1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. shinsaber

    shinsaber Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/04/2009
    Bài viết:
    1.644
    Đã được thích:
    483
    Nếu ưa thích Medieval total war II thì có thể chơi thêm trò Knight of Honor cũng bối cảnh thời trung cổ khá hay mỗi tội quân ko đông bằng (hình như nó ko có Knights Hospitaller ).
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Arsuf


    Ngày: 07 tháng 9 năm 1191
    Địa điểm: Arsuf- Đất Thánh
    Kết quả: Thập tự quân chiến thắng

    Quân Thập tự chinh: Quân Anh, Hiệp sĩ Templar, Hiệp sỹ Hospitaller. Chỉ huy Richard I của Anh quốc, Robert de sable – Templar, Garnier de Nablus – Hospitaller. Lực lượng: 20.000 người bao gồm: 14.000 bộ binh, 4.000 hiệp sĩ, 2.000 turcopoles ( cung kỵ và kỵ binh hạng nhẹ). Thiệt hại: 700 người

    Quân Hồi giáo: Vương triều Ayyubids ( binh lính đến từ Thổ nhĩ kỳ, Syria, Ai Cập, Lưỡng Hà …). Chỉ huy: Saladin. Lực lượng: 20.000 kỵ binh, không rõ số lượng bộ binh. Thiệt hại: 7.000.

    Trận Arsuf là một trận chiến của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba, trong đó Richard I của Anh quốc đã đánh bại Saladin ở Arsuf. Sau một loạt các cuộc tấn công quấy rối bởi lực lượng của Saladin, trận chiến đã tham gia vào sáng ngày 07 Tháng 9 năm 1191. Lực lượng của Richard đã chống lại mọi nỗ lực để phá vỡ sự gắn kết trong đội hình của họ cho đến khi hàng ngũ của các Hiệp sỹ Hospitaller bị phá vỡ, ông tập hợp lại lực lượng của mình và dẫn họ tới chiến thắng.

    Tiến về phía Nam từ Acre


    Sau khi chiếm được Acre năm 1191, Richard đã phải chiến đấu theo kiểu hàng loạt các cuộc đụng độ với Saladin ( có khả năng là Saladin chiến đấu trên sân nhà và cóđông quân hơn nên dễ dàng hơn trong việc thay thế những người lính bị tử trận của mình hơn nên ông ta ưa cách đánh tiêu hao-và ông ta cũng chẳng muốn đối trận với quân địch có trang bị tốt hơn ), mà mục tiêu chính là để ngăn chặn sự tái chiếm Jerusalem. Biết rằng mình cần phải kiểm soát được hải cảng Jaffa trước khi thực hiện được một nỗ lực tấn công về Jerusalem, Richard bắt đầu hành quân dọc theo bờ biển từ Acre vào ngày tháng 8m 1191. Richard đã cố gắng chuẩn bị trước với sự chú ý tới mọi tiết. Ý thức được những bài học của thảm họa tại trận Hattin , ông biết rằng cái mà quân đội của ông cần nhất là nước và sự kiệt sức là nguy hiểm lớn nhất của họ. Mặc dù bị nhiều sức ép về thời gian, ông đã cho chỉ hành quân trong buổi sáng trước khi phải chịu cái nóng đỉnh cao trong ngày. Ông đã cho dừng lại nghỉ ngơi thường xuyên, luôn luôn ở bên cạnh các nguồn nước. Hạm đội khởi hành đi dọc theo bờ biển để cung cấp những hỗ trợ tức thì, đó là một nguồn cung cấp lương thực và nơi điều trị cho những người bị thương. Ý thức được sự nguy hiểm từ khả năng xuất hiện vào bất cứ lúc nào của đối phương cũng như kỹ năng tấn công đánh và rút ( hit-and-run) của họ, ông luôn tìm cách giữ đội hình các cột một cách chặt chẽ với một xương sống gồm mười hai đại đội kỵ binh, mỗi đại đội có khoảng một trăm hiệp sĩ. Lực lượng bộ binh hành quân tạo thành một cánh để hộ tống cho kỵ binh khỏi bị tấn công từ phía đất liền ( tức là 12 đại đội kỵ binh lần lượt nối đuôi nhau lập thành một cột sát mép bờ biển, lực lượng bộ binh lập thành một cột ở bên trái lực lượng kỵ binh để bảo vệ họ ). Bất chấp liên tục bị quấy rối bởi các cung thủ và tarantulas của Saladin vào ban đêm, chiến thuật của Richard vẫn đảm bảo tổ chức và kỷ luật của Thập tự quân vẫn được duy trì hoàn cảnh khó khăn nhất. Baha ad-Din ibn Shaddad, nhà sử gia Hồi giáo mô tả cuộc hành quân như sau:

    Người Hồi giáo bắn tên vào các bên sườn của họ, cố gắng để khuấy động họ phá vỡ hàng ngũ, nhưng họ vẫn kiểm soát được một cách kiên nhẫn đội hình của mình và tiếp tục hành quân, họ vẫn tiến binh một cách rất đều đặn cùng với các con tàu của họ lúc này di chuyển dọc theo bờ biển song song với họ ( vừa hỗ trợ vừa cung cấp bảo vệ từ phía biển cho lục quân ), cho đến khi họ kết thúc từng giai đoạn hành quân và hạ trại .


    Phản ứng của Saladin


    Khi quân Thập tự chinh đã hành quân đến phía bên kia của sông ở Caesarea, Saladin cũng tiến hành cách bố trí đội hình riêng của mình. Ông đã lên kế hoạch tung quân của mình qua các con đường La Mã cổ ở sâu bên trong vùng nội địa, cho phép ông ta có thể tấn công theo hướng nào có cơ hội thuận tiện nhất. Nhưng việc quân Thập tự chinh hành quân dọc theo ven biển đã bắt buộc ông phải theo tiến theo hướng song song với họ. Vào lúc bình minh lên, các cuộc tấn công quấy rối không có tác dụng như dự định; và chúng đã được đẩy mạnh cường độ và trở thành những trận chiến nhỏ trong quá trình hành quân. Khi quân đội của Richard tiến đến Caesarea vào ngày 30 tháng Tám, lực lượng bảo vệ phía sau ( hậu quân) được chỉ huy bởi Hugh III của Burgundy đã phải chịu các cuộc tấn công nghiêm trọng và nó bị cắt ra khỏi phần còn lại của quân đội trong một thời gian. Richard đã cố gắng để tập hợp toàn bộ đội quân trong khi các giáo sỹ đi cùng với họ hô to Sanctum Sepulchrum adjuva ("Thánh Sepulchre hãy trợ giúp chúng tôi!").

    Saladin, đánh giá sự tiến quân của đội hình của đối phương và ra quyết định tiến hành một cuộc tấn công ở Arsuf gần Jaffa, trong khi quân đội của ông phải đối mặt với quân Thập tự chinh ở phía tây và phía biển. Sườn phía bắc của ông được bảo vệ bởi các cánh rừng của Arsuf với con sông Rochetaillée và đầm lầy ở phía trước. Ở phía nam, sườn trái của ông đã được bảo vệ bằng một dải các ngọn đồi có cây cối rậm rạp, nó trải xuống chính những tàn tích của thành phố Arsuf. Kế hoạch là dử quân Thập tự chinh tiến vào sau một loạt những trận trá bại và tiêu diệt họ bằng một cuộc tổng tấn công khi mà thế trận của họ đã bị vỡ. Khoảng cách giữa những ngọn đồi của Arsuf và biển chỉ có hai dặm ( 3 km), làm cho Richard ít có khoảng không gian để cơ động, và hạn chế sức mạnh tổng lực của các hiệp sĩ được bọc thép dày. Saladin coi đây là cái bẫy hoàn hảo nhưng Richard đã nhanh chóng biến nó thành một cơ hội cho ông ta.


    Trận đánh


    Vào rạng sáng ngày 7 tháng 9 năm 1191, sứ giả của Richard đi đến các doanh trại và thông báo rằng trận chiến sẽ xảy gia ngày hôm đó. Các Hiệp sĩ Templar dưới sự chỉ huy của Robert de sable được lệnh phía trước, cùng với người Angevin và Bretons ( tiểu quốc thuộc Pháp), theo sau là Guy của Lusignan và Poitevins. Tiếp đến là những người Anglo-Norman và sau đó là những người Flemings dưới sự chỉ huy của James của Avesnes . Sau người Flemings là đến người Pháp và cuối cùng là Hiệp sĩ Cứu tế, đứng đầu là Fra Garnier de Nablus. Dưới sự lãnh đạo của Henry II của Champagne, một đội quân nhỏ đã được tách ra để trinh sát các ngọn đồi và một toán các hiệp sĩ dưới sự chỉ huy của Hugh của Burgundy được tách ra để đi chạy ngược chạy xuôi khắp các hàng quân để đảm bảo rằng họ giữ được tổ chức của thế trận.

    Cuộc tấn công đầu tiên của người Saracen diễn ra vào lúc chín giờ sáng. Trong một nỗ lực để phá hủy sự gắn kết của đối phương và làm lung lay quyết tâm của họ, các cuộc tấn công dữ dội đã được kèm theo âm thanh khủng khiếp của tiếng chiêng trống và thanh la, tiếng kèn cùng với tiếng người la hét. Quấn Itinerarium Regis Ricardi có ghi: "Vì vậy, người Thổ Nhĩ Kỳ đông một cách không kể xiết đổ vào quân đội của chúng ta từ mọi phía, từ hướng biển và từ đất liền. Lúc đó khoảng không gian xung quanh không rộng đến hai dặm (3 km), và dường như là không cái gì có thể tồn tại trước những đợt tấn công của người Thổ Nhĩ Kỳ ". Nhưng khi đợt tấn công này không có hiệu quả như mong muốn, nó được hướng sang bên cánh trái của quân Thập tự chinh và các Hiệp sỹ Hospitaller phải chịu áp lực lớn nhất. Từng bước từng bước một, các cuộc tấn công kéo sang phần còn lại của đội hình của Richard. Những cuộc tấn công diễn ra theo cùng một kiểu: người Bedouins và Nubians bắn tên và phóng lao vào đội hình của kẻ thù, trước khi cho phép các cung kỵ tiến lên và tấn công theo kiểu phi ngựa vòng quanh, một kỹ thuật được thực hành rất tốt của người châu Á. Các xạ thủ bắn nỏ của quân Thập tự chinh trả lời khi khả năng này là có thể, mặc dù nhiệm vụ chính của các quân Thập tự chinh chỉ đơn giản là để duy trì đội hình của họ khi đối mặt với các hành động khiêu khích. Tại một số vị trí dọc theo đội hình hình cột của Thập tự quân, hai đội quân đã tham gia cận chiến.


    Các Hiệp sỹ Hospitaller phá vỡ hàng ngũ


    Tất cả những nỗ lực tột bậc nhất của Saladin cũng không thể chia chia cắt đội hình hình cột của Thập tự quân hoặc ngăn chặn bước tiến của họ về hướng Arsuf. Richard được xác định là giữ vững các đội quân của mình lại với nhau, buộc đối phương phải lao vào như những con thiêu thân trong những cuộc tấn công lặp đi lặp lại, và rồi ông thấy rằng đây đúng là dịp để tung các hiệp sĩ của mình vào một cuộc tấn công tổng lực tập trung. Tuy nhiên lúc này vẫn tồn tại những rủi ro vì binh sỹ không chỉ hành quân dưới sự khiêu khích nghiêm trọng của đối phương mà họ còn bị nắng nóng và khát. Và tình hình cũng rất là nghiêm trọng vì người Saracens đã giết chết rất nhiều ngựa đến mức một số những hiệp sĩ riêng của Richard bắt đầu tự hỏi xem liệu có thể triển khai một cuộc tấn công vào lúc này.

    Vào lúc mà lực lượng tiên phong tiến vào được vào Arsuf vào giữa buổi chiều, các xạ thủ bắn nỏ của Hospitaller ở phía hậu quân đã vừa nạp tên vừa bắn lại vừa đi giật lùi. Chắc chắn rằng chiến đấu theo kiểu này làm cho họ bị mất đội hình và đối phương đã nhanh chóng tận dụng cơ hội này và di chuyển vào khoảng trống đó. Đối với quân Thập tự chinh, trận Arsuf lúc này đã bước vào một giai đoạn quan trọng. Garnier de Nablus yêu cầu Richard cho phép tấn công. Nhưng ông này từ chối và vẫn ra lệnh duy trì vị trí chung. Mệnh lệnh này là quá với sức mà các Hiệp sỹ Hospitaller có thể chịu đựng. Ông ta (Garnier de Nablus ) rút kiếm tấn công vào người Saracen sau một tiếng hô Thánh George! và cuấn theo sau một cách nhanh chóng tất cả các phần còn lại của hiệp sĩ của mình rồi một số người Pháp cũng bị cuấn theo họ.


    Phản ứng của Richard


    Hành động nông nổi của các Hiệp sỹ Hospitaller có thể làm cho toàn bộ chiến thuật của Richard bị phá sản. Nhưng rất may là khi mà Garnier de Nablus bắt đầu cuộc tấn công của mình thì Saladin lại ra lệnh cho cung thủ của mình xuống ngựa để bắn tên được chính xác hơn và họ đã bị choáng bởi cuộc tấn công bất ngờ của các Hiệp sỹ Hospitaller.

    Richard biết rằng nếu ông không hỗ trợ cho các Hiệp sỹ Hospitaller, họ sẽ ngay lập tức bị cô lập và tàn sát. Nhưng nếu ông quyết định gửi quá nhiều kỵ binh tăng viện cho họ, có thể ông sẽ làm suy yếu toàn bộ lực lượng còn lại của mình. Muzaffar al-Din Gökböri, một trong những chỉ huy của Saladin đang cố gắng để tập hợp người của mình với ý định là tấn công vào các cung thủ của đối phương. Trước khi ông ta vào được một vị trí để triển khai được cuộc tấn công này, Richard tập hợp lại quân đội của mình và tung ra một đợt tấn công thứ hai bao gồm các hiệp sĩ người Breton và Angevin hướng tới sườn trái của Saladin. Bản thân Richard dẫn đầu một cuộc tấn công thứ ba và cuối cùng bao gồm các hiệp sĩ người Norman và người Anh.


    Trong một nỗ lực để khôi phục lại tình hình, Taqi al-Din, cháu trai của Saladin đã điều 700 người là vệ sĩ riêng của Sultan ( Saladin ) để vào sườn trái của Richard. Cảnh giác với sự nguy hiểm vì lúc này lực lượng của ông đã bị trải ra rải rác. Richard cho tập hợp lại lực lượng của mình một lần nữa rồi và rồi tung ra đợt tổng tấn công cuối. Nó đã gây ra nhiều áp lực hơn so với sức ép mà đối phương có thể chịu được; quân của Saladin đã bị vỡ trận và bị truy kích một cách gắt gao trên những ngọn đồi của Arsuf bởi các hiệp sĩ Thập tự chinh. Ngọn cờ của nhà vua ( Richard ) đã được cắm trên ngọn đồi của Saladin, trong khi doanh trại của quân Saracen bị cướp phá. Vào lúc này bóng tối đã buông xuống, Richard không cho phép đuổi theo nữa.


    Thiệt hại và hậu quả


    Như thường lệ với những trận đánh thời trung cổ, rất khó để đánh giá chính xác thiệt hại ở mức nào. Các nhà sử gia Kitô giáo tuyên bố người Hồi giáo bị giết khoảng 32 vị tiểu vương và 7.000 binh sỹ nhưng con số thực thì có thể là hơn hoặc ít hơn. Thiệt hại của Richard là không quá 700 người trong đó có James của Avesnes.

    Arsuf là một chiến thắng quan trọng, nhưng không giống như chiến thắng của Saladin ở trận Horn of Hattin, trận này không phải là một trận thắng quyết định. Quân đội đối phương đã không bị phá hủy, nhưng tháo chạy được coi là một sự xấu hổ của người Hồi giáo và nó thúc đẩy nâng cao tinh thần chiến đấu cho quân Thập tự chinh. Sau khi tháo chạy Saladin đã có thể tập hợp lại và cố gắng để tiếp tục giao tranh nhưng chỉ làm cho quân Thập tự chinh giật mình quay lại và phản ứng chứ ông ta không còn khả năng tổ chức một cuộc tấn công với quy mô hoành tráng. Mùa đông đã bắt đầu có nghĩa là Saladin không thể tiếp tục theoi đuổi. Arsuf đã làm hoen ố danh tiếng của Saladin như là một chiến binh bất khả chiến bại và đã chứng tỏ lòng dũng cảm của Richard trong cương vị một người lính và kỹ năng của ông như là một chỉ huy. Richard đã có thể tấn công và giữ được Jaffa - một động thái quan trọng chiến lược để chiếm lại Jerusalem. Khi lấy đi Jaffa của Saladin, Richard đã đe doạ nghiêm trọng đến Jerusalem lúc này đang nằm trong tay Saladin bởi vì Jaffa là một hải cảng rất gần thành phố Thánh Địa.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sau khi ông ngã bệnh nặng trong năm 1170, Henry II đưa ra kế hoạch để phân chia vương quốc của mình, còn ông sẽ điều hành một cách tổng thể qua các con trai của ông tới vùng lãnh thổ của họ. Năm 1171, Richard đến Aquitaine cùng với mẹ mình và vua Henry II phải phong cho ông danh hiệu công tước xứ Aquitaine theo yêu cầu của Eleanor. Richard và mẹ của ông đã bắt đầu các chuyến đi khắp vùng Aquitaine trong năm 1171 trong một nỗ lực nhằm xoa dịu những người dân địa phương. Họ cùng nhau đặt viên đá cho phần hạ tầng của tu viện St Augustine tại Limoges. Trong tháng 6 năm 1172, Richard được chính thức công nhận là Công tước Aquitaine khi ông được cấp cho ngọn thương và cờ xí tại một buổi lễ đã được tổ chức tại Poitiers và được tổ chức lại ở Limoges, nơi ông được đeo chiếc nhẫn của St Valerie-đây là biểu hiện của người đứng đầu vùng Aquitaine.
  3. shinsaber

    shinsaber Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/04/2009
    Bài viết:
    1.644
    Đã được thích:
    483
    Có sạn này bác hongson ơi

  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Thanks bác shinsaber nhiều, mời bác một ly[r2)]
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Jaffa



    Thời gian xảy ra trận đánh: năm 1192
    Địa điểm: thành phố Jaffa
    Kết quả: Quân thập tự chinh chiến thắng

    Phe quân Thập tự chinh: chỉ huy Richard I của Anh quốc, lực lượng 80 Hiệp sĩ + quân phòng thủ tòa lâu đài của Jaffa. Quân tiếp viện Richard và 54 Hiệp sĩ + 2000 lính bắn nỏ người Genova.

    Phe Hồi giáo: chỉ huy Saladin, lực lượng 7.000 kỵ binh


    trận Jaffa là một trong một loạt các chiến dịch giữa quân đội của Saladin và lực lượng thập tự chinh của vua Richard Lionheart. Đó là trận chiến cuối cùng của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba, sau đó Saladin vua Richard đã tiến hành thương lượng cho một thỏa thuận ngừng bắn. Mặc dù quân Thập tự chinh đã không giành lại được thành phố Đất Thánh Jerusalem, người hành hương Thiên chúa giáo được phép nhập cảnh vào thành phố và quân Thập tự chinh đã giữ lại quyền kiểm soát một dải đất khá lớn kéo dài từ Beirut tới Jaffa.

    Trận Jaffa là một trận chiến mang tính chất quyết định, nó thể hiện cả tinh thần quyết tâm của Saladin và sự dũng cảm đến mức thiếu thận trọng của Richard. Đây là trận chiến cuối cùng trước khi hiệp ước giữa Richard và Saladin được kết luận và nó giúp giữ lại sự hiện diện của quân Thập tự chinh ở phía nam và đảm bảo rằng ít nhất là tại thời điểm đó người Thiên chúa giáo đã hiện diện bên ngoài Đất Thánh.

    Bối cảnh


    Ngày 07 Tháng 9 Năm 1191, sau khi giành chiến thắng trong trận Arsuf, quân Thập tự chinh tiến từ Arsuf đến Jaffa, nơi mà họ đã tổ chức chiếm đóng và tăng cường phòng thủ., họ-người Thiên chúa giáo hy vọng rằng Jaffa sẽ là căn cứ để phát động những cuộc tấn công và chiếm lại thành phố Jerusalem. Khi mùa đông năm 1191->1192 đến gần, các chiến dịch đã bị bỏ dở và các cuộc đàm phán thường xuyên hơn nữa giữa Richard Lionheard và Saladin đã được tiến hành, mặc dù không có kết quả ngay lập tức. Trong những tháng mùa đông, Richard mang quân đi chiếm và tăng cường phòng thủ cho Ascalon, nơi mà các công sự trước đây của nó đã bị san bằng bởi Saladin. Mùa xuân 1192 người ta vẫn chỉ thấy các cuộc đàm phán vẫn được tiếp tục và đồng thời các cuộc giao tranh giữa các lực lượng thù địch cũng nổ ra thường xuyên. Trong thời gian này, Richard đã bắt đầu nhận tin tức đáng lo ngại của các hành động của John- anh trai của ông và Philip Augustus. Khi xuân qua hè tới thì ngày càng trở nên rõ ràng rằng Richard sẽ phải quay trở lại nước Anh để bảo vệ quyền lợi của mình ở đó.

    Trận đánh


    Vào ngày 5 tháng 7 năm 1192, Richard đã bắt đầu rút lui về phía bắc từ vùng Đất Thánh. Có nhận ra rằng Jerusalem đã không được phòng thủ ( vậy mà không hiểu sao Richard lại không tiến lên để chiếm lấy thành phố), ông bắt đầu cho rút lui các lực lượng Thập tự quân ra khỏi lãnh thổ thù địch. Hầu như ngay lập tức sau khi Richard rút lui, Saladin đã tiến hành bao vây thị trấn Jaffa vốn được sử dụng như là một căn cứ hoạt động của Richard trong những cuộc hành quân vào sâu trong nội địa trước đây của ông nhằm để chiếm lấy Jerusalem. Các binh sĩ của Saladin trong việc công chiếm các bức tường thành của thành phố, chỉ còn tòa thành của Jaffa là vẫn nằm trong tay người Thiên chúa giáo và những người phòng đã cố gắng để gửi tin nhắn để nói về hoàn cảnh của họ . Richard thu thập được một nhóm nhỏ các binh sĩ và bắt đầu cuộc hành trình của ông trở lại thành phố. Khi nhìn thấy cờ của Hồi giáo bay từ trên các bức tường, ông cho rằng thành phố đã bị chiếm, cho đến khi một người lính thuộc lực lượng phòng thủ bơi ra gặp ông và thông báo về tình hình nghiêm trọng của tòa thành.

    Khi được báo tin Richard nhảy ào xuống nước một cách thiếu thận trọng và lội qua những con sóng để tiến bãi biển. Một lần nữa Richard lại cho thấy lòng dũng cảm của ông và giá trị của nó tại chiến trường. Ông dẫn đầu năm mươi tư hiệp sĩ và 2.000 xạ thủ bắn nỏ người Genova và Pisan vào trận chiến. Trận chiến ngày càng trở nên quyết liệt và con ngựa của ông đã bị giết chết bởi trúng tên. Khi Saladin thấy Richard chiến đấu như một người lính bộ binh, ông đã ra lệnh mang một con ngựa từ chuồng ngựa của mình và gửi đến Richard như để thay thế. Richard Lionheart và các hiệp sĩ của ông tập hợp lại và hạ thấp các ngọn thương của họ xuống và hướng chúng vào lực lượng kỵ binh Hồi giáo đông đảo lên đến 7.000 người. Được hỗ trợ bởi hàng loạt những trận mưa tên từ các cung thủ bắn nỏ của mình, nhà vua đã ép được quân đội của Saladin quay trở lại thành phố, nơi họ bị bao vây và đánh bại. Richard đã chiếm lại được Jaffa cho quân Thập tự chinh.





    Richard Lionheart của Anh quốc



    Richard I (Ngày 8 tháng 9 năm 1157 - 6 tháng 4 năm 1199) là Vua của Anh từ 06 tháng 7 năm 1189 cho đến khi ông chết. Ông cũng là Công tước của Normandy, Công tước Aquitaine, Công tước xứ Gascony, Chúa tể của Ireland, Chúa tể Cyprus, Bá tước xứ Anjou, Bá tước của Maine, Bá tước Nantes và Chúa tể của Brittany tại các thời điểm khác nhau trong cùng một thời kỳ. Ông được biết đến như là Coeur de Lion, hoặc Richard Lionheart, ngay cả trước khi ông lên ngôi ông đã có tiếng tăm như là một nhà lãnh đạo quân sự lớn và chiến binh dũng cảm. Người Saracen gọi ông là Melek-Ric hoặc Malek al-Inkitar - Vua của nước Anh.

    Ở tuổi 16 Richard đã chỉ huy quân đội của mình dấy lên những cuộc nổi loạn tại Poitou chống lại vua Henry II-cha của ông ta. Richard là một trong các nhà lãnh đạo cao cấp của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba, các chiến dịch do ông chỉ huy sau sự ra đi của Philip Augustus đã rất thành công và thu được những chiến thắng đáng kể trước Saladin-thủ lĩnh của người Hồi giáo, nhưng Richard đã không thể chiếm lại Jerusalem.

    Mặc dù chỉ nói được tiếng Pháp và ít khi sống ở Anh (Ông sống tại lãnh địa của mình-Công quốc Aquitaine, ở phía tây nam của nước Pháp và thường chỉ sử dụng nước Anh làm một nguồn thu để hỗ trợ cho quân đội của mình), ông được xem là một anh hùng về mặt đạo đức của những người tôn sùng ông. Ông là một trong rất ít những vị vua của Anh được nhớ tới bởi danh hiệu chứ không phải Triều đại của mình (few Kings of England remembered by his epithet, rather than regnal number ). Và nó là một biểu tượng mang tính lâu dài ở Anh.


    Giai đoạn đầu tới khi trở thành Công tước Aquitaine

    Gia đình và tuổi trẻ

    Richard được sinh ra vào ngày 08 tháng 9 năm 1157, có lẽ là tại Beaumont Palace. Ông là một người anh em của William IX-Bá tước Poitiers; Henry nhà vua trẻ và Matilda-nữ công tước của Sachsen. Là con trai hợp pháp thứ ba của vua Henry II của Anh quốc, Ông đã không được dự kiến sẽ nối ngôi. Ông là anh trai của Geoffrey II, Công tước xứ Brittany; Leonora của Anh quốc-Nữ hoàng xứ Castile; Joan của Anh quốc và John-Bá tước của Mortain, người kế vị ông làm vua. Richard là em cùng mẹ khác cha với Marie de Champagne và Alix của Pháp. William IX Bá tước Poitiers-con trai cao tuổi nhất của Henry II và Eleanor của Aquitaine ( như đã nói ở trong cuộc thập tự chinh lần 2, bà này bỏ chồng cũ là Louis VII-vua Pháp để lấy Henry II ), qua đời năm 1156, trước khi sinh ra Richard. Richard thường được mô tả là một người con trai được mẹ là Eleanor của Aquitaine. Henry-cha ông là một người Pháp và là cháu nội lớn tuổi nhất của William the Conqueror. Mối quan hệ gần gũi nhất với người Anh trong hệ phả của Richard là E***h-vợ của Henry I của Anh. Sử gia đương thời Ralph Diceto đã chứng minh rằng dòng dõi của gia đình ông qua E***h có liên quan đến Alfred the Great ( trong những bài trước đã có bài nói về ông này ) vị vua vĩ đại của người Anglo-Saxon và nước Anh và từ đó gia đình ông có dây mơ rễ má với Noah và Woden. Theo truyền thuyết của vùng Angevin thậm chí còn có cả dòng máu của quái vật dưới địa ngục trong gia đình của ông.

    Trong khi cha của ông đến thăm vùng đất của ông ( ở Pháp ) từ Scotland, thì có thể lúc đó Richard lại đang ở nước Anh. Ông được nuôi nấng bởi một người phụ nữ có tên là Hodierna và khi ông lên ngôi vua ông đã ban cho bà ta tiền bạc của mình một cách hào phóng. Người ta không được biết nhiều về giáo dục của Richard. Mặc dù được sinh ra ở Oxford, Richard không nói được tiếng Anh, ông là một người có đào tạo và sáng tác được thơ và biết viết bằng tiếng Limousin (lenga d'òc) và bằng tiếng Pháp. Ông được cho là có ngoại hình khá hấp dẫn với tóc mầu hung đỏ và mắt sáng với một làn da nhợt nhạt. Theo sử gia Clifford Brewer thì ông có chiều cao trên trung bình, khoảng 6 feet 5 inches (1,96 m) nhưng bộ xương của ông đã bị thất lạc từ ít nhất là thời Cách mạng Pháp cho nên không ai biết chính xác chiều cao của ông. Từ khi còn nhỏ ông đã cho thấy khả năng về chính trị và quân sự, tinh thần Hiệp sỹ và lòng can đảm trong chiến đấu được thể hiện trong lúc kiểm soát các quý tộc nổi loạn trong lãnh địa của mình. Henry anh trai của ông đã lên ngôi vua nước Anh trong khi cha của ông vẫn còn sống như là Henry III. Các nhà sử học đã phải đặt tên là Henry "nhà vua trẻ" để không nhầm ông với vua Henry III của Anh sau này, người cũng là cháu trai của ông.

    Các cuộc liên minh qua hôn nhân (marriage alliance ) là rất phổ biến ở các Triều đình thời trung cổ: nó cho phép các gia đình ( Đại quý tộc) tuyên bố quyền thừa kế các vùng đất của nhau và tạo ra các liên minh chính trị và các hiệp ước hòa bình. Trong tháng 3 năm 1159 Richard đã được bố trí để kết hôn với một trong các cô con gái của Ramon Berenguer IV, Bá tước của Barcelona, tuy nhiên, thỏa thuận này đã không thành công và cuộc hôn nhân này không bao giờ xảy ra. Henry-anh trai của Richard đã kết hôn với Margaret, con gái của Louis VII của Pháp quốc và là người (Margaret ) thừa kế ngai vàng của Pháp, ngày 02 tháng 11 năm 1160. Mặc dù có liên minh giữa dòng Plantagenet và dòng Capetian-Triều đại đang trị vì nước Pháp, nhưng đôi khi giữa hai nhà vẫn có các cuộc xung đột. Năm 1168, sự can thiệp của Giáo hoàng Alexander III là điều cần thiết để đảm bảo một thỏa thuận ngừng bắn giữa hai Nhà. Henry II đã chinh phục xứ Brittany ( thuộc Pháp ) và kiểm soát vùng Gisors và Vexin, vốn là một phần của hồi môn của Margaret. Đầu những năm 1160 đã có đề xuất cho hôn nhân giữa Richard và Alys (Alice), con gái thứ hai của vua Louis VII; vì sự cạnh tranh giữa các vị vua của nước Anh và Pháp, Louis đã cản trở cuộc hôn nhân. Một hiệp ước hòa bình đã được ký kết trong tháng 1 năm 1169 và cuộc hứa hôn của Richard với Alys đã được chấp nhận. Henry II lên kế hoạch để phân chia vương quốc của mình cho ba con trai của ông vào thời điểm đó, Henry sẽ trở thành vua của nước Anh và có quyền kiểm soát Anjou, Maine và Normandy, trong khi Richard sẽ kế thừa vùng Aquitaine từ mẹ mình và trở thành Bá tước Poitiers , và Geoffrey sẽ nhận được vùng Brittany thông qua hôn nhân liên minh với Constance-người thừa kế vùng này. Tại buổi lễ hứa hôn, Richard đã chấp nhận và tỏ lòng tôn kính nhà vua của nước Pháp và chấp nhận chở thành chư hầu của vua Pháp như là Công tước vùng Aquitaine.

    Cuộc nổi loạn chống lại Henry II

    Theo Ralph của Coggeshall, vua Henry Trẻ là kẻ xúi giục các cuộc nổi loạn chống lại Henry II; ông muốn cai trị độc lập hơn ít nhất là một phần của lãnh thổ cha ông đã hứa với ông, và để thoát khỏi sự phụ thuộc của ông vào Henry II, người kiểm soát chặt hầu bao của ông. Jean Flori, một sử gia chuyên nghiên cứu về thời trung cổ, tin rằng con trai bà Eleanor thao tác với cuộc nổi dậy chống lại cha mình. Vua Henry trẻ rời bỏ cha mình và chạy vào triều đình Pháp và tìm kiếm sự bảo vệ từ Louis VII, Richard và Geoffrey-các em trai của ông đã sớm bắt trước ông, chỉ có John lúc này mới 5 tuổi vẫn còn với Henry II. Louis đã hỗ trợ cho ba người con trai của Henry II và thậm chí ông còn phong tước hiệp sĩ cho Richard và buộc họ phải trở thành chư hầu. Cuộc nổi loạn này đã được mô tả bởi Jordan Fantosme, một nhà thơ đương đại, như là một "cuộc chiến tranh mà không có tình yêu".

    Ba anh em thực hiện lời tuyên thệ tại triều đình Pháp rằng họ sẽ không đàn phán với Henry II mà không có sự đồng ý của Louis VII và các quý tộc Pháp. Với sự hỗ trợ của Louis, vua Henry Trẻ đã thu hút được sự hỗ trợ của nhiều nhà Đại quý tộc qua những hứa hẹn về đất đai và tiền bạc, một trong những Đại quý tộc là Philip, Bá tước của Flanders, người đã được hứa là sẽ nhận được £ 1.000 và nhiều tòa lâu đài. Ba anh em cũng nhận được sự ủng hộ ở nước Anh-những người sẵn sàng nổi loạn, dẫn đầu là Robert de Beaumont, Bá tước xứ Leicester, Các cuộc nổi loạn ở Anh bắt đầu từ Hugh Bigod, 1 Bá tước Norfolk, Hugh de Kevelioc, Bá tước của Chester và William I của Scotland. Liên minh đã thu được thành công ban đầu nhưng vào tháng 7 năm 1173 họ đã bị bao vây ở Aumale, Neuf-Marche, Verneuil và Hugh de Kevelioc đã bị bắt ở Dol - Anh. Richard đã đi Poitou và thu thập những nhà quý tộc trung thành với ông và mẹ của ông để tiến hành một cuộc nổi loạn chống lại cha mình. Eleanor bị bắt, do đó chính Richard đứng ra chỉ huy chiến dịch của ông chống lại những người ủng hộ Henry II tại vùng Aquitaine của riêng mình. Ông đã hành quân đến La Rochelle, nhưng đã bị phản đối bởi cư dân ở vùng này và phải rút về thành phố Saintes mà ông đã thành lập như là một căn cứ hoạt động.

    Trong khi đó, Henry II đã tung ra một đội quân rất đắt tiền của mình gồm hơn 20.000 lính đánh thuê để trấn áp cuộc nổi loạn. Ông đã hành quân về Verneuil và Louis phải rút lực lượng của mình về. Quân đội của Henry hành quân để chiếm lại Dol và tiêu diệt quân phản loạn ở Anh quốc. Tại thời điểm này, Henry II đã đưa ra một đề nghị hòa bình cho các con trai của ông, nhưng theo lời khuyên của Louis nên lời đề nghị này đã bị từ chối. Lực lượng của Henry II đã bất ngờ chiếm Saintes với đội quân đông đảo của ông ta, tuy nhiên Richard đã có thể đào thoát với một nhóm nhỏ các binh sĩ trung thành. Ông đã tìm nơi ẩn nấp ở Château de Taillebourg trong phần còn lại của cuộc chiến. Vua Henry trẻ và các Công tước của Flander lên kế hoạch đổ bộ lên nước Anh để hỗ trợ cuộc nổi dậy của Bá tước Leicester. Biết được kế hoạch này Henry II trở lại Anh với 500 binh sĩ và tù nhân của mình (bao gồm cả Eleanor và các hôn thê cùng vợ của các con trai của ông ), nhưng khi về đến Anh ông mới nhận ra rằng cuộc nổi loạn đã bị sụp đổ. William I của Scotland và Hugh Bigod bị bắt vào ngày 13 và 25 tháng bảy tương ứng. Henry II trở về Pháp, nơi ông đã tiến hành bao vây Rouen, nơi mà Louis VII được sự ủng hộ của vua Henry trẻ sau khi ông đã từ bỏ kế hoạch đổ bộ của mình vào nước Anh. Louis đã bị đánh bại và một hiệp ước hòa bình-Hiệp ước Montlouis được ký kết vào tháng 9 năm 1174.

    Khi Henry II và Louis VII đã thực hiện một cuộc ngưng bắn ngày 08 tháng 9 năm 1174, Richard đã bị loại bỏ. Bị bỏ rơi bởi Louis và không thể đối mặt với quân đội của cha mình trong một trận chiến, Richard đã đi đến triều đình của Henry II tại Poitiers, ngày 23 tháng Chín và cầu xin sự tha thứ, khóc lóc và quỳ xuống chân của Henry, người đã trao cho Richard cái hôn của hòa bình ( chính vì vậy mà sau này Richard cũng tha thứ cho John người em trai của mình? ). Vài ngày sau, những người anh em khác của Richard cũng tìm kiếm sự hoà giải với cha của mình. Các điều khoản mà ba anh em nhận được thua xa về mặt rộng rãi so với những gì mà họ đã nhận được trước đó trong cuộc xung đột ( khi trước Richard được giao bốn tòa lâu đài tại Aquitaine và một nửa số thu nhập từ công quốc này) và sau này Richard được trao quyền kiểm soát hai lâu đài ở Pitou và một nửa thu nhập của Aquitaine; vua Henry trẻ được trao hai lâu đài ở Normandy và Geoffrey được phép có một nửa thu nhập từ Brittany. Eleanor sẽ vẫn là tù nhân của Henry II cho đến khi ông này chết, một phần là để kiềm chế hành động của Richard.

    Dưới triều đại của Henry II

    Khi chiến tranh kết thúc là lúc bắt đầu quá trình bình định các tỉnh đã nổi dậy chống lại Henry II. Ông đi đến vùng Anjou với mục đích này và giao quyền quản lý vùng Britany cho Geoffrey. Trong tháng 1 năm 1175, Richard đã được cử đến Aquitaine để trừng phạt các Đại quý tộc, những người đã chiến đấu vì ông ta. Theo quấn biên niên sử của Roger Howden dưới triều đại Henry II, hầu hết các lâu đài thuộc sở hữu của các phiến quân đã được trả lại cho chính quyền sở tại trong 15 ngày trước khi chiến tranh bùng nổ, trong khi những tòa khác đã bị san bằng. Có ý kiến cho rằng vào thời gian này cho các lâu đài được xây dựng phổ biến là bằng đá và nhiều nhà quý tộc đã mở rộng hoặc tăng cường phòng thủ cho các lâu đài của họ, nên điều này không phải là một nhiệm vụ dễ dàng (bình định các tỉnh nổi dậy ). Gillingham lưu ý rằng quấn biên niên sử của Roger Howden là nguồn chính mô tả các hoạt động của Richard trong giai đoạn này, mặc dù ông lưu ý rằng nó chỉ ghi những chiến dịch thành công và sau chiến dịch này Richard đã có biệt hiệu là "Richard Lionheart". Một trong những thành công đầu tiên là cuộc vây hãm Castillon-sur-Agen. Tòa lâu đài "nổi tiếng là kiên cố", nhưng trong một cuộc bao vây hai tháng những người bảo vệ đã bị đánh bại bởi những chiếc tháp công thành của Richard.

    Henry dường như không muốn ủy thác cho bất kỳ người con trai nào của mình những nguồn lực có thể sẽ được sử dụng để chống lại ông. Người ta đã nghi ngờ rằng Henry đã chiếm đoạt Công chúa Alys, người mà Richard đã đính hôn, con gái của Louis VII của Pháp làm người vợ thứ hai của mình, hoặc như là tình nhân. Sự kiện này đã làm cho cuộc hôn nhân giữa Richard và Alys về mặt kỹ thuật là không thể trong con mắt của Giáo Hội, Nhưng Henry nói quanh co rằng lâu đài Vexin-của hồi môn của Alys là rất có giá trị. Richard đã không sẵn sàng từ bỏ Alys bởi vì cô này là em gái của vua Philip II của Pháp-một đồng minh thân cận của ông.

    Sau thất bại trong việc lật đổ cha mình, Richard tập trung vào việc bình định các cuộc nổi dậy trong nội bộ của các quý tộc Aquitaine, đặc biệt là vùng lãnh thổ Gascony. Sự trấn áp khốc liệt ngày càng gia tăng của ông đã dẫn đến một cuộc nổi dậy chính ở đó năm 1179. Hy vọng sẽ truất quyền của Richard, các phiến quân tìm kiếm sự giúp đỡ của các anh em của ông-Henry và Geoffrey. Bước ngoặt đã xảy ra trong Charente Valley vào mùa xuân năm 1179. Chiếc pháo đài của Taillebourg được bảo vệ tốt và được xem là bất khả xâm phạm. Lâu đài được bao quanh bởi một vách đá trên ba mặt và một thị trấn ở mặt thứ tư với một bức tường ba lớp. Đầu tiên Richard cho phá hủy và cướp phá các trang trại và các vùng đất xung quanh pháo đài, khiến quân phòng thủ không có quân tiếp viện hay đường rút lui. Đơn vị đồn trú trong lâu đài tiến ra ngoài và tấn công Richard, đầu tiên là ông đã đánh bại đội quân và sau đó theo sau lực lượng phòng thủ để vào thành và dễ dàng chiếm tòa lâu đài trong hai ngày. Chiến thắng của Richard tại Taillebourg đã làm nản chí nhiều nhà quý tộc muốn nổi loạn và buộc họ phải tuyên bố trung thành. Chiến dịch này cũng tạo cho Richard danh tiếng là một chỉ huy quân sự có trình độ cao.

    Năm 1181-1182, Richard phải đối mặt với một cuộc nổi dậy trong trong hạt Angoulême. Đối thủ của ông đã xin Philip II của Pháp để hỗ trợ và chiến tranh lan rộng qua Limousin và Périgord. Richard bị cáo buộc có nhiều hành động tàn bạo chống lại các kẻ thù của mình, kể cả cưỡng-hiếp. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ từ người cha của mình và từ vua Henry Trẻ, Richard đã thành công trong việc đưa bắt các Nam tước Aimar V của Limoges và Elie của Périgord phải quỳ gối.

    Sau khi Richard hoàn thành các cuộc chinh phục những nhà nổi loạn của mình, ông một lần nữa thách thức cha mình về ngai vàng nước Anh. Từ năm 1180-1183 sự căng thẳng giữa Henry và Richard ngày càng lớn dần vì như vua Henry đã ra lệnh cho Richard phải thần phục vua Henry Trẻ ( anh trai của Richard) nhưng Richard từ chối. Cuối cùng năm 1183, Vua Henry trẻ và Geoffrey, Công tước xứ Brittany xâm chiếm Aquitaine trong một nỗ lực để bắt Richard quy phục. Các quý tộc của Richard đã về phe của những người này và quay lưng lại với công tước của họ. Tuy nhiên, Richard và quân đội của ông đã có thể giữ chân được đội quân xâm lược và họ hành quyết bất kỳ tù nhân nào mà họ bắt được. Cuộc xung đột đã tạm dừng một cách ngắn ngủi vào tháng 6 năm 1183 khi vua Henry trẻ qua đời. Tuy nhiên, Henry II vẫn tiếp tục cho John-con trai út của ông xâm lược Aquitaine. Sau cái chết của vua Henry Trẻ, Richard đã trở thành con trai cao tuổi nhất và là người thừa kế vương miện nước Anh nhưng ông vẫn tiếp tục chống lại cha mình.

    [FONT=&quot]Để củng cố vị trí của mình, năm 1187 Richard liên minh với Philip II-con trai riêng của Louis VII-chồng cũ của Eleanor với Adele của Champagne. Để đổi lấy sự giúp đỡ của Philip để chống lại cha mình, Richard hứa thừa nhận chuyển quyền của mình sang cho ông kia hai tỉnh Normandy và Anjou. Richard đã quy thuận Philip vào tháng 11 cùng năm này. Khi tin tức của Trận Hattin đến tai họ, ông đã nhận chiếc Thập tự trước sự hiện diện của rất nhiều quý tộc Pháp.

    [/FONT] Năm 1188 Henry II dự định chuyển quyền thừa kế Aquitaine cho John-con trai út của ông. Năm sau, Richard đã cố gắng để chiếm ngôi vua Anh cho mình bằng cách tham gia liên minh với Philip để chống lại cha mình. Vào ngày 04 tháng 7 1189, lực lượng của Richard và Philip đánh bại quân đội của Henry tại Ballans. Henry với sự đồng ý của John, đã đồng ý để Richard làm người thừa kế của mình. Hai ngày sau, Henry II đã chết tại Chinon và Richard đã thừa kế ông để thành vua của nước Anh, Công tước của Normandy và của Anjou. Nhà sử học Roger Hoveden tuyên bố rằng xác chết của Henry bị chảy máu từ mũi và có sự hiện diện của Richard ở đó, đây là một dấu hiệu cho rằng Richard đã gây ra cái chết của cha ông.


    Một vị vua và một Thập tự quân

    Bạo lực nhằm vào người Do Thái

    Ông này nổi tiếng là bạo lực với người Do thái


    Các kế hoạch Thập tự chinh


    Richard đã nhận thập giá như là Công tước của Poitou năm 1187. Cha của ông và Philip II cũng đã làm như vậy tại Gisors vào ngày 21 tháng 11 năm 1188, sau khi nhận được tin tức về sự sụp đổ của Jerusalem trước Saladin. Khi trở thành vua, Richard và Philip đã đồng ý để tham gia cuộc Thập tự chinh lần thứ ba cùng với nhau, vì mối lo ngại rằng, trong thời gian người này vắng mặt, người kia có thể chiếm đoạt lãnh thổ của mình.

    Richard đã tuyên thệ một lời thề từ bỏ quá khứ tội ác của mình để thể hiện rằng mình xứng đáng để nhận chiếc thập tự. Ông bắt đầu gây dựng và trang bị cho một đội quân thập tự chinh mới. Ông dành phần lớn ngân quỹ của cha mình ( cùng tiền huy động từ thuế thập phân Saladin), tăng thuế và thậm chí đồng ý phóng thích cho vua William I của Scotland khỏi lời tuyên thệ của ông với Richard để đổi lấy 10.000 đồng Mark. Để tăng thêm tiền, ông đã cho bán các chức vụ chính thức, quyền lợi và các vùng đất cho những người quan tâm đến họ. Những người đương chức cũng đã bị buộc phải trả một khoản tiền lớn để giữ được chức vụ của họ. William Longchamp, Giám mục của Ely và Tể tướng của nhà vua đã chiến thắng trong một cuộc bỏ thầu với giá 3.000 £ để vẫn là Tể tướng. Ông này rõ ràng đã bị trả giá cao hơn bởi Reginald của Ytalia nhưng vẫn trúng thầu.
    Richard thực hiện một số thỏa thuận cuối cùng tại lục địa. Ông khẳng định sự bổ nhiệm của người cha mình cho William Fitz Ralph vào vị trí quan trọng-quản gia của Normandy. Tại Anjou, Stephen của Tour đã được thay thế và bị tạm giam vì yếu kém trong công tác quản lý tài chính. Payn de Rochefort, một hiệp sĩ vùng Angevin, đã được nâng lên vị trí của Anjou. Tại Poitou, Peter Bertin-cựu thị trưởng của Benon, đã trở thành quản gia và cuối cùng tại Gascony, Helie de La Celle-người đứng đầu ngự lâm quân đã được chọn để làm đại quản gia ở đó. Sau khi tái định vị một phần đội quân của mình, ông ở lại phía sau để bảo vệ tài sản ở Pháp của ông, cuối cùng Richard bắt đầu cuộc thập tự chinh vào mùa hè 1190. (Sự chậm trễ của ông đã bị chỉ trích bởi những người hát rong chẳng hạn như Bertran de Born ) Ông bổ nhiệm Hugh-Giám mục Durham và William de Mandeville, Bá tước thứ 3 của Es*** làm nhiếp chính-ông này lại chết sớm và được thay thế bởi Tể tướng William Longchamp của Richard. John-em trai của Richard đã không cảm thấy hài lòng bởi quyết định này và bắt đầu âm mưu chống lại William.

    Richard cho rằng nước Anh là "lạnh và luôn luôn mưa" và khi ông gây quỹ cho cuộc thập tự chinh của mình, người ta đã kể rằng ông đã tuyên bố, "tôi đã có thể bán London nếu tôi có thể tìm thấy một người mua nó " Tuy nhiên, mặc dù vậy nước Anh lại là một phần quan trọng trong vùng lãnh thổ của ông, đặc biệt quan trọng ở chỗ nó cho ông một danh hiệu hoàng gia nào đó để ông có thể tiếp cận các vị vua khác một cách bằng vai phải lứa-ông cũng không phải đối mặt với vấn đề nội bộ hay các mối đe dọa lớn ở bên ngoài trong thời kỳ trị vì của ông, không giống như các lãnh thổ lục địa và vì vậy không cần thiết phải có sự hiện diện liên tục của ông ở đó. Giống như hầu hết các vị vua các Nhà Plantagenet trước thế kỷ 14, ông không thấy không cần thiết phải học Tiếng Anh. Trao đất nước này vào tay của các quan chức khác nhau, ông đã chỉ định (bao gồm cả mẹ của mình), Richard có nhiều sự quan tâm hơn đến các vùng đất rộng lớn ở Pháp của mình. Cuối cùng sau khi hoàn tất giai đoạn chuẩn bị của mình, ông đã có một đội quân gồm 4.000 binh sỹ vũ trang, 4.000 bộ binh và một hạm đội gồm 100 chiếc tàu.

    Chiếm đóng Sicily


    Trong tháng 9 năm 1190, Richard và Philip đến Sicily. Sau cái chết của vua William II của Sicily, Tancred của Lecce-người anh em họ của ông ta đã chiếm quyền lực và tự đội vương miện lên đầu làm vua Tancred I của Sicilia vào năm 1190, mặc dù người thừa kế hợp pháp là Constance-dì của William, vợ của Hoàng đế mới Henry VI. Tancred đã giam giữ hoàng hậu Joan-vợ góa của William, cũng là em gái của Richard và đã không đưa cho cô số tiền mà cô phải được thừa hưởng ở William. Khi Richard đến, ông yêu cầu phải thả em gái của ông ra cùng với tài sản thừa kế của cô, cô được trả tự do vào ngày 28 tháng Chín, nhưng không nhận được tiền thừa. Sự hiện diện của quân đội nước ngoài cũng gây ra tình trạng bất ổn: trong tháng 10, người dân Messina nổi loạn, đòi người nước ngoài phải rời đi. Richard tấn công Messina và chiếm thành phố vào ngày 04 tháng 10 năm 1190. Sau khi cướp bóc và đốt cháy thành phố, Richard thành lập căn cứ của ông ở đó, nhưng sự việc này đã tạo ra căng thẳng giữa Richard và Philip Augustus ( vua Pháp ). Ông ở lại đó cho đến khi Tancred cuối cùng đã đồng ý ký một hiệp ước vào ngày 04 tháng ba năm 1191. Hiệp ước này đã được ký bởi Richard, Philip và Tancred. Các điều khoản chính của nó là:

    • Joan sẽ nhận được 20.000 ounce vàng như là bồi thường cho tài sản thừa kế của mình, vốn bị chiếm giữ bởi Tancred.
    • Richard chính thức tuyên bố cháu trai của mình, Arthur của Anh quốc, con trai của Geoffrey, như là người thừa kế của mình và Tancred hứa sẽ gả một cô con gái của ông cho Arthur khi anh này đến tuổi trưởng thành, 20.000 ounce vàng sẽ được trả về bởi Richard nếu Arthur không kết hôn với con gái của Tancred.
    Hai vị vua ở lại ở Sicily trong một thời gian, nhưng việc này dẫn đến sự gia tăng căng thẳng giữa họ và người của họ, đồng thời Philip Augustus âm mưu với Tancred để chống lại Richard. Hai vị vua cuối cùng gặp nhau để xóa bầu không khí căng thẳng và đạt được thỏa thuận, bao gồm việc kết thúc hứa hôn của Richard với Alix-em gái của Philip ( người được cho là người tình của Henry II-cha của Richard).

    Cuộc chinh phục của Cyprus


    Trong tháng 4 năm 1191, Richard với một hạm đội lớn rời Messina để đến Acre. Nhưng một cơn bão làm tan tác hạm đội. Sau khi mất một số thời gian để tìm kiếm, ông đã phát hiện ra rằng chiếc tàu chở em gái và Berengaria-vị hôn thê của mình đã neo trên bờ biển phía nam Cyprus, cùng với các xác của một số tàu đắm khác, bao gồm cả chiếc tàu chở kho báu. Những người sống sót những chiếc tàu đắm đã bị bắt làm tù binh của bạo chúa chúa đảo Isaac Komnenos.

    Ngày 01 tháng 5 năm 1191, hạm đội của Richard đến cảng Lemesos (Limassol) ở Cyprus. Ông ra lệnh cho Isaac thả các tù nhân và trả lại kho tàng. Isaac từ chối, do đó Richard đã cho đổ bộ quân của ông xuống Limassol.

    Đồng thời các hoàng tử ở vùng Đất Thánh đến Limassol, đặc biệt là Guy của Lusignan. Tất cả đều tuyên bố ủng hộ Richard miễn là ông hỗ trợ Guy chống lại đối thủ của ông này là Conrad của Montferrat.

    Bị các quý tộc địa phương bỏ rơi, Isaac cố gắng dàn hòa với Richard và xin cùng tham gia vào cuộc thập tự chinh của ông và và nói rằng con gái của mình (Isaac) cũng kết hôn với một người cũng có tên là Richard. Tuy nhiên, Isaac đã đổi ý và cố gắng trốn thoát. Sau đó Richard tiến hành chinh phục toàn bộ hòn đảo, quân đội của ông được chỉ huy bởi Guy de Lusignan. Isaac đầu hàng và bị xích bằng một sợi dây xích bằng bạc, bởi vì Richard đã hứa rằng ông sẽ không xích ông ta trong dây xích bằng thép. Vào ngày 01 tháng 6, Richard đã chinh phục toàn bộ hòn đảo. Ông ủy quyền cho Richard de Camville và Robert Thornham làm thống đốc. Sau đó ông bán hòn đảo cho các Hiệp sĩ Templar và sau nữa thì nó đã được mua lại trong năm 1192 bởi Guy của Lusignan và trở thành một vương quốc phong kiến ổn định.


    Cuộc chinh phục thần tốc của Richard vào hòn đảo là rất quan trọng. Hòn đảo này chiếm một vị trí chiến lược quan trọng trên các tuyến đường hàng hải đến Đất Thánh vì sự chiếm đóng của các Kitô hữu không thể được tiếp tục mà không có sự hỗ trợ từ biển. Síp vẫn là một thành trì của người Kitô giáo cho đến khi xảy ra Trận Lepanto năm 1571. Thành tích của Richard cũng đã được công bố công khai và góp phần làm tăng danh tiếng của ông. Richard cũng thu được lợi ích đáng kể về tài chính từ cuộc chinh phục vào hòn đảo này.
    Richard rời đi Acre vào ngày 5 tháng 6 cùng với các đồng minh của mình.
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Tại vùng Đất Thánh

    Vua Richard đổ bộ xuống Acre vào ngày 08 tháng sáu năm 1191. Ông đã hỗ trợ Guy của Lusignan-chư hầu của ông ở Poitevin, người đã đem quân giúp ông ta tại Síp. Guy là người chồng goá vợ-Sibylla của Jerusalem và đã cố gắng để giữ lại vương quyền của Jerusalem, bất chấp cái chết của vợ ông trong Cuộc vây hãm Acre năm trước. tuyên bố của Guy là thách thức Conrad của Montferrat, chồng củaIsabella-em gái cùng cha khác mẹ của Sibylla: Conrad, người có công phòng thủ Tyre và cứu vương quốc khỏi bị sụp đổ hoàn toàn vào năm 1187, ông này được hỗ trợ bởi Philip của Pháp, con trai của Louis VII của Pháp-người anh họ của ông, và bởi một người anh em họ khác-Công tước Leopold V của Áo. Richard liên minh với Humphrey IV của Toron, Người chồng đầu tiên của Isabella, người mà cô này đã bị buộc phải ly dị vào năm 1190. Humphrey trung thành với Guy và nói thành thạo tiếng Ả Rập, do đó Richard sử dụng ông này như một phiên dịch trong các cuộc đàm phán.

    Richard và lực lượng của mình hỗ trợ trong việc chiếm Acre bất chấp đang bị ốm nghiêm trọng. Ở một khoảng thời, trong khi đang bị bệnh khó đại tiện ( kết quả của thiếu vitamin C khi hành quân dài ngày trên biển), Richard được cho là vẫn ra bảo vệ các bức tường với một chiếc nỏ trong khi được khênh đi trên một chiếc cáng. Cuối cùng, Conrad của Montferrat đã kết thúc được các cuộc đàm phán đầu hàng với Saladin và hành quân vào thành phố với các lá cờ của các vị vua. Richard cãi nhau với Leopold V của Áo qua vụ việc của Isaac Komnenos (ông này
    -Isaac Komnenos lại có họ hàng với bà mẹ người Byzantine của Leopold) và vị trí của ông này trong cuộc thập tự chinh. Cờ hiệu của Leopold đã được cắm cùng với các cờ hiệu của vua Anh và vua Pháp. Điều này được hiểu như là sự xúc phạm đến sự kiêu ngạo của cả Richard và Philip, vì Leopold là một chư hầu của Hoàng đế La Mã Thần thánh (Mặc dù ông là chỉ huy cao cấp nhất còn sống sót trong lực lượng của đế quốc La Mã Thánh thần). Người của Richard đã xé lá cờ xuống và ném nó vào trong con hào của Acre. Leopold rời khỏi cuộc thập tự chinh ngay lập tức. Philip cũng rời khỏi đó ngay sau đó vì lý do sức khỏe kém và sau những tranh chấp hơn nữa với Richard về vị thế của Cyprus (Philip yêu cầu sở hữu một nửa hòn đảo) và về vương quyền của Jerusalem. Richard đột nhiên thấy mình không có đồng minh.

    Richard đã giữ 2.700 tù nhân Hồi giáo làm con tin để ép Saladin phải hoàn tất tất cả các điều khoản của sự đầu hàng của các vùng đất xung quanh Acre. Philip trước khi rời khỏi Acre đã giao các tù nhân của mình cho Conrad, nhưng Richard buộc ông phải bàn giao họ cho anh ta. Richard sợ lực lượng của mình sẽ bị phong tỏa ở trong Acre, vì ông tin rằng chiến dịch của ông không thể tiến triển nếu ông tiếp tục giữ các tù nhân. Vì thế, ông đã ra lệnh hành quyết tất cả các tù binh của mình. Sau đó ông chuyển về phía nam, đánh bại lực lượng của Saladin ở Trận Arsuf vào ngày 07 tháng 9 năm 1191. Ông đã cố gắng thương lượng với Saladin, nhưng cuộc thương lượng này đã không thành công. Trong nửa đầu năm 1192, ông và quân đội của ông đã tăng cường cho Ascalon.

    Sau một cuộc bầu cử Richard đã buộc phải chấp nhận Conrad của Montferrat làm vua của Jerusalem, và ông đã bán Cyprus cho Guy-người được bảo trợ bị đánh bại của ông. Chỉ vài ngày sau, vào ngày 28 Tháng Tư năm 1192, Conrad bị đâm chết bởi thành viên của tổ chức sát thủ Hashshashin trước khi ông này có thể kịp đăng quang. Tám ngày sau, Henry II của Champagne-cháu trai của Richard đã kết hôn với quả phụ bụa Isabella, mặc dù cô này đang mang bầu với Conrad. Vụ giết người chưa bao giờ được điều tra đến kết luận cuối cùng và Richard bị người đương thời nghi ngờ rằng có sự tham gia của ông vào vụ ám sát này.

    Biết rằng ông không có hy vọng giữ lại Jerusalem ngay cả khi ông chiếm được nó, Richard đã ra lệnh rút lui. Thời này bắt đầu một giai đoạn của các cuộc xung đột nhỏ với lực lượng của Saladin trong khi Richard và Saladin vẫn đang cố gắng đàm phán để giải quyết cuộc xung đột, khi cả hai nhận ra rằng ở vị trí của họ thì việc tiến lên là không có cơ sở. Richard biết rằng cả Philip và của chính John-em trai của ông đã bắt đầu một âm mưu chống lại ông. Tuy nhiên, Saladin đã khẳng định những thông tin trên rồi đốt trụi các công sự ở Ascalon, những thứ mà người của Richard đã cố công để xây dựng lại, và một vài điểm khác. Richard đã thực hiện một nỗ lực cuối cùng để tăng cường vị thế mặc cả của mình bằng cách cố gắng xâm nhập vào Ai Cập-căn cứ cung cấp chính của Saladin-nhưng không thành công. Cuối cùng, Richard đã không còn thời gian nữa. Ông nhận ra rằng chuyến đi trở về của ông là không thể trì hoãn, vì cả Philip và John đều lợi dụng sự vắng mặt của ông để nổi loạn và xâm hại quyền lợi của ông ởh và Pháp. Ông và Saladin cuối cùng đi đến một sự nhất trí vào ngày 2 tháng 9 năm 1192, thỏa thuận này bao gồm các quy định đòi hỏi chấm dứt phá hủy các bức tường của Ascalon cũng như một thỏa thuận cho phép người Thiên chúa giáo đến Jerusalem. Nó cũng bao gồm một thỏa thuận ngừng bắn ba năm.

    Bị giam cầm và trở về Anh

    Thời tiết xấu buộc tàu của Richard phải đi vào Corfu, nơi đây thuộc vùng đất của Hoàng đế Byzantine Isaac II Angelos, người phản đối việc chiếm đảo Síp của Richard-trước đây là lãnh thổ Byzantine. Cải trang là một Knight Templar, Richard khởi hành từ Corfu với bốn người hộ tống, nhưng con tàu của ông lại bị đắm ở gần Aquileia buộc Richard và nhóm của ông phải đi vào một con đường đất nguy hiểm qua trung tâm châu Âu.

    Trên đường đi đến lãnh thổ của Henry của Saxony-anh rể của ông, Richard đã bị bắt ngay trước Giáng sinh năm 1192, ở gần Vienna bởi Leopold V, Công tước của Áo đã cáo buộc Richard đã dàn sếp cho cái chết của Conrad của Montferrat-anh em họ của ông ta. Ngoài ra, Richard đã xúc phạm cá nhân Leopold bằng cách cho vứt các lá cờ của ông từ các bức tường của Acre xuống đất. Richard và thuộc hạ của ông đã cải trang như là những khách hành hương nghèo, nhưng ông đã bị nhận dạng hoặc là vì ông đã đeo một chiếc nhẫn đắt tiền, hoặc nhấn mạnh về việc ông đã ăn món gà nướng, một món ăn quý tộc.

    Công tước Leopold giam giữ tù nhân của ông tại Dürnstein Castle. Những rủi ro của ông đã sớm được thông báo tới nước Anh, nhưng trong một vài tuần các quan nhiếp chính đã không biết chắc chắn về nơi ông bị giam giữ. Khi ở trong tù, Richard đã viết lá thư Ja nus hons pris hoặc Ja nuls om pres, và gửi đến Marie de Champagne-người chị cùng mẹ khác cha của mình. Ông đã viết các bài thơ bằng tiếng Pháp và Occitan, để thể hiện cảm xúc khi bị bỏ rơi bởi người dân và em gái của mình. Việc tạm giam quân thập tự là trái với luật pháp và căn cứ vào điều này Giáo hoàng Celestine III đã rút phép thông công của Công tước Leopold.

    Ngày 28 tháng 3 năm 1193, Richard đã được đưa đến Speyer và bàn giao cho Henry VI, Đức Thánh Hoàng đế La Mã, vị Hoàng đế này đã bị bực mình bởi các hỗ trợ mà dòng Plantagenets đã trao cho gia đình của Henry the Lion và việc Richard công nhận Tancred ở Sicily và người bị ông ta giam giữ ở Trifels Castle. Henry VI cần tiền để nuôi một đội quân và khẳng định quyền của ông đối với miền nam Ý, tiếp tục giam giữ Richard để đòi tiền chuộc. Để đáp lại Đức Giáo Hoàng Celestine III đã rút phép thông công Henry VI như ông đã làm đối với Leopold vì đã bỏ tù Richard một cách trái pháp luật.


    Richard đã phản đối việc rút phép thông công của Giáo Hoàng và bầy tỏ sự tôn kính với hoàng đế và tuyên bố với ông, "Tôi sinh ra từ một đẳng cấp mà Thiên Chúa đã không công nhận là có khả năng siêu thường - I am born of a rank which recognizes no superior but God ". Mặc dù vẫn có khiếu nại của ông như các điều kiện giam cầm là không khắc nghiệt.


    Hoàng để yêu cầu trả 150.000 Mark (65.000 £ bạc) trước khi ông phóng thích nhà vua, đây là khoản tiền đúng bằng số tiền huy động từ khoản thuế thập phân Saladin chỉ mới một vài năm trước và tương đương 2-3 lần thu nhập hàng năm của Vương quốc Anh dưới thời Richard. Eleanor của Aquitaine tìm cách để thu thập tiền chuộc. Cả giáo sĩ và giáo dân bị đánh thuế một phần tư giá trị tài sản của họ, các kho vàng bạc của các giáo hội bị tịch thu, và tiền đã được huy động từ thuế bất động sản và tiền triều cống. Cùng lúc đó, John-em trai của Richard và vua Philip của Pháp đã gửi 80.000 Mark cho Hoàng để tiếp tục giam giữ Richard cho đến Michaelmas ( ngày thánh Michael ) năm 1194. Nhưng Hoàng đế đã từ chối nhận khoản tiền này. Số tiền để giải cứu nhà vua đã được chuyển đến Đức bởi đại sứ của hoàng đế và cuối cùng vào ngày 04 tháng Hai năm 1194 Richard được phóng thích. Philip đã gửi một tin nhắn đến John: "Hãy tự chăm sóc bản thân, ma quỷ sắp xuất hiện".

    Vụ việc đã có một ảnh hưởng lâu dài đến nước Áo, do việc một phần số tiền từ khoản tiền chuộc của vua Richard đã được sử dụng bởi Công tước Leopold V để tài trợ cho việc thành lập một thành phố mới-Wiener Neustadt trong năm 1194 và thành phố đã có một vai trò quan trọng trong nhiều thời kỳ khác nhau của lịch sử nước Áo thậm chí cho đến nay.

    Những năm sau đó và cái chết

    Trong lúc Richard vắng mặt, John-em trai của ông đã nổi loạn với sự trợ giúp của Philip; thành quả của cuộc chinh phục của Philip trong thời gian Richard bị cầm tù là vùng Normandy. Richard đã tha thứ cho John khi họ gặp nhau, đây có thể là sự cần thiết về mặt chính trị và đặt ông này làm người thừa kế của ông thay thế cho Arthur vì ông này có mẹ là Constance của Brittany và có lẽ bà này đã ngả về phía Philip II.

    Richard bắt đầu cuộc tái chiếm Normandy của ông. Sự sụp đổ của lâu đài Château de Gisors trước các cuộc tấn công của người Pháp trong năm 1196 đã tạo ra một khe hở trong hệ thống phòng thủ Normandy. Công cuộc tìm kiếm một địa điểm để xây dựng một lâu đài mới để bảo vệ Công quốc Normandy và hoạt động như một căn cứ mà từ đó Richard có thể khởi động chiến dịch của mình để chiếm lại Vexin từ tay người Pháp đã bắt đầu. Một vị trí phòng thủ tự nhiên đã được xác định ở thượng nguồn sông Seine, một tuyến đường vận tải quan trọng trong lanh địa Andeli. Theo các điều khoản của thỏa ước Hòa bình Louviers (tháng 12 năm 1195) giữa Richard và Philip II, không nhà vua nào được phép củng cố vị trí này, bất chấp quy định này Richard dự định xây dựng Chateau Gaillard thành một tòa lâu đài lớn. Richard đã cố gắng để chiếm được thái ấp này thông qua đàm phán. Walter de Coutances, Tổng-giám-mục của Rouen đã không muốn bán thái ấp này vì nó đang là một trong những giáo phận tạo nhiều lợi nhuận nhất và các vùng đất khác thuộc giáo phận ở gần đó đã bị hư hại bởi chiến tranh. Khi Philip bao vây Aumale ở Normandy, Richard đã quá mệt mỏi vì chờ đợi và quyết định thu giữ trang viện, mặc dù hành vi đó đã bị phản đối bởi Giáo Hội. Walter de Coutances đã ban hành một mệnh lệnh chống lại công quốc Normandy, lệnh này cấm không cho tiến hành các nghi lễ nhà thờ trong khu vực này. Roger Howden chi tiết "những xác người chết không được chôn cất đang nằm trên các đường phố và quảng trường của các thành phố của Normandy". Công cuộc xây dựng được bắt đầu với lệnh cấm treo lơ lửng ở Normandy nhưng sau đó đã được bãi bỏ vào tháng 4 năm 1197 bởi Giáo hoàng Celestine III, sau khi Richard tặng quà cho Walter de Coutances và giáo phận của Rouen, bao gồm hai thái ấp và chiếc cảng Dieppe vốn rất thịnh vượng.

    Trong thời gian trị vì của Richard, chi tiêu của hoàng gia cho các tòa lâu đài giảm xuống tương ứng với các mức chi tiêu của thời Henry II-cha của Richard. Bởi vì quy định phải tập trung các nguồn lực cho chiến tranh của Richard với nhà vua của nước Pháp. Tuy nhiên, công việc xây dựng tại lâu đài Château Gaillard là một trong số những công trình tốn kém về cả tiền bạc lẫn thời gian và chi phí ước tính lên đến khoảng từ £ 15.000 đến £ 20.000 giữa những năm 1196 và 1198. Chi phí này nhiều hơn gấp đôi chi tiêu của Richard cho một lâu đài ở Anh, ước tính chỉ khoảng £ 7.000. Tốc độ xây dựng là chưa từng có, các phần chủ yếu của lâu đài đã được hoàn thành chỉ trong hai năm, trong khi hầu hết các công trình xây dựng có quy mô như vậy phải tốn ít nhất là một thập kỷ. Theo William của Newburgh, trong tháng 5 năm 1198 Richard và những người lao động làm việc trên tòa lâu đài đã bị ướt đẫm trong một "cơn mưa máu". Trong khi một số cố vấn của ông nghĩ rằng mưa máu là một điềm xấu, Richard đã không nản lòng.

    Quyết tâm chống lại kế hoạch của Philip vào các vùng đất tranh chấp ở Angevin như Vexin và Berry, Richard đã sử dụng tất cả sự tinh thông về quân sự và nguồn tài nguyên rộng lớn của ông vào cuộc chiến với vua Pháp. Ông xây dựng một liên minh chống lại Philip, bao gồm cả Baldwin IX của Flanders, Renaud-Bá tước của Boulogne và vua Sancho VI của Navarre-cha vợ của ông, người đã đột kích các vùng đất của Philip từ phía nam. Quan trọng nhất là ông đã bảo đảm quyền thừa kế vùng Welf ở Saxony cho đứa cháu trai của mình, Otto của Poitou-con trai của Henry the Lion, người được bầu làm vua Otto IV của Đức trong năm 1198.

    Như một phần kết quả từ âm mưu này là Richard giành nhiều chiến thắng hơn Philip. Tại Freteval trong năm 1194, chỉ sau khi Richard trở lại từ nơi bị giam giữ quay về Anh rồi sang Pháp, Philip đã bỏ chạy và bỏ lại toàn bộ kho tài liệu lưu trữ và các văn bản về tài chính … của ông, chúng đã bị chiếm được bởi Richard. Ở trận Gisors (Đôi khi còn gọi là Courcelles) năm 1198 Richard đã dùng câu "Dieu et mon Droit" - "Thiên Chúa và Quyền của tôi"-như là phương châm của ông (câu này vẫn còn được sử dụng bởi chế độ quân chủ Anh ngày nay), thậm chí danh tiếng của ông vang vọng đến mức Hoàng đế Henry của Đế quốc La Mã Thánh thần cũng phải thừa nhận rằng trên ông ta chỉ có Đức Chúa Trời (echoing his earlier boast to the Emperor Henry that his rank acknowledged no superior but God).


    Trong tháng 3 năm 1199, Richard đến Limousin để đàn áp cuộc nổi dậy của Nam tước Aimar V của Limoges. Mặc dù lúc này đang là mùa chay, Ông đã "tàn phá vùng đất của Nam tước với lửa và kiếm". Ông ta tiến hành bao vây tòa lâu đài Chalus-Chabrol nhỏ bé và hầu như không được vũ trang. Một số nhà sử gia cho rằng có sự kiện này là do một nông dân địa phương đã phát hiện ra một kho vàng từ thời La Mã, và Richard tuyên bố từ lâu đài của ông rằng vàng ở Aimar là sở hữu của mình vì ông là một lãnh chúa phong kiến.


    Trong khoảng thời gian đầu của buổi tối ngày 25 tháng ba năm 1199, Richard đã đi bộ xung quanh chu vi lâu đài mà không mặc áo giáp lưới của mình, để quan sát tình hình binh bị trên các bức tường của lâu đài. Tên lửa thỉnh thoảng được bắn ra từ các bức tường của tòa lâu đài nhưng ông không quan tâm đến chúng. Một binh sỹ phòng thủ đặc biệt quan tâm đến nhà vua-đó là một người đàn ông đứng trên tường thành, một tay cầm cây nỏ và tay kia giữ chặt một chiếc chảo mà anh ta đã sử dụng suốt cả ngày như là một chiếc lá chắn để chặn những phát tên lửa được bắn lên bởi quân tấn công. Anh ta cố nhằm bắn vào nhà vua và được ông ta vỗ tay khen ngợi ( tất nhiên là phát bắn bị trượt) tuy nhiên, sau đó một cung thủ bắn nỏ đã bắn trúng nhà vua ở vai trái gần cổ. Ông đã cố gắng để kéo mũi tên ra trong căn lều riêng của mình nhưng đã không thành công, một bác sĩ phẫu thuật, được gọi là "đồ tể" của Hoveden, đã gỡ bỏ được nó ra và vô tình hỏng cánh tay của nhà vua trong quá trình phẫu thuật. Vết thương nhanh chóng trở nên bị hoại thư. Sau đó, Richard yêu cầu được gặp tay cung thủ đã bắn hạ ông trước đó và theo các sử gia ông cũng cho gọi Peter Basile, John Sabroz, Dudo và Bertrand de Gurdon (từ thị trấn Gourdon), tay cung thủ hóa ra lại chỉ là một cậu bé (theo một số nguồn tin, nhưng không phải tất cả). Cậu bé này nói rằng Richard đã giết cha của cậu bé và hai anh em của nó và rằng nó muốn giết chết Richard để trả thù. Cậu bé đã tưởng rằng mình sẽ bị hành quyết nhưng Richard như một hành động cuối cùng của lòng thương xót, đã tha thứ cho cậu bé và nói rằng, "Hãy sống và tận hưởng ánh sáng ban ngày," trước khi ra lệnh phóng thích cậu bé và cho cậu ta 100 đồng shilling. Sau đó Richard cho John-em trai ông thừa kế tất cả các vùng lãnh thổ của mình và để đồ trang sức của lại cho cháu trai Otto.


    Richard qua đời vào ngày 06 tháng 4 năm 1199 trong vòng tay của mẹ ông, sau đó mọi người nói rằng "Khi ngày kết thúc, ông cũng kết thúc những ngày của ông ở trên trần thế." Cái chết của ông sau này được gọi là con sư tử đã bị kiến giết. Theo một nhà chép sử, hành động của tinh thần thượng võ cuối cùng của Richard đã không có kết quả, trong một thời kỳ của sự tàn bạo ở thời trung cổ, viên đội trưởng Mercadier-người nổi tiếng ham lợi đã lột sạch tiền của tay cung thủ rồi treo cổ cậu bé ngay sau khi Richard qua đời.


    Trái tim của Richard đã được chôn cất tại Rouen ở Normandy, trong trung tâm của Châlus (Nơi ông qua đời) và phần còn lại của cơ thể của ông được chôn cất ở gần mộ của cha ông ở tại Fontevraud Abbey ở Anjou.

    Legacy


    Richard để lại một dấu ấn không thể xóa nhòa trong trí tưởng tượng của người dân nước Anh thậm chí cho đến ngày nay, phần lớn là do khả năng về quân sự của ông. Điều này được phản ánh trong phán quyết cuối cùng về Richard I của Steven Runciman: "Ông là một đứa con xấu, một người chồng xấu và một vị vua xấu, nhưng là một người lính hào hiệp và lộng lẫy."(quấn "Lịch sử của các cuộc thập tự chinh" Vol. III)

    Trong khi còn sống, ông thường bị chỉ trích bởi các nhà sử gia (và các giáo sĩ) vì đã đánh thuế cả các giáo sĩ để có tiền chi trả cho cuộc Thập tự chinh và để có tiền chuộc bản thân mình, trong khi thường là nhà thờ và các giáo sĩ được miễn các loại thuế.

    [FONT=&quot]
    Richard không có người thừa kế hợp pháp và chỉ công nhận có một người con trai ngoài giá thú, Philip của Cognac. Kết quả là, ông đã được thừa kế bởi John-anh trai của ông làm vua của nước Anh. Tuy nhiên, vùng lãnh thổ ở Pháp của ông ban đầu đã từ chối công nhận John làm người kế nhiệm và họ muốn Arthur của Anh-cháu trai của ông, con trai của Geoffrey làm người thừa kế chứ không phải là John. Đặc biệt, việc không có bất kỳ người thừa kế trực tiếp từ Richard là bước đầu tiên của sự tan rã của Đế quốc Angevin ( và vùng này sau này đã được sát nhập vào nước Pháp). Trong khi vị vua của nước Anh tiếp tục tuyên bố sở hữu các tài sản trên lục địa châu Âu, nhưng họ không bao giờ một lần nữa kiểm soát được các vùng lãnh thổ Richard I đã thừa hưởng. ( cuộc chiến tranh Trăm năm cũng bắt nguồn từ việc Anh và Pháp tranh chấp các vùng lãnh thổ Anjou, Normandy, Aquitanie … những vùng đất thuộc sở hữu của Richard tại nước Pháp)
    [/FONT]
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc thập tự chinh lần thứ tư




    Cuộc Thập tự chinh lần thứ tư ( năm 1202-1204) ban đầu được dự định là để chinh phục người Hồi giáo và kiểm soát Jerusalem bằng cách tiến hành một cuộc xâm lược vào Ai Cập. Nhưng thay vào đó, trong tháng 4 năm 1204, quân Thập tự chinh Tây Âu đã xâm lược và chinh phục thành phố Constantinople của Kitô hữu ( Eastern Orthodox ), thủ đô của Đế quốc Đông La Mã ( Byzantine Empire ). Đây được xem là một trong các hành vi cuối cùng trong sự ly khai lớn giữa Giáo Hội Chính Thống Phương Đông và Giáo Hội Công Giáo La Mã.

    Quân viễn chinh đã thành lập Đế quốc Latin (1204-1261) và thành bang Latin khác ở các vùng đất của Byzantine mà họ chinh phục.

    Bối cảnh


    Sau thành công hạn chế của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba (1189-1192), châu Âu có rất ít quan tâm đến một cuộc thánh chiến nữa chống lại người Hồi giáo. Quân viễn chinh đã để mất Jerusalem trước triều đại Ayyubid, triều đại vốn đang cai trị toàn bộ Syria và Ai Cập, và chỉ còn có một vài thành phố dọc theo bờ biển vẫn còn nằm trong tay của quân thập tự chinh, Vương quốc Jerusalem hiện chỉ tập trung ở Acre. Cuộc Thập tự chinh lần thứ ba cũng đã thành lập một vương quốc La tinh ở Cyprus.

    Giáo hoàng Innocent III đã lên ngôi giáo hoàng trong năm 1198 và các lời rao giảng về một cuộc thánh chiến mới trở thành mục tiêu của của ông. Nhưng phần lớn lời gọi của ông đã bị bỏ ngoài tai bởi các quốc vương Châu Âu: nước Đức đang chiến đấu để chống lại quyền lực của giáo hoàng trong khi nước Anh và nước Pháp vẫn tham chiến với nhau. Tuy nhiên, do lời rao giảng của Giáo hoàng đã đến được Fulk của Neuilly, một đội quân thập tự chinh cuối cùng đã được thành lập tại một giải đấu (tournament) đang được tổ chức ở Écry bởi Bá tước Thibaut của Champagne trong năm 1199. Thibaut được bầu làm lãnh đạo, nhưng ông đã qua đời vào năm 1200 và được thay thế bởi một vị Bá tước khác-Boniface của Montferrat.

    Boniface và các nhà thủ lãnh khác đã gửi phái viên tới Venice, Genoa và các thành phố khác để đàm phán một hợp đồng vận chuyển đến Ai Cập, đích đến của cuộc thập tự chinh của họ, một trong những phái viên là Geoffrey Villehardouin-nhà sử gia tương lai. Genoa đã không quan tâm tới cuộc thập tự chinh, nhưng trong tháng 3 năm 1201 các cuộc đàm phán đã được bắt đầu với Venice, và thành phố này đồng ý vận chuyển 33.500 quân viễn chinh, một số lượng đầy tham vọng. Thoả thuận này yêu cầu Venezia có một năm chuẩn bị để chế tạo thêm nhiều tàu và đào tạo thêm thủy thủ để điều khiển những con tầu này, tất cả đã được tiến hành bất chấp sự giảm sút về hoạt động thương mại của thành phố. Các đội quân thập tự chinh được dự kiến sẽ bao gồm 4.500 hiệp sĩ (cũng như 4.500 ngựa ), 9.000 hộ sỹ và 20.000 binh lính.

    Phần lớn quân đội thập tự chinh đã khởi hành từ Venice vào tháng 10 năm 1202 và đa số họ có xuất xứ ở các vùng thuộc nước Pháp. Họ bao gồm người đến từ Blois, Champagne, Amiens, Saint-Pol, Ile-de-France và Burgundy. Một số khu vực khác của châu Âu đã gửi một lực lượng đáng kể cũng như Flanders và Montferrat. Đáng chú ý là các nhóm khác đến từ đế quốc La Mã Thần thánh, bao gồm cả những người đi theo Giám mục Martin của Pairis và Đức Giám mục Conrad của Halberstadt, cùng trong liên minh với những người lính và thủy thủ của Venezia do Tổng trấn Enrico Dandolo chỉ huy. Quân thập tự chinh đã sẵn sàng để lên tầu vào ngày 24 tháng 6 năm 1202 và thực hiện một chuyến viễn chinh thẳng tới Cairo, thủ đô của vương triều Ayyubid,. Thỏa thuận này được phê chuẩn bởi Giáo hoàng Innocent, với một lệnh nghiêm cấm các cuộc tấn công vào các quốc gia Thiên chúa giáo.

    Tấn công Zara

    Vì không có thỏa thuận ràng buộc giữa các quân viễn chinh rằng tất cả đều phải đi thuyền từ Venice nên nhiều người đã chọn để đi thuyền từ cảng khác, đặc biệt là từ các cảng Flanders, Marseilles và Genoa. Vào năm 1201 phần lớn quân đội thập tự chinh đã được tập hợp tại Venice, mặc dù quân số lúc này ít hơn dự kiến: 12.000 người thay vì 33.500 người. Người Venice đã thực hiện một phần của thỏa thuận: họ có tầu chiến Galley, tầu vận chuyển lớn, và tầu vận chuyển ngựa – với trọng tải gấp ba lần số lượng người ngựa mà quân Thập tự chinh có thể tập hợp. Người Venice, dưới sự chỉ huy của Viên Thống đốc Dandolo-người vừa mù vừa cao tuổi, đã không để cho quân viễn chinh lên đường mà không trả toàn bộ số tiền đã ký hợp đồng ban đầu bao gồm 85.000 đồng Mark bạc.Quân viễn chinh chỉ có thể trả một số tiền là 51.000 đồng Mark bạc và chừng đó đã đủ làm cho họ chở nên đói nghèo đến cùng cực. Đây là tai họa với Venezia vì thành phố đã phải dừng các hoạt động thương mại của họ lại trong một thời gian rất dài để chuẩn bị cho chuyến chinh phạt này. Ngoài ra khoảng 20-30,000 người đàn ông (trong tổng số dân cư khoảng 60.000 người của Venice) đã được tuyển mộ để điều hành toàn bộ hạm đội, đã tạo thêm sự căng thẳng cho kinh tế của Venezia.

    Dandolo và người Venice đã thành công trong việc lợi dụng quân thập tự chinh vào mục đích riêng của họ như là một hình thức trả nợ. Sau vụ thảm sát của người Latinh, các thương gia Venetian đã bị trục xuất ở thời cầm quyền của triều đại Angelos với sự ủng hộ của người dân Byzantine. Những sự kiện này đã cho người Venezia có một thái độ thù địch đối với Byzantine. Dandolo-người đã tham gia cuộc thập tự chinh trong một buổi lễ công cộng tại nhà thờ San Marco di Venezia, đề xuất rằng quân viễn chinh nên trả nợ họ bằng cách tấn công bến cảng Zara ở Dalmatia. Thành phố đã nằm trong sự thống trị về kinh tế của Venice trong suốt thế kỷ 12 , nhưng đã trỗi dậy trong năm 1181 và liên minh với vua Emeric của Hungary và Croatia. Cuộc tấn công sau đó của người Venetian đã bị đẩy lùi và vào năm 1202 thành phố đã trở nên độc lập về kinh tế, dưới sự bảo vệ của nhà vua Hungary.

    Nhà vua Hungary là người Công giáo và đã tự mình đồng ý tham gia cuộc Thập Tự Chinh (mặc dù chủ yếu vì lý do chính trị và thực tế ông đã không chuẩn bị để khởi hành). Nhiều Thập tự quân đã phản đối kế hoạch tấn công Zara và một số người, bao gồm cả một lực lượng được chỉ huy bởi Simon de Montfort đã hoàn toàn từ chối tham gia và trở về nhà. Trong khi đại diện của Giáo hoàng đi cùng quân Thập tự chinh-Đức Hồng Y Peter của Capua-người thừa kế Giáo hoàng, đã tiến hành một số bước cần thiết để ngăn chặn sự hoàn toàn thất bại của cuộc thập tự chinh này, Giáo hoàng Innocent III đã được cảnh báo vì nguy cơ này ( thay bằng đi đánh quân Hồi giáo lại quay ra ăn cướp của người Thiên chúa giáo ) và đã viết một lá thư cho các thủ lãnh quân thập tự chinh và "đe dọa rút phép thông công".

    Trong quấn The Crusades sử gia Geoffrey Hindley đã đề cập rằng trong năm 1202 Giáo hoàng Innocent III cấm quân Thập tự chinh của Thiên Chúa giáo phương Tây có các hành vi tàn bạo những người hàng xóm Kitô giáo của họ, mặc dù ông này vẫn muốn phát huy uy quyền của giáo hoàng Byzantine. Bức thư này đã bị ém nhẹm đi và đa phần binh lính Thập tự chinh đã không được biết đến cho đến sau khi cuộc tấn công được tiến hành. Các công dân của Zara đã cố gắng nhắc nhở một thực tế rằng họ cũng là những đồng bào Công giáo bằng cách treo các lá cờ có đánh dấu thánh giá từ cửa sổ của mình và ở các bức tường của thành phố, tuy nhiên thành phố đã bị thất thủ sau một cuộc bao vây ngắn. Khi Innocent III nghe nói về cuộc bao vây ông đã gửi một lá thư cho quân viễn chinh và tuyên bố rút phép thông công họ và ra lệnh bắt họ phải thực hiện lời thề thiêng của mình và đi đến Jerusalem. Do lo sợ rằng sự kiện này sẽ làm tan rã quân đội, các thủ lãnh quân thập tự chinh đã quyết định không thông báo về điều này cho binh lính.

    Chuyển hướng đến Constantinople

    Trong khi đó Boniface của Montferrat đã rời hạm đội trước khi nó khởi hành từ Venice, và đến thăm Philip của Swabia-người anh em họ của ông. Lý do cho chuyến viếng thăm của ông là một vấn đề vẫn còn đang được tranh cãi, có thể ông đã nhận ra kế hoạch của Venezia và bỏ đi để tránh vạ thông công, hoặc có thể ông muốn gặp Alexios Angelos-hoàng tử Byzantine, anh rể của Philip và con trai gần đây đã lật đổ hoàng đế Byzantine Isaac II Angelos. Alexios đã bỏ chạy tới lãnh địa của Philip vào năm 1201 nhưng người ta không chắc chắn rằng Boniface có gặp ông ta tại triều đình của Philip hay không. Alexios sẽ cung cấp 200.000 đồng Mark bạc, 10.000 người để giúp đỡ quân Thập tự chinh, duy trì 500 hiệp sĩ tại Đất Thánh, hải quân Byzantine sẽ tham gia vận chuyển quân Thập tự chinh tới Ai Cập và vị trí của Giáo Hội Chính Thống Đông sẽ dưới quyền của Giáo hoàng nếu họ đi thuyền đến Byzantine và lật đổ Alexios III Angelos-nhà vua trị vì, và cũng là anh trai của Isaac II. Đó là một lời đề nghị hấp dẫn đối với đạo quân lúc đó đang thiếu tiền.

    Quan hệ giữa quân Thập tự chinh và Byzantine đã trở nên căng thẳng kể từ khi bắt đầu phong trào thập tự chinh, nhưng lời đề nghị của Alexios là một trong, ít nhất là trên lý thuyết, lí do để hàn gắn các rạn nứt giữa phương Đông và phương Tây và đó là những nỗ lực đáng kể để trợ giúp người Latinh. do đó Bá tước Boniface đã đồng ý và Alexios IV đã trở lại cùng với Hầu tước và tham gia với hạm đội ở tại Corfu sau khi nó đã khởi hành từ Zara. Các nhà lãnh đạo còn lại của quân Thập tự chinh cuối cùng đã chấp nhận kế hoạch này. Tuy nhiên có nhiều nhà lãnh đạo cao cấp không ưa thích đề xuất này và nhiều người bỏ ngũ. Hạm đội gồm 60 tầu chiến Galley, 100 tàu chở ngựa và 50 tầu vận tải lớn (toàn bộ hạm đội có 10.000 tay chèo và lính thủy người Venetian ) đến Constantinople vào cuối tháng 6 năm 1203. Ngoài ra, 300 thiết bị công thành được mang theo trong hạm đội.

    Khi binh lính của cuộc Thập tự chinh lần thứ tư đến được Constantinople, thành phố có khoảng 400.000 dân và một đơn vị đồn trú khoảng 15.000 người (trong đó có lính vệ binh 5.000 Varangian ) và một hạm đội 20 tầu Galley. Động cơ ban đầu của quân Thập tự chinh là khôi phục lại ngôi Hoàng đế Byzantine cho Isaac II để họ có thể nhận được sự hỗ trợ mà Alexios đã hứa. Conon của Bethune gửi thông điệp này đến phái đoàn người Lombard vốn được gửi đến bởi đương kim hoàng đế Alexios Angelos III, người đã bị lật đổ Isaac-anh trai của ông. Các công dân của Constantinople thì không quan tâm đến nguyên nhân tại sao hoàng đế bị lật đổ và con trai của ông đang phải sống lưu vong; tiếm quyền là việc thường xuyên xảy ra ở Byzantine và lần này thì việc thay đổi ngôi vị thậm chí vẫn chỉ trong nội bộ một gia đình. Các Thập tự quân đã khởi hành đến Constantinople trong 10 chiếc Galley và cho họ nhìn thấy Alexios IV, nhưng từ những bức tường của thành phố người Byzantine đã chế giễu và nhạo báng quân viễn chinh, mặc dù có người đã nói rằng Hoàng tử Alexios sẽ được chào đón. Trước tiên là quân viễn chinh đã bao vây và chiếm các thành phố Chalcedon và Chrysopolis sau đó họ đánh bại 500 lính kỵ binh của Byzantine trong một trận chiến chỉ bằng 80 hiệp sĩ người Frank. Lúc này Thập tự quân quay sang tấn công vào thành phố Constantinople.

    Cuộc vây hãm của tháng 7 năm 1203


    Để chiếm thành phố bằng vũ lực, đầu tiên là quân viễn chinh cần phải vượt qua vịnh Bosphorus. Khoảng 200 tàu chở ngựa và tầu Galley đã chở các đội quân thập tự chinh qua eo biển hẹp, đến nơi Hoàng đế Alexios III đã cho tập hợp quân đội Byzantine thành một đội hình chiến dọc theo bờ vịnh ở phía bắc vùng ngoại ô Galata. Các hiệp sĩ Thập tự chinh tấn công thẳng từ tầu chở ngựa và quân đội Byzantine tháo chạy về phía nam.

    Quân Thập tự chinh đuổi theo về phía nam và tấn công vào tháp Galata, người Byzantine phòng thủ phần cuối ở phía bắc bằng những chuỗi xích lớn để chặn lối vào vịnh Sừng Vàng. Khi họ bao vây tòa tháp, người Byzantine phản công và thu được một số thành công ban đầu. Tuy nhiên, khi quân Thập tự chinh tập hợp lại thì người Byzantine phải rút về phía ngọn tháp, quân Thập tự chinh đã bám theo những binh lính đang rút lui để chiếm chiếc cổng và tòa tháp phải đầu hàng.Lúc này Golden Horn đã được mở cửa cho quân Thập tự chinh và các hạm đội Venetian đã tiến vào.


    Ngày 11 tháng 7, quân Thập tự chinh đã vào vị trí đối diện với Cung điện của Blachernae ở góc tây bắc của thành phố. Họ bắt đầu cuộc bao vây một cách nghiêm túc vào ngày 17, và chia ra thành bốn lộ binh để tấn công vào bức tường trên bộ, trong khi hạm đội Venetian tấn công các bức tường trên biển từ vùng vịnh Sừng Vàng. Người Venice đã chiếm được một phần của bức tường trên biển với khoảng 25 tòa tháp, trong khi quân vệ binh Varangian đã đẩy được quân Thập tự chinh ra khỏi bức tường trên bộ. Lính vệ binh Varangians di chuyển để chặn đứng mối đe dọa mới và người Venice rút lui dưới các đám lửa cháy. Ngọn lửa đã phá hủy khoảng 120 mẫu Anh (0,49 km 2 ) diện tích thành phố.


    Cuối cùng Alexios III đã chuyển sang tấn công và đích thân chỉ huy 17 đội binh từ cổng St Romanus, quân đội của Alexios III có khoảng 8.500 người và đối mặt với bảy đội binh của Thập tự quân (có khoảng 3.500 người), mặc dù chiếm ưu thế đáng kể về quân số so với quân viễn chinh, nhưng lòng can đảm của ông đã thất bại và quân đội Byzantine trở lại thành phố mà không chiến đấu. Việc ông rút lui và những ảnh hưởng của các đám cháy đã làm cho tinh thần của các công dân của Constantinople bị suy xụp và họ quay ra chống lại Alexios III và sau đó ông này đã bỏ chạy. Ngọn lửa đã phá hủy rất nhiều ngôi nhà và làm 20.000 người chở thành vô gia cư. Hoàng tử Alexios được đặt lên ngôi vua như là Alexius IV cùng với Isaac- người cha mù của mình cai trị Đế quốc.


    Các cuộc tấn công nữa vào thành phố Constantinople


    Alexios IV nhận ra rằng lời hứa của ông là rất khó giữ. Alexios III đã thành công khi chạy trốn với 1.000 kg vàng và một số đồ trang sức vô giá và để lại một kho bạc hoàng gia gần như trống rỗng. Lúc đó vị hoàng đế trẻ tuổi đã ra lệnh tiêu hủy và nấu chảy các biểu tượng có giá trị của La Mã và Byzantine để chiết xuất ra vàng và bạc, nhưng thậm chí sau đó ông này cũng chỉ có thể thu thập được 100.000 đồng Mark bạc. Nhưng trong con mắt của tất cả những người Byzantine thì đây là một dấu hiệu gây sốc của sự tuyệt vọng và lãnh đạo yếu kém và đáng bị trừng phạt bởi Chúa Trời. Sử gia Byzantine Nicetas Choniates coi đó là "bước ngoặt và làm suy sụp nhà nước Đông La Mã."

    Bắt người dân phải phá hủy các biểu tượng của họ theo lệnh của một đội quân ly giáo người nước ngoài đã làm cho Alexios IV bị các công dân của Constantinople thù ghét. Trong nỗi sợ hãi suốt cuộc đời của mình, vị đồng hoàng đế này đã yêu cầu quân Thập tự chinh ở lại thêm sáu tháng theo một hợp đồng mới đến cuối tháng 4 1204. Tuy nhiên, vẫn còn xung đột xảy ra trong thành phố. Trong tháng 8 năm 1203 Thập tự quân đã tấn công một nhà thờ Hồi giáo (ở Constantinople vào thời gian này có khá nhiều dân Hồi giáo) vốn được bảo vệ bởi một lực lượng kết hợp của người Hồi giáo và người Byzantine đối lập. Trong khi đó, Alexios IV đã yêu cầu 6.000 quân Thập tự chinh hành quân để chống lại Alexios III-đối thủ của mình tại Adrianople.


    Lần nỗ lực thứ hai của người Venezia trong việc tạo ra một bức tường lửa để hỗ trợ cho việc tháo chạy của họ, họ gây ra một đám cháy cực to và đám cháy này đã đốt cháy và phá hủy một phần lớn thành phố Constantinople. Sự phản đối Alexios IV đã ngày càng tăng lên và Alexios Doukas (biệt danh 'Mourtzouphlos' vì ông này có đôi lông mày dậm)-một trong những cận thần của ông, đã ngay lập tức lật đổ ông này và cho người bóp cổ ông ta đến chết. Alexios Doukas tự lên ngôi với tên hiệu là Alexios V; Isaac qua đời ngay sau đó, có thể là do nguyên nhân tự nhiên.

    Quân viễn chinh và người Venezia đã cực kỳ tức giận với cái chết của những người mà họ bảo trợ và yêu cầu Mourtzouphlos tôn trọng hợp đồng mà Alexios IV đã hứa. Khi hoàng đế Byzantine từ chối, Thập tự quân lại tấn công thành phố một lần nữa. Ngày 08 Tháng Tư, quân đội của Alexios V đã kháng cự một cách mạnh mẽ và làm nhiều quân viễn chinh nản lòng.


    Người Byzantine đã bắn những viên đạn rất lớn vào các máy công thành của quân địch và phá vỡ rất nhiều chiếc trong số chúng. Một trở ngại nghiêm trọng cho quân viễn chinh là điều kiện thời tiết xấu. Gió thổi từ biển và ngăn chặn hầu hết các tàu chiến không cho chúng vào đủ gần đến các bức tường để phát động các cuộc tấn công. Chỉ có năm trong số các tháp canh của bức tường đã được thực sự bị tấn công và không chiếc nào trong số những chiếc này đã bị chiếm, và vào giữa buổi chiều người ta đã thấy một điều hiển nhiên rằng các cuộc tấn công đã thất bại.


    Các giáo sĩ Latin thảo luận tình hình với nhau và họ muốn quân đội Thập tự chinh không bị mất tinh thần. Họ đã phải thuyết phục những người của họ rằng các sự kiện của ngày 09 tháng 4 không phải là sự phán xét của Thiên Chúa vào một đội quân chứa đầy tội lỗi: Họ lập luận rằng các chiến dịch là chính đáng và phù hợp với niềm tin rằng nó sẽ thành công. Câu nói lòe bịp rằng Thiên Chúa thử thách quyết tâm của quân Thập tự chinh qua những thất bại tạm thời là một phương tiện quen thuộc cho các giáo sĩ để giải thích những thất bại trong quá trình của chiến dịch.


    Thông điệp của các giáo sĩ được viết ra để trấn an và động viên quân Thập tự chinh. Lập luận của họ rằng là các cuộc tấn công vào Constantinople xoay quanh hai chủ đề về tinh thần. Đầu tiên, họ nói người Byzantine là những kẻ phản bội và giết người vì họ đã giết chết Alexios IV-chúa tể hợp pháp của họ. Các giáo hội sử dụng ngôn ngữ có tính chất kích động và tuyên bố rằng " người Byzantine còn tồi tệ hơn người Do Thái" và họ cầu khấn cho sự ủy quyền của Thiên Chúa và Đức Giáo Hoàng để hành động.


    Mặc dù Innocent III đã một lần nữa yêu cầu rằng họ ( quân Thập tự chinh ) không được tấn công
    người Byzantine, lá thư của giáo hoàng đã bị dấu nhẹm bởi các giáo sĩ và các Thập tự quân lại chuẩn bị cho cuộc tấn công của họ, trong khi người Venezia thì tấn công từ hướng biển; quân đội của Alexios V ở lại trong thành phố để chiến đấu, cùng với các vệ sĩ của Hoàng đế-đội vệ binh Varangians, nhưng bản thân Alexios V thì lại chạy trốn trong màn đêm.

    Công chiếm Thành phố Constantinople


    Ngày 12 tháng 4, năm 1204, cuối cùng thì điều kiện thời tiết đã ủng hộ quân Thập tự chinh. Một luồng gió mạnh từ phía bắc đã giúp cho các tàu của Venetian xáp đến gần các bức tường. Sau một cuộc chiến ngắn, khoảng bảy mươi lính Thập tự quân đã cố gắng đột nhập vào thành phố. Một số quân Thập tự chinh cuối cùng đã có thể tiến vào qua các lỗ hổng của các bức tường đủ rộng để một vài hiệp sĩ có thể chui qua tại một thời điểm để tiến vào; người Venice cũng đã chiếm được một phần các bức tường từ phía biển, mặc dù đã nổ ra những trận chiến rất đẫm máu với các vệ binh Varangian. Quân viễn chinh đã chiếm được Blachernae-một phần ở phía tây bắc của thành phố và sử dụng nó như một căn cứ để tấn công các phần còn lại của thành phố, và đồng thời họ cũng cố gắng tự bảo vệ mình bằng một bức tường lửa, họ đã tạo nhiều đám cháy hơn nữa trong thành phố. Các đám cháy thứ hai này đã làm 15.000 người trở thành vô gia cư. Thập tự quân hoàn toàn chiếm thành phố vào ngày 13.

    Quân Thập tự chinh đã gây ra một tội ác khủng khiếp và man rợ tại Constantinople trong ba ngày, vào lúc đó rất nhiều công trình cổ đại và trung cổ của La Mã và Hy Lạp đã được bị lấy cắp hoặc bị phá hủy. Thư viện của thành phố Constantinople cũng đã bị phá hủy, bất chấp lời thề của họ và mối đe dọa của sự rút phép thông công, quân Thập tự chinh đã phá hủy một cách tàn nhẫn và có hệ thống các nhà thờ tu viện của thành phố, họ phá hủy, làm ô uế hoặc ăn cắp tất cả những thứ họ có thể lấy được. Có người nói rằng tổng số tiền bị cướp từ Constantinople có giá trị khoảng 900.000 đồng mark bạc. Người Venezia nhận được 150.000 đồng mark bạc mà là người ta nợ họ, trong khi quân Thập tự chinh cũng nhận được 50.000 đồng mark bạc. Khoảng 100.000 đồng mark bạc được chia đều ra giữa quân Thập tự chinh và người Venice. Phần còn lại khoảng 500.000 đồng mark bạc đã được bí mật giữ lại bởi các hiệp sĩ Thập tự chinh.

    Theo một hiệp ước sau đó Byzantine đã được phân chia giữa Venice và các thủ lĩnh của quân thập tự chinh và thành lập một đế quốc La-tinh ở Constantinople. Boniface không được bầu làm hoàng đế mới mặc dù dường như người dân thường coi ông là, người Venice nghĩ rằng ông đã có quá nhiều mối quan hệ với đế quốc Byzantine trước đây vì anh trai của ông-Renier của Montferrat đã kết hôn với Maria Komnene, người vốn là một hoàng hậu trong các năm 1170. Thay vào đó họ đã đưa Baldwin của Flanders trên ngai vàng. Boniface đã ra đi và nhận lấy Vương quốc Thessalonica-một nước chư hầu của Đế quốc La-tinh mới. Người Venice cũng thành lập Công quốc của quần đảo ở biển Aegean. Trong khi đó, người tị nạn Byzantine cũng đã thành lập các vương quốc của riêng mình, đáng chú ý nhất trong số này là đế quốc Nicaea của Theodore Laskaris ( một viên tướng cũ của Alexios III) và các vương quốc Trebizond và Despotate Epirus.

    Kết quả

    Hầu như quân viễn chinh của lần thứ tư không bao giờ tiến được đến Đất Thánh và Đế quốc vốn Latin không có sự ổn định đã làm thất thoát nhiều nguồn lực của quân thập tự chinh ở châu Âu. Cái mà cuộc Thập tự chinh lần thứ tư để lại là ý nghĩa sâu xa về sự phản bội mà người Latinh đã gieo vào lòng những đồng đạo người Byzantine của mình. Với các sự kiện của năm 1204, sự ly giáo giữa các Giáo hội ở phương Tây và phương Đông không chỉ là hoàn thành mà còn được củng cố. Để kết thúc sự kiện này, Giáo hoàng Innocent III đã chỉ trích quân viễn chinh một cách gay gắt. Tuy nhiên, phản ứng tiêu cực của Đức Giáo Hoàng cũng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Khi quân viễn chinh lấy tiền, đồ trang sức và vàng bạc mà họ đã chiếm được ở Constantinople và tặng cho Rome, Innocent III đã hoan nghênh những của ăn cướp này và đồng ý để cho quân viễn chinh quay trở lại với Giáo Hội La Mã phương Tây ( không còn rút phép thông công nữa).

    Đế chế La tinh đã sớm phải đối mặt với một số đông kẻ thù mà quân viễn chinh đã không tính trước đến. Bên cạnh các tàn dư của Đế quốc Byzantine như Epirus và Nicaea, Đế chế La tinh đã phải chịu sức ép rất lớn từ Vương quốc Hồi giáo Seljuk và Đế quốc Bungari ( quả thật người Bungari lúc đó rất đáng sợ chứ không chỉ có hoa hồng như bây giờ he he ). Các quốc gia tách ra từ Byzantine đã tấn công cả Đế quốc Latinh và đánh lẫn nhau. Hầu hết các nhân vật chính của Byzantin và Latinh trong sự kiện trên đã bị giết chết ngay sau đó. Murtzuphlus đã bị phản bội bởi Alexius III, ông bị bắt và dẫn độ đến Đê quốc Latinh và bị hành hình tại Constantinople. Không lâu sau, chính bản thân Alexius III đã bị bắt giữ bởi Boniface và phải sống một cuộc sống lưu đầy ở miền Nam Italy. Một năm sau khi cuộc chinh phục vào thành phố Constantinople, Hoàng đế Baldwin (Đế quốc Latinh) đã bị đánh bại tại Trận Adrianople vào ngày 14 tháng Tư năm 1205 bởi người Bulgaria và bị bắt sống rồi sau đó bị hành hình bởi Kaloyan-Hoàng đế Bungari. Hai năm sau đó, ngày 4 tháng 9 năm 1207, chính bản thân Boniface cũng bị giết trong một cuộc phục kích của người Bulgaria và đầu của ông đã được gửi đến cho Kaloyan. Ông được kế vị bởi Demetrius của Montferrat-người con trai trẻ tuổi của ông, ông này cai trị Vương quốc Thessalonica cho đến khi đến tuổi trưởng thành, nhưng cuối cùng cũng đã bị đánh bại bởi Theodore I Ducas-bạo chúa của Epirus và họ hàng của Murtzuphlus và do đó Vương quốc Thessalonica đã trở về sự cai trị của Đế quốc Byzantine trong 1224.

    Rất nhiều các Lãnh chúa Pháp-Latin khác nhau trên khắp Hy Lạp - đặc biệt như công quốc Athen và công quốc của Morea – đã cố gắng tạo ra sự kết nối về văn hóa với Tây Âu và thúc đẩy khoa học nghiên cứu về Hy Lạp. Đặc biệt là các nhà quý tộc Pháp đã cho lưu hành một bộ sưu tầm về pháp luật được gọi là Assises de Romanie (chiếc cân của Hy Lạp). Phiên bản của quấn biên niên sử của xứ Morea cũng xuất hiện ở cả Pháp và Hy Lạp (và sau đó là Ý và Aragonese). Ấn tượng còn lại về các tòa lâu đài của quân thập tự chinh và nhà thờ kiểu Gothic vẫn có thể được nhìn thấy ở Hy Lạp. Tuy nhiên, Đế quốc La tinh tại Hy Lạp luôn được đặt trên một nền tảng yếu đuối ( vì không được lòng dân Byzantine ). Thành phố đã bị chiếm lại bởi Đế quốc Nicaean của người Hy Lạp dưới sự lãnh đạo của Hoàng đế Michael VIII Palaeologus trong năm 1261 và thương mại giữa Byzantine với Venice đã được tái lập.

    Trong một loạt các sự kiện đáng mỉa mai ở giữa thế kỷ 15, Giáo Hội La Tinh ( Roman Catholic Church) đã cố gắng tổ chức một cuộc thập tự chinh mới nhằm khôi phục lại Đế quốc Đông La Mã hay Đế quốc Byzantine lúc này đã dần dần bị tràn ngập bởi những bước tiến của Đế quốc Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ ( đương nhiên Đông La Mã là rào chắn cho các nước Tây Âu khỏi người Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng khi rào chắn này đổ sụp thì các nước Tây Âu tha hồ mệt mỏi với người Thổ-chính vì vậy mà Giáo Hoàng mới hô hào khôi phục lại Đế quốc Đông La Mã ). Tuy nhiên, các nỗ lực này đã thất bại bởi vì phần lớn thường dân Byzantine và một phần các giáo sĩ của họ từ chối công nhận và chấp nhận một cuộc tái hòa nhập ngắn ngày giữa các Giáo Hội Kitô giáo phương Đông và phương Tây theo hiệp ước đã được ký kết tại Hội đồng của Florence và Ferrara bởi giáo trưởng Joseph II của Constantinople. Dân Hy Lạp, những người đã từng chứng kiến sự hình thành và sụp đổ của Đế quốc Latinh, cho rằng nền văn minh của Byzantine vốn xoay quanh đức tin chính thống thậm chí sẽ được an toàn hơn dưới sự cai trị của triều đình Hồi giáo Ottoman. Nhìn chung, nếu quan sát về mặt tôn giáo thì người Byzantine đã chọn việc hy sinh sự tự do và độc lập về chính trị để bảo tồn các truyền thống và nghi lễ cùng với niềm tin riêng của họ chứ không muốn bị hòa nhập vào Công giáo La Mã. Trong đầu thế kỷ 14 và cuối thế kỷ 15, hai cuộc thập tự chinh cuối cùng đã được tổ chức bởi các vương quốc Hungary, Ba Lan, Wallachia và Serbia. Cả hai đều đã bị chặn đứng bởi đế quốc Ottoman. Trong cuộc bao vây thành phố Constantinople của Đế quốc Ottoman năm 1453, một nhóm các hiệp sĩ quan trọng của Venezia và Genova đã chết trong khi phòng thủ thành phố này.

    Tám trăm năm sau khi xảy ra cuộc Thập tự chinh lần thứ tư, Đức Giáo Hoàng John Paul II hai lần bày tỏ sự chia buồn cho các sự kiện của cuộc Thập tự chinh lần thứ tư. Năm 2001, ông đã viết cho Christodoulos, Tổng-Giám-mục của Athens rằng: "Đó là bi kịch mà những kẻ tấn công, những người đã đặt ra mục tiêu là đảm bảo cho các Kitô hữu khi hành hương đến Đất Thánh lại quay lưng lại với những người anh em cùng đức tin của họ. Sự thật là các Kitô hữu Công giáo Latin đã cảm thấy sự hối tiếc sâu sắc. " Năm 2004, trong lúc Đức Thượng phụ Bartholomew I- Đại Giáo trưởng của Constantinople, đến thăm Vatican, John Paul II đã hỏi, "tại sao chúng ta ( Giáo hội Kitô giáo phương Đông và phương Tây ) lại không chia sẻ, ở một khoảng thời gian lên đến tám thế kỷ, những đau đớn và sự ghê tởm ( của việc công phá thành phố Constantinople )". Sự kiện này đã được xem như là một lời xin lỗi đến Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp về các cuộc tàn sát đã được gây ra bởi các chiến binh của cuộc Thập tự chinh lần thứ tư.

    Vào tháng 4 năm 2004, trong một bài phát biểu nhân dịp kỷ niệm 800 ngày thành phố bị chiếm giữ, Đức Thượng phụ Bartholomew I- Đại Giáo trưởng của Constantinople đã chính thức chấp nhận lời xin lỗi. "Tinh thần hoà giải là mạnh hơn hận thù," ông nói trong lúc làm lễ nghi có sự tham dự của Đức Tổng-Giám-mục Công giáo La Mã Philippe Barbarin của Lyon, Pháp. "Chúng tôi chấp nhận với lòng biết ơn và tôn trọng cử chỉ thân mật của ngài về các sự kiện bi thảm của cuộc Thập tự chinh lần thứ tư. Thực tế là một tội ác đã được tiến hành ở đây trong thành phố này 800 năm trước đây" Bartholomew nói rằng ông chấp nhận lời xin lỗi theo tinh thần của Pascha ( Lễ phục sinh ). " tinh thần hòa giải của sự phục sinh ... đã thúc giục chúng ta tới sự hòa giải với các Giáo hội của chúng ta-[FONT=&quot]The spirit of reconciliation of the resurrection... incites us toward reconciliation of our churches[/FONT]"
  8. OngHoangBay

    OngHoangBay Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    11/05/2010
    Bài viết:
    75
    Đã được thích:
    0
    Bác H.ồ.ng Sơn kính mên1

    Sau Thập tự chinh 3, bác nhớ giới thiệu về quân đội Hồi giáo thời kì này nhé,

    Hai đội quân đánh nhau phải tương xứng thắng hay thua mới giòn giã,

    Bác ạ!
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7

    Khiếp bác nhớ dai thế, hì hì giới thiệu về quân Hồi giáo thì lai phải tìm hiểu đao Hồi là gì... cho em mấy hôm ngâm cứu đã
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Đôi nét về Thế giới Hồi giáo


    Lược sử về sự hình thành và phát triển của Thế giới Hồi giáo cho đến cuộc thập tự chinh lần I


    Vùng Arab và sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.( cờ của người Hồi)

    Năm 570 -> 632 Cuộc đời của nhà tiên tri Mohamed.
    Năm 632 -> 661 Các vua Hồi giáo giòng Rashidun như Abur Bakr, Uthman, Umar, Ali.
    Năm 633 Các cuộc nổi loạn bị đè bẹp ở Iraq, 642 Xâm chiếm Ai cập
    Năm 643 ->707 Xâm chiếm Bắc Phi

    Iran

    Năm 643 ->650 Xâm chiếm toàn bộ Iran, trừ vùng duyên hải phía Nam biển Caspian
    Năm 652 Hoàng Đế cuối cùng của nhà Sassania của Iran ( Đế quốc Batư) chết.

    Byzantium
    Năm 670-> 677 Cuộc vây hãm đầu tiên của người Hồi giáo vào thành phố Constantinople

    Trung á
    Năm 650 Cuộc đột kích đầu tiên của người Hồi giáo vượt qua sông Amu Darya.
    Năm 675 ->715 Cuộc xâm chiếm Transoxania, lập chiến tuyến đầu tiên.

    Thế kỷ thứ 8
    Vùng Arab và sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.
    Năm 744 ->748 Cuộc nổi loạn của người Kharaji theo Hồi giáo chính thống loang rộng
    Năm 749 ->750 Giòng Abbasid xâm lược Iraq, Syria và lật đổ vương triều Umayyad rồi lập nên vương triều Hồi giáo Abbasid.
    Năm 763 Thành lập thành phố Baghdad

    Ai cập và Bắc phi
    Năm 788 Vương triều Idrisid dành được độc lập ở Morocco


    Iran
    Năm 747 Bắt đầu cuộc nổi loạn của người giòng Abbasid ở Khurasan

    Byzantium

    Năm 712 ->717 Người Hồi giáo bao vây thành phố Constantinople lần thứ 2

    Trung á và Ấn độ

    Năm 710 -> 713 Người Hồi giáo xâm chiếm vùng hạ thung lũng Indus
    Năm 737 người Turk xâm lược vùng Transoxania của người Hồi giáo, nổ ra trận Juzian.

    Tây âu:

    Năm 711-> 713 Người Hồi giáo xâm chiếm bán đảo Iberia, thành lập ra vùng Andalus của Hồi giáo ở Tây Âu
    Năm 732 Nổ ra trận Poitiers

    Năm 755 ->756 Abd al Rahman-Hoàng tử sống sót của vương triều Umayyad, năm quyền kiểm soát vùng al Andalus, tỉnh đầu tiên tách ra khỏi sự kiểm soát của vua Hồi giáo.

    Vùng Arab và sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.

    Năm 812 ->813 Cuộc bao vây Baghdad trong thời gian nổ ra cuộc nội chiến của triều Abbasid
    Năm 819 Vương triều Ziyadid dành được độc lập ở Yemen.
    Năn 836 Thủ đô của vương triều Abbasid được chuyển tới thành phố Samara
    Năm 877 Thống đốc Tulunid ở Ai cập xâm chiếm Syria

    Ai cập và Bắc phi
    Năm 800 Vương triều Aghlabid ở vùng lãnh thổ Tunisia dành được quyền tự trị
    Năm 809 Vương triều Aghlabid xâm chiếm Sardinia

    Năm 827 ->901 Vương triều Aghlabid xâm chiếm Sicily, đột kích vào Corsica, Ytalia, Pháp.
    Năm 846 Vương triều Aghlabid công phá thành phố Rome.

    Iran

    Năm 820 Vương triều Tahirid ở vùng lãnh thổ Khurasan dành được quyền tự trị
    Năm 825 Vương triều Dulayfid ở vùng lãnh thổ Khurdistan dành được quyền tự trị
    Năm 864 Vương triều Alid giành được độc lập ở phía Tây Iran.
    Năm 867 ->872 Vương triều độc lập Saffarid xâm chiếm phía đông Iran, Afghanistan, rồi đánh bại Vương triều Tahirid và chiếm toàn bộ vùng

    Iran.
    Năm 898 -> 930 Vương triều Abbasid phục hồi vùng lãnh thổ ở phía Tây Iran

    Byzantium
    Thế kỷ thứ 9 Người Hồi giáo và Byzantine thiết lập một chiếm tuyến rộng rãi.

    Trung á và Ấn độ

    Thế kỷ thứ 9->10 Thống đốc địa phương ở vùng thung lũng Indus tiếp tục trung thành với vương triều Hồi giáo Abbasid.
    Năm 874 Vương triều Samanid giành được quyền tự trị tại vùng Transoxania

    Phía Tây Âu

    Thế kỷ thứ 9 Người Hồi giáo và Thiên chúa giáo thành lập một chiến tuyến rộng lớn ở Andalus.

    Thế kỷ thứ 10
    Vùng Arab và sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.

    Thế kỷ thứ 10 Vùng trung tâm Arab nằm dưới sự kiểm soát của người Hồi giáo chính thống Qarmati, vùng Hijaz nằm dưới sự kiểm soát của Ai Cập, Yemem và Oman năm dưới sự kiểm soát của chính quyền địa phương.
    Năm 905 Triều đình Abbasid chiếm lại quyền kiểm soát của sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.
    Năm 929 Vương triều Hamdanid ở vùng lãnh thổ Syria và Lưỡng hà dành được quyền tự trị

    Năm 941 Thống đốc Ikhshidid của Ai cập giành được quyền kiểm soát Palesione
    Năm 945 Triều Buyid ở Iran xâm chiếm Iraq, vua Hồi giáo triều Abbasid bị giam lỏng trong cung điện.
    Năm 969 Người Byzantine chiếm lại Antioch
    Năm 971 Triều Buyid của Iran xâm lược Oman và tự đó vùng này nằm trong sự kiểm soát của người Iran.

    Năm 929 Vương triều Marwanid ở phía bắc Lưỡng hà ( Diyarbakr ) dành được quyền tự trị.
    Năm 991 Triều Buyid của Iran xâm lược phía bắc Lưỡng hà
    Năm 996 Vương triều Uqaylid ở phía bắc Lưỡng hà ( Mosul ) dành được quyền tự trị.

    Ai cập và Bắc phi

    Năm 909 Giòng Fatimid thiết lập một vương triều Hồi giáo đối thủ ở Tunisia và xâm chiếm Sicily cùng với Sardinia
    Năm 935 Vương triều Ikhshidid thiết lập nền tự trị tại Ai Cập
    Năm 969 Vua Hồi giáo giòng Fatimid chiếm Ai cập
    Năm 972 Vương triều Zirid kế thừa các tỉnh Bắc phi, Sicily và Sardinia của vương triều Fatimid.
    Năm 975 Trân Sidon
    Năm 985 Vương triều Idrisid bị lật đổ tại Morocco bởi những người Berber ở địa phương.

    Năm 1017 -> 1173 Yemen bị chia rẽ thành rất nhiều vương quốc độc lập
    Năm 1023 Vương triều Mirdasid ở vùng phía Bắc Syria giành quyền tự trị.
    Năm 1094 -> 1096 Người Turk Saljuq xâm chiếm tất cả các thành bang ở địa phương ngoại trừ Mazyadid, một thành bang vùng duyên hải của Syria vẫn nắm trong sự kiểm soát của nhà Fatimid.
    Năm 1097 Quân lính của cuộc thập tự chinh lần thứ nhất tiến vào Syria
    Năm 1098 Triều đình Fatimid tái chính phục Palestine từ tay người Turk Saljuq
    Năm 1099 Thập tự quân chiếm Palestine và Jerusalem.

    Ai cập và Bắc phi

    Năm 1007 Năm 1023 Vương triều Hamadid ở Algeria giành quyền tự trị.
    Năm 1050 Bùng nổ phong trào Almoravid ở Mauretania, đột kích vào Gana ( năm 1054), xâm chiếm Morocco ( năm 1056-> 1069), Algeria ( năm 1082).
    Năm 1050 -> 1057 Các bộ tộc du mục Banu Hilal di cư về phía Tây và chiếm Libya, Tunisia.

    Iran

    Năm 1037 -> 1051 Người Turk Saljuq xâm chiếm toàn bộ Iran

    Byzantine

    Năm 1071 Người Turk Saljuq đánh bại người Byzantine trong trận Manzikirt.
    Năm 1072 Người Turk Saljuq được mời vào vùng Anatolia với tư cách đồng minh bởi một phe trong nội chiến Byzantine.
    Năm 1077 Tiểu quốc Rum của người Turk Saljuq được thành lập ở trung tâm của vùng Anatolia.
    Năm 1079 Vương triều Danishmandid giành được độc lập ở phía Đông vùng Anatolia.

    Trung á và Ấn độ

    Thế kỷ 11 Khara Khans cai trị vùng Transaxonia như là một chư hầu của người Turk Saljuq.
    Năm 1001-> 1024 Vương triều Ghaznawid của Aghanistan đột kích vào Ấn độ và chiếm thung lũng Indus ( nay là Pakistan) và phía Tây của đồng bằng Ganges..

    Tây Âu

    Năm 1031 Sự sụp đổ của vương quốc Hồi giáo Umayyad và sự thành lập của 15 tiểu quốc Hồi giáo độc lập trên khắp vùng Andalus.
    Năm 1085 Tiểu vương Hồi giáo Dhu al Nun sụp đổ và Toleo thất thủ vào tay Alfonso VI xứ Leon ( quốc vương người Thiên chúa giáo)
    Năm 1086 Vương triều Almoravid của Morocco gửi tiếp viện tới tất cả các tiểu vương của xứ Andalus, nổ ra trận Zallaca.
    Năm 1090 -> 1091 Vương triều Almoravid đã chiếm đóng toàn bộ vùng Andalus ngoại trừ vùng Saragossa và đảo Baleric vẫn còn nằm trong tay vương triều Hudid.

    ( các thông tin sưu tầm từ cuấn Osprey - The Armies of Islam 7th-11th Centuries)




    Một số triều đại Hồi giáo huy hoàng từ thế kỷ thứ 7 -> thế kỷ 13




    Triều đại nhà Umayyad

    Umayyad Caliphate là Triều đại thứ hai trong bốn Triều đại chính của người Arab được thành lập sau cái chết của Muhammad. Nó đã được cai trị bởi các thành viên của nhà Umayyad xuất phát từ Umayya ibn Abd Shams-ông nội của khalip ( Vua Hồi) Umayyad đầu tiên. Mặc dù thủa ban đầu gia đình Umayyad đến từ thành phố Mecca, nhưng Damascus mới là thủ đô của Vương quốc Hồi giáo này. Vào lúc đỉnh cao nhất của nó, nó có diện tích hơn năm triệu dặm vuông và là một trong 5 đế quốc lớn nhất thế giới. Sau khi Vương triều Umayyad bị lật đổ bởi Abbasid Caliphate, những người còn sống sót chạy trốn qua Bắc Phi để đến Al-Andalus, nơi họ thành lập Vương quốc Hồi giáo Córdoba, vương quốc này kéo dài cho đến năm 1031.


    Nguồn gốc

    Theo truyền thống, gia đình Umayyad (còn được gọi là Abd Banu-Shams) và nhà tiên tri Muhammad có nguồn gốc từ một tổ tiên chung, ban đầu Abd Manaf ibn Qusai và Muhammad đều đến từ thành phố Mecca. Muhammad truyền qua Abd Manāf tới Hashim-con trai của ông ta, trong khi Umayyads lại được Abd Manaf truyền qua một người con trai khác, Abd-Shams, có con trai là Umayya. Do đó hai gia đình được coi là hai thị tộc khác nhau (tương ứng là nhà Hashim và nhà Umayya) trong cùng một bộ tộc (Quraish). Tuy nhiên các sử gia người Shia đã chỉ ra rằng Umayya là một con trai nuôi của Abd Shams vì vậy ông không phải là dòng máu của Abd Manaf ibn Qusai. Sau đó Umayya bị loại bỏ ra khỏi các gia đình quý tộc.

    Trong khi đó thì giữa người Umayyads và người Hashimites có thể có hận thù giữa hai gia tộc trước khi Muhammad thành danh, Sự cạnh tranh trở thành một sự thù địch giữa các bộ tộc nghiêm trọng sau trận chiến Battle of Badr. Trong cuộc chiến ba nhà lãnh đạo hàng đầu của gia tộc Ummayyad (Utba ibn Rabi'ah, Walid ibn Utba và Shaybah) bị giết bởi người nhà Hashmites (Ali, Hamza ibn ‘Abd al-Muttalib và Ubaydah) trong một trận cận chiến ba đấu ba. Sự kiện này đã kích thích sự chống đối của Abu Sufyan ibn Harb-cháu trai của Umayya với Muhammad và đạo Hồi. Abu Sufyan tìm cách tiêu diệt các tín đồ của các tôn giáo mới bằng cách tiến hành một cuộc chiến với người Hồi giáo lúc này có trụ sở tại Medina chỉ một năm sau trận Battle of Badr. Ông ta tiến hành chiến dịch này để trả thù cho thất bại tại Badr. Theo các học giả thì trận Uhud là thất bại đầu tiên của người Hồi giáo, và họ đã phải chịu thiệt hại lớn hơn so với người Mecca. Tuy nhiên trong vòng năm năm sau thất bại của ông trong Trận Uhud, Muhammad đã nắm quyền kiểm soát Mecca và công bố một lệnh ân xá chung cho tất cả. Lo sợ cho cuộc sống của họ và lòng thù hận từ người Hồi giáo, Abu Sufyan và vợ của ông ta đã gia nhập Hồi giáo vào đêm trước khi Mecca bị chinh phục và con trai của họ (Muawiyah I-vị vua Hồi giáo trong tương lai) cũng làm vậy. Những người chinh phục Mecca đã trấn áp nhà Ummayyads vào thời gian sau đó và càng làm dấy lên lòng căm thù của họ ( nhà Ummayyad ) đối với nhà Hashmites và rồi đây lại là kết quả của trận đánh giữa Muawiyah I và Ali dẫn đến việc Husayn ibn Ali cùng với gia đình và vài người bạn đã bị sát hại theo mệnh lệnh của Yazid ibn Muawiyah sau trận Karbala.

    Hầu hết các sử gia đều xem Caliph Muawiyah (661-80) là vị vua thứ hai của triều đại Umayyad, mặc dù ông này là người đầu tiên khẳng định quyền cai trị của Umayyads trên một nguyên tắc triều đại. Thực sự thì vị vua Hồi giáo thứ nhất là Uthman Ibn Affan (644-656), một thành viên của gia tộc Ummayyad, người đã chứng kiến sự hồi sinh và sau đó là uy thế của gia tộc Ummayyad trước những hành lang quyền lực. Uthman, trong suốt triều đại của mình, đặt một số thành viên đáng tin cậy của các gia tộc của mình tại các vị trí nổi bật và mạnh mẽ trên toàn thành bang. Đáng chú ý nhất là việc bổ nhiệm Marwan ibn al-Hakam, người anh em họ đầu tiên của Uthman, là cố vấn hàng đầu của ông, việc này đã tạo ra một khuấy động trong gia tộc Hashmite của Muhammad, như việc Marwan cùng với cha ông ta là Al-Hakam ibn Abi al-'As đã vĩnh viễn bị trục xuất khỏi Medina. Uthman cũng đã bổ nhiệm Walid ibn Uqba, người anh em cùng cha với Uthman là thống đốc Kufah, người bị buộc tội bởi gia tộc Hashmites là dẫn đầu cuộc cầu nguyện trong khi bị ảnh hưởng bởi rượu. Uthman cũng tăng quyền của Thống đốc Muawiyah của Syria bằng cách cấp cho ông này quyền kiểm soát một khu vực lớn hơn và bổ nhiệm anh trai nuôi của mình Abdullah ibn Saad là Thống đốc của Ai Cập. Tuy nhiên, vì Uthman không bao giờ có người thừa kế nên ông không được coi là người sáng lập ra triều đại Ummayyad.

    Sau vụ ám sát Uthman vào năm 656, Ali-một thành viên của gia tộc Hashimite và một người em họ của Muhammad được bầu làm khalip. Ông đã sớm gặp sự kháng cự từ một số phe phái, do thiếu kinh nghiệm chính trị của ông. Lo ngại nguy hiểm cho cuộc sống của mình, Ali dời đô từ Medina tới Kufa. Kết quả là một cuộc xung đột, kéo dài từ năm 656 đến 661, được gọi là First Fitna ("Nội chiến đầu tiên").

    Đầu tiên Ali bị phản đối bởi một liên minh do Aisha-vợ của Muhammad và Talhah cùng với Al-Zubayr, Hai trong số những người đi cùng Muhammad. Hai bên đụng độ tại Trận Battle of the Camel tại 656, nơi mà Ali giành được một chiến thắng quyết định.


    Ali bị ám sát năm 661, dường như bởi một thành viên của băng đả.ng Kharijite. Muawiyah hành quân đến Kufa, nơi ông đã thuyết phục một số người ủng hộ Ali công nhận ông ta là khalip thay vì Hasan-con trai của Ali. Sau khi nắm quyền lực, Muawiyah chuyển thủ đô của vương quốc Hồi giáo ở Damascus. Syria sẽ vẫn là căn cứ của sức mạnh của nhà Umayyad cho đến khi triều đại này kết thúc vào năm 750 AD. Tuy nhiên, nhà Ummayyad lại hồi sinnh ở Cordoba (Al Andalus, ngày hôm nay của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) dưới hình dạng một Tiểu vương Hồi giáo và sau đó là một vương quốc Hồi giáo, vương quốc này kéo dài cho đến năm 1031 AD. Nhưng chưa hết nhà Ummayyad tiếp tục sự cai trị của người Hồi giáo ở Iberia trong vòng một 500 năm sau đó trong hình thái của một số các tiểu quốc Hồi giáo như: vương quốc Taifas, Berber và Vương quốc Granada cho tới thế kỷ 16.

    Trong năm 712, Muhammad bin Qasim, Một vị tướng nhà Umayyad khởi hành bằng đường thủy từ khaleej tiến tới Sindh và chinh phục cả vùng Sindh và vùng Punjab dọc theo sông Indus. Cuộc chinh phục các vùng Sindh và Punjab là tiền đề cho nhà nước Pakistan ngày nay. Mặc dù cuộc viễn chinh là rất tốn kém, nhưng nó đã thu được thành công lớn cho Quốc vương Hồi giáo Umayyad về mặt lãnh thổ. Tuy nhiên, một lợi ích lớn hơn nữa là nó đã chặn lại bước tiến của Vương quốc Hindu Rajput ở phía bắc Ấn Độ.

    Trong giai đoạn sau của sự tồn tại của nó ( nhà Ummayyad ) và đặc biệt là từ năm 1031 AD trong hệ thống của tiểu vương Hồi giáo Ta'ifa (Princedoms ?) ở nửa phía nam của bán đảo Iberia, Tiểu vương hay còn gọi là Vương quốc Hồi giáo Granada đã duy trì được nền độc lập của nó phần lớn là do chấp nhận Triều cống cho vương quốc Kitô giáo ở phía Bắc và vương quốc Kitô giáo này bắt đầu mở rộng dần về phía nam từ năm 1031.

    Sự cai trị của người Hồi giáo cai trị ở Iberia chỉ kết thúc vào ngày 02 tháng 1 năm 1492 với vương quốc Nasrid của Granada bị chinh phục. Vua Hồi giáo cuối cùng của Granada-Muhammad XII hay thường được gọi là Boabdil, đã chấp nhận đầu hàng trước nhà vua Ferdinand II của xứ Aragon và nữ hoàng Isabella I của xứ Castile-Vua Công Giáo - los Reyes Católicos.


    Lịch sử ( những triều vua thuộc nhà Umayyad)

    Triều đại Sufyanid

    Triều đại của cá nhân Muawiyah được gọi là "Sufyanid" (con cháu của Abu Sufyan), trị vì từ năm 661-684, cho đến khi Muawiya II-cháu của ông lên ngôi. Triều đại của Muawiyah I được đánh dấu bằng việc ổn định nội bộ và mở rộng ra bên ngoài. Về mặt nội bộ, chỉ có một cuộc nổi loạn lớn được ghi nhận, đó là của Adi ibn Hujr tại Kufa. Hujr ibn Adi hỗ trợ cho đòi hỏi của con cháu của Ali về ngôi vị quốc vương Hồi giáo, nhưng cuộc nổi loạn của ông đã dễ dàng bị đàn áp bởi viên thống đốc của Iraq, Ziyad ibn Abi Sufyan.

    Muawiyah cũng khuyến khích sống chung hòa bình với các cộng đồng Kitô hữu của Syria và một trong những cố vấn thân cận nhất của ông là Sarjun, cha của John của Damascus. Đồng thời, ông không ngừng tiến hành các cuộc chiến tranh chống đế quốc Byzantine. Trong suốt triều đại của ông, các đảo Rhodes và Crete đã bị chiếm đóng và một số cuộc tấn công đã được tiến hành nhằm vào Constantinople. Muawiyah cũng giám sát việc mở rộng quân sự ở Bắc Phi (nền tảng của vùng Kairouan) và ở Trung Á (các cuộc chinh phục nhằm vào Kabul, Bukhara và Samarkand).

    Sau cái chết của Muawiyah tại 680, ông được kế vị bởi Yazid I-con trai ông. Việc thừa kế ngôi vị của Yazid đã bị phản đối bởi một số người Hồi giáo nổi bật, đặc biệt là Abd-Allah ibn al-Zubayr, con trai của một trong những đồng minh của Muhammad và Husayn ibn Ali, cháu trai của Muhammad và con trai của Ali. Cuộc xung đột kết quả được biết đến như là Fitna ( nội chiến) thứ hai.

    Trong 680 Ibn al-Zubayr và Husayn bỏ chạy khỏi Medina và đến Mecca. Trong khi Ibn al-Zubayr vẫn ở lại Mecca cho đến khi ông chết, Husayn quyết định đi đến Kufa để tập hợp sự ủng hộ. Tuy nhiên, theo mệnh lệnh của Yazid, một quân đội Umayyad lớn (truyền thuyết đề cập lên đến 70.000 người) đã chặn đánh và tàn sát không thương tiếc Husayn, các thành viên gia đình và đồng minh của ông trong trận Karbala. Khoảng 72 người trong nhóm của Husayn bao gồm chính bản thân ông ta cùng với phụ nữ, trẻ em và người già cùng với đứa con nhỏ sáu tháng tuổi của ông đã bị giết chết.

    Sau cái chết của Husayn, Ibn al-Zubayr, lúc này còn lại ở Mecca, đã liên kết với hai lực lượng đối lập, một có căn cứ ở Medina và một nữa là những người Kharijites tại Basra và Arabia. Năm 683, Yazid phái một đội quân đi để chinh phục cả hai địa điểm trên. Quân đội của Yazid đã đánh bại phe đối lập ơt Medina trong trận al-Harra và tiếp tục vào bao vây thánh địa Mecca. Trong cuộc bao vây, Kaaba đã bị phá hủy bởi lửa cháy. Việc tiêu hủy Kaaba trở thành một nguyên nhân chính cho sự chỉ trích nhằm vào Triều đại Umayyads bởi những nhà chép sử sau này.

    Yazid đã chết trong khi cuộc bao vây vẫn còn dở dang và quân đội Umayyad trở về Damascus, mặc cho Ibn al-Zubayr chiếm lại quyền kiểm soát Mecca. Yazid được thừa kế bởi Muawiya II (683-84)-người con trai đầu tiên của ông, nhưng có vẻ như ông này không bao giờ được công nhận là một vị vua Hồi giáo ở những vùng bên ngoài Syria. Hai phe ra sức tập hợp lực lượng tại Syria: Liên minh của Qays ( the Confederation of Qays), những người ủng hộ Ibn al-Zubayr, và Quda'a, những người ủng hộ Marwan, một hậu duệ của giòng Umayya qua Umayyah ibn Wa'il. Những người ủng hộ Marwan đã chiến thắng trong một trận chiến tại Marj Rahit gần Damascus vào năm 684 và ngay sau đó Marwan trở thành vua Hồi giáo.

    Triều đại Marwanid


    Nhiệm vụ đầu tiên của Marwan là để khẳng định sức mạnh của mình để chống lại những tuyên bố của Ibn al-Zubayr, đối thủ của mình, người tại thời điểm này được công nhận là vua Hồi giáo trong suốt hầu hết thế giới Hồi giáo. Marwan tái chiếm Ai Cập cho Triều đình Umayyads nhưng sau đó ông đã chết vào năm 685 trong khi mới trị vì chỉ có chín tháng.

    Marwan được kế vị bởi con trai ông, Abd al-Malik (685-705), người kiểm soát Triều Umayyad và ra sức củng cố lại vương triều hồi giáo của mình. Thời gian đầu của triều đại Abd al-Malik được đánh dấu bởi cuộc nổi dậy của Al-Mukhtar nổ ra tại Kufa. Al-Mukhtar hy vọng sẽ đưa Muhammad ibn al-Hanafiyyah-một con trai của Ali lên làm quốc vương Hồi giáo, mặc dù bản thân Ibn al-Hanafiyyah có thể đã không có liên quan đến cuộc nổi dậy này. Quân của al-Mukhtar đã tham chiến với quân của nhà Umayyads vào năm 686 tại sông Khazir ở gần Mosul trận này là một thất bại cho nhà Umayyad nhưng Ibn al-Zubayr cũng bị thua trận vào năm 687, và sau đó cuộc nổi dậy của al-Mukhtar đã bị dẹp tan. Năm 691, quân đội của nhà Umayyad đã chinh phục Iraq và trong năm 692 đã chiếm Mecca. Ibn al-Zubayr bị giết trong cuộc tấn công này.

    Sự kiện lớn thứ hai ở đầu triều đại đầu của Abd al-Malik là việc xây dựng Nhà thờ Hồi giáo bằng đá (Dome of the Rock ) ở Jerusalem. Mặc dù niên đại của việc xây dựng này vẫn còn là điều chưa chắc chắn, nó dường như đã được hoàn thành vào năm 692 có nghĩa là nó đã được xây dựng trong thời gian nổ ra cuộc xung đột với Ibn al-Zubayr. Điều này đã khiến một số nhà sử học cả ở thời trung cổ và hiện đại đều cho rằng Dome of the Rock được xây dựng để cạnh tranh với nhà thờ Kaaba lúc này nằm dưới sự kiểm soát của Ibn al-Zubayr như là một điểm đến cho các chuyến hành hương.

    Abd al-Malik được cho là đã có công tập trung hóa việc quản lý vương quốc của mình và với thiết lập tiếng Ả Rập như là ngôn ngữ chính thức của nó. Ông cũng cho ban hành một tiền Hồi giáo được đúc duy nhất thay thế các đồng tiền của Byzantine và Sasanian được sử dụng trước đó.

    Sau cái chết của Abd al-Malik, con trai của ông, Al-Walid I (705-15) trở thành vua Hồi. Al-Walid cũng tài trợ cho công cuộc xây dựng nhà thờ Hồi giáo Al-Masjid al-Nabawi ở Medina và nhà thờ Hồi giáo lớn nhất của Damascus.

    Một nhân vật quan trọng trong cả hai triều đại của Walid-al và Abd al-Malik là thống đốc Umayyad của Iraq, Al-Hajjaj bin Yousef. Nhiều người Iraq vẫn chống lại sự cai trị của nhà Umayyad và al-Hajjaj phải đưa quân đội từ Syria đến để duy trì trật tự, ông cho quân đội đồn trú trong Wasit-một thị trấn mới. Lực lượng quân đội này có vai trò quan trọng trong việc đàn áp một cuộc nổi dậy được dẫn dắt bởi một vị tướng Iraq, Ibn al-Ash'ath, vào đầu thế kỷ thứ tám.

    Al-Walid được kế tục bởi anh trai của ông, Sulayman (715-17), người trong thời gian trị vì đã tiến hành một cuộc bao vây kéo dài vào thành phố Constantinople. Thất bại của cuộc bao vây đánh dấu sự kết thúc những tham vọng lớn của người Ả Rập nhằm vào thủ đô của người Byzantine. Tuy nhiên, hai thập niên đầu của thế kỷ thứ tám chứng kiến sự mở rộng liên tục của vương quốc Hồi giáo này ở bán đảo Iberia ở phía tây và vào Trung Á và miền bắc Ấn Độ ở phía đông.

    Sulayman được kế vị bởi người anh em họ của ông, Umar ibn Abd al-Aziz (717-20), người có vị thế độc đáo trong số các khalip của nhà Umayyad. Ông là chỉ cai trị Umayyad đã được công nhận bởi các truyền thống Hồi giáo sau này như là một khalip (Khalifa)chính thống-tức là thiên về làm thủ lĩnh tôn giáo chứ không chỉ đơn thuần là một vị vua thế tục (Malik).

    Umar được cho là đã được vinh danh bởi nỗ lực của ông để giải quyết vấn đề tài chính trong việc khuyến khích dân chúng chuyển sang đạo Hồi. Trong thời gian nhà Umayyad trị vì, đa số người dân sống trong vương quốc Hồi giáo này không phải là người Hồi giáo mà là Thiên chúa giáo, Zoroastrian, Do Thái giáo hoặc một tôn giáo nào đó. Những cộng đồng tôn giáo này đã không bị ép buộc phải chuyển đổi sang đạo Hồi, mà chuyển đổi theo một lý do kinh tế-thuế (jizyah) đã không bị áp đặt vào người Hồi giáo. Tình hình này thực sự có thể đã làm cho việc chuyển đổi sang đạo Hồi gây ra những thâm thủng về mặt ngân sách của vương quốc và có nhiều báo cáo rằng thống đốc các tỉnh tích cực khuyến khích cách chuyển đổi này. Người ta không biết rõ ràng rằng Umar cố gắng giải quyết tình trạng này như thế nào, nhưng có nhiều nguồn miêu tả rằng ông kiên định cách đối xử một cách bình đẳng giữa người Hồi giáo Ả-rập và phi Ả-rập (mawali), và loại bỏ các trở ngại đối với việc chuyển đổi những người phi Ả Rập sang theo Hồi giáo.

    Sau cái chết của Umar Yazid II (720-24)-một con trai của Abd al-Malik, trở thành khalip. Yazid được biết đến với "chỉ dụ iconoclastic" của mình, đây là chỉ dụ ra lệnh phá hủy hình ảnh của Thiên chúa giáo trong lãnh thổ của Vương quốc Hồi giáo này. Năm 720, một cuộc nổi dậy lớn đã nổ ra ở Iraq, lần này do ibn al-Yazid Muhallab lãnh đạo.

    Hisham và việc cắt giảm mở rộng các hoạt động quân sự


    Hisham (724-43)-người con út của Abd al-Malik đã nối ngôi trở thành khalip ( vua Hồi ), thời cai trị của ông được đánh dấu bởi thời gian trị vì lâu dài và nhiều sự kiện đặc biệt là việc cắt giảm mở rộng các hoạt động quân sự.

    Hisham thành lập triều đình của mình tại Resafa ở miền bắc Syria, đây là nơi gần biên giới với Byzantine hơn so với ở Damascus và ông này lại tiếp tục các cuộc chiến tranh chống lại người Byzantine, mà các cuộc chiến này vốn đã bị mất đi hiệu quả sau thất bại của cuộc bao vây cuối cùng vào thành phố Constantinople. Các chiến dịch mới dẫn đến không chỉ một số cuộc tấn công thành công vào Tiểu Á, mà còn có một thất bại lớn (trong trận Akroinon) và đã không tạo ra bất kỳ sự mở rộng đáng kể nào về mặt lãnh thổ.

    Hơn nữa triều đại của Hisham còn phải chứng kiến sự kết thúc của việc mở rộng ở phía tây, sau thất bại của quân đội Ả Rập trước người Frank ( Charles Matel ) trong trận Tours năm 732. Năm 739 một cuộc nổi loạn lớn của người Berber nổ ra tại Bắc Phi, và nó bị trấn áp một cách rất khó khăn.

    Hisham còn bị đánh bại một cách tồi tệ hơn nữa ở phía đông, nơi mà quân đội của ông đã cố gắng để chinh phục cả Tokharistan với thủ phủ của nó ở Balkh và Transoxia, với thủ phủ ở Samarkand. Cuối cùng thì cả hai vùng này đã bị chinh phục một phần, nhưng vẫn khó để cai trị ở đó.

    Một lần nữa, một câu hỏi khó khăn được đặc biệt quan tâm đến là việc chuyển đổi những người phi Ả Rập, đặc biệt là người Sogdian của xứ Transoxia. Ashras ibn 'Abd al-Sulami Allah, thống đốc Khorasan, hứa giảm thuế cho những người Sogdian nếu họ chuyển đổi sang đạo Hồi, nhưng đã nuốt lời hứa của mình khi việc chuyển đổi là quá phổ biến và đe dọa sẽ làm giảm nguồn thu thuế. Năm 734, al-Harith ibn Surayj lãnh đạo một cuộc nổi dậy của người Sogdian, quân nổi dậy chiếm được Balkh nhưng không chiếm được Merv. Sau thất bại này, dường như cuộc nổi dậy của al-Harith đã bị giải tán, nhưng vấn đề về quyền lợi của người Hồi giáo phi Ả Rập không còn được quan tâm bởi nhà Umayyads.

    Cuộc nội chiến Fitna thứ ba


    Hisham được kế tục bởi Al-Walid II (743-44), con trai của Yazid II. Al-Walid được cho là quan tâm hơn đến những thú vui trần thế hơn so với niềm tin tôn giáo, một tiếng xấu của ông được xác nhận bởi các nhà sử học là cho dựng lên cái gọi là các "cung điện sa mạc" (bao gồm cả Qusayr Amra và Khirbat al-Mafjar). Ông này nhanh chóng thu hút sự hận thù của rất nhiều người, gồm cả những người phản đối sự lên ngôi của ông và những người thuộc phong trào thần học Qadariyya.


    Năm 744, Yazid III, con trai của Walid al-I, đã tuyên bố làm khalip tại Damascus và dẫn quân đội của mình tiến lên và giết chết al-Walid II. Yazid III đã có một danh tiếng nhất định về đạo đức và có thể chiếm được cảm tình của các thành viên của Qadariyya. Nhưng rất đáng tiếc là ông này đã qua đời chỉ sau một sáu tháng trị vì.


    Yazid đã bổ nhiệm Ibrahim-anh trai của mình làm người kế nhiệm của mình, nhưng Marwan II (744-50)-cháu trai của Marwan I dẫn một đội quân từ biên giới phía bắc và tiến vào Damascus vào tháng 12 năm 744, sau đó ông này cũng lại tuyên bố làm khalip. Marwan ngay lập tức chuyển thủ đô đến Harran-một vùng ở phía Bắc. ngày nay nay thuộc Thổ nhĩ kỳ. Một cuộc nổi loạn đã ngay lập tức nổ ra ở Syria, có lẽ do sự bất mãn về việc di dời thủ đô và trong năm 746 Marwan đã cho san bằng các bức tường của các thành phố Homs và Damascus để trả đũa.

    Marwan cũng phải đối mặt với sự chống đối đáng kể từ băng đả.ng Kharijites ở Iraq và Iran, họ đã đưa ra đầu tiên là Dahhak ibn Qays và sau đó là Abu Dulaf như là những khalip đối thủ. Năm 747, Marwan cố gắng để thiết lập lại sự kiểm soát tới Iraq, nhưng trong thời gian này một mối đe dọa nghiêm trọng hơn đã phát sinh từ Khorasan ( vùng ngã tư phía bắc của Iran, bắc của Afghanistan, và phần phía nam của Turkmenistan và Uzbekistan.

    Phong trào Hashimiyya (một chi nhánh nhỏ của người Shia Kaysanites), được lãnh đạo bởi nhà Abbasid, đã lật đổ quốc vương Hồi giáo nhà Umayyad. Nhà Abbasids là thành viên của gia tộc Hashim đối thủ của nhà Umayyads, nhưng từ "Hashimiyya" dường như là để nói đến Abu Hashim, một cháu nội của Ali và con trai của Muhammad ibn al-Hanafiyya. Theo truyền thống, Abu Hashim đã chết trong năm 717 tại Humeima trong ngôi nhà của Ali ibn Muhammad, người đứng đầu gia đình Abbasid và trước khi chết đã đặt Ali ibn Muhammad làm người kế nhiệm của ông. Truyền thống này cho phép nhà Abbasids tập hợp những người ủng hộ cuộc nổi dậy thất bại của Mukhtar-người đã đại diện cho những người ủng hộ Muhammad ibn al-Hanafiyya.

    Bắt đầu từ khoảng năm 719, Hashimiyya đã bắt đầu sứ mệnh tìm kiếm tín đồ trong vùng Khurasan. Chiến dịch của họ được gói gọn trong công tác truyền đạo (dawah). Họ tìm cách tập hợp sự ủng hộ cho một "thành viên của gia đình" của Muhammad, mà không nói rõ ràng rằng đó là nhà Abbasids. Các tín sứ đã thu được thành công cả trong người Ả Rập và người phi Ả Rập (mawali) và sau này có thể người phi Ả Rập đã đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của phong trào.

    Khoảng năm 746, Abu Muslim-lãnh đạo của phong trào Hashimiyya ở Khurasan. Năm 747, ông bắt đầu thành công một cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của Triều Umayyad, cuộc nổi dậy được tiến hành với dấu hiệu là những lá cờ đen. Ông đã ngay lập tức chiếm quyền kiểm soát Khurasan và trục xuất Nasr ibn Sayyar-viên thống đốc của triều Umayyad và phái một đội quân hướng về phía tây. Kufa rơi vào tay Hashimiyya năm 749 và vào tháng 11 cùng năm Abu al-Abbas được công nhận là khalip mới tại nhà thờ Kufa.

    Tại thời điểm này quân đội của Marwan được huy động từ Harran và tiến về phía Iraq. Trong tháng Giêng năm 750 lực lượng hai bên đã gặp trong trận Battle of the Zab và nhà Umayyad đã bị đánh bại. Damascus rơi vào tay nhà Abbasids vào tháng Tư và vào tháng Tám Marwan đã bị giết chết tại Ai Cập.

    Những người chiến thắng đã cho quật mồ các ngôi mộ của nhà Umayyads tại Syria, chỉ chừa lại ngôi mộ của Umar II và hầu hết các thành viên còn lại của gia đình Umayyad đều bị giết. Một cháu trai của Hisham, Abd ar-Rahman I, sống sót và thành lập một vương quốc ở Al-Andalus ( người Moor xứ Iberia) và tuyên bố rằng giòng họ Umayyad-vua Hồi giáo đã hồi sinh.

Chia sẻ trang này