã xây dựng được một bức tường đá rất lớn. " tòa lâu đài lúc này có tường cao ghê gớm hơn 10 mét-những gì mà tài liệu Ả Rập sau này mô tả là một thành lũy vững chắc của đá và sắt" - và một tháp, nhưng nó vẫn còn là trong quá trình xây dựng dở dang".

    Kế hoạch và chiến thuật

    Sau khi Baldwin từ chối cả lần hai hối lộ, Saladin chuyển sự chú ý ra khỏi cuộc nổi dậy ở miền bắc Syria và tập trung vào Ford Jacob và tòa lâu đài Chastellet. Ông đã hoàn toàn nhận thức được rằng bất kỳ cuộc đàm phán thương lượng tiếp theo hoặc sẽ chỉ là vô ích và rằng ông chỉ lãng phí thêm thời gian, thời gian mà Baldwin rất cần để hoàn thành tòa pháo đài khổng lồ của mình. Năm 1179, chỉ vài tháng sau khi công trình xây dựng Chastellet bắt đầu, Saladin đã triệu tập một đội quân Hồi giáo lớn để xuống phía đông nam của Ford Jacob. Kế hoạch cực kỳ là đơn giản: bao vây lâu đài và cư dân của nó trước khi quân tiếp viện từ Jerusalem hoặc bất kỳ vùng lãnh thổ lân cận của nó có thể đến nơi. Mặt khác Baldwin lại đang ở Tiberias, một tỉnh nằm trên biển Galilee, xa khoảng gần một nửa ngày hành quân từ Ford Jacob. Nếu có bất kỳ cuộc tấn công nào vào dự án của ông, quân tiếp viện sẽ có thể đến nơi tương đối nhanh chóng. Hơn nữa, pháo đài tại của Ford Jacob, ít nhất là những gì đã được hoàn thành của nó là tương đối mạnh và có khả năng có thể cầm cự cho đến khi cứu trợ có thể đến trong trường hợp xảy ra một cuộc bao vây. Một học giả đã từng tham gia những cuộc thập tự chinh khẳng định rằng: " cuộc bao vây được triển khai như một cuộc chạy đua - người Hồi giáo phải phá vỡ các thành lũy phòng thủ của Ford Jacob trước khi lực lượng Latin tới" ( nếu không họ sẽ bị nghiền thành bột)

    Trận chiến tại Ford Jacob và chiến thắng của Saladin


    Ngày 23 tháng 8 1179, Saladin đến Ford Jacob và ra lệnh cho quân đội của mình bắn phá tòa lâu đài bằng cung tên và do đó bắt đầu cuộc bao vây vào tòa lâu đài. Trong khi các cung thủ làm phân tâm những người đàn ông bên trong pháo đài, các thợ mỏ đã đào một đường hầm để chọc thủng bức tường đá ở góc đông bắc của Chastellet. Khi đường hầm đã được đào xong, người của Saladin đã cho một số lớn gỗ xuống đường hầm và châm lửa đốt. Quá trình này, được gọi là sự hủy hoại, đây là một phương pháp người ta đốt nóng chân các bức tường thành từ một đường hầm ngầm khiến các bức tường cuối cùng sụp đổ dưới trọng lượng của chúng. Sự hủy hoại đầu tiên đã không thành công cho Saladin và quân đội của ông. Vì vậy, các binh sĩ bị buộc phải dập lửa bằng những xô nước và họ được trả một đồng vàng cho mỗi thùng để làm như vậy. Sau khi đám cháy được dập tắt, những người thợ mỏ lại tiếp tục vào và hướng dẫn cách để đốt lửa. Đồng thời, Baldwin, có được biết về vụ tấn công này, ông liền kêu gọi quân tiếp viện từ Jerusalem. Tuy nhiên, thông tin liên lạc giữa Baldwin và Chastellet đã bị chậm chễ và vào lúc ông ta (Baldwin) biết thì cuộc bao vây đã được tiến hành trong nhiều ngày.

    Lực lượng bên trong lâu đài của Baldwin bắt đầu củng cố các cửa chính trong tòa lâu đài. Ngay sau đó, người Hồi giáo châm lại đám cháy trong đường hầm dưới chân bức tường của tòa lâu đài và bức tường sụp đổ. Kết quả là, các "mọi nỗ lực của quân Thập tự chinh tăng cường cho tòa lâu đài đều vô ích và khoảng sáu ngày sau khi cuộc bao vây bắt đầu, Saladin và quân đội của ông đã tiến vào được Chastellet. Vào ngày 30 tháng 8 năm 1179, quân xâm lược người Hồi giáo đã cướp phá tòa lâu đài tại Ford Jacob và giết chết hầu hết các cư dân của nó. Cùng ngày hôm đó, chậm hơn một tuần sau khi quân tiếp viện được gọi đến, Baldwin và đội quân tiếp viện của ông mới xuất phát từ Tiberias, từ xa họ chỉ còn thấy trên chân trời các làn khói đen kịt tỏa lên trực tiếp từ Chastellet. Rõ ràng, họ đã đến quá muộn để cứu 700 hiệp sĩ, kiến trúc sư và công nhân xây dựng, những người đã thiệt mạng và 800 người khác bị bắt giam. Baldwin và quân tiếp viện của ông quay trở lại về Tiberias và Saladin đã ra lệnh phần còn lại của pháo đài phải được phá bỏ.


    Hậu quả


    Mặc dù Saladin tuyên bố đây là một chiến thắng quân sự cho Chastellet, quân đội của ông lại là nạn nhân của một kẻ thù khác. Ngay sau cuộc bao vây, 700 quân Thập tự chinh của Ford Jacob đã bị giết chết và được đặt vào một cái hố. Do nhiệt độ tháng 8 các xác chết trong hố đã bắt đầu phân rã và kết quả là một bệnh dịch phát sinh gây thiệt mạng một số sĩ quan cao cấp của Saladin, khoảng mười người chết vì bệnh dịch. Tuy nhiên, thiệt hại đã không làm giảm bớt sức mạnh quân sự của Saladin . Năm 1180, Saladin và Baldwin đã ký thỏa thuận ngừng bắn. Sau đó, bảy năm sau khi hòa bình được thiết lập giữa những người Hồi giáo và quân Thập tự chinh, Saladin chiếm lại Jerusalem từ các Kitô hữu sau trận Hattin năm 1187. Một số học giả cho thấy sau thành công của cuộc chinh phạt của Saladin ở Ford Jacob năm 1179, Jerusalem trở nên rất dễ bị chiếm vì "việc xâm nhập vào vương quốc này theo cách vượt sông Jordan ngay phía nam của hồ Tiberias ... như Saladin đã từng sử dụng trong các năm 1182, 1184 và 1187 và nó hầu như không được bảo vệ ". Saladin vẫn thu được các thành công về quân sự và chính trị trong vùng Cận Đông sau khi chiếm Jerusalem cho đến khi có một cuộc chạm trán quân sự với Richard the Lionheart, sau đó ông đã buộc phải ký hiệp ước hòa bình vào năm 1192. Ông qua đời trong năm sau đó. Mặt khác, Baldwin IV đã không làm được bất kỳ điều gì để ngăn chở Saladin. Bệnh phong đã tàn phá cơ thể của vị vua trẻ tuổi và ông đã qua đời ở tuổi 23 trong năm 1185 và ông đã không thể phục thù cho bản thân mình hoặc cho quân Thập tự chinh của mình vì thất bại của ông tại Ford Jacob.





    Cuộc vây hãm Kerak



    Trận vây hãm Kerak đã diễn ra năm 1183 với việc lực lượng của tấn công Saladin bị đẩy lùi từ bức tường thành của Thập tự quân.
    Kerak là một thành lũy của Raynald của Châtillon, lãnh chúa của Oultrejordain, ở 124 km về phía Nam của Amman. Pháo đài được xây dựng năm 1142 bởi Pagan Butler, Lãnh chúa của Montreal. Trong khi Raynald cai trị, có một số hiệp ước tồn tại giữa Kitô hữu và quốc gia Hồi giáo trong Đất Thánh, không ai kể cả Raynald đủ dũng cảm để phá vỡ hiệp ước. Nhưng rồi cuối cùng đến năm 1183 khi ông này tổ chức một chuyến chinh phạt xung quanh Biển Hồng Hải . Ông ta đã chiếm được thị trấn Aqaba, nơi cung cấp cho ông ta một căn cứ để tung ra các hoạt động tấn công vào những thành phố linh thiêng nhất của Hồi giáo như Mecca. Saladin-vị thủ lãnh của các lực lượng Hồi giáo, không thể chịu đựng được điều này và quyết định bao vây lâu đài của Raynald.

    Cuộc vây hãm và cứu viện

    Người Hồi giáo đã tìm cách để có Kerak nhiều năm, nhưng bây giờ họ kéo dài đến điểm phòng thủ của nó phá vỡ. Tại một điểm, 9 máy phóng máy bay đã được bắn phá các bức tường và dân cư bên trong.

    Bên trong bức tường, một cuộc hôn nhân hoàng gia đang diễn ra. Humphrey IV của Toron, trai riêng của vợ Raynald và là người thừa kế của bà đang nắm bàn tay của Isabella của Jerusalem-em gái cùng cha khác mẹ với nhà vua. Khi đám cưới lễ tiếp tục, Saladin ra lệnh cho quân lính của mình tránh không bắn phá vào khu nhà của đôi vợ chồng trẻ, nhưng áp lực vẫn tiếp tục đè lên Kerak. Vài tín sứ đã cố gắng để thoát ra khỏi thị trấn và đưa thư xin cứu viện tới vua Baldwin IV.

    Baldwin ngay lập tức hành quân với một lực lượng cứu viện cùng với nhiếp chính của mình, Raymond III của Tripoli. Mặc dù bị bệnh phong từ khi còn nhỏ Baldwin vẫn quyết tâm làm thất bại nỗ lực của Saladin là như vậy mà ông đã dẫn cá nhân, mặc dù ông đã phải được khênh đi trên một chiếc cáng. Lực lượng Thiên chúa giáo đến nơi khi Saladin vẫn còn đang dở tấn công vào các công kiên cố. Biết rằng nếu tiếp tục liều thì có thể ông sẽ bị nghiền giữa quân đội của quốc vương và các bức tường của Kerak, nên ông đành dỡ bỏ cuộc bao vây

    Nhà vua của vương quốc Jerusalem tiếp tục đối đầu với đối thủ Hồi giáo của ông trong một thời gian nữa, mặc dù người ta biết rõ ràng rằng ông không thể tồn tại lâu hơn nữa bởi vì căn bệnh của chính mình. Chỉ 5 năm sau khi đối thủ lớn của Saladin ra đi, Vương quốc đã sụp đổ.


    Hậu quả


    Saladin Kerak trở lại một lần nữa vào 1184, với kết quả tương tự. Kerak vẫn là một thành lũy của Thập tự quân và là một biểu tượng của phương Tây trong khu vực cho đến khi nó thất thủ trước người Hồi giáo trong năm 1263 ( tức là sau gần một thế kỷ nữa). Lần sau, quân Thập tự chinh đã đối mặt với một cuộc bao vây lớn ở chính các bức tường của thành phố Thánh Địa Jerusalem.



    Trận Cresson

    [FONT=&quot]
    Trận Cresson
    [FONT=&quot] là một trận đánh nhỏ xảy ra trong ngày 1 tháng 5 năm 1187, tại khúc[/FONT] đường cong Cresson, hoặc Ain Gozeh ở gần Nazareth. Đây là một khúc dạo đầu cho sự thất bại quyết định của Vương quốc Jerusalem ở trận Hattin hai tháng sau đó.[/FONT]

    Bối cảnh


    Tình hình chính trị căng thẳng ở Jerusalem vì phe phái kình địch giữa hai chi nhánh của nhà vua. Raymond III của Tripoli, người trước đây là nhiếp chính cho vương quốc này từ chối chấp nhận Guy của Lusignan làm vua, sau cái chết của vua con-Baldwin V (con trai riêng của vợ Guy) trong năm trước. Gerard của Ridefort, Đại thủ lĩnh của Hiệp sĩ Templar, Roger de Moulins Đại thủ lĩnh của Hiệp sĩ Hospitaller, Balian của Ibelin, Joscius, Đức tổng-giám-mục của Tyre và Reginald Grenier, lãnh chúa của Sidon đã được gửi đến Tiberias để đàm phán với Raymond.

    Trận chiến

    Trong khi đó, Saladin gửi một đương đối nhỏ lực lượng nhỏ đến Tiberias do al-Afdal, con trai của ông, để tìm kiếm sự trả thù cho một cuộc tấn công vào một đoàn người Hồi giáo của Raynald của Châtillon. Raymond III Saladin hy vọng sẽ đồng minh với ông ta để chống lại Guy và cho phép lực lượng này đi qua Tiberias trên 30 tháng 4, mặc dù ông đã cảnh báo các tín hữu sự hiện diện của đội quân này ở Nazareth. Biết được sự kiện này, Gerard nhanh chóng tập hợp một đội quân nhỏ, bao gồm các đơn vị đồn trú của các Hiệp sỹ Templar từ Qaqun và al-Fulah và các hiệp sĩ của hoàng gia đóng quân tại Nazareth, tổng số chỉ có khoảng 130 hiệp sĩ; Balian đã dừng lại trên đường đi tới thái ấp của ông và đến về Nablus và Reginald cũng đi nơi khác. Lực lượng của Saladin, do con trai ông, bao gồm khoảng 7000 người.

    Gerard đến được Cresson ngày 1 tháng 5. Quấn Itinerarium Peregrinorum et Gesta Ricardi Regis , một biên niên sử của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba có ghi:

    Vì vậy, Saladin tập hợp lực lượng vũ trang của mình và gấp rút hành quân vào Palestine. Ông đã cử tiểu vương của Edessa, Manafaradin [ al-Muzaffar ] tiến về phía trước với 7000 người Thổ Nhĩ Kỳ để tàn phá Đất Thánh. Bây giờ, khi này Manafaradin tiến vào khu vực Tiberias, ông tình cờ gặp phải Đại thủ lĩnh của Tu sỹ dòng Đền-Gerard de Ridefort và Đại thủ lĩnh của Tu sỹ Cứu tế-Roger des Moulins. Trong trận chiến bất ngờ sau đó, ông ta đặt đẩy lui được người đầu tiên và giết chết người thứ hai..

    Người Hồi giáo giả vờ rút lui, một chiến thuật phổ biến mà không cần phải lừa Gerard, tuy nhiên, ông này ra lệnh tấn công mà không quan tâm đến lời khuyên của Roger và các hiệp sĩ đã bị tách ra từ những người lính. Người Hồi giáo đã đẩy lui một cách dễ dàng một cuộc tấn công trực tiếp bằng giáo và giết chết cả các hiệp sĩ lúc này đã kiệt sức và sau đó họ quét sạch số lính bộ binh còn lại. Gerard bị thương nhưng sống sót, tuy nhiên, hầu như tất cả những người khác đều đã thiệt mạng. Tuy nhiên theo quấn sử Itinerarium, Gerard đã không ham truy đuổi đối phương mà thực sự ông này bị mắc bẫy mà không biết và ông ta cũng là nạn nhân của cuộc tấn công của mình. Itinerarium cũng ghi lại sự thành công của một Hiệp sỹ Templar có tên là Jakelin de Mailly, người mà sau khi tất cả các đồng đội của ông đã bị giết thì ông này vẫn chiến đấu đơn thương độc mã chống lại các đám đông người Hồi giáo cho đến khi kiệt sức và ngã gục xuống.

    Balian còn đến đó sau một ngày sau và ông cũng đã dừng lại tại Sebastea để chào mừng một ngày lễ. Sau khi đến được tòa lâu đài La Fève, nơi mà các Hiệp sỹ Templar và Hospitaller cắm trại, ông thấy rằng nơi này bị bỏ hoang. Ông đã gửi Ernoul-Hiệp sỹ thực tập của ông tiến về phía trước để tìm hiểu những gì đã xảy ra và tin tức về cuộc chiến thảm khốc đến ngay từ số ít người sống sót. Raymond nghe nói về trận chiến và cũng đã gặp phái đoàn tại Tiberias và đồng ý đi cùng họ trở về Jerusalem.

    Raymond cuối cùng đã sẵn sàng thừa nhận Guy làm vua, nhưng thiệt hại cho vương quốc này là khá trầm trọng và cả Gerard và Raynald đều coi Raymond là một kẻ phản bội. Saladin tập hợp một đội quân lớn hơn 20.000 người và xâm chiếm vương quốc Jerusalem vào tháng 6 và đánh bại Guy tại Hattin vào ngày 4 tháng 10 và sau đó ông tiến hành công chiếm Jerusalem.



    [​IMG]
    Các hiệp sỹ Thập tự chinh lao lên để truy kích quân Hồi giáo



    [​IMG]
    Họ đã tiến quá gấp và bỏ lại luực lượng bộ binh



    [​IMG]
    dần dần đội ngũ các hiệp sỹ bị dàn mỏng



    [​IMG]
    và càng ngày càng mỏng



    [​IMG]
    để truy đuổi kỵ binh Hồi giáo, những người trang bị nhẹ hơn và những con ngựa nòi Ả Rập của họ cung chạy nhanh hơn trên sa mạc



    [​IMG]
    từ trên cao ta có thể thấy một số ít ỏi các Hiệp sỹ Thập tự chinh đang phi ngựa



    [​IMG]
    và rồi cái gì phải đến cũng đã đến


    [​IMG]
    quân Hồi giáo bất ngờ đổ ồ ra bao kín những hiệp sỹ đã mệt mỏi vì phải truy kích đối phương



    [​IMG]
    Sau khi các Hiệp sỹ đã bị tiêu diệt thì lúc này lại đến lượt lực lượng bộ binh của thập tự quân cũng bị bao vây tiêu diệt nốt
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Các tổ chức hiệp sỹ Thánh chiến trong các cuộc Thập tự chinh ở phương Đông


    về cơ bản có ba tổ chức Hiệp sỹ Thập tự chinh lớn. đó là:
    Hiệp sỹ dòng Đền ( Knights of Templar),
    Hiệp sỹ cứu Tế ( Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Knights Hospitaller [/FONT]), Hiệp sỹ Teuton ( [FONT=&quot]Knights Teutonic [/FONT])-hay còn gọi là giáo binh đoàn Teuton. Tổ chức thứ 3 không hoạt động ở vùng Trung Đông mà chủ yếu ở Đông Âu và Baltic nên em xin giới thiệu sau, mời các bác đón xem.

    Tổ chức Hiệp sỹ dòng Đền ( Order of Knights of Templar)

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Những đồng đội nghèo-người lính của Chúa Kitô và của đền Solomon ( tiếng Latinh: Pauperes commilitones Christi Templique Solomonici ), thường được gọi là Hiệp sĩ Templar, Tổ chức của Hiệp sỹ đền thờ ( tiếng Pháp: Ordre du Temple hoặc Templiers ) hoặc đơn giản chỉ là Templar, là một trong những tổ chức quân sự nổi tiếng nhất của Kitô giáo phương Tây. Tổ chức này tồn tại trong khoảng hai thế kỷ trong thời kỳ Trung Cổ.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Được chính thức công nhận bởi Giáo Hội Công Giáo vào khoảng năm 1129, tổ chức này đã trở thành một tổ chức ủng hộ từ thiện trong suốt Thiên Chúa giáo và phát triển nhanh chóng về mặt hội viên và quyền lực. Hiệp sĩ Templar đặc biệt thường mặc một chiếc áo choàng mầu trắng với một chữ thập màu đỏ và họ thường là những võ sỹ có trình độ cao nhất trong số các Hiệp sỹ chiến đấu cho các cuộc Thập tự chinh. Các thành viên không chiến đấu của Tổ chức đã quản lý một cơ sở hạ tầng kinh tế lớn trong những vương quốc theo Thiên Chúa giáo, họ đã có công tiến hành các đổi mới về công nghệ tài chính (VN-financial techniques) góp phần tạo ra các hình thức nguyên thủy của hệ thống ngân hàng, và họ cũng có công xây dựng nhiều hệ thống công sự trên khắp châu Âu và vùng Đất Thánh.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sự tồn tại của Tổ chức Templar "có liên hệ chặt chẽ với các cuộc thập tự chinh, khi Đất Thánh bị thất thủ thì sự hỗ trợ cho tổ chức này phai nhạt. Tin đồn về những buổi hành lễ bí mật của Templar đã tạo ra những sự không tin tưởng và nhà vua Philip IV của Pháp quốc-lúc đó đang chìm sâu trong nợ nần về tài chính với Tổ chức Templar, đã lợi dụng tình hình ( ra tay tiêu diệt tổ chức này để xù nợ). Năm 1307, nhiều người là các thành viên của Tổ chức Templar ở Pháp đã bị bắt giữ và tra tấn để phải nhận tội và sau đó bị thiêu sống. Dưới áp lực của vua Philip, Đức Giáo Hoàng Clement V đưa ra sắc lệnh giải tán Tổ chức này vào năm 1312. Sự biến mất đột ngột của phần cơ sở chính của tổ chức này ở Châu Âu đã dẫn đến nhiều sự đoán già đoán non và truyền thuyết về Tổ chức này và thuật ngữ "Templar" vẫn còn sống mãi cho đến ngày nay.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Lịch sử của Tổ chức Templar

    Sự bắt nguồn

    Tổng hành dinh đầu tiên của Hiệp sĩ Templar là ở Al Aqsa Mosque (Mosque-nhà thờ Hồi giáo) trong Núi Đền (Temple Mount) ở Jerusalem. Thập tự quân gọi đó là đền thờ của Solomon, vì nó được xây dựng trên đống đổ nát của ngôi đền ban đầu và chính từ vị trí của ngôi Đền này mà các Hiệp sĩ lấy tên của họ là Templar ( Knights of Templar).

    [FONT=&quot]Sau khi cuộc Thập tự chinh đầu tiên thành công và Thập tự quân chiếm được Jerusalem và năm 1099, nhiều người Kitô giáo đã hành hương đến và tham quan những gì họ gọi là Thánh Địa. Tuy nhiên, mặc dù thành phố Jerusalem đã thuộc kiểm soát của Thập tự quân và an toàn một cách tương đối, nhưng phần còn lại của Outremer ( tên người châu  gọi của các thành bang Thập tự chinh ở Trung Đông ) thì lại không được như vậy. Có rất nhiều các băng nhóm kẻ cướp ở vùng biên và khách hành hương thì thường xuyên bị tàn sát, có những lúc đến hàng trăm người khi họ cố gắng tiến hành những cuộc hành trình từ bờ biển Jaffa vào vùng Đất Thánh.

    [​IMG]
    [/FONT][FONT=&quot]Biểu tượng của Tổ chức Templar là hai hiệp sĩ cưỡi chung một con ngựa[/FONT]
    [FONT=&quot]
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Khoảng năm 1119, hai cựu binh của cuộc Thập tự chinh đầu tiên, hiệp sĩ người Pháp Hugues de Payens và bạn thân của ông-Godfrey de Saint-Omer, đề xuất việc thành lập một tu viện để bảo vệ những người hành hương. Vua Baldwin II của Jerusalem đã đồng ý yêu cầu của họ và ban cho họ một khoảng đất để xây dựng trụ sở chính trên núi Đền, tại nhà thờ Hồi giáo Al Aqsa Mosque vốn đã bị chiếm bởi quân Thập tự chinh lần một. Núi Đền có chứa một sự thần bí vì nó đã được xây dựng ở trên những gì được cho là tàn tích của đền thờ Solomon. Do đó quân Thập tự chinh thường gọi nhà thờ Hồi giáo Al Aqsa là đền Solomon và vì thế mà tổ chức này ( do hai bác người Pháp thành lập ) đã lấy tên của Hiệp sĩ nghèo của Chúa Kitô và đền Solomon , hoặc " hiệp sĩ Templar". Tổ chức được lập ra với khoảng chín hiệp sĩ ban đầu và họ có một nguồn tài chính ít ỏi và dựa vào sự đóng góp của những người hảo tâm để tồn tại. Biểu tượng của họ là hai hiệp sĩ cưỡi chung một con ngựa-nó nhấn mạnh là họ rất nghèo ( không đủ tiền mua cho mỗi người một ngựa)[/FONT].

    [FONT=&quot]Tình trạng nghèo khó của các Hiệp sỹ Templar không kéo dài. Họ đã có một người ủng hộ mạnh mẽ từ Saint Bernard của Clairvaux, một người có vị trí cao trong Giáo Hội và một người cháu trai của André de Montbard. Ông này đã phát biểu và viết thư một cách thuyết phục trong lúc đại diện cho bọn họ vào năm 1129 tại Hội đồng Troyes, và họ đã chính thức được chấp nhận bởi Giáo Hội. Với những lời chúc phúc chính thức, Templar đã trở thành một tổ chức ủng hộ từ thiện trong suốt thời kỳ đỉnh cao của Thiên Chúa giáo và họ nhận được tiền, đất đai, các doanh nghiệp và các thanh niên từ các gia đình quý tộc ( để đào tạo Hiệp sỹ), những người sẵn sàng giúp đỡ cho cuộc chiến ở trong vùng Đất Thánh.
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Một lợi thế mới đã đến với họ trong năm 1139, khi sắc lệnh Omne Datum Optimum của Giáo hoàng Innocent II miễn việc Tổ chức phải phục tùng pháp luật của chính quyền địa phương ( tức là độc lập với các nhà cai trị của các thành bang Thập tự chinh). Phán quyết này có nghĩa là các Hiệp Templar có thể vượt qua các biên giới một cách tự do và không phải trả bất kỳ khoản thuế nào và được miễn trừ với tất cả các cơ quan quyền lực ngoại trừ với Giáo hoàng.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Có nhiệm vụ rõ ràng và nguồn tài nguyên phong phú, tổ chức này đã phát triển một cách nhanh chóng. Các Hiệp sỹ Templar thường là lực lượng xung kích trong các trận đánh quan trọng của Thập tự quân, bởi vì các hiệp sĩ Templar thường được thiết giáp hạng nặng và cưỡi những con ngựa chiến cũng được bọc giáp không kém phần của họ và thường bắt đầu trận đánh bằng cách lao vào tấn công đối phương, trong một nỗ lực để phá vỡ đội hình của quân địch. Một trong những chiến thắng nổi tiếng nhất của họ là trận Montgisard vào năm 1177, tại đó khoảng trên dưới 500 hiệp sĩ Templar đã giúp vua Baldwin IV đánh bại quân đội hơn 26.000 binh sĩ của Saladin.

    [​IMG]
    Tranh vẽ cảnh xung phong của các Hiệp sỹ dòng Đền, họ luôn chiến đấu tại tuyến đầu ở Đất Thánh

    Mặc dù mục đích chính của Tổ chức là quân sự, nhưng chỉ một vài thành viên trong số họ là những chiến binh. Những người khác hoạt động ở các vị trí để hỗ trợ các hiệp sĩ và để quản lý cơ sở hạ tầng tài chính. Mặc dù các thành viên của Tổ chức đã phải tuyên thệ khi nhậm chức là phải sống nghèo và giản dị về mặt cá nhân, nhưng Tổ chức này lại sở hữu nhiều tài sản và cực kỳ giàu có do sự quyên góp trực tiếp. Một nhà quý tộc người quan tâm đến việc tham gia cuộc thập tự chinh của mình có thể uỷ quyền tất cả tài sản của mình cho quyền quản lý của Templar trong khi ông đi xa ( chết nghẻo càng tốt he he). Họ đã tích lũy của cải theo cách này tại các vương quốc Thiên Chúa giáo và Outremer, năm 1150 Templar đã bắt đầu tạo ra thư tín dụng (letters of cre***- em ko sure là có giống ngày nay hay ko ) cho khách hành hương khi họ tiến hành các cuộc hành trình đến Đất Thánh: khách hành hương ký gửi những vật có giá trị của họ cho một Thầy tu Templar ở địa phương trước khi bắt đầu lên đường, nhận được một khế ước thể giá trị bằng tiền của thứ họ gửi, sau đó người hành hương sử dụng khế ước này để lấy tiền của họ khi đã đến Đất Thánh. Sự kiện này đã sắp xếp đổi mới hình thức ban đầu của ngân hàng và có thể họ có các hệ thống chính thức ban đầu hỗ trợ cho việc sử dụng Séc (cheques), các biện pháp này tăng cường cải thiện sự an toàn của khách hành hương bằng cách làm cho họ chở nên ít hấp dẫn hơn trước những tên trộm cướp và cũng góp phần đóng góp vào các quỹ của Templar ( chắc qua service charge quá).

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Dựa trên kết hợp từ các khoản đóng góp và từ kinh doanh, Tổ chức Hiệp sỹ Templar thành lập mạng lưới tài chính trên toàn bộ các quốc gia Thiên Chúa giáo. Họ mua lại những vùng đất rộng lớn, cả ở châu Âu và Trung Đông, họ đã mua và quản lý trang trại và vườn nho, họ xây dựng nhà thờ và lâu đài, họ đã tham gia vào tất cả các công đoạn nhập khẩu, sản xuất và xuất khẩu; họ có hạm đội tàu của riêng mình và tại một thời điểm thậm chí họ còn sở hữu toàn bộ hòn đảo Síp. Theo tiêu chuẩn ngày nay thì Tổ chức Hiệp sĩ Templar được cho là hội tụ đủ điều kiện để trở thành tập đoàn đa quốc gia đầu tiên trên thế giới.

    Thoái trào


    Giữa thế kỷ 12 lần lượt bắt đầu các thủy triều của các cuộc thập tự chinh. Thế giới Hồi giáo đã trở nên thống nhất dưới sự lãnh đạo hiệu quả của Saladin và các bất đồng nảy sinh giữa các phe phái trong Kitô giáo về những việc có liên quan đến Đất Thánh. Tổ chức Hiệp sĩ Templar đôi khi cũng có mâu thuẫn với hai Tổ chức quân sự Kitô giáo khác, như Tổ chức Hiệp sĩ Hospitaller và Tổ chức hiệp sĩ Teutonic, nhiều thập kỷ hận thù cùng nội chiến đã làm suy yếu vị trí chính trị và quân sự của phe Kitô giáo. Sau khi nhiều Hiệp sỹ Templar đã tham gia vào nhiều chiến dịch không thành công, bao gồm cả những trận đánh quan trọng như Trận Hattin, Jerusalem đã bị chiếm đóng lực lượng của Saladin năm 1187. Quân Thập tự chinh chiếm lại được thành phố và năm 1229 mà không cần sự trợ giúp của Templar, nhưng họ chỉ giữ được nó trong một thời gian ngắn. Năm 1244, người Khwarezmi-Thổ Nhĩ Kỳ chiếm lại được Jerusalem, và thành phố đã không quay trở lại quyền kiểm soát của phương Tây cho đến năm 1917 khi người Anh chiếm được nó từ người Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ.


    [​IMG]
    Căn cứ Hoạt động của Templar ở vùng Đất Thánh

    Tổ chức Hiệp sỹ Templar đã bị buộc phải di dời trụ sở của họ để các thành phố khác ở phía bắc, như thành phố cảng biển Acre mà họ nắm giữ ở các thế kỷ tiếp theo. Nhưng họ bị mất nó vào năm 1291, tiếp theo là Tortosa-cứ điểm mạnh nhất trên lục địa của họ (nay thuộc Syria ) và Atlit. Sau đó trụ sở của họ đã được chuyển đến Limassol trên đảo Síp và họ cũng đã cố gắng duy trì một lực lượng đồn trú trên nhỏ trên đảo Arwad ở ngoài khơi bờ biển của Tortosa. Năm 1300, có một số nỗ lực để tham gia phối hợp các chiến dịch quân sự của quân Mông Cổ thông qua một lực lượng xâm lược mới tại Arwad. Tuy nhiên vào năm 1302 hoặc năm 1303, Templar lại bị mất hòn đảo này vào tay người Mamluk-Ai Cập trong Cuộc vây hãm Arwad. Với việc hòn đảo bị thất thủ, quân Thập tự chinh đã bị mất chỗ đứng chân cuối cùng của họ trong vùng Đất Thánh.


    [​IMG]
    Tòa lâu đài Mozon, một ví dụ về sở hữu của Templar

    Lúc này các sứ mệnh quân sự của Tổ chức ngày càng kém quan trọng, và sự hỗ trợ cho tổ chức đã bắt đầu ngày càng kém quan trọng. Tình hình trở nên rất phức tạp mặc dù trong hai trăm năm tồn tại của mình Tổ chức Hiệp sỹ Templar đã trở thành một phần của cuộc sống hàng ngày trong suốt thời kỳ đỉnh cao của Thiên Chúa giáo. Tài sản của tổ chức Templar như bất động sản, hàng trăm tòa nhà nằm rải rác khắp châu Âu và Trung Cận Đông đã tạo cho họ một sự hiện diện rộng rãi ở khắp các nơi. Tổ chức Hiệp sỹ Templar vẫn còn quản lý nhiều doanh nghiệp và nhiều người châu Âu hàng ngày vẫn tiếp xúc và kinh doanh với mạng lưới của Templar, chẳng hạn như khi họ làm việc tại một nông trại hay vườn nho thuộc sở hữu của Templar, hoặc bằng cách sử dụng dịch vụ của nó như là một ngân hàng để cất trữ các đồ có giá trị. Tổ chức vẫn không chịu thần phục chính quyền địa phương, làm cho nó chở thành một "vương quốc trong một vương quốc" ở khắp mọi nơi, quân đội thường trực của nó, mặc dù không còn có nhiệm vụ được xác định rõ ràng, có thể vượt qua các biên giới một cách tự do. Tình trạng này đã gây căng thẳng với một số quý tộc châu Âu, đặc biệt là Tổ chức Hiệp sỹ Templar đã cho thấy sự quan tâm trong việc thành lập nhà nước riêng trong các tu viện của họ, cũng giống như các hiệp sĩ Teutonic đã làm tại Phổ và các Hiệp sĩ Cứu tế đã làm với đảo Rhodes.


    Bị bắt giữ và giải thể


    Năm 1305, Giáo hoàng mới Clement V, có trụ sở tại Pháp, đã gửi thư cho cả hai Grand Master-Đại thủ lĩnh Jacques de Molay-Hiệp sỹ dòng Đền và Đại thủ lĩnh Fulk de Villaret-của Hiệp sỹ cứu tế để thảo luận về khả năng sáp nhập hai Tổ chức này làm một. Dù ý tưởng này không được tuân theo, nhưng Giáo hoàng Clement vẫn kiên trì và trong năm 1306, ông mời cả hai Đại thủ lĩnh sang Pháp để thảo luận về vấn đề này. De Molay đến đầu tiên vào đầu năm 1307, nhưng de Villaret đã trì hoãn trong vài tháng. Trong khi chờ đợi, De Molay và Clement đã thảo luận về vấn đề một cuộc tấn công đã được tiến hành hai năm trước đó để phá hủy một chiếc Đền thờ. Nhìn chung thì cả hai đều đồng ý rằng cuộc tấn công này là sai trái, nhưng Clement có gửi cho vua Philip IV của Pháp một tài liệu để yêu cầu trợ giúp trong quá trình điều tra. Vua Philip đã chìm sâu trong nợ nần với Tổ chức Hiệp sỹ Templar vì cuộc chiến của ông với nước Anh và quyết định bắt giữ họ sau khi tạo những tin đồn cho mục đích riêng của mình. Ông bắt đầu gây sức ép với Giáo Hội để họ phải có những hành động chống lại Tổ chức Hiệp sỹ dòng Đền, như một cách để ông thoát khỏi các khoản nợ của mình.

    [​IMG]
    Tranh vẽ cảnh Hỏa thiêu đại Thống lĩnh của Hiệp sỹ dòng Đền-
    De Molay ở Paris

    Ngày thứ sáu 13 tháng 10 năm 1307 Philip đã ra lệnh bắt giữ de Molay và các thành viên khác của Templar ở Pháp cùng một lúc. Lệnh bắt giữ được bắt đầu với cụm từ: " Dieu n'est pas content, nous avons des ennemis de la foi dans le Royaume " ( dịch thoát là "Thiên Chúa không hài lòng. Chúng ta có kẻ thù trong đức tin của vương quốc "). Tổ chức Templar bị buộc tội vi phạm rất nhiều tội danh (kể cả bội đạo, thờ thần tượng, dị giáo, nghi thức khiêu dâm và đồng tính luyến ái, tham nhũng và gian lận tài chính và hội họp bí mật). Nhiều người trong số các bị cáo thú nhận với các cáo trạng này sau khi bị tra tấn và những lời thú tội mặc dù được thu thập từ tra tấn bức cung đã gây ra một vụ bê bối ở Paris. Tất cả các cuộc thẩm vấn đã được ghi lại vào một tờ giấy da dài ba mươi mét, được lưu giữ tại "Archives nationales" tại Paris. Các tù nhân bị ép buộc phải thú nhận rằng họ đã nhổ vào chiếc thập giá: " Moi Raymond de La Fère, 21 ans, reconnais que (J'ai) craché trois fois sur la Croix, mais de bouche et pas de coeur " ( dịch thoát là: "Tôi, Raymond de La Fère, 21 tuổi, thừa nhận rằng tôi đã nhổ ba lần vào chiếc thập giá, nhưng chỉ từ miệng của tôi chứ không phải từ trái tim"). Tổ chức Hiệp sỹ Templar đã bị buộc tội thờ thần tượng. Tấm giấy da đề cập đến một bức tranh một người đàn ông màu đỏ mặc áo vải lanh hoặc bông, trông giống như một tượng thần trong buổi thẩm vấn. Sự kiện này cho thấy có sự hiện diện của tấm vải liệm Turin. Năm 1307 rất ít người biết về nơi cất dấu nó. Sau cuộc chiếm đóng Constantinople bởi cuộc Thập tự chinh lần thứ tư trong năm 1204, tấm vải liệm vốn đã thuộc về sở hữu của Hoàng đế Byzantine đã biến mất trong khoảng một thế kỷ. Nó xuất hiện trở lại tại thị trấn nhỏ Lirey, tại vùng Champagne của Pháp khoảng những năm 1353-1357 và thuộc về sở hữu của Geoffroy de Charny và sau đó tại Chambéry thuộc sở hữu của Công tước xứ Savoy.


    Sau khi chịu sức ép nhiều hơn từ Philip, Đức Giáo Hoàng Clement sau đó đã ban hành sắc lệnh của Pastoralis Praeeminentiae giáo hoàng vào ngày 22 tháng 11 1307, sắc lệnh này chỉ thị tất cả các quốc vương Kitô giáo ở Châu Âu phải bắt giữ tất cả thành viên của Tổ chức Hiệp sỹ Templar và tịch thu tài sản của họ.


    Đức Giáo Hoàng Clement cho tổ chức phiên điều trần của Giáo hoàng để xác định xem các Hiệp sỹ Templar có tội hay vô tội và lúc này đã cho toà án dị giáongừng tra tấn, nhiều Hiệp sỹ Templar đã công khai rút lui lời thú tội của họ. Một số đã có đủ kinh nghiệm về mặt pháp luật để bảo vệ mình trong các buổi xét xử, nhưng trong năm 1310 Philip đã ngăn chặn nỗ lực này, bằng cách sử dụng những lời nhận tội bị ép buộc trước đây và đem thiêu sống hàng chục Hiệp sỹ Templar tại Paris. Vì Philip đã đe dọa sử dụng biện pháp quân sự, trừ khi Giáo hoàng tuân theo ý muốn của ông ta, cuối cùng Giáo hoàng Clement đã đồng ý giải tán Tổ chức, và viện dẫn một vài vụ bê bối nào đã được tạo ra trong những lời thú tội. Tại Hội đồng Vienne năm 1312, ông đã ban hành một loạt các sắc lệnh của giáo hoàng, bao gồm cả Vox trong excelso để chính thức giải thể Tổ chức và Ad providam để chuyển giao hầu hết các tài sản của các Hiệp sỹ Templar cho các Hiệp sỹ Hospitaller. Đối với các nhà lãnh đạo của Tổ chức, Đại thủ lĩnh Jacques de Molay, người đã cao tuổi đã thú nhận khi bị tra tấn, cũng đã rút lại tuyên bố của ông. Người phó của ông-Geoffrey de Charney, thầy tu ở Normandy, cũng bắt chước de Molay và khăng khăng nói mình vô tội. Cả hai người đã bị tuyên bố tái phạm niềm tin dị giáo và họ đã bị kết án thiêu sống trên các cây cọc ở Paris vào ngày 18 tháng 3 năm 1314. De Molay được người ta nói rằng vẫn tỏ ra thách thức đến chết, ông yêu cầu được trói theo cách mà ông có thể vẫn quay mặt về phía Nhà thờ Đức Bà và tiếp tục giữ các bàn tay của theo tư thế cầu nguyện. Theo truyền thuyết, ông ta gọi to ra từ trong ngọn lửa rằng cả Giáo hoàng Clement và vua Philip sẽ sớm gặp lại ông trước mặt Đức Chúa Trời. Những từ thực tế mà ông đã nói trước khi chết được ghi lại trên mảnh giấy da như sau: " Dieu sait qui a tort et a pëché. Il va bientot arriver malheur à ceux qui nous ont condamnés à mort " ( dịch thoáng: "Chúa sẽ biết ai là người vô tội và ai là kẻ phạm tội. Tai họa sẽ xảy ra cho những kẻ đã lên án chúng ta cho đến chết "). Giáo hoàng Clement đã chết chỉ một tháng sau đó và vua Philip cũng qua đời trong một tai nạn săn bắn trước khi kết thúc năm đó.


    Với việc những nhà lãnh đạo cuối cùng của Tổ chức bị bắt giữ, phần còn lại của Tổ chức Hiệp sỹ Templar ở xung quanh Châu Âu đã hoặc bị bắt và điều tra theo sắc lệnh của giáo hoàng (và hầu hết không bị kết án), hoặc chuyển sang các Tổ chức quân sự khác như Hiệp sĩ Cứu tế, hoặc về hưu và được phép sống những ngày cuối cùng của họ một cách hòa bình. Một số có thể đã bỏ chạy tới vùng lãnh thổ khác ngoài tầm kiểm soát của giáo hoàng, hoặc những vùng bị rút phép thông công ( excommunicated ) như Scotland hoặc Thụy Sĩ. tổ chức Templar ở Bồ Đào Nha chỉ đơn giản là đổi tên của họ, từ Hiệp sĩ Templar sang thành Hiệp sĩ của Chúa Kitô.


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tổ chức của Templar

    Tổ chức Hiệp sỹ Templar được tổ chức như là một dòng tu-monastic order tương tự như tổ chức dòng Xitô của Bernard, được coi là tổ chức quốc tế đầu tiên có hiệu quả ở châu Âu. Cơ cấu của tổ chức có một chuỗi uy quyền mạnh mẽ. Mỗi quốc gia có sự hiện diện của Tổ chức lớn của Templar như (Pháp, Anh, Aragon, Bồ Đào Nha, Poitou, Apulia, Jerusalem, Tripoli, Antioch, Anjou, Hungary, và Croatia) có một Thủ lĩnh cho Tổ chức Hiệp sỹ Templar trong khu vực đó. Tất cả đều là cấp dưới của Grand Master-Đại thủ lĩnh, người vốn được chỉ định trong suốt cuộc đời và giám sát những nỗ lực về quân sự của Tổ chức tại phương Đông và việc quản lý tài chính của họ ở phương Tây. Không có con số chính xác về thành viên, nhưng người ta ước tính rằng tại thời điểm đỉnh cao Tổ chức Templar có khoảng 15.000 và 20.000 thành viên trong đó khoảng một phần mười là những hiệp sĩ thực sự.

    Bernard de Clairvaux và Hugues de Payens-những người sáng lập đã tạo ra những luật lệ cụ thể cho hoạt động cụ thể của Templar, nó được biết đến trong lịch sử hiện đại như là Rule Latin . 72 điều khoản quy định các hành vi lý tưởng cho các Hiệp sĩ, chẳng hạn như họ sẽ được ăn mặc như thế nào và họ có thể có bao nhiêu con ngựa. Hiệp sĩ ăn bữa ăn của họ trong im lặng, ăn thịt không quá ba lần mỗi tuần và không được có quan hệ với bất kỳ loại phụ nữ, ngay với cả các thành viên trong gia đình của họ. Một Thủ lĩnh của Tổ chức được giao "4 con ngựa, và một giáo sĩ và một thư ký được giao ba con ngựa một hộ sĩ được giao hai con ngựa và một Hiệp sỹ được giao một lá chắn và một cây thương cùng với một con ngựa." Khi Tổ chức này phát triển lên thì nhiều điều hướng dẫn nữa được thêm vào và danh sách 72 điều khoản ban đầu cuối cùng đã được mở rộng thành vài trăm điều khoản.

    [​IMG]
    Cảnh doanh trại của cáchiệp sỹ templar, các Hiệp sỹ thì mặc áo choàng trắng còn các võ sỹ thì mặc áo choàng đen có chữ thập đỏ

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Có một sự phân chia thành ba ngạch của Templar: các hiệp sĩ quý tộc, các võ sĩ có đẳng cấp thấp hơn, và các giáo sĩ. Các Hiệp sĩ được yêu cầu là phải có nguồn gốc hiệp sĩ và mặc áo choàng trắng. Họ được trang bị như kỵ binh nặng với ba hoặc bốn con ngựa và một hoặc hai Squires. Nói chung thì các võ sinh ( NV- Squire: có thể gọi là võ đồng, hoặc tùy tùng của Hiệp sỹ) không phải là thành viên của Hội mà là người ngoài, những người được thuê theo Hợp đồng thời vụ. Bên dưới các hiệp sĩ là các võ sỹ thường được tuyển từ tầng lớp xã hội cấp thấp hơn. Họ-võ sỹ thường được trang bị như những kỵ binh hạng nhẹ với một con ngựa chiến hoặc phục vụ bằng cách khác như quản lý tài sản của Hội hoặc thực hiện những nhiệm vụ hèn mọn và các ngành nghề khác. Giáo sĩ, tạo thành một lớp Templar thứ ba, họ được thụ phong thành các linh mục để chăm sóc nhu cầu phần hồn của các Hiệp sỹ Templar.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Các hiệp sĩ mặc một chiếc áo choàng màu trắng với một chữ thập đỏ trên chiếc áo choàng; các võ sĩ mặc một chiếc áo choàng dài màu đen hoặc nâu và cũng có một chiếc thập tự mầu đỏ ở phía trước và cả đằng sau lưng, Chiếc áo choàng trắng đã được ủy nhiệm cho Tổ chức Hiệp sỹ Templar tại Hội đồng Troyes trong năm 1129 và qua có lẽ là chiếc thập tự mầu đỏ này được thêm vào chiếc áo choàng thụng của họ và được ra mắt sớm nhất là tại cuộc Thập tự chinh lần thứ hai vào năm 1147, khi Giáo hoàng Eugenius III và vua Louis VII của nước Pháp và những nhân vật nổi tiếng khác tham dự một cuộc họp của Tổ chức Hiệp sỹ Templar tại trụ sở của họ ở Pháp gần Paris. Theo quy tắc của họ, các hiệp sĩ phải mặc chiếc áo choàng trắng suốt cả ngày đêm, thậm chí họ bị cấm không được ăn uống khi họ không mặc nó.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Buổi lễ gia nhập vào Hội được gọi là receptio đây là một buổi lễ trang nghiêm. Người ngoài không được khuyến khích tham dự những buổi lễ này, trong đó làm nảy sinh những nghi ngờ của các phán quan thời Trung cổ trong thời gian của những buổi thẩm vấn sau đó.

    Các thành viên mới phải sẵn sàng bàn giao cho Hội toàn bộ tài sản của họ và nguyện sống nghèo khó, thanh tịnh, lòng mộ đạo và biết vâng lời. Hầu hết các huynh đệ của Hội tham gia cho đến cuối đời, mặc dù một số được phép tham gia trong một thời gian được định sẵn. Đôi khi một người đàn ông đã lập gia đình được phép gia nhập nếu ông này có sự cho phép của vợ mình, nhưng ông ta không được phép mặc áo choàng trắng.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Chiếc chữ thập mầu đỏ mà các Hiệp sỹ Templar đeo trên áo choàng của họ là một biểu tượng của sự tử vì đạo và cái chết trong chiến đấu được coi là một vinh dự lớn mà nó sẽ đảm bảo cho họ một suất nơi thiên đường. Có một quy định cực kỳ quan trọng rằng các chiến binh của Hội không bao giờ được đầu hàng trừ khi lá cờ Templar bị đổ xuống và thậm chí cả trong trường hợp đó vì việc đầu tiên là họ phải cố gắng tập hợp lại với nhau hoặc dưới lá cờ của các Tổ chức Kitô giáo khác, chẳng hạn như là của Tổ chức Hiệp sỹ Hospitaller. Chỉ sau khi tất cả các lá cờ của họ đã xuống thì họ mới được phép rời chiến trường. Quy định này được tuân thủ một cách cực kỳ kiên quyết cùng với danh tiếng của họ về sự can đảm, xuất sắc trong đào tạo và trang bị vũ khí hạng nặng, đã làm cho những Hiệp sỹ Templar chở thành một trong những lực lượng chiến đấu đáng sợ nhất trong thời kỳ Trung cổ.


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Các Đại thủ lĩnh-Grand Masters

    Bắt đầu Hugues de Payens-nhà sáng lập trong năm 1118-1119, người có chức vụ cao nhất trong Hội là Grand Master ( tạm dịch là Đại thủ lĩnh), một chức vụ có thể được giữ suốt cả cuộc đời, mặc dù xét về mặt thực tế thì nó thường có một nhiệm kỳ rất ngắn. Trong tổng số có hai Đại thủ lĩnh chết tại phòng làm việc và một số đã chết trong các chiến dịch quân sự. Đó là trong cuộc vây hãm Ascalon vào năm 1153, Đại thủ lĩnhBernard de Tremelay đã dẫn đầu một nhóm khoảng 40 Hiệp sỹ Templar đã lao qua một đoạn bị phá sập trong các bức tường thành phố khi mà phần còn lại của đội quân Thập tự chinh đã không làm theo họ, các hiệp sỹ Templar bao gồm cả Đại thủ lĩnh của họ đã bao vây và bị chặt đầu. Đại thủ lĩnh Gérard de Ridefort đã bị chặt đầu bởi Saladin năm 1189 tại cuộc vây hãm Acre.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Vị Đại thủ lĩnh giám sát tất cả các hoạt động của Hội, bao gồm cả các hoạt động quân sự tại Đất Thánh và Đông Âu và và giao dịch kinh doanh tài chính của Templar ở Tây Âu. Một số Đại thủ lĩnh cũng từng là chỉ huy chiến trường, mặc dù họ không phải luôn luôn là sáng suốt: một số sai lầm ngớ ngẩn của Đại thủ lĩnh de Ridefort đã góp phần vào sự thất bại khủng khiếp tại trận Hattin. Vị Đại thủ lĩnh cuối cùng là Jacques de Molay đã bị thiêu sống tại Paris vào năm 1314 theo lệnh của vua Philip IV.




    [​IMG]
    Trang bị của một Hiệp sỹ Templar vào khoảng năm 1170


    [​IMG]
    Trang bị của một Hiệp sỹ Templar vào khoảng năm 1165



    [​IMG]
    Trang bị của một Hiệp sỹ Templar vào khoảng năm 1260



    [​IMG]
    Cảnh kết nạp các Tu sỹ chiến đấu ( Hiệp sỹ) Templar



    [​IMG]
    Cảnh các Hiệp sỹ dòng Đền luyện tập chiến trận



    [​IMG]
    Lại cảnh một đợt xung phong của các hiệp sỹ Templar



    [​IMG]
    Cảnh chết chóc của các Hiệp sỹ Templar sau trận Cressons
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  10. shinsaber

    shinsaber Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/04/2009
    Bài viết:
    1.644
    Đã được thích:
    483
    Mấy bài của các trận đánh sao có nhiều lỗi chính tả và câu từ vậy bác hongson?

    Mấy tấm hình bác minh họa cho trận Cresson là trong phim Kingdom of Heaven mô tả trận Kerak khi Balian của Ibelin dẫn kị binh ra chặn quân Hồi giáo để cư dân chạy vào trong pháo đài :D, còn hình cuối là đoạn quân Saladin chuẩn bị tiêu diệt quân của Guy trong trận Hattin

Chia sẻ trang này