1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7


    chính tả, bác tô đỏ hộ em với để em sửa, cám ơn bác nhiều

    Hình minh họa: thì đã bảo là minh họa mà bác, trong phim đó đạo diễn lấy rất nhiều cảnh chiến đấu trong nhiều trận chiến ở Vương quốc Jerusalem để dựng lên phim này, nên nhiều khi cảnh không hợp với phim, như bác nói " phim Kingdom of Heaven mô tả trận Kerak khi Balian của Ibelin dẫn kị binh ra chặn quân Hồi giáo để cư dân chạy vào trong pháo đài" vậy bác có chắc là Balian của Ibelin có dự trận Kerak không?. Cảnh cuối của trận Hattin trong phim Vương quốc Jerusalem hoàn toàn không hợp với thực tế của trận đó ( vì quân thập tự chinh đã rút lên núi và tấn công từ trên núi xuống để phá vây ít nhất những ba lần) vậy mà cảnh đó lại có ngựa phi xoay vòng?

    Trận vây
    Kerak là vì Saladin muốn trả đũa việc quân Thập tự chinh tấn công vào đất Thánh của họ -> thành Kerak bị vây khi đang có một đám cưới vương giả, vậy Balian của Ibelin mang quân đi cứu ai đây ạ? và chắc chắn người cứu Kerak phải là Baldwin IV chứ không phải là Belian, rõ là có sạn nhưng bác phải hỏi đạo diễn phim Kingdom of Heaven cơ he he.

    Thêm nữa là trong phim có đoạn sau trận "
    trận Kerak khi Balian của Ibelin dẫn kị binh ra chặn quân Hồi giáo để cư dân chạy vào trong pháo đài" như bác nói thì Balian đã bị bắt tù binh bởi Saladin, nhưng không hiểu sao Saladin lại phóng thích ông ta? thực tế thì Saladin có bắt tù binh được Baldwin Ibelin-anh trai của Balian chứ không phải ông ta, mà là trong Trận Ayyun Marj cơ chứ không phải trận Kerak, chính Balian là người phải đi lo tiền chuộc anh trai mình về ( Saladin thì hào hiệp nhưng đâu có hào phóng đến thế). Thế là bác cũng thấy cái phim này có lấy từ lịch sử nhưng trộn hổ lốn lại đúng không ạ, vậy lấy vài cảnh của nó làm minh họa thì có sao đâu he he đằng nào nó chả không đúng phải không bác.
  2. shinsaber

    shinsaber Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/04/2009
    Bài viết:
    1.644
    Đã được thích:
    483
    À tớ ý kiến vì hình ghép sai trận thôi, nếu bác đem nó gắn vào hai trận Kerak với Hatti thì ok.

    Đá sang cái phim 1 tí là trận Kerak trong Kingdom of Heaven là Saladin đem quân đánh Raynald vì ông ta và Guy tấn công các đoàn thuơng buôn Arab, Balian dẫn 100 kỵ binh ra chặn tiên phong của Saladin cho dân chúng chạy vào thành, tất nhiên là anh chàng thua và bị bắt sống nhưng kéo dài thời gian kịp để Baldwin IV dẫn đại quân tới. Sau một hồi thương thuyết thì Saladin đồng ý rút quân đổi lại là Baldwin IV sẽ trừng phạt Raynald (thay vì Saladin rút quân do sợ giáp công như lịch sử).:D. Balian được thuộc tướng Rashid của Saladin tha vì trước đó Balian đã tha mạng cho ông ta 1 lần (sau này khi quân Arab công thành Jerusalem ko được, Saladin đã trách Rashid là đúng ra ko nên tha Balian :D)

    Còn trận Hattin thì phim không làm cảnh đánh nhau mà chỉ quay mỗi đoạn đoàn quân của Guy di chuyển mỏi mệt vì thiếu nước trên sa mạc và cảnh quân Arab phục sẵn chuẩn bị tấn công thôi (cái hình ngựa chạy vòng quanh là quân Arab đang chuẩn bị chứ chưa đánh đâu) :D

    Thân thế Balian trong phim cũng khác lịch sử, tất nhiên để phù hợp với phim.


  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7

    Hì hì thực tế thì trận Kerak thì viện binh của Baldwin IV chưa tới nơi thì Saladin đã té rồi bác ợ, trong phim mô tả ông này là người yêu hòa bình nhưng có vẻ như là trong thực tế ông ta là một con người cực kỳ hiếu chiến, dân Hồi thù ông ta như mẻ, đến Saladin cũng phải nể ông ta đôi phần.
  4. shinsaber

    shinsaber Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/04/2009
    Bài viết:
    1.644
    Đã được thích:
    483
    Tớ thấy Baldwin IV giống mẫu 1 vị vua trung cổ điển hình, luôn muốn mở rộng lãnh thổ và đánh bại người Hồi giáo. Xét về tình thế của Jerusalem lúc đó thì tớ thấy sách lược đối đầu của Baldwin cũng ko sai khi Saladin đã có thể thống nhất lực lượng Hồi giáo thì việc ông ta chĩa mũi dùi vào Jerusalem là chắc chắn. Baldwin ko có nhiều thời gian trong khi cháu ông còn nhỏ và quí tộc trong triều đình thì lục đục, có lẽ ông muốn tìm kiếm 1 chiến thắng để đảm bảo Saladin ko đủ khả năng gây nguy hiểm cho vương quốc trong vòng ít nhất là 10 năm đến khi Baldwin V cháu ông trưởng thành.
  5. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    bác đọc thêm ở đây

    Trận Hattin 1187- Chiến công vĩ đại của Saladin
  6. OngHoangBay

    OngHoangBay Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    11/05/2010
    Bài viết:
    75
    Đã được thích:
    0
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Tổ chức Hiệp sỹ Cứu tế (Order of Knights Hospitaller ) Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}




    [​IMG]
    Cờ của Tổ chức Hiệp sỹ Hospitaller


    Tổ chức Hiệp sĩ Cứu tế, cũng còn được gọi là Order of Hospitaller hoặc đơn giản chỉ là Hospitaller, là một nhóm người thuộc một bệnh viện ở Jerusalem được thành lập bởi Thánh Gerard ở khoảng năm 1023, nó là bắt nguồn của hai Tổ chức Hiệp sỹ lớn có tinh thần thượng võ cao, đó là nhóm các Hiệp sĩ của Thánh Lazarus và nhóm các Hiệp sĩ của St John, nhóm sau được biết đến như là một Tổ chức quân sự kiểm soát chủ quyền của đảo Malta.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tổ chức Hospitaller được phát sinh xung quanh công việc của một bệnh viện có tên là Amalfitan nằm ở Muristan, một vị trí ở Jerusalem, tổ chức này được thành lập khoảng năm 1023 để cung cấp sự chăm sóc cho người hành hương nghèo, bị bệnh hoặc bị thương đến Đất Thánh. Sau khi Thiên chúa giáo phương Tây xâm chiếm Jerusalem vào năm 1099 trong cuộc Thập tự chinh đầu tiên, tổ chức đã trở thành một tổ chức tôn giáo và tự vũ trang theo điều lệ của riêng mình và tham gia bảo vệ Đất Thánh. Sau cuộc chinh phục vùng Đất Thánh của lực lượng Hồi giáo, Tổ chức đã phải hoạt động từ đảo Rhodes nơi mà nó đã giành được chủ quyền (sovereign ) cho chính mình và kể từ khi chuyển về Malta nơi mà nó được quản lý như một quốc gia chư hầu của phó vương Tây Ban Nha ở Sicily.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tổ chức này đã bị suy yếu bởi cuộc chiếm đóng của Napoleon vào Malta năm 1798 và nó bị phân tán trên khắp Châu Âu. Nó lấy lại được sức mạnh trong đầu thế kỷ 19 vì nó mở rộng mục đích hoạt động của bản thân trong cả mảng tôn giáo và nhân đạo. Tổ chức này là nguồn gốc của Tổ chức quân sự có Chủ quyền của Công giáo La Mã ở Malta ( Roman Catholic Sovereign Military Order of Malta ) hiện đại ngày nay và có trụ sở tại Rome, và Tổ chức Đồng minh Tin Lành ( Allied Protestant Order ) có trụ sở chính tại Vương quốc Anh, Đức, Hà Lan và Thụy Điển.

    Quá trình thành lập và lịch sử ban đầu

    Năm 600, Giáo hoàng Gregory I ủy quyền cho Tu viện trưởng Ravennate Probus, người trước đây là sứ giả của ông tại Triều đình Lombard, để xây dựng một bệnh viện ở Jerusalem để điều trị và chăm sóc khách hành hương người Kitô giáo trên Đất Thánh. Năm 800, Charlemagne-hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh cho mở rộng bệnh viện Probus và thêm vào cho nó một phòng thư viện. Khoảng 200 năm sau, năm 1005, Quốc vương Hồi giáo Al Hakim đã cho phá hủy bệnh viện này và ba ngàn tòa nhà khác ở Jerusalem. Năm 1023, các thương gia từ Amalfi và Salerno ở Ý được sự cho phép của Quốc vương Hồi giáo Ali az-Zahir của Ai Cập đã xây dựng lại khu bệnh viện ở Jerusalem. Khu bệnh viện được xây dựng trên địa điểm của tu viện Thánh John the Baptist, tại đó khách hành hương Kitô giáo được đi vào những nơi gọi là thánh địa của Kitô giáo. Bệnh viện được phục vụ bởi các thầy tu dòng Benedictine.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tổ chức ( Hội) tu Hospitaller được thành lập sau thời gian của cuộc Thập tự chinh đầu tiên bởi Thánh Gerard, người có vai trò sáng lập đã được xác nhận bởi một sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Paschal II trong năm 1113. Gerard đã giành được vùng lãnh thổ và các khoản thu cho Tổ chức của ông ở khắp Vương quốc Jerusalem và những nơi xa hơn nữa. Raymond du Puy de Provence-người kế nhiệm ông, đã cho thành lập một trạm điều trị đầu tiên đầy ý nghĩa của Hospitaller ở gần nhà thờ của Thánh Sepulchre ở Jerusalem. Ban đầu Hội chỉ cung cấp dịch vụ chăm sóc khách hành hương ở Jerusalem, nhưng nó sớm mở rộng để cung cấp cho khách hành hương các dịch vụ hộ tống vũ trang ( đây gọi là bảo kê đúng không ạ ), và tổ chức này nhanh tróng phát triển thành một lực lượng quân sự đáng kể.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Các Hiệp sỹ Hospitaller và Knights Templar-thành lập năm 1119, đã trở thành những Tổ chức Thiên chúa giáo mạnh nhất trong khu vực. Cách mà họ phân biệt bản thân trong các trận chiến với người Hồi giáo là các chiến binh của họ phải mặc một áo choàng màu đen với một chữ thập màu trắng. Hội đã sử dụng trang phục này để hoạt động trong một thời gian dài cho đến năm 1248 khi mà Đức Giáo Hoàng Innocent IV (1243-1254), phê duyệt một trang phục quân sự tiêu chuẩn cho loại mà các Hiệp sỹ Hospitaller được mặc trong chiến trận. Thay vì mặc một chiếc áo choàng không tay khít với áo giáp của họ ( làm hạn chế chuyển động của họ), họ đã mặc một chiếc áo choàng thụng đỏ với một cây thánh giá màu trắng trang trí như là phù hiệu trên đó.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Đến giữa thế kỷ 12, Tổ chức đã được phân chia rõ ràng thành những người chuyên về mảng quân sự và những người làm việc với các bệnh nhân. Nó vẫn là một Tổ chức tôn giáo và nhận được đặc quyền từ Giáo hoàng, ví dụ: Tổ chức được miễn phải chịu quyền kiểm soát của các nhà cai trị địa phương mà chỉ chịu trách nhiệm trước Đức Giáo Hoàng, và nó không phải trả thuế Thập phân và được cho phép để sở hữu các tòa nhà tôn giáo. Rất nhiều các công sự, thành lũy của người Kitô giáo tại Đất Thánh được xây dựng bởi các Tổ chức Hiệp sỹ Templar và Hospitaller. Ở thời kỳ đỉnh cao của Vương quốc Jerusalem, Hospitaller đã cho xây bảy pháo đài lớn và 140 bất động sản khác trong khu vực này. Hai tòa lớn nhất trong số này, cũng là căn cứ của quyền lực của họ ở Jerusalem và trong Quận quốc Antioch, đó là các lâu đài Krak des Chevaliers và Margat ở Syria. Các tài sản của Hội được chia thành priories, sau đó được chia nhỏ hơn nữa thành bailiwicks, rồi lại được chia thành commandries. Frederick Barbarossa-Hoàng đế La Mã Thánh thần, đã cam kết sự bảo vệ của mình cho các Hiệp sĩ của St John trong một điều luật về các đặc quyền được cấp năm 1185.

    Hiệp sĩ của Cyprus và Rhodes


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cuối cùng người Hồi giáo đã trục xuất các Hiệp sĩ Hospitaller ra khỏi Jerusalem. Sau sự sụp đổ của Vương quốc Jerusalem năm 1291 (Jerusalem bị sụp đổ năm 1187), các Hiệp sĩ chỉ còn được hoạt động giới hạn trong quận quốc Tripoli và khi Acre sụp đổ vào năm 1291, họ tìm kiếm nơi cư trú trong Vương quốc đảo Síp. Thấy mình trở thành bị mắc quá sâu trong hoạt động chính trị của đảo Síp, Grand Master của họ-Guillaume de Villaret, đã lập nên một kế hoạch mua lại mua lại một mảnh đất tạm thời cho chính họ, họ đã lựa chọn đảo Rhodes làm ngôi nhà mới của. Fulkes de Villaret-người kế nhiệm Villaret, đã tiến hành kế hoạch và vào ngày 15 tháng năm 1309, sau hơn hai năm vận động đảo Rhodes đã thuộc về các hiệp sĩ. Họ cũng đã kiểm soát một số đảo lân cận và các cảng Bodrum và Kastelorizo ở Anatolia

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Knights Templar đã bị giải thể năm 1312 và nhiều tài sản của họ đã được trao cho các Hospitaller. Các phần này được chia thành tám tongue ( ở Crown of Aragon, Auvergne, Castile, Anh, Pháp, Đức, Italy và Provence ). Mỗi tongue được quản lý bởi một Prior hoặc nếu có nhiều hơn một nhà dòng ở tongue, thì nó sẽ được quản lý bởi một Grand Prior. Tại Rhodes và sau đó là Malta, các hiệp sĩ thường trú ở từng tongue và được chỉ huy bởi một Bailli. Grand Prior người Anh vào thời đó là Philip De Thame, người đã mua bất động sản và giao cho tongue ở Anh năm 1330-1358.
    .
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sau ngay Hospitaller chuyển về Rhodes và họ cũng được gọi là Hiệp sĩ của Rhodes, và dần dần họ đã bị buộc phải nên có tính chất của một lực lượng quân sự nhiều hơn, đặc biệt là họ phải chiến đấu với bọn cướp biển Barbary. Họ đã phải chịu đựng hai cuộc xâm lược trong thế kỷ 15, một của Sultan của Ai Cập trong năm 1444 và một của Sultan Mehmed II-Ottoman trong năm 1480, sau khi triều đình này đánh bại Đế quốc Byzantine và chiếm Constantinople và năm 1453 thì mục tiêu ưu tiên của họ là các Hiệp sĩ Hospitaller.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Năm 1522 một đội quân xâm lược hoàn toàn mới đã kéo đến: 200.000 lính và 400 tàu chiến dưới sự chỉ huy của Sultan Suleiman Vĩ Đại đã đổ bộ xuống đảo Rhodes. Để chống lại lực lượng này các Hiệp sĩ Hospitaller dưới sự chỉ huy của Đại thủ lĩnh Philippe de Villiers L'Isle-Adam, có khoảng 7.000 người và hệ thống công sự của họ. Cuộc bao vây kéo dài sáu tháng và cuối cùng Hospitaller đã bị đánh bại và những người sống sót được phép chuyển tới Sicily.

    Hiệp sĩ của Malta

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sau bảy năm di chuyển từ nơi này đến nơi khác ở châu Âu, Các Hiệp sĩ Hospitaller lại có chỗ trú chân vào năm 1530 khi Charles V của Tây Ban Nha cũng là vua của Sicily, đã ban cho họ đảo Malta, và Gozo cùng cảng Tripoli ở Bắc Phi làm thái ấp vĩnh viễn để đổi lấy duy nhất một chú chim ưng Malta hàng năm, mà họ phải gửi vào All Souls Day-ngày linh hồn cho đại diện của nhà vua kiêm Phó vương Sicili.

    Các Hiệp sỹ Hospitaller tiếp tục hành động của họ để chống lại người Hồi giáo và đặc biệt là những tên cướp biển Barbary. Mặc dù họ chỉ có một vài con tàu nhưng họ đã nhanh chóng thu hút sự giận dữ của Đế quốc Ottoman, người không hài lòng với việc tái định cư của họ. Năm 1565 Suleiman đã gửi một lực lượng xâm lược khoảng 40.000 người và tiến hành vây hơn 700 hiệp sĩ và 8.000 binh sĩ và tìm cách trục xuất họ khỏi Malta và cũng để có một căn cứ mới để từ đó có thể khởi động một cuộc tấn công vào châu Âu.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Lúc đầu, cuộc chiến đã diễn biến rất xấu cho các Hiệp sỹ Hospitaller ở đảo Rhodes: hầu hết các thành phố đã bị phá hủy và khoảng một nửa số các hiệp sĩ đã thiệt mạng. Ngày 18 tháng 8 vị trí của họ bị bao vây và tình hình ngày càng trở nên tuyệt vọng: quân số của họ ngày càng thưa thớt, họ đã trở nên quá yếu ớt để giữ một tuyến công sự quá dài. Nhưng khi hội đồng quân sự của ông đề nghị từ bỏ Il Borgo và Senglea và rút về để tăng cường Fort St Angelo, Đại thủ lĩnh Jean Parisot de la Valette đã từ chối.


    [​IMG]
    Cảnh cuộc vây hãm Malta

    Phó vương Sicilia đã không gửi quân tiếp viện, có thể là vị phó vương đã nhận được mệnh lệnh của Philip II của Tây Ban Nha là hãy chút gánh nặng của việc phòng thủ lên vai các Hiệp sĩ. Một quyết định sai lầm có thể có nghĩa là thất bại và Sicily cùng với Naples sẽ dễ dàng rơi vào tay triều Ottoman. Ông đã để lại đứa con trai riêng của mình chiến đấu cùng với La Valette, do đó dường như ông không thể thờ ơ với số phận của pháo đài. Dù điều gì đi chăng nữa có thể là nguyên nhân của sự chậm trễ của ông, vị Phó vương đã do dự cho đến khi trận chiến đã gần như được quyết định bởi những nỗ lực không cần trợ giúp của các Hiệp sĩ, trước khi bị buộc ông bị buộc phải ra lệnh gửi quân tiếp viện do sự phẫn nộ của các sỹ quan của mình.


    Vào ngày 23 tháng 8 đã nổ ra thêm một cuộc tấn công lớn, đây là nỗ lực quan trọng cuối cùng và nó đã được chứng minh bởi những người vây thành. Nó đã bị đẩy trở lại với những thiẹt hại lớn nhất trong một phần quân phòng thủ. Tuy nhiên, lúc này hoàn cảnh của lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ lại trở nên tuyệt vọng. Ngoại trừ Fort St Elmo, các công sự của Malta vẫn còn nguyên vẹn. Công việc sửa chữa được tiến hành vào ban đêm và ngày hôm sau quân đồn trú đã phục hồi được chỗ bị thiệt hại và việc chiếm Malta dường như ngày càng chở nên là điều không thể. Nhiều binh sỹ trong quân đội Ottoman phải sống ở những chỗ quá trật trội và nhiều người đã bị ốm trong những tháng mùa hè kinh khủng. Đạn dược và thực phẩm đã bắt đầu cạn và quân Ottoman đang trở nên ngày càng chán nản ở sự thất bại của các cuộc tấn công và thiệt hại của họ. Ngày 23 tháng 6 cái chết của Dragut-viên chỉ huy có trình độ lão luyện vốn là một cướp biển và đô đốc của hạm đội Ottoman là một đòn nghiêm trọng. Các chỉ huy Thổ Nhĩ Kỳ, Piyale Pasha và Mustafa Pasha đã trở nên bất cẩn. Họ có một hạm đội lớn được sử dụng có hiệu lực duy nhất chỉ một lần. Họ bỏ qua các thông tin liên lạc của họ với các bờ biển châu Phi và đã không cố gắng để tìm kiếm và đánh chặn quân tiếp viện từ Sicilia.


    Ngày 01 tháng 9 họ đã tiến hành một nỗ lực cuối cùng, nhưng tinh thần chiến đấu của quân Ottoman đã xuống rất nghiêm trọng và các cuộc tấn công nổ ra một cách yếu ớt, và điều này đã khuyến khích những người bị bao vây, lúc này họ bắt đầu cảm thấy hy vọng được giải thoát. Những bối rối và thiếu quyết đoán của người Ottoman khi nghe nói đến quân tiếp viện của Sicilian ở Mellieħa Bay. Không biết rằng đây chỉ là một lực lượng rất nhỏ, họ đã dừng các cuộc bao vây và bỏ đi vào ngày 8 tháng 9. Cuộc Đại bao vây vào Malta có thể là hành động quân sự cuối cùng mà một lực lượng hiệp sĩ đã giành một chiến thắng quyết định.


    Khi người Thổ rời khỏi Malta thì Hospitaller chỉ còn có 600 người có thể cầm vũ khí. Con số ước tính đáng tin cậy nhất về số lượng của quân đội Ottoman là khoảng 40.000 quân nhưng cuối cùng chỉ có khoảng 15.000 người trở về Constantinople. cuộc bao vây này được miêu tả sinh động trong bức tranh tường của Matteo Perez d'Aleccio trong Đại sảnh của St Michael và St George, nơi đây cũng được gọi là Phòng Ngai vàng, tại cung điện của Đại thủ lĩnh Valletta... Sau khi cuộc bao vây kết thúc một thành phố mới đã được xây dựng - thành phố hiện nay có tên Valletta để tưởng nhớ vị Đại thủ lĩnh-người đã chiến thắng trong cuộc bao vây.


    Những hiệp sĩ trong thế kỷ 16 và 17: tái chinh phục biển


    Sau khi các Hiệp sĩ lại Hospitaller chuyển đến Malta họ thấy rằng họ không thể theo đuổi các mục tiêu ban đầu- cho sự tồn tại của họ; đó là hỗ trợ và tham gia những cuộc thánh chiến tại Đất Thánh lúc này đã chở thành một nhiệm vụ bất khả thi vì lý do tài chính và sức mạnh quân sự phụ thuộc vào vị trí địa lý. Với suy giảm nguồn thu từ tài trợ vì châu Âu không còn sẵn sàng hỗ trợ và một tổ chức tốn kém vô nghĩa, các Hiệp sĩ quay sang quan tâm đến Địa Trung Hải vì đang có các mối đe dọa ngày càng gia tăng của cướp biển, đặc biệt là từ những mối đe dọa của hoạt động của cướp biển Barbary vốn được hỗ trợ của triều Ottoman từ bờ biển Bắc Phi. Vào cuối thế kỷ 16 được khuyến khích mạnh mẽ bởi một chiến thắng quyết dịnh sau khi phòng thủ thành công cho hòn đảo của họ vào năm 1565 và cũng bởi chiến thắng của người Kitô giáo trước hạm đội Ottoman trong trận Lepanto năm 1571, các Hiệp sĩ đã lập nên hệ thống hộ tống các tầu thương gia của người Kitô giáo đến và đi từ Levant và giải phóng các nô lệ Thiên chúa giáo vốn bị bắt giữ bởi cướp biển Barbary Corsair. Hoạt động này được gọi là Corso.

    Tuy nhiên, lúc này Hội sớm phải vật lộn với sự giảm sút thu nhập. Bởi vì chính sách Địa Trung Hải mà họ phải cạnh tranh với người có trách nhiệm bảo vệ truyền thống của vùng Địa Trung Hải, các thành phố quốc gia hải quân như Venice, Genoa và Pisa. Chưa hết một điều nữa làm tồi tệ thêm tình hình tài chính của họ, trong suốt thời gian này tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với đồng 'scudo' vốn được thành lập vào cuối thế kỷ 16 dần dần trở thành lỗi thời, có nghĩa là các hiệp sĩ dần dần nhận được ít hơn từ thương mại nội địa. Kinh tế bị cản trở bởi các hòn đảo cằn cỗi họ bây giờ ngày càng có nhiều người ở, nhiều hiệp sĩ của họ đã phải vượt ra ngoài cái gọi nhiệm vụ đột kích tàu Hồi giáo ( tức là cũng trở thành cướp biển). Và ngày càng có nhiều tàu bị cướp bóc, và các khoản lợi nhuận từ đó cho phép nhiều hiệp sĩ sống yên và sang trọng và cưới các phụ nữ địa phương làm vợ rồi đăng ký vào các lực lượng hải quân Pháp và Tây Ban Nha để tìm kiếm kinh nghiệm sống, phiêu lưu và nhiều tiền bạc hơn.


    Những sự thay đổi thái độ hiệp sĩ được kết hợp từ các tác động của cải cách và chống cải cách của Tôn giáo và sự thiếu ổn định từ Nhà thờ Thiên chúa giáo La Mã. Sự kiện này ảnh hưởng mạnh mẽ đến các Hiệp sĩ và vào thế kỷ 16 -> 17 thái độ sùng kính tôn giáo đã giảm dần trong rất nhiều người Kitô hữu ở châu Âu (và đồng thời tầm quan trọng của một đội quân tôn giáo) và do đó các Hiệp sĩ cũng thường xuyên phản ánh thái độ của các quốc gia châu Âu. Do đó các Hiệp sĩ-một tô chức quân sự Công giáo La Mã, lại muốn hợp tác với nước Anh và chở thành một trong những quốc gia thành viên của nó – Tổ chức đã bị tịch biên cùng với các tu viện của nó dưới thời vua Henry VIII-nhưng ở thời Nữ hoàng Elizabeth I theo Tin Lành, bà ta đã khéo léo thể hiện sự khoan dung tôn giáo mới với Tổ chức này. Thậm chí Tổ chức còn có một phần thành viên người Đức theo Tin Lành và một phần theo Công giáo La Mã.

    [FONT=&quot]
    Sự xuy thoái đạo đức mà các Hiệp sĩ đã trải qua trong giai đoạn này được đánh dấu bởi nhiều hiệp sĩ quyết định phục vụ trong lực lượng hải quân nước ngoài và trở thành "lính đánh thuê-
    [FONT=&quot] Hải cẩu từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17" với Hải quân Pháp là điểm đến phổ biến nhất. Quyết định này đã đi ngược lại lý do cho sự tồn tại của các Hiệp sĩ, bởi vì bằng cách phục vụ trực tiếp một cường quốc châu Âu họ phải đối mặt với khả năng rất thực tế rằng họ sẽ phải chiến đấu chống lại một lực lượng Công giáo, như trong vài cuộc đụng độ hải quân giữa Pháp-Tây Ban Nha xảy ra trong thời gian này. Một trong những nghịch lý lớn nhất là một thực tế, trong nhiều năm Pháp vẫn tỏ ra thân thiện với Đế quốc Ottoman. Vào lúc này Đế quốc Ottoman là kẻ thù lớn nhất và khó chịu nhất của các Hiệp sĩ và là mục đích duy nhất cho sự tồn tại của họ. Paris đã ký kết nhiều hiệp định thương mại với Đế quốc Ottoman và đồng ý ký một hiệp ước ngừng bắn không chính thức ( cuối cùng lại không hiệu quả) giữa hai vương quốc trong thời kỳ này. Do đó khi các Hiệp sĩ liên kết với đồng minh của kẻ thù trong lễ tuyên thệ nhậm chức của họ đã cho thấy sự mâu thuẫn về mặt đạo đức trong thế kỷ 17. Phục vụ trong lực lượng hải quân nước ngoài, đặc biệt là cho nước Pháp, đã tạo cho các Hiệp sĩ cơ hội để phục vụ Giáo Hội và cho nhiều người khác nữa, thậm chí cho vua của nước Pháp, đã làm tăng cơ hội thăng tiến của các Hiệp sỹ trong lực lượng hải quân[/FONT][/FONT][FONT=&quot] và được trả lương cao hơn và cũng để không bị trong những chuyến đi biển thường xuyên của họ. Quyết định này cho thấy " sự mai một đi của lòng trung thành của các Hiệp sĩ với Tổ chức của họ và với đức tin Công giáo. Đổi lại, người Pháp đã có được kinh nghiệm về hải quân một cách nhanh chóng để ngăn chặn các mối đe dọa của Triều đình Habsburg của Tây Ban Nha[/FONT].

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Malta thất thủ

    Thành lũy của họ ở Malta-Địa Trung Hải đã bị chiếm đóng bởi Napoleon trong năm 1798 trong chuyến viễn chinh của ông đến Ai Cập. Napoleon yêu cầu một hải cảng an toàn để tái cung cấp nước ngọt cho tàu của mình và khi họ từ chối ông ta, Bonaparte đã gửi một đơn vị để tấn công vào các ngọn đồi của Valletta. Đại thủ lĩnh Ferdinand von Hompesch zu Bolheim đã không thể đoán trước hoặc chuẩn bị cho mối đe dọa này, vì không được chỉ huy một cách hiệu quả, họ đã nhanh chóng đầu hàng Napoleon vì cho rằng điều luật của tổ chức cấm chiến đấu chống lại người Kitô hữu. Năm 1799, trong ô nhục và chịu áp lực từ tòa án của nước Áo, ông từ chức và rút lui về Montpellier-Pháp.




    [​IMG]
    [FONT=&quot]Lâu đài của các Hiệp sỹ [/FONT]Hospitaller ở Marqab




    [​IMG]
    [FONT=&quot]Sơ đồ lâu đài của các Hiệp sỹ [/FONT]Hospitaller ở Belvoir-Palestine




    [​IMG]
    [FONT=&quot]Lâu đài của các Hiệp sỹ [/FONT]Hospitaller ở đảo Rhodes



    [​IMG]
    [FONT=&quot]Lâu đài của các Hiệp sỹ [/FONT]Hospitaller ở Kerk, không có súng đại bác thì nản luôn nhất là phải công thành bằng thang


    [FONT=&quot]
    [​IMG][​IMG]
    Quân phục của các Hiệp sỹ và võ sỹ
    [/FONT]Hospitaller



    [​IMG]
    Cảnh chăm sóc bệnh nhân tại bệnh viện ở thế kỷ 12



    [​IMG]
    Trang bị của một hiệp sỹ
    Hospitaller



    [​IMG]
    Cảnh các hiệp sỹ Hospitaller chiến đấu bảo vệ khách hành hương đến Đất Thánh trước các toán cướp



    [​IMG]
    Áo chùng của tu sỹ hiệp sỹ Hospitaller



    [​IMG]
    Các Hiệp sỹ Hospitaller hành quân năm 1250


    [​IMG]
    Cảnh tranh cãi nhau trong một cuộc họp của các Hiệp sỹ
    Hospitaller



    [​IMG]
    Cứ điểm Acre thất thủ năm 1291



    [​IMG]
    Trang bị của một
    Hiệp sỹ Hospitaller nhánh St John năm 1306
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Hiệp sỹ cứu tế ( tiếp)





    [​IMG]
    Một bức tranh vẽ một hiệp sỹ cứu tế đang cầu chúa




    [​IMG]
    Trang bị ( mũ sắt của các hiệp sỹ cứu tế




    [​IMG]
    Cảnh đột kích trên biển của các Hiệp sỹ cứu tế ở thế kỷ 14



    [​IMG]
    Trang bị của một huynh đệ Hiệp sỹ cứu tế vào năm 1330



    [​IMG]
    Cảnh một thày tu dòng cứu tế đi vi hành, có hiệp sỹ hộ tống ở khỏang năm 1375. Đây chắc đi thu thuế



    [​IMG]
    Cảnh các hiệp sỹ đảo Rhodes chiến đấu để bảo vệ hòn đảo này trước hạm đội của người Manluk trong năm 1444





    [​IMG]
    Cảnh một kiếm đồng mặc giáp trụ cho một Hiệp sỹ cứu tế ở khoảng năm 1500



    [​IMG]
    Cờ hiệu của Hiệp sỹ cứu tế vào khoảng năm 1525



    [​IMG]
    Một cuộc họp của các Hiệp sỹ cứu tế do Đại thủ lĩnh trụ trì ở khoảng giữa thế kỷ 16






    [​IMG]
    Quân phục và trang bị của các Hiệp sỹ cứu tế ( Hiệp sỹ Đảo Malta) năm 1200






    [​IMG]
    Quân phục và trang bị của các Hiệp sỹ cứu tế ( Hiệp sỹ Đảo Malta) năm 1250->1300






    [​IMG]
    Quân phục và trang bị của các Hiệp sỹ cứu tế ( Hiệp sỹ Đảo Malta) năm 1300->1350





    [​IMG]
    Quân phục và trang bị của các Hiệp sỹ cứu tế ( Hiệp sỹ Đảo Malta) năm 1450->1500







    [​IMG]
    Quân phục và trang bị của các Hiệp sỹ cứu tế ( Hiệp sỹ Đảo Malta) năm 1500->1550




    [​IMG]
    Quân phục và trang bị của các Hiệp sỹ cứu tế ( Hiệp sỹ Đảo Malta) năm 1550->1600



    [​IMG]
    Quân phục và trang bị của các Hiệp sỹ cứu tế ( Hiệp sỹ Đảo Malta) năm 1600->1650





    [​IMG]
    Quân phục và trang bị của các Hiệp sỹ cứu tế ( Hiệp sỹ Đảo Malta) năm 1650->1700




    [​IMG]
    Quân phục và trang bị của các Hiệp sỹ cứu tế ( Hiệp sỹ Đảo Malta) năm 1700->1750




    [​IMG]
    Quân phục và trang bị của các Hiệp sỹ cứu tế ( Hiệp sỹ Đảo Malta) năm 1750->1800, đây là thời kỳ Hoàng đế Napoleon chiếm Malta, sau đó thì Tổ chức Hiệp sỹ cứu tế không còn quân đội nữa
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc Thập tự chinh lần thứ ba

    Thời gian: năm 1189-> 1192
    Địa điểm: vùng Cận Đông ( Anatolia, Levant, Palestine )
    Kết quả: Hiệp ước Ramla

    • Jerusalem vẫn còn nằm trong sự kiểm soát của Hồi giáo
    • Thập tự quân chiến thắng trong tất cả các cuộc đụng độ quân sự
    • Ý củng cố kiểm soát các cảng của Syria
    • Người Hồi giáo cho phép người Thiên chúa giáo không vũ trang được hành hương vào Đất Thánh
    Lãnh thổ thay đổi: Cyprus, Acre, Jaffa và phần lớn bờ biển Palestine nằm trong sự kiểm soát của Thập tự quân

    Lực lượng đôi bên

    Quân Thập tự chinh

    • Vương quốc Jerusalem
      • Hiệp sĩ Templar
      • Hiệp sĩ Teutonic
      • Hiệp sĩ Hospitaller
    • Vương quốc Anh
    • Vương quốc của Pháp
      • Blois
    • Đế quốc La Mã Thần thánh
      • Swabia
      • Áo
      • Montferrat
    Vương quốc Hungary


    Chỉ huy của quân Thập tự chinh

    • Richard I của Anh
    • Guy của Lusignan - Jerusalem
    • Henry II của Champagne - Jerusalem
      • Robert de Sable - Hiệp sĩ Templar
      • Meister Sibrand - Hiệp sĩ Teutonic
      • Garnier de Nablus - Hiệp sĩ Hospitaller
      • Balian của Ibelin - Jerusalem
    • Philip II của Pháp
      • Theobald V của Blois
    • Frederick I - Đế quốc La Mã Thần thánh
      • Fredrick VI của Swabia
      • Leopold V của Áo
      • Conrad của Montferrat
    Géza của Hungary

    Lực lượng của quân Thập tự chinh

    Anh: 8.000 người
    Pháp: 2.000 người
    Đức: 20.000 người ( có nguồn tin lên đến 100.000)



    Người Saracens và đồng minh

    • Ayyubids
    • Zengids
    • Đế quốc Seljuk
    Đế quốc Byzantine
    Vương quốc Sicilia

    Chỉ huy của người Saracens và đồng minh


    • Saladin - Ayyubid
    • Kilij Arslan II - Đế quốc Seljuk
    • Isaac II Angelus - Đế quốc Byzantine
    • Isaac Komnenos - Đế quốc Byzantine
    • Tancred của Sicily
    Lực lượng người Saracens và đồng minh
    Không có thông tin chi tiết


    Cuộc Thập tự chinh lần thứ ba ( năm 1189-1192), cũng được gọi là Thập tự chinh của các nhà vua, là một nỗ lực của các nhà lãnh đạo châu Âu để chiếm lại các Đất Thánh từ Saladin (Salah ad-Din Yusuf ibn Ayyub). Đó là phần lớn thành công, nhưng đã giảm ngắn-mục tiêu cuối cùng của mình trong cuộc tái chiếm Jerusalem.

    Sau sự thất bại của cuộc Thập tự chinh thứ hai, triều đình Zengid kiểm soát một Syria thống nhất và tham gia vào các cuộc xung đột với triều Fatimid cai trị Ai Cập, kết quả cuối cùng của cuộc chiến dẫn đến việc thống nhất các lãnh thổ Ai Cập và Syria dưới sự chỉ huy của Saladin, người lãnh đạo phong trào Thánh chiến và quyết tâm đánh đổ các Thành bang Kitô giáo để chiếm lại Jerusalem vào năm 1187. Bị thúc đẩy bởi lòng nhiệt thành tôn giáo, Henry II của Anh và Philip II của Pháp đã chấm dứt các cuộc xung đột của họ để bắt đầu lại một cuộc thập tự chinh mới (mặc dù Henry II đã chết vào năm 1189 và quân Thập tự chinh của Anh được Richard Lionheart chỉ huy thay thế). Hoàng đế La Mã Thánh Thần Frederick Barbarossa vốn đã cao tuổi đáp lại lời kêu gọi bằng cách huy động một đội quân lớn và dẫn đầu nó đến vùng Anatolia, nhưng ông đã bị chết đuối trước khi đến được vùng Đất Thánh. Rất nhiều người trong đội quân của ông đã không còn động lực và quyết định quay về nhà.

    Sau khi đuổi người Hồi giáo ra khỏi Acre, lực lượng Thiên chúa giáo đã tranh chấp nhau về chiến lợi phẩm của cuộc chiến; vì thất vọng với Richard, Leopold V của Áo-người thừa kế của Frederick và Philip đã rời Đất Thánh vào tháng 8 năm 1191. Saladin đã thất bại trong mọi cuộc đụng độ quân sự trước Richard và Richard đã chiếm thêm được một số thành phố cứ điểm quan trọng ven biển. Tuy nhiên, vào ngày 02 tháng 9 năm 1192, Richard đã ký một hiệp ước với Saladin trong đó nói rằng Jerusalem sẽ vẫn thuộc người Hồi giáo kiểm soát, nhưng người Thiên chúa giáo hành hương không vũ trang được cho phép đến tham quan thành phố và Richard rời Đất Thánh vào ngày 9. Những thành công của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba cho phép quân Thập tự chinh duy trì một vương quốc lớn có trụ sở tại Cyprus và bờ biển Syria. Nhưng sự thất bại của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba trong việc tái chiếm Jerusalem đã dẫn đến việc kêu gọi một cuộc Thập tự chinh lần thứ tư sáu năm sau đó.


    Tóm tắt bối cảnh


    Người Hồi giáo thống nhất đất nước: Sau sự thất bại của cuộc Thập tự chinh lần thứ hai, Nur ad-Din Zangi đã kiểm soát Damascus và thống nhất Syria.

    Cuộc chinh phục của Saladin: Saladin là người lãnh đạo cuộc thánh chiến chống lại quân Thập tự chinh và cũng là người trở thành vua của cả Ai Cập và Syria và sáng lập ra triều đại Ayyubid.

    Sự sụp đổ của Vương quốc Jerusalem: Do Guy Lusignan-vua của Jerusalem đã không nghe lời khuyên của Raymond xứ Tripoli mà mang quân đi giải vây cho Tiberias dẫn đến quân Thập tự chinh bị thất bại và hoàn toàn tê liệt tại trận Hattin, hậu quả gần của nó là sự sụp đổ của vương quốc Jerusalem và hàng loạt các thành phố khác của quân Thập tự chinh trong năm 1087.

    Đến cuối năm 1089, Saladin chiếm được Acre và Jerusalem. Giáo hoàng Urban III được cho là đã bị chết vì đau tim khi nghe tin về sự sụp đổ
    này. Tuy nhiên thì tại thời điểm xảy ra cái chết của ông, tin tức về việc Jerusalem thất thủ vẫn chưa thể đến được tai của ông ta, mặc dù ông đã biết về kết quả của trận chiến Hattin và sự sụp đổ của Acre.


    Chuẩn bị


    Đức Giáo Hoàng mới-Gregory VIII tuyên bố rằng việc chiếm Jerusalem là hình phạt cho tội lỗi của người Kitô hữu trên khắp châu Âu. Đây là một lời kêu gọi cho một cuộc thập tự chinh mới đến Đất Thánh. Henry II của Anh và Philip II của Pháp đã kết thúc cuộc chiến tranh giữa họ với nhau và thậm chí đã ra một sắc lệnh thuế mới " thuế thập phân Saladin " đánh vào các công dân của họ để tài trợ cho cuộc Thập tự chinh. Tại Anh, Baldwin của Exeter, Tổng-giám-mục Canterbury, đã thực hiện một chuyến đi tới xứ Wales để thuyết phục 3.000 binh lính mang chiếc chữ thập ( dụ dỗ họ tham gia cuộc Thập tự chinh), chuyến đi này được ghi lại trong quấn hành trình của Giraldus Cambrensis.

    Chiến dịch của Barbarossa

    Hoàng đế cao tuổi của Đế quốc La Mã Thánh Thần Frederick Barbarossa đáp lại lời kêu gọi này ngay lập tức. Ông đã nhận chiếc Thánh Giá tại tòa nhà thờ chính ở Mainz vào ngày 27 tháng 3 năm 1188 và là người đầu tiên khởi hành để đến về phía vùng Đất Thánh vào tháng 5 năm 1189 với một đội quân gồm khoảng 100.000 người, bao gồm 20.000 hiệp sĩ. Tuy nhiên, một số sử gia tin rằng đây là một con số cường điệu và rằng con số thực có thể chỉ lên đến hơn 15.000 người, bao gồm 3.000 hiệp sĩ. Một đội quân khoảng 2.000 người được dẫn đầu bởi Géza-hoàng tử Hungary, em trai của vua Béla III của Hungary cũng đi cùng với Barbarossa để đến Đất Thánh.

    Hoàng đế Byzantine Isaac II Angelus đã thực hiện một liên minh bí mật với Saladin để cản trở bước tiến của Frederick để đổi lấy sự an toàn của Đế quốc của mình. Trong khi đó, quốc vương Hồi giáo Rum hứa cho Frederick hành quân an toàn qua vùng Anatolia, nhưng sau khi phải chịu nhiều cuộc tập kích Frederick đã mất kiên nhẫn và vào ngày 18 tháng 5, 1190, quân đội Đức đã công chiếm Iconium, thủ đô của Vương quốc Hồi giáo của Rum. Ngày 10 tháng 6 năm 1190 con ngựa nhỏ của Frederick đã trượt ngã trong khi qua sông Saleph và hất ông ta vào các tảng đá. Sau đó ông bị chết đuối trên con sông này. Sau đó, phần lớn quân đội của ông đã trở về Đức để tham dự đoán cuộc bầu chọn Hoàng đế sắp tới. Frederick xứ Swabia-con trai của ông ta tiếp tục dẫn đầu khoảng 5000 người còn lại 5.000 đến Antioch. Ở đó, cơ thể của vị hoàng đế đã được đun sôi để loại bỏ phần xác thịt-phần này được chôn tại nhà thờ Thánh Peter, bộ xương của ông đã được đặt trong một cái túi để tiếp tục cuộc thánh chiến. Tuy nhiên tại Antioch thì quân Đức tiếp tục bị hao hụt bởi dịch sốt. Frederick Trẻ tuổi ( vì bố ông ta cũng tên là Frederick ) đã phải yêu cầu sự hỗ trợ của người thân tộc ông là Conrad của Montferrat để đưa ông đến Acre một cách an toàn bằng cách vượt qua Tyre, nơi xương cốt của ông cha được chôn cất ở đó.

    Cuộc khởi hành của Richard và Philip


    Henry II của Anh quốc qua đời vào ngày 06 tháng 7 1189 sau khi phải chịu một thất bại trước con trai ông-Richard I (Lionheart) và Philip II. Richard thừa kế ngôi vua và ngay lập tức bắt đầu gây quỹ cho cuộc thập tự chinh này. Trong tháng bảy năm 1190, Richard và Philip đã cùng khởi hành từ Marseille, Pháp đến Sicily. Philip II đã thuê một đội tầu vận tải của người Genova để vận chuyển quân đội của mình trong đó bao gồm 650 hiệp sĩ, 1.300 ngựa chiến và 1.300 hộ sỹ đến Đất Thánh.

    William II của Sicily đã chết vào năm trước đó và được kế nhiệm bởi Tancred, người đã tống Joan của Anh quốc- vợ của William và cũng là em gái của Richard vào tù. Richard ra tay can thiệp và chiếm được Messina-thủ đô của Sicily vào ngày 04 tháng 10 năm 1190 và Joan đã được phóng thích. Richard và Philip lại có vấn đề về cuộc hôn nhân của Richard, bởi vì ông này ( Richard ) đã quyết định kết hôn với Berengaria của Navarre và phá vỡ lời hứa hôn từ lâu của mình với Alys-em gái cùng bố khác mẹ của Philip. Philip rời Sicily và đi thẳng tới Trung Đông vào ngày 30 tháng Ba năm 1191 và đến Tyre vào giữa tháng. Ông tham gia vào cuộc bao vây Acre vào ngày 20 tháng 5. Richard đã không khởi hành từ Sicily cho đến ngày 10 tháng 4 năm đó.


    Ngay sau khi khởi hành từ Sicily, Hạm đội gồm chiếc 100 tàu của Richard (chở 8.000 quân) đã bị tấn công bởi một cơn bão mạnh. Một số tàu bị mắc cạn, trong đó có một chiếc chở Joan và Berengaria-vị hôn thê mới của ông ta và một lượng lớn các kho báu được tích lũy để chi dùng cho cuộc thập tự chinh này. Họ đã ngay lập tức phát hiện ra rằng Isaac Dukas Comnenus của Síp đã thu giữ kho báu này. Những phụ nữ trẻ thì không bị hề hấn gì. Richard tiến vào Limassol vào ngày 6 và gặp Isaac,ông này đã ngay lập tức đồng ý trả lại đồ đạc cho Richard và cũng gửi ké 500 binh sĩ của ông đến vùng Đất Thánh. Sau khi trở lại pháo đài Famagusta của ông, Isaac đã phá vỡ lời tuyên thệ của ông về lòng hiếu và ra một mệnh lệnh bắt Richard phải rời khỏi hòn đảo này. Sự kiêu ngạo của Isaac khiến Richard nổi giận và tiến hành chinh phục hòn đảo này trong vài ngày sau đó ông tiếp tục hành trình đến Đất Thánh và tham gia vào cuộc bao vây Acre.



    Cuộc bao vây Acre


    Cuộc vây hãm Acre là một trong những cuộc đối đầu đầu tiên của cuộc thập tự chinh lần thứ 3, kéo dài từ 28 tháng tám năm 1189 cho đến ngày 12 tháng 7 1191, và lần đầu tiên trong lịch sử mà vị vua của Jerusalem bị ép buộc phải đích thân đứng nhìn công cuộc bảo vệ Đất Thánh. Nó cũng là một trong những sự kiện đẫm máu nhất toàn bộ của thời kỳ của các cuộc thập tự chinh của giai cấp thống trị người Kitô giáo ở phương đông.

    Bối cảnh


    Sau khi Saladin đánh bại quân Thập tự chinh ở trận Hattin vào ngày 04 tháng 7 năm 1187, ông ta đã chinh phục một phần lớn Vương quốc Jerusalem trong đó có cả thành phố Acre với một sự đề kháng nhỏ và ngày 2 tháng 10 ông chiếm nốt Jerusalem. Sau đó Thập tự quân chỉ kiểm soát Tyre, Tripoli và Antioch, những nơi này đã bị Saladin tấn công trong năm 1188 mặc dù ông này đã không thu được thành công. Tin tức về sự sụp đổ của Jerusalem và Palestine đã gây sốc cho châu Âu và ngay lập tức đã có những lời kêu gọi về một cuộc Thập tự chinh mới bởi Giáo hoàng Gregory VIII vào tháng 10 năm 1187 và được tiếp tục bởi người kế nhiệm Đức Giáo Hoàng Clement III.

    Tyre


    Trong Tyre, Conrad của Montferrat đã cố thủ thành công trước các đợt tấn công của Saladin vào cuối năm 1187. Sau đó nhà vua hướng sự chú ý của mình vào các mục tiêu khác, nhưng sau đó đã cố gắng thương lượng một hiệp ước để thành phố đầu hàng, nhưng trong giữa năm 1188 lực lượng tăng viện đầu tiên từ châu Âu đến Tyre bằng đường biển. Cũng với những cam kết khác theo các điều khoản của hiệp ước Saladin sẽ phải phóng thích vua Guy, người mà ông đã bắt tù binh tại Hattin ( để đổi lấy việc bàn giao thành phố, nhưng mặc dù quân Kitô giáo đã có tiếp viện và không giao thành phố nữa ông vẫn cho thả Guy). Việc này đã leo thang xung đột giữa Guy-người đã có lỗi trong thảm họa của Hattin và Conrad-người đã bảo vệ thành công Tyre khỏi cuộc xâm lược tiếp theo. Guy đã được phóng thích và xuất hiện trước Tyre, nhưng Conrad đã không để cho ông ta vào thành phố và tuyên bố rằng là ông sẽ quản lý nó cho đến khi các vị vua khác sẽ đến từ trên biển để nhận bàn giao.Đây là điều đúng theo quy định trong di chúc của Baldwin IV: ông (Conrad của Montferrat) là người bà con gần nhất về đằng nội của Baldwin V. Guy bỏ đi trước khi xuất hiện một lần nữa ở bên ngoài Tyre với vợ của mình là nữ hoàng Sibylla, người sở hữu vương quốc này trên phương diện luật pháp, nhưng ông lại bị từ chối bởi Conrad và ông đã phải hạ trại của mình ở bên ngoài cổng của thành phố.

    Vào cuối mùa xuân năm 1188, William II của Sicily đã gửi tới một đội tàu với 200 hiệp sĩ, họ đến vào ngày 06 Tháng Tư năm 1189, Ubaldo Lanfranchi, Đức Tổng-giám-mục của Pisa cụng đến với 52 tàu. Guy đã thành công trong việc thuyết phục hai đội quân này về phe mình. Trong tháng Tám, Conrad lại từ chối không cho ông ta tiến vào thành phố, vì vậy ông này ( Guy ) đã cho dỡ trại và tiến về phía nam để tấn công Acre, ông và quân đội của mình hành quân dọc theo bờ biển, trong khi quân đến từ Pisans và Sicilia đi bằng đường biển. Guy rất cần một căn cứ vững chắc để từ đó ông có thể tổ chức một cuộc phản công vào Saladin và kể từ lúc ông không thể lấy lại Tyre, ông đã hướng sự quan tâm của mình vào Acre-50 km ( 31 dặm ) về phía nam ( của Tyre). Vì vậy, Guy và Conrad lại trở thành những đồng minh để chống lại Saladin.


    Acre


    Cảng Acre nằm trên một bán đảo ở Vịnh Haifa. Phía Đông của phần cũ của thành phố là cảng và nó được bảo vệ để phòng thủ từ biển, trong khi về phía tây và phía nam bờ biển được bảo vệ bởi một bức tường thành kiên cố. Bán đảo này được bảo vệ về phía đất liền bằng hai công sự được gia cố bằng các tháp canh. Đơn vị đồn trú người Hồi giáo của thành phố có thể đông gấp hai lần so với quân đội do Guy, người đến ngày 28 tháng 8, 1189. Ông này đã cố gắng để tấn công bất ngờ các đơn vị đồn trú bằng một cuộc xung phong vào các bức tường, nhưng chiến thuật này đã không thành công và do đó Guy cho lập doanh trại của ông ở bên ngoài thành phố để chờ quân tiếp viện, lực lượng này bắt đầu đến đó bằng đường biển một vài ngày sau đó. Một hạm đội Đan Mạch và Frisian sẽ thay thế cho người Sicilia, họ đã rút lui khi nghe tin tức về cái chết của William II. binh sĩ Pháp và Flemish cũng đã đến dưới sự chỉ huy của James của Avesnes, Henry I của Bar, Andrew của Brienne, Robert II của Dreux, và Philip của Dreux-anh trai của ông ( Guy ), Giám mục của Beauvais. Binh sỹ người Đức dưới sự chỉ huy của Margrave Louis III của Thuringia và Otto I của Guelders và người Ý dưới sự chỉ huy của Đức-Tổng-Giám mục Gerhard của Ravenna và Giám mục của Verona cũng đã đến. Louis của Thuringia đã có thể thuyết phục Conrad, anh em họ đằng mẹ của ông đưa quân từ Tyre đến. Khi Saladin được thông báo về việc hội binh này, ông đã tập hợp quân đội và hành quân đến Acre, nơi ông đã tấn công không thành công vào doanh trại của Guy vào ngày 15.

    Trận Acre


    Ngày 04 Tháng 10 năm 1189, Saladin di chuyển về phía đông của thành phố và đối mặt với doanh trại của Guy. Quân Thập tự chinh (trong đó bao gồm 7.000 bộ binh và 400 kỵ binh) không kể lực lượng của Guy đã dàn trận trước lực lượng của Saladin. Quân đội Thiên chúa giáo bao gồm các lãnh chúa phong kiến của vương quốc này, nhiều đội quân Thập tự chinh nhỏ đến từ châu Âu và các thành viên của các Tổ chức Hiệp sỹ thánh chiến, quân đội Hồi giáo bao gồm quân đội từ Ai Cập, Turkestan, Syria và Lưỡng Hà.

    Người Hồi giáo dàn một đội hình bán nguyệt về phía đông của thành phố và quay mặt về phía Acre. Quân Thập tự chinh đóng ở giữa với xạ thủ bắn nỏ trang bị nhẹ ở dòng đầu tiên và kỵ binh nặng trong dòng thứ hai. Tại trận Arsuf sau đó các Kitô hữu đã chiến đấu một cách mạch lạc, ở đây các trận chiến bắt đầu với một chiến tách biệt giữa các Templar và cánh phải của Saladin. Các hiệp sỹ Templar đã đánh bại đối phương làm cho họ phải điều quân tiếp viện từ các phần khác trong đội hình của họ. Do đó cánh trung quân của Kitô giáo có thể tiến lên một cách ổn định để tấn công vào cánh quân trung tâm của Saladin, các xạ thủ bắn nỏ liên tục xạ kích để mở đường cho một cuộc tấn công bằng bộ binh và nó đã gặp không sức đề kháng quá lớn. Cánh quân trung tâm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Saladin và cánh phải đã phải bỏ chạy.


    Tuy nhiên khi những kẻ thắng trận tản mát ra để cướp bóc chiến lợi phẩm. Saladinđã cho tập hợp người của mình và khi các Kitô hữu bắt đầu nghỉ ngơi với đống chiến lợi phẩm của họ, thì ông đã tung các kỵ binh nhẹ của mình ra để tấn công những kẻ đang thỏa mãn chiến thắng. Người Kitô giáo kháng cự một cách rời rạc và người Thổ Nhĩ Kỳ tàn sát những kẻ đào tẩu cho đến khi bị chặn lại bởi các đội quân mới xuất hiện từ sườn bên phải của người Kitô giáo. Vào lúc này của cuộc chiến, lực lượng dự bị dưới sự chỉ huy của Guy đang cầm cự với người Saracens ở Acre, cũng phải rút lui và do đó khoảng 5.000 người Hồi giáo phá vòng vây ra khỏi thành phố và tiến về phía Bắc, rồi họ gia nhập với cánh phải của Saladin và đánh ồ ạt vào nhóm Hiệp sỹ Templar, những người bị chặn mất đường rút lui của họ. Gerard de Ridefort-Đại thủ lĩnh của Templar đã bị giết. Andrew của Brienne cũng thiệt mạng và Conrad đã được giải cứu bởi Guy. Cuối cùng thì quân Thập tự chinh cũng đẩy lui được đội quân phá vây, Thương vong của phe Kitô giáo trong dao động khoảng từ 4.000 -> 5.000 trong tổng số 10.000 người. Saladin không thể đẩy họ trở lại vì không thể triển khai một cuộc tấn công dữ dội nữa và chiến thắng của ông là vẫn chưa hoàn toàn.


    Cuộc bao vây kép

    Trong mùa thu, nhiều quân Thập tự chinh châu Âu đã kéo đến, cho phép Guy phong tỏa Acre bằng đường bộ. Tin tức về sự xuất hiện sắp xảy ra của Frederick I, Hoàng đế La Mã Thần thánh đã đến tai Thập tự chinh, không chỉ làm tăng tinh thần chiến đấu của quân Thiên Chúa Giáo mà còn buộc Saladin phải mang đến nhiều binh sĩ hơn nữa để vây cả thành phố và doanh trại của quân Thập tự chinh trong hai cuộc vây hãm riêng biệt.

    15 tháng trôi qua mà không có hành động lớn giữa hai bên. Ngày 31 tháng 10, 50 chiếc Galley của người Hồi giáo đã phá vỡ phong tỏa đường biển và vượt qua vòng vây của người Cơ Đốc giáo để cung cấp cho thành phố thực phẩm và vũ khí. Ngày 26, một hạm đội Ai Cập xuất hiện để thiết lập lại quyền kiểm soát khu cảng và đường vào nó. Trong tháng 3 năm 1190, khi thời tiết trở nên tốt hơn, Conrad đi tới Tyre trên tàu riêng của mình và sớm trở lại với các nguồn cung cấp cho quân Thập tự chinh, giúp họ chiến đấu chống lại hạm đội Ai Cập từ trên bờ. Các vật liệu xây dựng đưa tới bởi Conrad đã được dùng để chế tạo các máy móc và thiết bị bao vây, mặc dù những máy móc này đã bị mất khi quân Thập tự chinh cố gắng để tấn công thành phố vào tháng 5.

    Ngày 19 tháng 5, Saladin đã tiếp tục tăng cường quân đội của mình trong những tháng trước đó, đã bắt đầu một cuộc tấn công vào doanh trại của quân Thiên chúa giáo, cuộc tấn công này kéo dài tám ngày trước khi nó bị đẩy lùi. Ngày 25 tháng 7, bất tuân mệnh lệnh chỉ huy của họ, binh lính người Thiên Chúa giáo đã đổ ra và tấn công vào bên sườn phải của Saladin và họ bị đánh bại. Có thêm quân tiếp viện từ Pháp tới doanh trại của Thập tự quân trong mùa hè do Henry II của Champagne, Theobald V của Blois, Stephen I của Sancerre, Ralph của Clermont, John của Fontigny, Alain của Saint-Valéry, Đức Tổng-Giám-Mục của Besançon, Giám mục của Blois và Giám mục của Toul. Frederick VI-Công tước của Swabia đến vào đầu tháng 10 với phần còn lại của quân đội của cha mình ( Frederick Barbarossa ) sau khi hoàng đế bị chết đuối tại sông Saleph vào ngày 10 tháng Sáu và ngay sau đó quân Thập tự chinh người Anh dưới sự chỉ huy của Baldwin Exeter, Tổng-giám mục-Canterbury. Trong tháng 10, Bá tước của Bar cũng đã đến và ngườiKitô hữu đã có một bước đột phá qua Haifa và cố gắng này đã cho phép họ mang được nhiều thực phẩm hơn để đến doanh trại của quân Thiên Chúa giáo tại Acre.

    Sinh hoạt ở trong thành phố ( Hồi giáo) và doanh trại của quân Thiên Chúa giáo tại Acre nhanh chóng trở nên khó khăn sau khi họ bị phong tỏa bởi Saladin. Thực phẩm vẫn còn hạn chế, nguồn nước cung cấp cho người Thiên Chúa giáo đã trở nên bị ô nhiễm bởi xác chết động vật và con người ( quân Hồi giáo hạ độc các nguồn nước bằng xác chết của động vật và con người ) và các dịch bệnh lây lan nhanh chóng bắt đầu. Bị lây bệnh sốt rét nên Louis của Thuringia đã phải trở về nhà khi người Pháp đến và ông này đã chết ở Síp trên đường trở lại Acre vào ngày 16. Ở khoảng cuối tháng Bảy đến tháng Mười, vợ của Guy-Nữ hoàng Sibylla đã chết và một vài ngày sau đó thì cả hai cô con gái của họ-Alais và Marie đều chết hết. Vì cái chết của nữ hoàng, Guy đã bị mất quyền đòi ngai vàng của Jerusalem như là người thừa kế hợp pháp của Sibylla. người thừa kế chính của bà ta lúc này chính là cô em gái cùng cha khác mẹ-Isabella của Jerusalem. Tuy nhiên Guy đã từ chối ủng hộ Isabella.

    Các nhà quý tộc của vương quốc này ( tàn dư phe đả.ng của Raymond ) đã sử dụng cơ hội này để truất ngôi của Guy và sắp xếp cuộc hôn nhân của Conrad với Isabella. Tuy nhiên, Isabella đã kết hôn với Humphrey IV của Toron và tình trạng hôn nhân của Conrad là không chắc chắn (ông này đã cưới một công chúa Byzantine vào năm 1187, vài tháng trước khi đến Tyre, cô ta đã bãi hôn khi ông ta vắng mặt) . Ngoài ra, người chồng đầu tiên của Sibylla lại là William Longsword-anh trai của Conrad, một cuộc hôn nhân giữa Isabella và Conrad có thể bị coi là "loạn luân". Giáo trưởng Eraclius bị bệnh, và Baldwin- của Exeter, người đại diện được chỉ định của ông lại đột ngột qua đời vào ngày 19. Vì vậy đích thân Đức Tổng-Giám-Mục Ubaldo Lanfranchi của Pisa và cũng là người thừa kế của giáo hoàng, cùng với Philip-Đức Giám mục của Beauvais đã đồng ý để Isabella ly hôn với Humphrey vào ngày 24. Conrad rút về Tyre cùng với Isabella nhưng Guy vẫn khăng khăng cho rằng ông ta vẫn là vua của Jerusalem: tranh chấp này đã không được giải quyết triệt để cho đến khi có một cuộc bầu cử vào năm 1192.

    Quân đội của Saladin lúc này đã quá đông nên quân Thập tự chinh không thể tiến hành bất kỳ cuộc tăng viện nào trên bộ đất và mùa đông có nghĩa là không có nguồn cung cấp hoặc tiếp viện bằng đường biển. Trong doanh trại Kitô giáo, các thủ lĩnh bắt đầu phải chống chọi với dịch bệnh. Theobald của Blois và Stephen của Sancerre đã chết và Frederick của Swabia cũng đã chết vào ngày 20 tháng 1 năm 1191. Henry của Champagne đã phải nằm dài vì bệnh tật trong nhiều tuần trước khi hồi phục. Giáo Trưởng Eraclius cũng đã chết trong cuộc bao vây nhưng rõ vào ngày tháng nào.

    Ngày 31 tháng 12, một nỗ lực khác để tấn các bức tường thành đã không thành công và vào ngày 06 tháng 1 năm 1191 một phần bức tường sụp đổ dẫn đến việc người Kitô giáo đã tiến hành nhiều nỗ lực để đè bẹp đơn vị đồn trú Hồi giáo ở trong thành phố. Ngày 13 tháng 2, Saladin thành công trong việc phá vỡ đội hình của người Thiên chúa giáo và vào được thành phố để ông có thể thay thế những người lính phòng thủ đã kiệt sức bằng một đơn vị đồn trú mới nếu không thì có thể toàn bộ lực lượng đồn trú cũ đã chết vì bệnh dịch. Conrad của Montferrat cố gắng tiến hành một cuộc tấn công bằng đường biển vào chiếc tháp Flies nhưng gặp bất lợi về gió và vỉa đá ngầm bên dưới bề mặt nước đã ngăn cản không cho các con tàu của ông có thể tiến vào đủ gần để gây thiệt hại đáng kể. Tuy nhiên trong tháng ba khi thời tiết trở nên tốt hơn và các con tàu lại một lần nữa có thể cập bến và cho bốc dỡ vật tư lên bờ biển, người Kitô giáo lại một lần nữa tránh khỏi nguy cơ thất bại. Leopold V của Áo đến và nắm quyền kiểm soát lực lượng Thiên chúa giáo. Sự kiện các con tàu cập bờ cũng là những thông tin xấu cho Saladin. Ông đã bỏ lỡ cơ hội của mình để đè bẹp số Kitô hữu còn lại và bây giờ vua Richard của Anh quốc cùng với vua Philip của Pháp quốc đang trên đường đến Đất Thánh, mỗi người đi kèm với một đội quân của mình. Cơ hội để chiến thắng của Saladin là đã bị tuột mất.

    Các vị vua ở Acre

    Philip đến ngày 20 Tháng Tư và Richard ngày 08 tháng 6 năm 1191 sau khi ông tranh thủ cơ hội để chinh phục đảo Síp trên đường đi. Richard I đến với một hạm đội của Anh gồm 100 tàu ( chở 8.000 quân), trong khi Philip II đã đến với một hạm đội của Genova dưới sự chỉ huy của Simone Doria. Philip đã sử dụng thời gian chờ đợi Richard để chế tạo những chiếc tháp công thành và bây giờ những vị vua hùng mạnh nhất của châu Âu đã xuất hiện, và lúc này chỉ có thành phố chứ không phải là doanh trại của người Kitô giáo bị bao vây. Khi Richard đến, ông đã tìm cách đàn phán với Saladin và một cuộc ngừng bắn ba ngày đã được thoả thuận để cuộc đàn phán có thể được tiến hành. Tuy nhiên, cả Richard và Philip đều bị ốm và cuộc đàn phán đã không xảy ra.

    Các máy công thành đã phá được những lỗ thủng ở bức tường của Acre, nhưng mỗi lần quân Thiên chúa giáo tổ chức một đợt công thành thì họ lại phải chống trả lại một cuộc tấn công dữ dội từ đội quân của Saladin và nó tạo cho đơn vị đồn trú của Acre có cơ hội để sửa chữa những thiệt hại trong khi các Kitô hữu phải phân tâm để đối phó với quân Hồi giáo ở phía ngoài. Ngày 01 tháng 7, Philip của Alsace đã chết trong doanh trại, đây là một cuộc khủng hoảng lớn cho vua Pháp, vì kể từ khi Philip-Bá tước của Flanders và Vermandois và cũng là một trong những người quan trọng nhất trong đoàn tùy tùng của nhà vua chết đi thì ông này đã không còn người thừa kế và việc giải quyết thừa kế của ông là một vấn đề khẩn cấp nhưng rất khó khăn vì nhà vua đang ở rất rất xa nước Pháp.

    Vào ngày 03 tháng 7, một cuộc bắn phá đủ dữ dội để tạo ra lỗ thủng trong các bức tường, nhưng các cuộc tấn công của quân Thiên chúa giáo vẫn bị đẩy lùi. Ngày 04 tháng 7, thành phố đề nghị xin đầu hàng, nhưng Richard từ chối các điều kiện của họ. thời gian này Saladin không tiến hành được một cuộc tấn công quy mô lớn nào vào doanh trại của quân Thiên chúa giáo. Ngày 07 tháng bảy, thành phố đã gửi một sứ giả để yêu cầu Saladin trợ giúp và đe dọa sẽ đầu hàng nếu ông ta không giúp đỡ. Ngày 11 tháng 7, đã xảy trận chiến cuối cùng và vào ngày 12 thành phố lại một lần nữa đưa ra điều kiện xin đầu hàng cho quân Thập tự chinh và lần này họ đã được chấp nhận. Conrad của Montferrat đã trở về Tyre vì Richard đã ủng hộ cho Guy của Lusigna làm vua của Jerusalem, và chiến dịch được tạm dừng theo yêu cầu đàn phán của Saladin. Saladin đã không đích thân tham gia vào các cuộc đàm phán, nhưng đã chấp nhận cho thành phố được đầu hàng. Quân Kitô giáo tiến vào thành phố và đơn vị đồn trú Hồi giáo đã bị tống giam. Conrad giơ cao ngọn cờ của Vương quốc Jerusalem và sau đó là cờ của Pháp, Anh và Áo trong thành phố.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Leopold của Áo rời khỏi Acre ngay sau khi chiếm được thành phố sau khi có một cuộc cãi vã với Richard: là người lãnh đạo còn sống sót của Đế quốc Đức hoàng, ông yêu cầu phải được đối xử ngang bằng với vị thế Philip và Richard nhưng đã bị từ chối và cờ hiệu của ông bị xé rách và ném xuống từ các thành lũy của Acre. Ngày 31 Tháng Bảy, Philip cũng trở về nhà để giải quyết việc thừa kế Vermandois và Flanders và chỉ còn Richard ở lại để phụ trách các lực lượng viễn chinh Thiên chúa giáo.
    Việc hành quyết các tù nhân

    Lúc Richard và Saladin để hoàn tất việc đầu hàng của thành phố. Lực lượng Kitô giáo bắt đầu xây dựng lại tuyến phòng thủ của Acre và Saladin thu tiền để trả cho các khoản chuộc binh lính đồn trú lúc này đang bị bỏ tù. Ngày 11 tháng 8, Saladin giao số tiền đầu tiên của ba lần thanh toán đã được lên kế hoạch và tiến hành trao đổi tù nhân, nhưng Richard lại từ chối điều này bởi vì các quý tộc Christian đã không được bao gồm trong cuộc trao đổi này và nó đã bị đổ vỡ rồi các cuộc đàm phán thêm nữa cũng không thành công. Richard cũng đã nhấn mạnh về việc bàn giao này Philip cũng phải chia sẻ với các tù nhân qua người mà nhà vua Pháp đã ủy quyền, đó là Conrad của Montferrat người thân tộc của ông. Conrad miễn cưỡng đồng ý, dưới áp lực của Richard. Ngày 20 tháng tám, Richard nghĩ rằng Saladin đã bị trì hoãn quá lâu và mang 2700 tù nhân Hồi giáo từ đơn vị đồn trú của Acre ra chặt đầu. Saladin phản ứng bằng cách hành động tương tự, hành hình tất cả các tù nhân Kitô giáo mà ông đã bắt. Ngày 22 Tháng Tám, Richard và quân đội của ông rời thành phố và nó được bàn giao tạm thời cho các quân viễn chinh của Bertram de Verdun và Stephen de Lonchamp.
    Hậu quả

    Các đội quân Thập tự chinh đã hành quân về phía nam, với biển đến quyền và quân đội của Saladin sau họ lại của họ. Ngày 07 tháng chín, họ gặp nhau tại trận Arsuf, phía bắc của Jaffa, trong đó Saladin đã bị đánh bại. Richard bắt Jaffa vào ngày 10, nhưng vì lý do chiến lược quyết định không vây Jerusalem. Các tranh chấp về vương quyền của Jerusalem đã được giải quyết trong tháng 4 năm 1192, với cuộc bầu cử của Conrad của Montferrat, nhưng ông đã bị ám sát chỉ vài ngày sau chiến thắng của mình. Nữ hoàng Isabella mang thai đã được vội vã kết hôn và Philip cháu trai của Richard, Henry của Champagne.
  10. ki43hayabusa

    ki43hayabusa Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/11/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    1
    Mấy hình 3D là được lấy từ game Medieval II Total War. 1 game rất rất đáng chơi đó các bác!

Chia sẻ trang này