1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Những trận chiến ở Tây Âu trước chiến tranh Trăm năm



    Chiến tranh giành Độc lập của Scotland


    Trận Stirling Bridge


    THEO DÒNG LỊCH SỬ

    Năm 1286

    Ngày 18/19 tháng 3 Tai nạn dẫn đến cái chết của Alexander III-nhà vua của Scotland.

    Ngày 28 tháng 4 Bầu chọn người giám hộ của Vương quốc để cai trị Scotland.

    Năm 1290

    Ngày 18 tháng 7 Hiệp ước Birgham.

    Ngày 26 tháng 9 Margaret-Maid của Na Uy ở Orkney qua đời.Eleanor-Nữ hoàng Castile-vợ của Edward I của Anh quốc qua đời.

    Các đối thủ cạnh tranh về việc thừa kế ngai vàng của Scotland tranh chấp với nhau hết sức dữ dội.

    Đức Giám mục Fraser viết thư yêu cầu Edward can thiệp vào cuộc khủng hoảng.

    Năm 1291

    Tháng 5 Edward I có mặt tại Norham, Quốc-hội Anh-Scotland được triệu tập. Edward muốn được công nhận là chúa tể của Scotland. Edward đứng ra phân xử giữa các đối thủ cạnh tranh,những người đã đồng ý trao lâu đài của hoàng gia Scotland vào tay của ông, đây đồng nghĩa với việc giao cho ông sở hữu vương quốc.

    Ngày 13 tháng 6 Người giám hộ và các lãnh chúa người Scotland thừa nhận Edward I là chúa tể của Scotland.

    Năm 1292

    Năm 17 tháng 11 Edward quyết định ủng hộ John Balliol.

    Ngày 30 tháng 11 Balliol lên ngôi vua của Scotland ở Scone.

    Năm 1295

    Hiệp ước Pháp-Scotland "Liên minh Auld".

    Năm 1296

    Tháng 3 chiến tranh nổ ra giữa Edward I và Scotland.

    Ngày 30 tháng 3 (quân Anh ) công chiếm lâu đài của Berwick.

    Ngày 27 tháng 4 Trận Dunbar, quân đội Scotland bị đánh bại.

    Tháng 7 Vua John Balliol đầu hàng và từ bỏ ngôi vua trước Edward I.

    Ngày 28 tháng 8 Họp Quốc-hội tại Berwick, Edward nhận được sự kính trọng và trung thành từ khoảng 2.000 quý tộc Scotland; những người “ Ragman Roll”.

    Ngày 17 tháng 9 Edward I rời Scotland, chuyển giao quyền điều hành cho John de Warenne, Bá tước của Surrey.

    Năm 1297

    Tháng 5 William Wallace giết chết Heselrig-cảnh sát trưởng của Clydesdale tại Lanark. Wallace cùng với William Douglas tấn công Scone.

    Xuân/ Hè Andrew Murray lãnh đạo một cuộc nổi dậy ở phía Bắc.

    Tháng 6->7 lực lượng của Percy và Clifford đầu hàng có điều kiện trước các lãnh chúa Scotland ở Irvine. Ngày 22 tháng 8 Edward I cùng quân đội của mình đi đường thủy đến Flanders.

    Tháng 9 Lực lượng của Wallace và Murray tham gia vào cuộc bao vây Dundee. Ngày 11 tháng 9 nổ ra trận đánh Stirling.

    Ngày 18 tháng 10 Wallace tấn công Northumberland và Cumberland. Tháng 11 Andrew Murray chết.



    Năm 1298

    Tháng 1 Quân Scotland chiếm giữ lâu đài Stirling.

    Wallace được phong tước hiệp sĩ và được bầu làm người giám hộ của Scotland.

    Ngày 14 tháng 3 Edward trở về từ Flanders.

    Ngày 22 tháng 7 trận Falkirk, Wallace bị đánh bại.

    Năm 1299

    Wallace đi ra nước ngoài, quân đội Scotland lại chiếm lâu đài Stirling ( không rõ lần mấy ).

    Năm 1300

    Tháng 7-> 8 chiến dịch của Edward I Galloway.

    Năm 1301

    Tháng 7->9 Edward I và Edward của Caernarvon tiến hành chiến dịch ở miền nam Scotland.

    Năm 1302

    Thỏa thuận ngừng bắn trong 9 tháng

    Năm 1303

    Ngày 24 tháng 2 trận Roslin, Segrave bị đánh bại.

    Tháng 5 Edward I xâm lược Scotland.

    Năm 1304

    Comyn và các lãnh chúa Scotland khác quy hàng Edward I.

    Ngày 22 tháng 4 cuộc vây hãm lâu đài Stirling bắt đầu.

    Năm 1305

    Ngày 03 tháng 8 William Wallace bị bắt ở gần Glasgow.

    Ngày 23 tháng 8 Wallace bị hành hình.

    Năm 1306

    Ngày 10 tháng 2 Robert Bruce ( người anh hùng Scotland trong trận Bannockburn ) giết chết John Comyn tại Dumfries.

    Ngày 25 tháng 3 Robert Bruce đăng quang làm vua của Scotland ở Scone.

    Ngày 19 tháng 6 trận Methven, Robert Bruce bị đánh bại.

    Tháng 9 Bruce bỏ trốn sang Rathlin Island.

    Năm 1307

    Tháng 2 Bruce trở lại Carrick.

    Ngày 7 tháng 7 Edward I qua đời ở Burgh by Sands thuộc Solway.



    [FONT=&quot]NGUỒN GỐC CỦA TRẬN CHIẾN STIRLING BRIDGE

    ĐẤT NƯỚC SCOTLAND KHÔNG VUA

    đêm 18 tháng 3 năm 1286 đã được chứng minh một cái đêm định mệnh cho vương quốc Scotland. Tại Edinburgh, sau một ngày giải quyết công việc của đất nước, nhà vua Alexander III của Scotland ăn tối và uống rượu với các viên cố vấn của mình ( rượu song lại thấy thèm thèm he he ). Cuối cùng, ông nghĩ rằng mình nên đến thăm bà vợ người Pháp-Yolande de Dreux trẻđẹp mà ông vừa mới kết hôn vào tháng 10 năm trước. Người vợ mới cưới sống ở lâu đài Kinghorn tại Fife và Alexander phải cưỡi ngựa đi 22 dặm để đến với nàngng bóng tối của màn đêm và thời tiết tồi tệ. Khi ông và toán tùy tùng của mình đi dọc theo một con đường núi quanh co trên đỉnh của ngọn núi Firth of Forth, nhà vua đã bị tách ra khỏi đòan tùy tùng của mình. Con ngựa của ông đã bị vấp và hất ông ta xuống vực và vào buổi sáng hôm sau ông đã được tìm thấy trên bờ vực dưới các vách đá, với một chiếc cổ bị gãy - Scotland đã trở nên không có vua.

    [/FONT]Nhìn lại thì người ta thấy thời trị vì lâu dài của Alexander được xem như là một thời kỳ hoàng kim của hòa bình và thịnh vượng ở Scotland, nhưng những thành tích của ông đã bị lu mờ bởi thất bại của ông trong việc chế tạo cho đất nước Scotland một người thừa kế nam giới hợp pháp. Margaret-người vợ đầu tiên của ông cũng là con gái của Henry III của Anh quốc, đã chết trong năm 1275 và con cái của họ-hai người con trai và một người con gái cũng không lâu cô sống lâu hơn. Người ta đã hy vọng rằng cuộc hôn nhân của Alexander với cô vợ người Pháp trẻ tuổi có thể tạo ra một người thừa kế nam để khắc phục tình hình, nhưng thay vào đó cái chết không đúng lúc của ông chỉ để lại một người thừa kế nữ 3 tuổi ốm yếu. [FONT=&quot]Cô bé là cháu gái của Alexander có mẹ là nữ hoàng Eric II của Na Uy, bà này cũng qua đời vào năm 1283 sau khi sinh ra Margaret-Maid of `Na Uy ' cuối cùng của nhà Hoàng tộc Canmore. Một hội đồng nhiếp chính được chỉ định để quản lý vương quốc thay mặt nữ Hoàng Margaret đang ở Na Uy và đại diện của nó (hội đồng nhiếp chính) đã được gửi đến Edward I, người vào thời điểm này đang bù đầu trong việc giải quyết công việc ở xứ Gascony, để thông báo về tình hình ở Scotland. Đương nhiên nhà vua coi sự kiện này là cực kỳ quan trọng, nhưng vào thời điểm đó ông đã không có một hành động nào cả. Khi quay trở lại Anh trong cuối mùa hè năm 1289, Edward đề nghị một cuộc hôn nhân giữa Edward của Caernarvon-người con trai mới được sinh ra của mình với Maid của Na Uy. Người Scot đã chấp thuận đề nghị này trong Hiệp ước Birgham năm 1290 mặc dù các điều khoản của thỏa thuận vẫn thận trọng nhấn mạnh rằng cac vùng đất của Scotland vẫn tiếp tục tồn tại như là một vương quốc hoàn toàn riêng biệt và độc lập.
    [/FONT]
    Nhưng tất cả sự xắp xếp này trở lên vô nghĩa khi Margaret chết ngay sau khi vừa mới đến Orkney để lại một quyền thừa kế mở và tạo ra cơ hội cho các`Ứng cử viên ' tranh giành quyết liệt ngôi vua bị bỏ trống. Nhận thức về sự nguy hiểm của tình trạng này và khả năng xảy ra nội chiến, các quý tộc Scotland đã mời sự can thiệp của Edward I. Trong tháng 5 năm 1291 Edward đã họp mặt với các quý tộc Scotland tại Norham ở vùng biên giới vớiTweed và thông báo với họ rằng ông sẽ ra phán quyết về các yêu cầu khác nhau về ngôi vua mặc dù họ phải thừa nhận ông là chúa tể của Scotland và để đảm bảo hòa bình, Lâu đài Hoàng gia của vương quốc phải được trao cho ông. Trong khi đối mặt với quân đội của Edward vốn đã chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, các quý tộc Scotland đã phải nhượng bộ và giao quyền kiểm soát đất nước cho nhà vua Anh. Người ta không biết được rằng vào lúc nào thì ông nảy ra quyết định thôn tính Scotland mặc dù có thể chỉ đơn giản là cờ đến tay thì ông cứ phất. Eleanor-người vợ yêu dấu Edward đã qua đời vào năm 1290 làm cho tâm địa của vị vua cao tuổi lại càng trở nên bất thường. Sự sụp đổ của Acre vào năm 1291 đã kết thúc giấc mơ của Edward về một cuộc thánh chiến mới tại vùng Đất Thánh (Edward I có tham gia vào cuộc Thập tự chinh lần thứ IX) và ông không còn bị phân tâm về vấn đề này và các suy nghĩ của ông lại được tập trung hơn vào vấn đề đối phó với người Scotland.

    Vua John Balliol

    Các ứng cử viên nặng ký nhất trong số 14 nguyên đơn yêu cầu ngôi vua là hai người hậu duệ của các con gái của David-Bá tước vùng Huntingdon-anh trai của nhà vua William the Lion. Họ là Robert Bruce (Ông nội của vua Robert I) và John Balliol. Balliol nhà quý tộc trạc trung niên bị ảnh hưởng rất nhiều từ lối sống Anglo-Norman và có rất nhiều bất động sản rộng lớn ở Anh, miền Bắc nước Pháp và Galloway và mặc dù ông này có một số hỗ trợ trong số các quý tộc Scotland, nhưng nói chung ông lại không được nổi tiếng cho lắm ở tại Scotland.

    Ngày 17 tháng 11 năm 1292, ở Berwick, Edward quyết định ủng hộ tuyên bố kế thừa ngôi vị của Balliol-người đã tỏ lòng tôn kính với ông ta và ông này đã đăng quang tại Scone vào cuối tháng đó. Nhưng các lâu đài của Scotland nằm dưới sự chiếm đóng của Anh. Edward tiếp tục thể hiện sự thống trị của mình bằng cách phá hoại hệ thống tư pháp độc lập của vương quốc Scotland. Ông ta muốn rằng cá nhân Balliol phải xuất hiện ở nước Anh để trả lời các khiếu nại chống lại triều đình Scotland. Luật pháp thời trung cổ đặc quyền của vị chúa tể là tổ chức các buổi thử thách về chủ quyền. Theo cách này, ông (Edward I ) tìm cách nhấn mạnh rằng Balliol là chư hầu phong kiến của mình và quản lý vương quốc của mình nhân danh nhà vua Anh quốc-chúa tể của mình. Balliol được triệu tập đến Westminster để trả lời các khiếu nại của Macduff ở Fife chống lại những phán quyết của Quốc-Hội Scotland vào ông ta (Macduff ở Fife) và mặc dù ông (Balliol ) đã từ chối trả lời khiếu nại của MacDuff vì chưa tham vấn được ý kiến của người dân của vương quốc của mình, vụ việc là một sự sỉ nhục và giảm bớt quyền lực của ông (Balliol ) với các thành viên Quốc-Hội Scotland. Năm 1293 chiến tranh đã bùng lên giữa Edward I và Philip IV của Pháp về chủ quyền của xứ Gascony. Edward đã gửi giấy triệu tập tới Scotland như họ là chư hầu của mình, bao gồm cả vua John và 18 đại lãnh chúa người Scotland khác, yêu cầu sự phục vụ phong kiến ( mang quân đi đánh không lương cho tôn chủ ) của họ ở ngoài những vùng đất của Scotland. Với một Quốc-Hội vừa mới được thành lập ủng hộ giải pháp cứng rắn của mình, Balliol đã từ chối tuân thủ giấy triệu tập của Edward. Thay vào đó ông đã gửi một sứ giả đến chỗ Philip của Pháp quốc để tìm kiếm sự trợ giúp của ông này. Sự kiện này đã dẫn đến hiệp ước được gọi là 'Liên minh Auld' và người Scotland sẽ tiến hành một cuộc xâm lược vào nước Anh nếu người Anh tiến hành xâm lược nước Pháp.

    Đầu năm 1296 Balliol chính thức từ bỏ sự trung thành của mình với Vua Anh và chiến tranh giữa Anh và Scotland đã trở nên là điều không thể tránh khỏi. John Balliol-được các nhà sử gia đương đại mô tả như là một «một con chiên trong số những con sói, những kẻ không dám mở miệng ", trở thành người lãnh đạo của một Scotland thống nhất và quyết tâm chống lại ý muốn của Edward Plantagenet.

    Vua Edward I khuất phục người Scotland

    Năm 1296 vua Edward đã 57 tuổi và ngày càng cảm thấy bực dọc về các cuộc nổi loạn và biến động gần đây ở xứ Wales đồng thời với các sự kiện ở lục địa ( nước Pháp), nhưng ngọn lửa nhiệt tình của ông đã không hề suy giảm. Nó được thể hiện bởi sức mạnh quân sự của Edward I của Anh quốc mà nhà vua đã sử dụng trong các cuộc chiến của ông ở Gascony để chống lại Philip của Pháp quốc và đồng thời tập hợp một lực lượng đáng gờm tại Newcastle để tiến hành một cuộc xâm lược vào Scotland. Trong khi đó, nhận thức được mối đe dọa này, các lãnh chúa phong kiến Scotland cũng tập hợp quân đội tại Caddonlee, điểm tập hợp truyền thống của đội quân người Scotland ở gần Selkirk. Không phải tất cả người Scotland đã tuân theo lệnh triệu tập để gia nhập quân đội vì lợi ích của những người ở miền nam Scotland. Người của Patrick-Bá tước của Dunbar là những người trung thành nhất và đang phục vụ cho Edward. Quân đội của nhà Bruce cũng không tham gia chiến đấu với nước Anh trong lần này vì họ không ủng hộ việc kế thừa ngôi bị của Balliol, họ giữ lời thề trung thành với Edward mà họ đã thề tại lâu đài Wark ở Tweed of Easter năm 1296. Chúng ta cũng không biết rằng liệu William Wallace có tham gia các trận đánh này không bởi vì có thể không giống như Robert Bruce, ông đã hưởng ứng lời kêu gọi và tham gia quân đội tại Caddonlee. Vua Balliol không gia nhập một cách trực tiếp với quân đội Scotland ở Caddonlee, mà John Comyn-Bá tước của Buchan thay mặt ông ta nắm quyền chỉ huy ở đó, cùng với các Bá tước của Menteith, Trathearn, Lenox, Rose, Attholl, Mar và John Comyn “ Biệt danh –đỏ” của Badenoch. Quân đội Scotland vượt qua Solway để vào nước Anh để lại hàng loạt những tàn phá đằng sau những bước tiến quân của họ. Sử gia Lanercost Priory ở thời gần đó đã viết, họ đã "đốt nhà, giết người và bắt thịt gia súc " và hai ngày sau họ đã triển khai tấn công vào lâu đài Carlisle nhưng nỗ lực của họ đã thất bại, họ đã phải ngừng tấn công vào ngày thứ ba. Trong đầu tháng 4 người Scotland lại đột kích Northumberland và Cumberland một lần nữa, làm hư hại nặng các tu viện và nhà cửa ở Lanercost Hexham.

    Các sử gia ở Lanercost ghi lại sự tàn bạo của họ và cáo buộc họ đã phạm tội thiêu sống ở Corhridge “ khoảng 200 học sinh nhỏ tuổi, những cậu bé đang độ tuổi đến trường ... đang tập viết những chữ cái và ngữ pháp đầu tiên của họ, đã bị chặn cửa ra vào và châm lửa thiêu sống trong toà nhà.

    Sự sụp đổ của Berwick

    Các cuộc tấn công mặc dù có gây thiệt hại cũng đã trở thành vô ích và khôngg đóng góp được gì để đánh bại người Anh, họ cũng không lay chuyển từ mục đích của Edward. Trong ngày 28 tháng 3, ông vượt qua Tweed ở gần Coldstream và tiến về hướng đông về phía Berwick khi vượt qua Tweed. Năm 1296 Berwick là thị trấn thịnh vượng nhất và quan trọng nhất về nội thương và ngoại thương của đất nước Scotland. Ngày 29 tháng Ba Edward gửi thư yêu cầu thành phố để đầu hàng nhưng quân đồn trú với sự tự tin được đặt không đúng chỗ đã trả lời đề nghị của ông với những lời chế nhạo
    [FONT=&quot]và “ tụ quần để khiêu khích ông này- nv bear their breeches”. Nhà vua Anh liền phát động một đợt tấn công tổng lực trên cả hai mặt thủy bộ. Bất chấp việc hướng tấn công bằng quân thủy phải đối mặt với một số thiệt hại, sự tàn khốc của cuộc tấn công trên bộ làm choáng váng quân phòng thủ. Kháng cự nhanh chóng sụp đổ và binh sỹ Scotland bị mất tinh thần đã bỏ chạy khỏi thị trấn. Một nhóm gồm 30 thương gia người Flemish vẫn giữ được vị trí phòng thủ Red Hall trong một khoảng thời gian trước khi tòa nhà bốc lửa và đổ sập xuống và thế là kết thúc tất cả những người ở bên trong. Một phát nỏ bắn ra bởi một trong những người Fleming giết Richard của Cornwall-người em họ ít tuổi của Edward khi ông này nhấc tấm giáp che mặt của mình lên. Ông dường như là nạn nhân người Anh duy nhất đáng lưu ý ở Berwick và nó có thể đã làm cho nhà vua nổi giận. [FONT=&quot]Và giống như “ một con lợn lòi hoang nổi điên truy đuổi con chó săn”. Mặc dù đơn vị đồn trú của lâu đài đã xin được đầu hàng, chỉ có phụ nữ và trẻ em của thị trấn được phép ra đi, các thị dân và người đàn ông trong trấn phải trả giá đắt cho những lời lă.ng mạ trước đó của họ. Nhà vua tung quân của ông ra chiếm thị trấn và một cuộc tắm máu xảy ra sau đó, đây là một vết ố trên danh tiếng vị vua này cho đến ngày nay.[/FONT][/FONT]

    [​IMG]
    Mũi tên màu xanh: hướng tiến quân của các Bá tước người Scotland-huy hiệu trên những chiếc khiên cho biết
    [FONT=&quot] Bá tước nào của người Scotland tham gia tấn công. [/FONT][FONT=&quot]Mũi tên màu đỏ: hướng tiến quân của Edward I của Anh quốc.

    [/FONT]Trận Dunbar


    [​IMG]
    Tranh minh họa trận Dunbar, quân Scotland mắc sai lầm rời khỏi hiểm địa --> kỵ binh Anh xốc tới tiêu diệt và bắt sống gần như toàn bộ quân đội của các lãnh chúa phong kiến Scotland


    Edward ở lại Berwick trong bốn tuần xây lại hệ thống phòng thủ vì ông dự định biến thành phố thành một thuộc địa của Anh và thành trung tâm hành chính của cuộc chinh phục Scotland. Edward bổ nhiệm Hugh Cressingham làm quan phụ trách ngân khố ( Treasurer ) của Scotland, với trụ sở chính của ông ta là ở tại thị trấn này, vốn đã trở nên đông đúc trở lại với các thương gia người Anh và thị dân. Vị Bá tước của Dunbar lúc này đã quy phục và ra mắt Edward ở Berwick nhưng vợ của ông-người không chia sẻ nhiệt tình của mình với người Anh, đã nắm lấy cơ hội khi vị bá tước này không ở nhà để mở cửa lâu đài của Dunbar cho người Scotland. John de Warenne-Bá tước của Surrey đã được phái đến để chiếm lại Dunbar với đội quân hùng mạnh và bắt đầu một phong tỏa lâu đài. Walter của Guisborough nói rằng lực lượng của Warenne gồm khoảng 1.000 lính kỵ binh chưa kể đến 100 quân kỵ của Giám mục của Durham và 10.000 bộ binh, mặc dù điều này có vẻ nhiều khả năng mô tả về toàn bộ sức mạnh của quân Anh chứ không phải là lực lượng quân đội biệt lập dưới sự chỉ huy của Warenne tại Dunbar-nhiều khả năng đây chỉ là đội tiên phong của quân Anh. Trong ngày 27 tháng 4 Warenne đã bị tấn công bởi đội quân chủ lực của vua John, với kỳ vọng là để bẫy đội quân của vị bá tước này vào giữa đội quân chính của Scotland và lực lượng đồn trú trong lâu đài. [FONT=&quot]Khi quân Scotland xuất hiện trên các ngọn đồi ở trên Spott, và bắt đầu được nhìn thấy từ Dunbar, Warenne cử một lực lượng dưới sự chỉ huy của Hurnfrey de Bohun để khóa trặt đơn vị lính Scotland đồn trú trong lâu đài và quay lại để đối đầu với họ. Khi quân Anh được triển khai để vượt qua Spott Burn và tấn công vào người Scotland-những người vốn vẫn nghĩ rằng họ đã đang nghỉ ngơi. Cho thấy sự thiếu kinh nghiệm thiếu khả năng của họ về quân sự người Scotland rời bỏ các vùng đất cao an toàn, bị phá vỡ hàng ngũ và nhanh chóng bị đánh bại. Quân của Warenne là một đội quân có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trong các chiến dịch ở xứ Wales, đã cắt qua một vùng rộng xuyên qua quân Scot đang rối loạn và quân đội của Buchan đã tan rã. Nhiều lính bộ binh đã bị hại gục nhưng trong số các chỉ huy và các hiệp sĩ chỉ có Quận trưởng của Stirling-Sir Patrick Graham, đã bị giết chết trong trận cận chiến trước khi quân đội Scotland đầu hàng. Trận Dunbar có một điểm đáng chú ý là một số lượng lớn các quý tộc và hiệp sĩ Scotland bị bắt làm tù binh và bộ máy quân sự không hiệu quả của người Scotland bị phá hủy hoàn toàn. [/FONT]Có 171 nhà quý tộc Scotland bị cầm tù bao gồm các bá tước, hiệp sĩ và hộ sỹ. Những người nổi tiếng đã bị gửi tới cầm tù tại Tháp London, phần còn lại được chia vào các lâu đài ở ở miền trung và miền Nam nước Anh. Andrew Murray-Bá tước của Moray, người sau này đã hợp tác chặt trẽ với Wallace, và sau đó cũng nhanh chóng chở nên nổi tiếng vẫn còn sau cuộc nổi loan của ông ở miền Nam Scotland, cũng bị bắt trong trận này lúc chỉ là một hộ sỹ ( Người đang trong quá trình đào tạo làm Hiệp sỹ). Ông đã bị gửi đến ngồi tù ở lâu đài Chester Castle-nhà tù vốn gần biên giới với Dunbar nhất.

    Sự quy phục của người Scotland

    Xương sống của sự kháng sự của người Scotland ( lực lượng của người quý tộc) đã bị hủy diệt ở Dunbar. Có rất ít người tiếp tục chiến đấu và những lâu đài còn lại vẫn nằm trong tay người Scotland đã hạ vũ khí từng chiếc một. Tại Stirling đơn vị đồn trú hùng mạnh bỏ chạy trốn mà không chiến đấu, để lại người gác cổng bàn giao chìa khóa cho người Anh. Chiến dịch đã trở thành một chuyến du hý về quân sự và Edward tiến lên một cách nhàn nhã về phía bắc, đi qua những gì là vương quốc Scotland của ông. John Balliol đã đầu hàng vào ngày 10 tháng 7 tại Brechin và như là một sự sỉ nhục cuối cùng, Edward xé toạc biểu tượng Hoàng gia Scotland trên áo khoác của ông này trước khi tống ông ta vào tù trong Tháp London. Vì vậy Balliol trở thành vật tế thần cho thất bại của cả một dân tộc, và trở thành trong ý thức của người Scotland như là “Toom Tabard-áo choàng trống rỗng “. Cũng như ông đã làm nhục Balliol, Edward bây giờ đã tìm cách để làm nhục vương quốc Scotland bằng cách tách nó ra khỏi những biểu tượng về tình trạng của nó như là một vương quốc độc lập. Ông lấy các sách sử của người Scotland và Black Rood thiêng liêng rồi mang về phía nam cùng với ông ta. The Stone of Destiny, đó là nơi các vị vua của Scotland đã được trao vương miện từ thời xưa ở Scone, đã được gửi đến Westminster Abbey nơi những chiếc ghế bằng gỗ để đăng quang cho các vị vua Anh được bầy xung quanh nó. Bruce của Annandale ( người cha của Robert Bruce-anh hùng của trận Bannockburn nổi tiếng) nghĩ rằng tỏ lòng trung thành với nhà vua Anh sẽ được tưởng thưởng bằng vương miện của Scotland ( để trở thành một vua chư hầu của nước Anh ) nhưng hy vọng của ông bị nghiền nát bởi câu nói gay gắt của Edward, " ta không có việc gì khác để làm ngoài việc trao vương quốc vừa giành được cho ngươi?" Rõ ràng, ông không muốn có một vị vua nào khác ở Scotland ngoài chính bản thân mình-Edward I nhà Plantagenet. Ông triệu tập tất cả các chủ đất của Scotland đến Berwick rồi ép họ tuyên thệ trung thành với mình. Tài liệu ghi tên của họ đã được người Scotland gọi là “Ragman Roll-Roll người bán giẻ rách”. Tên của William Wallace đã không có trong bản danh sách này và sự kiện này đã trở thành biểu tượng cho tinh thần độc lập của ông vì ông không nợ lời thề trung thành với Edward Plantagenet, mà lòng trung thành của ông vẫn được dành cho đất nước Scotland.

    Ngày 17 tháng 9 năm 1296 Edward vượt qua biên giới ( với Scotland để chở về Anh quốc ), và cho kết thúc cuộc chinh phục phía Bắc của ông với một câu nói nổi tiếng bằng tiếng Pháp ( khơ khớ vua Anh giòng Plantagenet chỉ nói tiếng Pháp ) khi nhận xét với một người bạn cũ của mình-Bá tước Surrey “ Bon hesoigne fait qy de merde delivrer” dịch theo tiếng Anh hiện đại là “ It's a relief to he rid of' Sh.i.t“ nhà vua cưỡi về phía nam và vị bá tước cao tuổi cũng hồi hưu và an hưởng sự tiện nghi trong các bất động sản của ông ở Yorkshire, và để lại một chính phủ cũng như các đơn vị đồn trú của nó ở Scotland trong tay quan chưởng án đầy năng lực-William Ormsby và Hugh Cressingham-quan trưởng ngân khố cực kỳ tham lam.
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chỉ huy của các bên đối địch

    Chỉ huy của quân Anh

    Edward Plantagenet, sinh năm 1239, vua Edward I từ năm 1272-> 1307 (mất ở tuổi 67). Mặc dù một số người vẫn đang bàn cãi về việc cho rằng Edward là một “ vị vua thực sự tuyệt vời “, không có nghi ngờ gì về việc ông ta là một vị vua ghê gớm nhất trong số các quốc vương của nước Anh thời trung cổ. Có người còn nói rằng «ông là một con sư tử về niềm tự hào và sự tàn bạo, nhưng là một con beo vì hay thay đổi và không chịu giữ lời hứa của mình nhưng luôn tự cảm thông cho mình bằng từ công bằng «. Edward là con trai cả của Henry III-người mà người ta đã nói: "ông là một người có khiếu về các tác phẩm điêu khắc và hội họa hơn là một người đàn ông thực thụ-chiến binh? " Tuy nhiên ông ( Henry III) là một mô hình của đạo đức trong nước và đảm bảo cho con trai của ông được sống trong giáo dục đúng như của một hoàng tử ở thế kỷ thứ 13 và mặc dù Edward đã hấp thụ văn hóa cung đình, ông này lại nghiêng về phía lối sống hiệp sĩ hơn. Ở tuổi 15, ông đến Tây Ban Nha và kết hôn với Eleanor của Castile. Đó là một liên minh chính trị để đảm bảo an toàn cho xứ Gascony, mảnh vỡ cuối cùng còn sót lại của đế quốc Angevin ( đất gốc của nhà Plantagenet) rộng lớn trên lục địa châu Âu, nhưng hóa ra đó lại là một chuyến phiêu lưu về tình yêu lớn.

    Edward đã dành một năm sau cuộc hôn nhân của mình ở Gascony, mặc dù vẫn còn dưới sự giám sát của nhà vua (Henry III), ông đã tập tọng tham dự vào các vấn đề hành chính trong cái công quốc đầy phiền hà; rõ ràng Henry là đã không bỏ bê vị Hoàng tử-người mà ông chuẩn bị để cho thừa kế vương quyền. Khi trở về nước Anh, Edward đã có cho mình những kinh nghiệm chiến đấu thực tế đầu tiên tại xứ Wales khi chống lại nhà Llewelyn hay nổi loạn, mặc dù ông cũng đã có rất ít thành công. Henry III đối đầu với Simon de Montfort và các vị nam tước vây cánh của ông này, tình trạng vô chính phủ đã dẫn đến chiến tranh và tại Lewes trong năm 1264, Edward lần đầu tiên được nếm mùi chiến trận. Ông đã dẫn đầu đội quân tiên phong của hoàng gia Anh quốc lao vào tấn công cánh trái của de Montfort, rồi đó phá vỡ cánh quân này, sau đó truy kích họ ra xa khỏi chiến trường. Vào thời điểm đó bộ phận hiệp sĩ vô kỷ luật của Edward quay trở lại chiến trường thì họ đã bị thua trận chiến này và cả nhà vua và con trai của ông đã trở thành tù binh. Vị hoàng tử đã trốn thoát khỏi tay những kẻ bắt tù binh mình vào tháng 5 năm 1265 và phục hồi sự nghiệp của Hoàng gia với sự hỗ trợ của các lãnh chúa ở vùng xứ Wales. Giữa và tháng 5 và tháng 8 năm 1265, trong một chiến dịch rực rỡ trong đó lên đến đỉnh điểm là thất bại và cái chết của Simon de Montfort ở Evesham, Hoàng tử Edward đã chứng minh rằng ông đã hấp thụ rất tốt những bài học của thảm họa tại Lewes. Năm 1270 ông khởi hành đi Đất Thánh với khoảng 1.000 người, quá ít để đảo ngược sự suy sụp của các thành bang Thập tự chinh ở Palestine. chiến dịch 16 tháng của ông đạt được rất ít các thành quả nhưng lại có thêm rất nhiều các kinh nghiệm quân sự và làm tăng uy tín và danh tiếng của ông ra bên ngoài. Henry III qua đời năm 1272, trong khi Edward vẫn còn ở nước ngoài; sau khi trở về Anh vào năm 1274 ông đã lên ngôi ở Westminster Abbey ở tuổi 35 tại thời đỉnh cao quyền lực của mình, và được sự ngưỡng mộ và kính trọng ở trong và ngoài nước.

    John de Warenne, Bá tước của Surrey, (c.1239-1304) là một người bạn chiến đấu cùng thời của Edward Plantagenet, người mà ông cũng có liên quan về mặt huyết thống của mình từ Geoffrey của Anjou và bởi cuộc hôn nhân của ông với một người em gái cùng cha khác mẹ của Henry III. Ông là người bạn đồng hành của Hoàng tử Edward ở Gascony và từ khi còn nhỏ ông đã chia sẻ cùng một nền giáo dục và đào tạo về tinh thần hiệp sĩ. Ông đã chiến đấu trong cánh của Hoàng tử Edward tại trận Lewes trong năm 1264 và năm sau lại một lần nữa cùng với Edward khi đánh bại và giết chết Simon de Montfort ở trận Evesham. Ông là một trong các chỉ huy trưởng của Edward trong suốt chiến dịch gian khổ ở xứ Wales năm 1277-1295 và đã được cấp vùng đất làm cho ông ta chở thành một trong những lãnh chúa hùng mạnh. Năm 1296 Bá tước Surrey đã đánh bại người Scotland tại trận Dunbar chỉ với duy nhất đội quân tiên phong của Quân đội Anh. Một số người nói rằng chiến thắng của ông như là một kết quả của sự yếu kém của người Scotland hơn là hiển thị bất kỳ khả năng chiến thuật tuyệt vời nào của chính ông. Thực sự thì điều này chưa hẳn đã hoàn toàn đúng. Ông đã bị đánh bại hoàn toàn khi phải đối mặt với Wallace tại trận Stirling Bridge, nhưng ông vẫn giữ lại đủ sự tự tin cho nhà vua để tiếp tục trận Falkirk vào năm sau. Vị bá tước có bốn vị hiệp sỹ cầm cờ cùng với ông tại trận Stirling Bridge ở bên ngoài Cressingham, họ tất cả bọn họ đều là quân nhân chuyên nghiệp có kinh nghiệm chiến đấu nhưng không thể khắc phục những sai lầm của Warenne.

    Hugh Cressingham, Quan coi ngân khố của Anh ở Scotland, được đặt tên là “ tracherer – thằng mắc bệnh mắt hột” bởi người Scotland-những người mà ông chỉ là một kẻ tầm thường đối với họ. Ông cũng không được đánh giá cao bởi Walter Guisborough-nhà sử gia có lòng tự trọng cao, người đã mô tả ông là không đáng tin cậy, trơn trượt, kiêu căng, ngạo mạn và tham lam. Cressingham đã nỗ lực phục vụ nhà vua và vào năm 1297 ông đã kiểm soát có hiệu quả chính quyền Anh của Scotland tương tự như là Bá tước Surrey- trung úy của nhà vua (lieutenant-chỉ huy trưởng một đơn vị nào đó chứ không đơn thuần như chức trung úy-sỹ quan sơ cấp ngày nay), vì vậy không được ưa thích ở đất nước này ông đã nghỉ hưu ở dinh thự của mình tại Yorkshire. Cressingham đã có một khoản thu nhập lớn từ giáo xứ Rudby ở Yorkshire cùng với lộc thánh ở các nhà thờ khác và đã bị béo phì vì lối sống giàu có. Tuy nhiên không phải ông không có kinh nghiệm quân sự như các tài liệu về cuối cuộc nổi dậy xứ Wales đã viết.

    Walter Huntercombe (chết năm 1320), là một quân nhân giàu kinh nghiệm phục vụ cho Edward I trong suốt các cuộc chiến ở xứ Wales và Scotland. Lần đầu tiên ông được triệu tập để phục vụ Hoàng tử Llewelyn trong năm 1277 và sau đó tên của ông xuất hiện thường xuyên trong các tài liệu như là một người lính chuyên nghiệp và thường vẫn là một chỉ huy quân sự cho đến năm 1310. Ông là một thành viên trong đoàn tùy tùng của Surrey tại Stirling Bridge với 32 hiệp sĩ và binh lính của mình. Ông đã chiến đấu ở trận Falkirk.

    Marmaduke de Thweng của IyIlloii ở lâu đài Cleveland, người anh hùng trong trận Stirling Bridge, là một người lính chuyên nghiệp nổi tiếng, người đã phục vụ rất lâu ở Scotland. Ông đã chiến đấu trong trận Bannockburn trong năm 1314.

    William Latimer của Corby, ( chết năm 1304), là một người lính chuyên nghiệp mà tên của ông xuất hiện thường xuyên trong các tài liệu ở các cuộc chiến tranh ở xứ Wales và Scotland. Ông đã chiến đấu ở Falkirk trong đơn vị dưới quyền chỉ huy trực tiếp của nhà vua.
    [FONT=border=][/FONT][FONT=border=]
    [FONT=border=]Henry de Lacy, Bá tước của Lincoln, chỉ huy đội tiên phong hoặc đội quân đầu tiên. Cùng với ông là Humfrey de Bohun-Bá tước của Hereford và cũng là Huân tước của nước Anh, Roger Bigod-Bá tước của Norfolk và Bá tước Marshal của nước Anh, cùng với 18 hiệp sỹ khác.

    Anthony Bek-Giám mục của Durham, chỉ huy đoàn quân thứ hai. Ông liên tục phục vụ Edward I như là một cố vấn, thư ký riêng và sứ giả. Có 28 hiệp sỹ cầm cờ dưới sự chỉ huy của ông.

    Vua Edward I tự dẫn đầu đoàn quân thứ ba, một lực lượng lớn hơn ba đội quân khác của quân đội Anh với hai Bá tước và 43 Hiệp sỹ cầm cờ dưới sự chỉ huy của ông.

    John de Warenne, Bá tước của Surrey, chỉ huy đội quân thứ tư, bất chấp thất bại của ông tại Stirling Bridge. Có ba Bá tước và 15 hiệp sỹ cầm cờ dưới quyền chỉ huy của ông. [/FONT][/FONT]
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Các chỉ huy của người Scotland

    JOHN BALLIOL

    John Balliol của lâu đài Barnard , vua của Scotland (1292-1306), Chúa tể của Galloway, (năm 1229 ->1314). Balliol nói rằng vụ trục xuất ông ra khỏi Scotland trong năm 1296 là có "ác ý, lừa dối, phản bội và phản quốc " và rằng ông không có ý định quay trở lại triều đình Scotland trong bất kỳ thời gian gần nào. Hoặc người Scot đối xử với ông như là một vị vua vắng mặt và đã chiến đấu và chết tại các trận Stirling Bridge và Falkirk nhân danh tên của ông.



    WILLIAM WALLACE



    [​IMG]
    Tượng đài William Wallace ở Scotland



    [​IMG]
    Tượng đài William Wallace ở Scotland

    [​IMG]
    Tượng đài William Wallace ở Scotland

    William Wallace, người giám hộ của Scotland, ( từ tháng 3 năm 1298 đến tháng 7 năm 1298. Sinh năm l272 mất năm 1305). Mặc dù William Wallace nổi tiếng như một vị anh hùng dân tộc, nhưng cuộc đời của ông vẫn còn bị bao phủ trong bí mật, các tài liệu sai lệch, sự thật về cuộc sống của ông bị méo mó bởi truyền thuyết và văn hóa dân gian. Nhiều huyền thoại xung quanh ông có nguồn gốc từ các bài sử thi của người hát rong mù Harry. Bài thơ The lift of Sir William Wallace được viết hơn một thế kỷ rưỡi sau cái chết của ông. Người hát rong Harry mù tuyên bố rằng bài thơ của ông được dựa trên một bản thảo văn xuôi đã bị thất lạc của John Blair-giáo sĩ của Wallace, tuy nhiên sử thi tạo ra trở ngại bởi sự sai lệch so với thực tế, sự khác biệt thời gian và khai thác bản chất anh hùng lý được tưởng hóa. Có thể, ít nhất phần đầu của bài thơ là gần với sự thật, rằng Harry đã dựa vào bản thảo văn xuôi đã bị thất lạc để sau đó ông đưa thêm phần truyền thuyết để làm sống động câu chuyện về người anh hùng gan dạ của ông. Có tài liệu bằng chứng cho thấy những người anh em của William Wallace- Malcolm, người cao tuổi và John-bị người hành quyết trong năm 1307, đã ủng hộ Robert Bruce ngay từ đầu. William là người có đức tin và được giáo dục bởi những người chú của mình, cả hai đều là linh mục-những người đã dạy anh một tình yêu tự do vĩnh cửu. Người ta cho rằng khi còn trẻ tuổi William cũng có thiên hướng giống như người chú của mình là muốn trở thành một vị linh mục. Bất kể con đường và nền giáo dục của ông trong những năm đầu đời, thì ông đã trở thành nhà lãnh đạo của phiến quân trong năm 1297.

    Wallace hoặc `le Waleis 'có nghĩa là một Welshman ( người đàn ông xứ Welsh ) và người ta tin rằng tổ tiên của William Wallace là Richard Wallace đã đến Scotland trong những năm 1130 trong khi phục vụ cho Walter Fitzalan-người đã được bổ nhiệm làm quản gia của gia đình của vua David I. Nhà Fitzalans sau này trở thành High Stewards của Scotland và cuối cùng là Hoàng tộc nhà Stewart. Gia đình Wallace là một trong những gia đình hiệp sĩ là thành phần phong kiến của của nhà Stewart sau đó và điều này cho phép họ có một địa vị xã hội mà họ đã sở hữu. Vùng đất mà họ đã sở hữu là ở Ayrshire và sau này là ở Renfrewshire, trung tâm của các thái ấp phong kiến lớn của nhà Stewart. Có khả năng là William Wallace đã được sinh ra tại Elderslie, gần Paisley trong Renfiewshire mặc dù có có lập luận ủng hộ một nơi sinh khác của ông là Ayrshire. Việc xác định năm sinh của ông là chưa thỏa đáng và chúng ta chỉ có thể suy đoán về chi tiết về cuộc sống của ông khi ông trở thành nổi tiếng vào tháng 5 năm 1297.

    Harry-người hát rong mù cho rằng cha của Wallace đã bị giết chết cùng với John-anh trai của ông trong một trận giao tranh ở Loudoun Hill năm 1291 bởi nhà Lamby khét tiếng, những người đến từ bộ tộc Lamont Clan.

    Theo truyền thuyết Ayrshire có hai binh sĩ Anh tìm cách bắt giữ Wallace tại chợ Lanark vì ông này bắt trộm cá. Theo John Strawhorn, tác giả cuốn Lịch sử của Irvine, truyền thuyết cho rằng Wallace đi đánh cá trên sông Irvine. Ông ở cùng với người chú của mình tại Riccarton. Một nhóm binh sĩ Anh đến gần và rồi chỉ huy của toán lính tiến lên phía trước và yêu cầu tịch thu toàn bộ số cá-đây là cái giá để ông không bị bắt giữ. Ngay cả khi Wallace chịu nộp một nửa số cá của mình, người Anh vẫn từ chối vì cho rằng hối lộ quá ít ỏi và đe dọa giết Wallace nếu ông này từ chối. Wallace được cho là đã hạ gục người lính đứng gần bằng chiếc cần câu của mình rồi cướp lấy thanh kiếm của người lính này. Sự vụ đã leo thang thành một cuộc ẩu đả và hai binh sĩ Anh đã thiệt mạng. Harry mù cho rằng nơi vụ việc này xảy ra ở dọc theo sông Irvine với năm binh sĩ bị thiệt mạng. Ngay sau đó nhà chức trách đã ra lệnh bắt giữ ông. Tuy nhiên, theo một tấm bảng bên ngoài Nhà thờ Thánh Paul ở Dundee, William Wallace đã bắt đầu cuộc chiến tranh giành độc lập của mình bằng cách giết chết con trai của thống đốc người Anh ở Dundee, người luôn có thói quen ức hiếp Wallace và gia đình của ông. Câu chuyện này có lẽ có trọng lượng hơn bởi vì người ta suy đoán rằng Wallace đã học ở nơi nay là Trường cao đẳng của Dundee, Wallace đã giết chết con trai của một quý tộc Anh tên là Selby với một con dao găm. Tuy nhiên không có bất cứ bằng chứng thực tế nào chứng minh cho điều này.

    Lần đầu tiên Wallace đi vào lịch sử là khi ông giết chết William de Heselrig, quận trưởng của Lanark, Tháng 5 năm 1297. Theo truyền thuyết thì đây là để trả thù việc viên quận trưởng này đã giết chết Marion Braidfute người thừa kế trẻ tuổi của nhà Lamington mà vừa mới kết hôn Wallace gần lúc đó. Ngay sau đó, ông có được một chiến thắng trong cuộc giao tranh ở Loudoun Hill (gần Darvel, Ayrshire) và Ayr, ông cũng đã chiến đấu bên cạnh Sir William Douglas của Hardy tại Scone và truy đuổi William Ormesby- viên quan trưởng án từ thành phố như Aberdeen, Perth, Glasgow, Scone và Dundee.

    Những người ủng hộ cuộc nổi dậy đã bị một cú shock lớn khi các quý tộc Scotland đã đồng ý thương thuyết một cách cá nhân với người Anh tại Irvine vào tháng Bảy ( vua Anh liên tục mua tìm cách chuộc và chia rẽ các nhà quý tộc Scotland ra khỏi đội ngũ quân nổi dậy và thực chất thì sau này quân đội của Wallace là quân đội của nhân dân với rất hiếm hoi các quý tộc tham gia). Trong tháng Tám, Wallace rời khỏi rừng Selkirk với những người theo ông và tham gia vào lực lượng của Andrew Moray-người cũng đang cầm đầu một cuộc nổi dậy, tại Stirling nơi họ chuẩn bị để ứng chiến với người Anh trong một trận chiến mà họ kém hơn rất nhiều lần so với đối thủ cả về số lượng lẫn trang bị.

    Khi lực lượng dưới sự chỉ huy của Wallace tăng lên, có những thông tin thu thập được bởi John de Graham cho rằng Wallace đã chuyển lực lượng của ông từ rừng Selkirk đến vùng cao nguyên của Scotland, không có bằng chứng lịch sử cho thấy rằng Wallace đã rời khỏi vùng đất thấp của Scotland để đi đến một nơi khác ngoài chuyến đến thăm nước Pháp và chuyến đi của ông để đến giàn giáo treo cổ ở London.



    ANDREW MORAY


    Andrew Moray, còn được gọi là Andrew de Moray, Andrew của Moray, hoặc Andrew Murray, là một nhà lãnh đạo quân sự nổi bật của lực lượng yêu nước trong cuộc chiến tranh giành độc lập Scotland. Ông đã lãnh đạo cuộc nổi dậy ở miền Bắc Scotland vào mùa hè năm 1297 để chống lại sự chiếm đóng của vua Edward I của Anh quốc, và thành công trong việc giành lại quyền kiểm soát vùng này cho vua John Balliol của Scotland. Sau đó ông sáp nhập lực lượng của mình với lực lượng của William Wallace và họ cùng chỉ huy đội quân kết hợp để chiến thắng tại trận Stirling Bridge. Moray nằm trong danh sách thương vong trong trận chiến ngày hôm đó và ông đã chết ở một ngày không rõ ràng trong những tháng cuối năm 1297.


    Nguồn gốc nhà Moray của Petty

    AndrewMoray được sinh ra trong gia đình Moray của Petty ở cuối nửa sau của thế kỷ 13. Người ta không được biết ngày và nơi sinh của ông liệu ông có bất kỳ anh chị em nào. Nhà Moray của Petty là một gia đình nam tước giàu có và có ảnh hưởng chính trị tại tỉnh Moray ở phía đông bắc Scotland. Nguồn gốc của nhà Moray bắt nguồn từ Freskin-một người đàn ông được cho là có nguồn gốc Flemish. Ông đã được cấp đất Laich ở tỉnh Moray trong thế kỷ 12 dưới triều đại Vua David I của Scotland, nơi mà ông đã cho xây dựng một tòa lâu đài có tên là Motte-và-Bailey tại Duffus trên bờ phía bắc của hồ Loch Spynie.

    Tỉnh Moray có một lịch sử tách rời khỏi vương quốc Scotland bởi sự chống đối lâu dài xảy ra bên trong nó. Một số đạo quân của Hoàng gia đã bị đánh bại trong các cuộc chiến tranh này. Trong số các vị vua bị chặn đứng bởi người của tỉnh Moray là vua Dub, người đã thiệt mạng khi quân đội của ông đã bị đánh bại tại trận Forres trong năm 967. Tỉnh Moray trở nên là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với các vị vua nhà Malcolm Scotland. Cuộc kháng chiến chống lại sự cai trị của hoàng gia Scotland vẫn còn kéo dài đến thế kỷ thứ 12. Năm 1130 một cuộc nổi loạn do Mormaer Óengus của Moray cầm đầu-một hậu duệ của Lulach. Hậu quả của thất bại của quân đội Óengus tại Stracathro là tỉnh Moray lại được đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của hoàng gia, sự tự trị của nó không được phục hồi cho đến năm 1312 khi Vua Robert I cấp lãnh địa bá tước của Moray cho Thomas Randolph-cháu trai của ông. Phản ứng của vua David về cuộc kháng chiến dai dẳng này là di cư những người vùng Flanders và người Anglo-Norman trung thành với triều đình vào vùng này. Một trong những người này là Freskin ( tổ tiên của nhà Moray). Nhiều phiến quân đã buộc phải từ bỏ đất đai của họ. Do đó, những người định cư tiếp theo này có vai trò về quân sự, chính trị và hành chính tựa như người Anh cổ ở dọc theo biên giới Gaelic của Ireland và giống như người Anh Old ở Ireland, thời gian dần xóa đi sự khác biệt văn hóa và ngôn ngữ giữa họ với những người dân bản địa còn lại.

    Mặc dù vua David và người kế nhiệm ông đã tìm cách áp đặt sự kiểm soát của họ vào Moray, tỉnh này vẫn tiếp tục chống lại họ. Vua Malcolm IV, cháu trai của David và người kế nhiệm, cũng phải dùng đến biện pháp trốc rễ và trục xuất dân cư địa phương. Quấn sử Holyrood viết rằng vào năm 1163: "vua Malcolm xua đuổi người của Moray”. Mãi đến năm 1229, khi William Comyn của Buchan dẫn đầu một đội quân hoàng gia vào Moray và cuối cùng phải sử dụng các biện pháp tàn nhẫn mới giữ được tỉnh này cho Vua Alexander II, ông này đã được tưởng thưởng bởi một vị vua biết ơn với lãnh địa Badenoch. Chiến dịch cuối cùng, tàn bạo nhất của vua Malcolm chống lại Hoàng tộc đối thủ là để chống lại một đứa trẻ đòi quyền sở hữu vương miện Scotland, đứa bé gái ba tuổi đã công khai bị sát hại bởi tay chân của vua Alexander. Chỉ đến lúc này thì tỉnh Moray mới chấp nhận sự cai trị của vua Malcolm mac của Scotland.

    Nhà Moray trong xã hội Scotland

    Tại thời gian nổ ra cuộc chiến Anh-Scotland ở cuối thế kỷ 13 (thường được gọi là cuộc chiến tranh giành độc lập của Scotland) gia đình Moray cũng đã được thành lập ở miền bắc và miền nam Scotland. Sir Andrew Moray, người đứng đầu chi nhánh Petty của gia đình này nắm giữ một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Moray, bao gồm các lãnh địa của Petty, được điều hành từ thái ấp Hallhill ở bờ phía nam của Moray Firth, Lãnh địa Avoch ở Black Isle, được điều hành từ Avoch Castle nằm về phía đông của Inverness và nhìn ra Moray Firth, và lãnh địa của Boharm được điều hành từ lâu đài Gauldwell. Trong số bất động sản của Sir Andrew của Petty là vùng đất tại Alturile, Brachlie và Croy và tại Boharm là các vùng đất Arndilly và Botriphnie. Andrew Moray ( con trai trẻ tuổi của Sir Andrew của Petty, người lãnh đạo phong trào nổi dậy) được thừa kế những vùng đất và các tòa lâu đài ở đó.

    Sự giàu có này được đi kèm với ảnh hưởng chính trị đáng kể. Sir Andrew từ năm 1289 thay thế nhà vua để duy trì pháp luật ở miền bắc Scotland (quan trưởng án) và có thể đã được đồng chọn làm giám hộ sau cái chết bất đắc kỳ tử của Vua Alexander III. Cá nhân các họ hàng của Sir Andrew là những gia đình có quyền lực nhất trong xã hội Scotland. Trong năm 1280 ông cưới người vợ thứ hai của mình, Euphemia Comyn-mẹ kế của Andrew-em gái của John Comyn, lãnh chúa của Badenoch, cháu trai của Vua John Balliol và là một trong những người có ảnh hưởng chính trị nhất tại Scotland. Nhà Morays của Petty cũng có họ hàng với Douglases của Clydesdale, tại thời điểm đó gia đình này chỉ là một chủ đất tương đối nhỏ.

    Ảnh hưởng của gia đình Moray không chỉ giới hạn ở phía đông bắc Scotland. Sir William Moray của Bothwell-anh trai của Sir Andrew, nắm giữ một vùng đất rộng lớn ở Lanarkshire và tại Lilleford ở Lincolnshire. Sir William, người được biết đến như là le riche do tài sản cá nhân giàu có của mình, đã cho xây dựng Lâu đài Bothwell nhìn ra Sông Clyde. Thiết kế của nó đã bị ảnh hưởng bởi xu hướng mới nhất có ở lục địa châu Âu rõ ràng như là một tuyên bố về quyền lực và ảnh hưởng của ông này. Vị Moray trẻ được thừa kế tài sản của người chú.

    Nhà Moray của Petty cũng sở hữu các tài sản lớn tại các nhà thờ Scotland thời Trung cổ. Một tổ tiên của Andrew Moray, cũng được đặt tên Andrew, đã trở thành giám mục của Moray ở đầu thế kỷ thứ 13 và chịu trách nhiệm cho việc chuyển địa điểm của Toà Giám mục đến Elgin năm 1224 và thành lập một nhà thờ của thành phố. Nhà Moray tiếp tục có các liên kết với nhà thờ. David-một em trai của Sir Andrew, lúc đó là trụ trì của nhà thờ Bothwell ở trung tâm Scotland. Ông này sau đó được thánh hiến vào mùa hè 1299 và được phong làm Giám mục Giáo hoàng Boniface VIII và trở thành một trong những người ủng hộ tin cậy cho vương quyền của vua Robert Bruce.


    Tham gia vào cuộc xâm lược vào nước Anh và bị đánh bại

    Vào mùa xuân 1296, Andrew Moray cùng với cha và chú của mình, tham gia vào lực lượng quân đội phong kiến của các chủ đất Scotland, vốn được tập hợp để chuẩn bị cho cuộc xung đột sắp xảy ra. Một lực lượng nhỏ được dẫn đầu bởi các vị Bá tước của các vùng Atholl, Ross và Mar và John Comyn… tiến vào Cumberland ( tiên hạ thủ vi cường) và hành quân đến Carlisle, để lại một dấu tích tàn phá khủng khiếp trong trí nhớ của người Anh. Quấn sử St Edmundsbury Chronicle nói rằng cuộc hành binh này đã tiêu hủy 120 ngôi làng và thị trấn. Khi đến được lâu đài Carlisle họ thấy nó được tổ chức chống lại họ bởi chính đồng bào của họ-Robert Bruce, chúa tể của Annandale, con trai của Bruce-người cũng đòi thừa kế ngai vàng của Scotland vừa mới qua đời gần đó. Robert Bruce đã giữ vững được lâu đài Carlisle. Một toán quân Scotland khác cũng đã vượt qua biên giới từ Jedburgh và ồ vào Northumberland, để lại các ngôi nhà và trang trại bị đốt cháy trên đường họ đi qua.

    Trận Dunbar ( như đã đề cập ở phần trước) quân đội Scotland đã nhanh chóng bị tràn ngập bởi quân đội của vua Edward dưới sự chỉ huy của John de Warenne-Bá trước của Surrey. Tác giả của quấn Chronicle of Bury St Edmunds nói rằng có đến tám nghìn binh sĩ Scotland bị tử trận tại Dunbar ( gần gấp 4 lần số quân mà William Wallace và Andrew Moray có trong trận Stirling Bridge). Andrew Moray cùng với cha của ông đều bị bắt làm tù binh trong trận này.
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    [​IMG]
    Bản đồ các các chiến dịch của người Anh và người Scotland trong năm 1297





    Phát động khởi nghĩa ở miền Bắc Scotland
    ( phần này được viết khá kỹ để thể hiện phong trào kháng chiến của người Scotland trước trận Stirling Bridge)

    Trong khi Scotland bị chiếm đóng bởi người Anh, Andrew Moray đã phải chịu đựng sự sỉ nhục trong tù. Nhưng vào một ngày nào đó trong mùa đông năm 1296-97, ông đã trốn thoát khỏi nhà tù. Cuối cùng ông đã trốn trở về tới vùng đất của cha mình, mặc dù người ta không biết rõ ông đã trốn thoát như thế nào. Mặc dù cũng chẳng ai biết rõ thất bại tại trận Dunbar và những nỗi cơ cực khi phải ngồi tù ảnh hưởng đến ông như thế nào, người ta chỉ chắc chắn có một điều rằng ông đã chở về Scotland.

    Quấn sử the Hemingsburgh Chronicle có viết "Trong tháng 5 cùng năm [1297] người Scotland bắt đầu nổi loạn. " Các hành động đầu tiên của cuộc nổi loạn này đã được đánh dấu bằng hai sự kiện: Andrew Moray tuyên bố thách thức của ông với sự cai trị của Anh tại Avoch và William Wallace đánh dấu cuộc nổi dậy của ông chống lại vương quyền của người Anh với vụ giết viên quận trưởng Anh của Lanark. Tin tức về các hành động của Moray đã nhanh chóng thu hút những người ủng hộ ông ta. Alexander Pilchie, một thị dân đến từ Inverness và một số thị dân khác đến từ nhiều thị trấn là những người ủng hộ ông sớm nhất. Mặc dù Sir Andrew Moray của Petty vẫn bị giam giữ trong Tháp London-nơi mà dường như ông đã chết trong khi vẫn là tù nhân của vua Edward-nhiều người thuê đất của ông sẵn sàng tham gia với con trai của ông. Sir William Fitz Warin-huân tước người Anh ở Lâu đài Urquhart trên bờ hồ Loch Ness đã viết cho vua Edward trong tháng bảy năm 1297 rằng: "Một số người đã tham gia cùng với Andrew Moray tại lâu đài [Avoch] trong vùng Ross."


    Tấn công vào lâu đài Urquhart

    Mặc dù vương quốc Scotland đã dễ dàng bị chinh phục bởi Vua Edward, nó lại không chịu ngủ yên dưới sự cai trị của ông ta. Những tháng đầu năm 1297 đã cho thấy sự bùng phát bạo lực chống lại những kẻ chiếm đóng người Anh và các đồng minh người Scotland của họ, một số trong đó đã trở nên cực kỳ nghiêm trọng, các quan chức địa phương tìm kiếm sự hỗ trợ của nhà vua. Người Anh ở Argyll và Ross đã bị đuổi đi bằng bạo lực. Trên bờ biển phía tây, các thành phố Lachlan và Ruarie MacRuarie của vùng Garmoran chìm ngập trong những cuộc nổi loạn, các quan chức của hoàng gia bị giết hại và tài sản của hoàng gia bị phá hoại. Bạo lực này đã không bị giới hạn ở phía bắc của Scotland. Cuộc nổi dậy bùng phát to ở vùng Galloway ở phía tây nam Scotland và các phiến quân chiếm giữ các lâu đài vốn nằm trong tay người của vua Edward. Cũng có các cuộc xung đột ở Fife, nơi mà MacDuff của Fife và con trai của ông dẫn đầu một cuộc nổi loạn.

    Sau cuộc họp Sir William Fitz Warin trở lại Lâu đài Urquhart cùng đội hộ tống gồm những binh sỹ vũ trang đến tận răng của ông. Một vài dặm về phía nam của Inverness, Sir William đã bị phục kích bởi Andrew Moray. Ông đã may mắn trốn thoát và chạy về trốn kỹ trong thành lũy an toàn ở phía bên kia bờ hồ. Ngày hôm sau, Sir William thức dậy và thấy lâu đài của ông bị bao vây bởi Moray, người yêu cầu đầu hàng ông phải đầu hàng. Nữ bá tước của Ross bất ngờ đã đến hiện tại chiến trường với đoàn tùy tùng của mình. Bà nữ bá tước này có chồng đang bị cầm tù bởi vua Edward trong Tháp London, đã khuyên ông nên đầu hàng. Bà ta đã không nhập hội với Moray. Mặc dù lời khuyên của bà ta đã bị bỏ qua, sau này hành động của bà được báo cáo tới nhà vua bởi Sir William. Moray không có các thiết bị bao vây hạng nặng có sẵn nên mặc dù cho ông ta cố gắng để chiếm tòa lâu đài trong một cuộc tấn công vào ban đêm và đã thất bại, rồi sau đó ông đã bị buộc phải từ bỏ cuộc bao vây. Ông để mặc cho Sir William tiếp tục sở hữu tòa lâu đài để băng bó vết thương của mình và gửi một ghi chép của trận cận chiến này tới nhà vua của ông ta ( John Balliol? ).

    Chiến dịch của Moray của trong mùa hè 1297 đã thu hút những người ủng hộ mới cho lực lượng của ông và các lâu đài do người Anh nắm giữ trên khắp tỉnh Moray và miền bắc Scotland thi nhau rơi vào tay ông ta. Cuối cùng, thậm chí lâu đài Urquhart đã thất thủ. Đây là một chiến dịch nhỏ với những thành công ngoạn mục của Moray. Thật vậy, một số chiến công của ông dường như đã được người hát rong Hary mù và chuyển sang cho William Wallace. Một trong những sự kiện này là cuộc tấn công của Wallace vào cảng Aberdeen, trong đó theo Hary, ông đã đốt cháy các tàu của người Anh neo tại cảng. Không có bằng chứng cho rằng có thật là Wallace đã từng tấn công vào Aberdeen và người ta đã công nhận rằng hành động này nhiều khả năng là chiến công của Andrew Moray.

    Mối quan tâm chính của Vua Edward I của Anh lại là chuẩn bị cho chiến dịch sắp xảy ra của mình ở Flanders, và tìm cách đối phó với các mối đe dọa từ Andrew Moray bằng cách sử dụng các quý tộc Scotland được phóng thích từ nhà tù của mình để phục vụ ở Flanders. Nhà vua để đáp lại bức thư mô tả của Sir William Fitz Warin về các cuộc tấn công vào lâu đài của ông này, vào ngày 11 tháng 6 năm 1297đã ban hành mệnh lệnh cho một số lãnh chúa Scotland hành quân đến tỉnh Moray để giải vây cho Fitz Warin và khôi phục lại vương quyền. Trong số những lãnh chúa nhận được nhận lệnh của nhà vua có cả Henry Cheyne-Giám mục của Aberdeen, Sir Gartnait của Mar, người thừa kế lãnh địa bá tước Mar và có cha là người hiện đang bị giam giữ trong Tháp London và John Comyn, Bá tước của Buchan và Huân tước của Scotland, cùng với Alexander-anh trai của ông. Anh em nhà Comyn được chỉ thị ở lại cho đến khi tất cả các lực lượng của cuộc nổi loạn của Moray bị bao vây.

    Lực lượng trấn áp khởi hành từ Aberdeen vào đầu tháng 7 năm 1297. Andrew Moray phản ứng lại bằng cách hành quân về phía đông để đối đầu với họ. Hai đạo quân đã gặp nhau trên bờ sông Spey tại Enzie, trên đường từ Aberdeen đến Inverness ở gần các vùng nước cạn của sông Spey, rìa phía đông của tỉnh Moray. Không có tài liệu ghi chép nào còn sót lại nói về cuộc đối đầu diễn ra sau đó, nhưng dường như là trước đó Moray đã 'khiêu vũ' với nữ Bá tước của Ross. Một tài liệu cực kỳ mơ hồ về sự kiện sau đó đã được gửi từ Inverness đến cho nhà vua Edward bởi Đức Giám mục Cheyne vào ngày 25 tháng 8 và nói rằng Moray cùng phiến quân của ông đã rút vào một sào huyết trong đầm lầy và rừng cây [Nơi] mà không kỵ sĩ nào có thể đến được.

    Đây là một lời giải thích rất không thực tế khi người ta biết rằng nhà Comyn đã từng bình định tỉnh Moray ở đầu thế kỷ 13. Nhiều khả năng là không bên nào muốn chiến đấu với những người mà họ không coi là kẻ thù của mình và họ chỉ đơn giản là ai đi đường của người đó. Tuy nhiên nếu Cheyne nghĩ rằng ông có thể giữ thể diện với lá thư này, ông đã không tính đến Hugh de Cressingham-người quản trị ngân khố của nhà vua.
    Cressingham đã nhìn thấy bức thư này và rõ ràng đã không tin rằng các lãnh chúa Scotland được vua Edward giao nhiệm vụ đối phó với Moray sẽ hoàn thành sứ mạng của họ. Cressingham-người dường như đã tin rằng các quý tộc Scotland đang chơi một trò chơi đôi không có lợi cho vua Edward, đặc biệt rõ ràng là trận đối đầu ở Spey nên đã viết thư cho vua Edward:

    Sir Andrew de Rait đang tạo lòng tin với bệ hạ, và ông ta cũng đang gây dưng lòng tin với cả thần nữa, nhưng thực tế thì trong nhiều thời điểm không thể tin ông ta được … bệ hạ nên đánh giá thấp uy tín của ông ta thôi.

    Trong khi Andrew Moray chiếm quyền kiểm soát phía bắc Scotland và William Wallace hoành hành ở phía tây-trung tâm Scotland, một số cuộc nổi dậy của các thủ lĩnh phong kiến truyền thống của Scotland lại nổ ra ở phía nam. Trong số các chỉ huy của nó là James-nhà Steward của Scotland và Robert Wishart-Đức Giám mục của Glasgow. Robert Bruce của Carrick-vị vua tương lai và cũng là một người thu hút được rất nhiều người ủng hộ. Nhưng những cuộc nổi dậy này không có sức sống và sự phá hủy đặc trưng như các cuộc nổi dậy của Moray và Wallace mà chúng rất yếu ớt. Các cuộc nổi dậy này ( không kể của Moray và Wallace) đã nhanh chóng bị sụp đổ, những người tham gia tiến hành thỏa hiệp tại Irvine vào tháng 7 khi quân đội Anh kéo đến. Tuy nhiên, nhiều nhà lãnh đạo tương tự, bao gồm Robert Bruce một lần nữa đứng về phía lực lượng Scotland trong một thời gian ngắn sau đó.

    Vua Edward, đã không đối phó thành công với Moray bằng vũ lực, lúc này ông phải dùng đến biện pháp tế nhị. Nhà vua đề xuất thả tự do cho Sir Andrew Moray của Petty (bố của Andrew Moray) đang bị giam giữ trong Tháp London để phục vụ cho vua Anh tại Flanders, nếu con trai của ông chịu ra làm con tin thay cho cha mình. Một công văn được đóng dấu của nhà vua để cho phép Andrew con đến nước Anh một cách an toàn đã được phát hành vào ngày 28 tháng 8 năm 1297. Người ta không biết liệu bức công văn đảm bảo an toàn có bao giờ đến được chỗ Andrew con hay không-nhưng nếu nó có được thì Andrew Moray đã bỏ qua và cha ông đã bị buộc phải ở lại và chết trong tù.

    Tham gia trận Stirling và cái chết của Andrew Moray

    Theo ước tính, người Anh bị mất độ một trăm hiệp sĩ và năm nghìn lính bộ binh, st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } thương vong của người Scotland không được ghi lại bởi chủ yếu các binh sĩ tử trận là những bộ binh không có tên tuổi trong lịch sử. Tuy nhiên, vẫn có một tổn thất không thể thay thế đó là Andrew Moray

    st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } Thất bại của Bá tước Surrey ( viên tướng chỉ huy đạo quân tiên phong của Anh ) tại Trận Stirling Bridge là đỉnh cao chiến dịch của Moray chống lại vua Edward. Moray không thể có được một sự nghiệp quân sự lừng danh là do cuộc đời của ông khá ngắn ngủi. Dường như là quá trình đào tạo để trở thành một hiệp sĩ mà ông nhận được sẽ trang bị cho ông ta những kỹ năng để thực hiện vai trò lãnh đạo trong bộ máy phong kiến của Scotland và do đó đảm bảo cho ông sở hữu khả năng chỉ huy những đội quân lớn trên chiến trường.

    st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } Có những bằng chứng trái chiều nhau về cái chết của Moray. Một toà án dị giáo chính thức phán xét về số phận của Sir William Moray của Bothwell-chú của Andrew Moray-người đã qua đời trong nghèo đói ở Anh, được tổ chức tại Berwick vào tháng 10 năm 1300. Người ta đã viết trong các thủ tục tố tụng rằng Andrew Moray đã: "bị giết tại Stirling khi đang chống lại nhà vua ( Anh )" Tuy nhiên vẫn có các tài liệu-hai bức thư đề cập rằng ông vẫn còn sống sau trận Stirling Bridge. Bức thư đầu tiên, được gửi từ Haddington ngày 11 tháng 10 đến tay các thị trưởng của Lübeck và Hamburg-hai trong số các thị trấn của Hanseatic League có viết rằng: "Andrew de Moray và William Wallace, các nhà lãnh đạo của vương quốc Scotland và dân chúng của vương quốc" bức thứ hai được gửi trước đó từ Hexham ngày 07 tháng 11 có viết: "Andrew de Moray và William Wallace, các nhà lãnh đạo quân đội và các vùng đất của Scotland" tên của Moray không xuất hiện trên bất kỳ tài liệu còn sót lại sau đó. Sự kiện này được giải thích bởi hầu hết các sử gia là Moray đã bị trọng thương tại trận Stirling Bridge và qua đời vì vết thương của ông ở khoảng tháng 11.

    Tuy nhiên vẫn có lập luận rằng Moray đã thực sự bị giết tại Stirling BridgeScotland, có nghĩa là các thành tựu của ông ( Moray) ít được biết đến. Mặc dù có nhiều bức tượng đài của Wallace được dựng rải rác trên khắp nơi, từ Aberdeen ở phía bắc-đông sang Dryburgh ở biên giới Scotland, có hẳn một Bảo tàng Quốc gia được xây kiểu Gothic về Wallace trên địa điểm diễn ra trận chiến Stirling Bridge, đã không có bất cứ một đài tưởng niệm tương tự nào như vậy cho Andrew Moray. Thậm chí tình trạng này đã chở thành một vấn đề chính trị. Cuối tháng 12 năm 2009, Murdo Fraser,-một ông nghị thuộc phái bảo thủ MSP đại diện cho Mid-Scotland và Fife, kêu gọi cho một cuộc tranh luận ở tầm cỡ quốc gia về một đài tưởng niệm thích hợp cho Andrew Moray. Ông nói rằng cần phải nâng cao nhận thức về vai trò lịch sử của ông này.

    Trong cuối thế kỷ 20 đã có sự gia tăng trong việc công nhận vai trò của Andrew Moray trong các sự kiện cuộc cuộc chiến giành độc lập Scotland. Một sử gia gần đây đã mô tả hành động của ông là " mối đe dọa lớn nhất đối với chính phủ Anh". Thậm chí người ta còn cho rằng Wallace đã có tương đối thành công hơn sau năm 1297 và thực tế là tên của Moray luôn luôn được đề cập đầu tiên trong báo cáo về các chiến dịch, điều này cho thấy rằng các chiến dịch thành công của năm 1297 được xuất phát từ công lao của Moray hơn là của Wallace. Tuy nhiên, cũng có thể là Moray đã được đề cập đầu tiên đơn giản chỉ vì ông có địa vị xã hội cao hơn trong thời gian đó.

    Tên của Andrew Moray đã không biến mất khỏi lịch sử. Một vài tháng sau khi ông chết thì bà vợ góa của ông-người mà ngày nay người ta đã không xác định được danh tính, đã sinh cho ông một người con trai-cũng được đặt tên là Andrew. Vị Andrew Moray cháu này đã chở thành lãnh chúa của Petty và Bothwell và đóng một vai trò quyết định trong việc đánh bại những cố gắng tiếp tục thôn tính Scotland của Edward III của Anh quốc.
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Các đội quân đối địch

    Quân đội Anh năm 1297-1298

    Những tham vọng không biết mệt mỏi của Edward I có nghĩa rằng là liên tục có các hoạt động quân sự xảy ra trong suốt triều đại của ông. Luôn có sự cần thiết phải huy động, tài trợ, điều hành và tạo ra các lực lượng bộ binh và hải quân lớn cho các chiến dịch mở rộng vốn đã vượt quá khả năng của hệ thống phục vụ quân sự phong kiến cũ và dẫn đến một hệ thống phục vụ trả tiền linh hoạt hơn. Vào khoảng thời gian Chiến tranh Scotland, quân đội Anh dưới sự thống lĩnh của Edward I là một bộ máy quân sự ghê gớm.

    Quân đội Anh tại Stirling Bridge

    Lực lượng của Bá tước Surrey đã được huy động vội vã từ các quận phía bắc của Trent và bao gồm một số lượng lớn những Welshmen, nó kém xa về mặt số lượng so với đội quân mà Edward I đã chỉ huy ở Falkirk. Sử gia Guisborough ước tính quân đội của Warenne có từ 1.000 kỵ binh và 50.000 và bộ binh, nhưng con số này có vẻ là quá sức cường điệu. Cressingham-một kế toán viên quản trị ngân khố, đưa ra một con số dễ tin hơn khi ông viết một bức thư cho nhà vua trong tháng 7 từ Roxburgh và nói rằng ông đã tập trung 300 kỵ sỹ và 10.000 bộ binh. Tại thời điểm của trận Stirling Bridge nhà vua Anh đang ở Flanders với quân đội mạnh nhất của mình, tài liệu cho thấy rằng ông cũng chỉ có 822 kỵ binh được trả lương và 8.500 lính bộ binh, có vẻ kỳ lạ nếu Cressinghanl lại muốn có nhiều lính bộ binh hơn cả nhà vua lúc này đang tham chiến với người Pháp ở Flanders. Các hồ sơ còn sót lại cho thấy lực lượng bộ binh được triệu tập cho chiến dịch Caerlaverock chỉ gồm 1300 người, điều này cho thấy rằng chỉ khoảng một nửa số bộ binh đã thực sự được triệu tập vào tuần cuối tại lâu đài Caerlaverock ở đầu tháng Bảy. Lực lượng bộ binh Anh trong tháng đó có khoảng 9.093 người với một lực lượng tiên phong khoảng 5.400 lính bộ binh người Anh và xứ Welsh.

    Tóm lại lực lượng quân đội Anh có khoảng độ 10.000 -> 12.000 người, trong đó có 1.000 -> 2.000 kỵ binh và 8.000 -> 10.000 bộ binh


    [​IMG]
    Các kiểu trang bị cá nhân của một Hiệp sỹ của Anh trong thế kỷ thứ 13


    [​IMG]
    Ngựa và trang bị của ngựa của các Hiệp sỹ Anh trong thế kỷ 13


    [​IMG]
    Các kiểu trang bị cá nhân của một Hiệp sỹ của Anh trong thế kỷ thứ 13


    [​IMG]
    Các kiểu trang bị cá nhân của một Hiệp sỹ của Anh trong thế kỷ thứ 13



    Lực lượng kỵ binh Anh quốc

    Để thành lập lực lượng kỵ binh Edward I triệu tập các chư hầu phong kiến để thực hiện nghĩa vụ mà họ nợ ông ta. Tuy nhiên do những nhu cầu về quân sự đã buộc ông ta phải bổ xung lực lượng bị thiếu hụt bởi những lực lượng được trả bằng tiền. Đây là một bước để thay thế lực lượng làm nghĩa vụ phong kiến bằng một lực lượng quân đội được trả lương. Để phân hạng các hiệp sỹ ở nước Anh của thời Edward, một cá nhân phải sở hữu một số lượng đất có một giá trị được gọi là “ Knight fee ” cùng với nghĩa phụ phục vụ quân sự. Có khoảng 6.000 knight fee ở nước Anh vào năm 1297 và như vậy là cũng sẽ có từng đó kỵ binh sẵn có để phục vụ nghĩa vụ phong kiến. Tuy nhiên thì thực tế chẳng bao giờ có một số lượng kỵ binh lớn như vậy được tung vào các chiến dịch quân sự.

    Lực lượng kỵ binh của nhà nước phong kiến không chỉ cần có một sự dũng cảm cá nhân mà thiếu đi kỷ luật và tổ chức và trong một số trường hợp cụ thể một cấu trúc đội hình chiến đấu sẽ trở nên bị phá hủy bởi niềm tự hào và lòng kiêu ngạo của các chỉ huy kỵ binh quý tộc. Khoảng thời gian 40 ngày/ chiến dịch mà các kỵ binh phong kiến có thể được triệu tập để phục vụ đã trở nên lỗi thời trong những năm cuối của triều đại Edward, mặc dù có nhiều cách để gia hạn nó. Trong thực tế từ cuộc chiến ở xứ Wales đầu tiên năm 1277 nhà vua đã tìm ra một hệ thống hiệu quả hơn đó là bộ phận chính của kỵ binh được trả lương nằm dưới sự chỉ huy của các đội trưởng chuyên nghiệp và có thể được tập hợp thành các đơn vị thống nhất lớn hơn. Các nhóm lộn xộn của kỵ binh phong kiến không thể phù hợp với lực lượng kỵ binh được trả lương vốn rất hiệu quả.

    Các kỵ binh được điều khiển bởi các hiệp sĩ cầm cờ ( banneret )-đây là những người cầm những cờ hiệu hình vuông và được xếp hạng trên cả các hiệp sĩ thông thường hoặc đôi khi họ được gọi là Bạchelor. Bất kỳ một hiệp sỹ cừ khôi nào cũng đều có cơ hội để trở thành những hiệp sĩ cầm cờ, mặc dù có một số thành kiến ủng hộ của những người có đất đai và tiền bạc để hỗ trợ việc thăng hạng. Ở tầng lớp thấp hơn các hiệp sĩ và sử dụng những con ngựa có giá trị thấp hơn là các hộ sỹ, những người phục vụ quân đội trong thời gian học nghề, nhưng địa vị xã hội của họ là danh hiệu hiệp sĩ trong tương lai và những người lính-những người không bao giờ mơ có thành hiệp sỹ. Tiền lương phản ánh sự khác biệt về đẳng cấp, một hiệp sỹ cầm cờ nhận được 4 shilling một ngày, một hiệp sĩ thường nhận 2 shilling và một hộ sỹ hoặc một người lính nhận 1 shilling. Chất lượng của ngựa cũng tương tự rất đa dạng;. một con ngựa chiến mà hiệp sỹ nổi tiếng Robert Clifford cưỡi tại trận Falkirk có chi phí £ 30, trong khi ở bên đầu kia, John Wetherington, một quân nhân, cưỡi một con ngựa có đốm trị giá chỉ có tám đồng mark. Các kỵ binh được trả lương phải tự trang bị ngựa và áo giáp cho họ mặc dù họ sẽ được nhà vua bồi thường thiệt hại trong một trận chiến.

    Thông thường Kỵ binh được tuyển dụng bởi một nam tước hay một hiệp sỹ cầm cờ, những người sẽ huy động một đội khoảng có lẽ 100 lính kỵ bằng hợp đồng thuê mướn và đặt mình dưới sự quản lý của nhà vua để đánh đổi lấy một khoản tiền ( bản thân những người đội trưởng, nam tước … này trở thành nhà thầu quân sự ). Đội quân riêng của viên đội trưởng có thể có 30 hoặc 40 kỵ binh thiện chiến, phần còn lại được huy động bởi những Hiệp sỹ ít nổi bật hơn, họ có tương tự như những nhà thầu phụ và sẽ huy động 10-15 kỵ sỹ và tạo ra một tỷ lệ khác nhau đa dạng giữa hiệp sĩ và binh lính. Một số trong số các đội kỵ binh này sẽ được tập hợp với nhau để tạo thành một binh đoàn kỵ binh để bước vào chiến dịch.

    Lực lượng kỵ binh còn sống sót sau trận Falkirk bao gồm có 214 hiệp sỹ cầm cờ và hiệp sĩ thường, 642 lính thường trực và 258 tay thương tự do, tổng cộng có 1.114 tay thương.
    Sức mạnh của lực lượng kỵ binh của Edward ở trận Falkirk sau đó là ở khoảng 2,100 tới 2.200 tay thương ( như vậy sau trận này quân Anh mất độ 1.000 kỵ binh ).


    [​IMG]
    Tranh vẽ Bá tước Surrey đang kiểm điểm đội quân tiên phong của Anh


    [​IMG]
    Trang phục của lính cung thủ và lính bắn nỏ người Anh trong chiến tranh Scotland


    Lính cung thủ Anh

    Nhà sử học Gerad xứ Wales nói có điểm khác biệt rõ ràng giữa những người xứ Wales, người miền Bắc xứ Wales thường đầu quân vào lực lượng giáo binh, người miền Nam thường trở thành những cung thủ trường cung. Gerad mô tả những cung thủ trường cung từ Gwent “ với những cây cung làm từ cành du không trau truốt, thô và sần sùi” ông cũng nói về phạm vi tác xạ ghê gớm và uy lực của loại vũ khí này. Người ta đã thấy rằng tại cuộc chiến xứ Wales chỉ một số lượng nhỏ lính cung thủ có tay nghề cao kết hợp với một lực lượng kỵ binh có thể thay đổi cục diện của trận chiến. Hiệu quả của loại chiến thuật này ( kết hợp cung thủ với kỵ binh ) đã được áp dụng bởi Edward I trong phạm vi rộng rãi trong trận Falkirk.



    [​IMG]
    Trang phục của lính bộ binh người Anh trong chiến tranh Scotland.


    Bộ binh người Anh

    Hệ thống phong kiến không bao giờ có khả năng lập kế hoạch cung cấp cho bộ binh hoặc một đoàn tàu ( xe ) vận tải, kỹ sư, thanh toán tiền lương cho bộ binh và nhân công. Điều luật Winchester năm 1285 chính thức hóa luật nghĩa vụ quân sự ở Anh, bộ binh đã được gọi từ những người nắm giữ những mảnh đất có giá trị ít hơn £ 10, họ có nghĩa vụ tự sắm sửa cho mình áo giáp và vũ khí phù hợp với vị trí của họ và tất cả đàn ông từ 16 và 60 tuổi phải có nghĩa vụ phục vụ cho 40 ngày/ năm. Binh sĩ được trả tiền một lần họ đã ở bên ngoài ranh giới địa hạt của họ. Thủ tục để huy động đội quân này thường được tiến hành bởi viên quận trưởng và cùng một Ủy viên của Hội thẩm đoàn ( Commissiner of Array ), họ thường là một hiệp sỹ giàu kinh nghiệm hoặc thành viên của Hoàng tộc. Những người được tuyển được tổ chức thành các bách quân 100 người dưới sự chỉ huy của viên đội trưởng hoặc bách trưởng, người được trả 1 shilling một ngày. Các đại đội hoặc bách quân được chia thành các toán 19 người, những người được trả 2d mỗi ngày còn các viên toán trưởng được trả 4d một ngày. Vào năm 1298 được đưa vào khuôn khổ thành những đơn vị gọi là millenary ( hay còn gọi là thập bách quân ) gồm khoảng 1.000 dưới sự chỉ huy của một millenaer ( thiên phu trưởng), mặc dù các đơn vị này vẫn có nòng cốt cơ bản từ các đội, bách quân như trước đó. Có những tài liệu bằng văn bản từ thời của Edward I nói rằng lực lượng bộ binh thời đó được cung cấp những bộ đồng phục dã chiến với chữ thập của thánh George.

    Lính bộ binh ngon nghẻ nhất của Edward ở thời đó thường được tuyển ở xứ Wales và những quận có đường biên giới với xứ Wales, nơi mà những cuộc chiến tranh liên miên lúc đó đã tạo ra những chiến binh thiện chiến. Những người đàn ông ở miền Bắc nước Anh được cho rằng là chỉ sẵn sàng để bảo vệ quê hương họ mà không muốn phục vụ tại Scotland.
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Quân đội Scotland

    [​IMG]
    Ảnh William Wallace duyệt đội ngũ quân đội Scotland trước trận đánh Stirling Bridge, ông là người cưỡi ngựa đầu tiên ở bên phải, có huy hiệu con sư tử trắng dương vuốt ở áo, người đằng sau là Hộ sỹ ( Hiệp sỹ học nghề) của ông, người này có nhiệm vụ mang chiếc lá chắn và binh khí nặng ( như búa trận, thương ...) cho ông lúc chưa tác chiến. Người lính bộ binh mang giáo ( giáo binh) có trang phục đặc trưng của những người lính Scotland thời đó, họ là lực lượng chính để Wallace chiến thắng trận này.
    Andrew Morey là hiệp sỹ mặc áo choàng trắng đứng sau hai giáo sỹ, phù hiệu của ông là ba ngôi sao màu vàng trên mặt khiên mầu xanh, đứng đằng sau là người cầm cờ của ông. Dưới thung lũng là quân Scotland đã tập hợp lại để chuẩn bị chiến đấu, trước mặt họ là dòng sông Forth và bên kia sông là quân Anh.



    [​IMG]
    Tranh vẽ một số quý tộc Scotland, có khả năng những người này có tham chiến trận Stirling Bridge-vì trong trận này quân Scotland có một đội 300 kỵ sỹ của quý tộc.


    Kể từ trận chiến Largs năm 1268 đất nước Scotland hoàn toàn yên ấm trong cảnh thanh bình và hậu quả là quân đội cũng như các tướng lĩnh của nó có rất ít kinh nghiệm chiến đấu thực tiễn. Vào năm 1296 lính nghĩa vụ người Scotland được triệu tập để “ thực hiện nghĩa vụ quân sự” của những người đàn ông tự do, những chủ đất và những người có địa vị xã hội cao hơn. Lực lượng quân đội này với nòng cốt là lực lượng kỵ binh phong kiến đã tự chứng minh là kém cỏi và bị đánh bại hoàn toàn tại trận Dunbar.


    Quân đội mà Wallace và Murray huy động vào năm sau dựa trên cơ sở những người lính Scotland làm nghĩa vụ quân sự vốn khác biệt với “ free service “ ở chỗ nó được áp dụng vào tất cả các chủ đất và vào những người đàn ông trưởng thành kể từ lớp người “ không có ngựa “, có nghĩa là những người sẽ phục vụ như là những bộ binh. Họ được yêu cầu là phải tự trang bị lấy những vũ khí và áo giáp thích hợp và duyệt đội ngũ được tiến hành thường xuyên để đảm bảo sự hiệu quả của họ. Mỗi vùng lãnh thổ ở Scotland có nghĩa vụ cung cấp một số lượng binh lính nhất định, nó có một cái gì đó giống như hệ thống fyrd của người Anglo Saxon. Tổ chức của quân đội dựa trên cơ sở các tỉnh, những người đàn ông của một vùng cụ thể nào đó sẽ nằm dưới quyền của các lãnh chúa địa phương của họ tự như đạo quân của các tỉnh, lãnh địa bá tước. Bằng cách kêu gọi sự phục vụ của sô lớn dân Scotland, Andrew Murray và William Wallace đã huy động được nhiều một đội quân từ nhiều vùng. Sau khi trận Stirling Bridge kết thúc, họ đã nhận được danh hiệu “ chỉ huy của quân đội của Scotland”. Các Bá tước đã ngầm chấp thuận giấy triệu tập của quân đội của họ để bảo vệ các vùng đất bá quốc nhưng vẫn đóng tại địa phương của mình. Một số lượng đáng kể những người dân thường của vương quốc đã hưởng ứng với một sự nhiệt tình rộng rãi đến lời kêu gọi ra nhập quân ngũ này.

    Bộ binh Scotland

    Trước khi nổ ra trận StirlingMurray đều chỉ huy những lực lượng tấn công cơ động cao, chủ yếu là những toán đột kích gồm vài trăm quân cưỡi những con ngựa nhỏ và tồi tàn. Thực chất họ là lính bộ binh đi ngựa chứ không phải là một lực lượng kỵ binh khi họ cưỡi ngựa đến chiến trường sau đó xuống ngựa để chiến đấu trên bộ. quân đội của người Scotland thời Trung Cổ cơ bản được tạo thành từ bộ binh ỏ vùng đất thấp và phần lớn được trang bị với những "vũ khí tự chế", cơ bản là những ngọn giáo dài 12 -> l4ft ( 3.5 -> 4 mét). Họ đã được tổ chức thành đội hình chiến đấu `schiltrons 'cho trận chiến. Nếu theo quấn Scotichronicon của Walter Bower thì cấu trúc đội hình chiến đấu của người Scotland về cơ bản tương tự như của người Anh. Theo Bower một quaternion ( ngũ trưởng) có bốn người dưới quyền anh ta-đây là cơ cấu đơn vị nhỏ nhất, và hai quaternion được chỉ huy bởi một clecurion ( thập trưởng ). Một đội trưởng ( bách phu trưởng ) chỉ huy 100 lính và một chiến đoàn ( regiment ) có 1.000 người dưới sự chỉ huy của một chiliarch ( thiên phu trưởng ). Nếu điều này là đúng sự thật thì chúng ta không thể nghi ngờ rằng có một sự lệ thuộc trong hệ thống điều hành của quân đội Scotland, và quân đội Scotland cũng được tổ chức tốt không kém so với người Anh. Wallace không đưa vào ứng dụng một sự đổi mới nào trong cơ cấỏ chức quân đội vốn đã có từ trước năm 1297. Đóng góp của ông là sử dụng cấu trúc hiện có để đào tạo một đội quân có khả năng chống lại sức mạnh của Edward I.


    [​IMG]
    1. Cung thủ người Scotland
    2. Hoàng tử John of Eltham, hoàng tử Anh
    3. Giáo binh Scotland

    Các cung thủ Scotland

    William Wallace đã nhận ra mối đe dọa từ các tay cung thủ trường cung Anh tới đội hình schiltron của các giáo binh của mình và ông đã tuyển dụng các cung thủ có thể từ Rừng Ettrick để hỗ trợ họ. Lúc này lại đến lượt quân Scotland được trang bị các cây cung; cung của họ là các bowstave làm từ gỗ cây thủy tùng có thể được nhập khẩu qua các cảng của Hanseatic ( liên minh thương mại Bắc Âu ), đối tác thương mại truyền thống của Scotland. Không có lý do để cho sử rằng những tay cung của rừng Ettrick lại sử dụng một cây cung ngắn hơn và ít mạnh mẽ hơn các cây cung của người Anh và xứ Wales như đôi khi người ta nghĩ vậy. Truyền thống bắn cung không phát triển mạnh ở Scotland nhưng thế yếu của các cung thủ Scotland là nằm ở số lượng của họ hơn là vì họ thiếu những cây trường cung mẽ.

    Bản thân Wallace cũng có liên quan đến một loại vũ khí, không phải là thanh kiếm to bản-claymore khổng lồ như trong truyền thống hoặc tưởng tượng mà sử dụng cây cung như là biểu tượng trên con dấu của mình.


    [​IMG]
    Tranh vẽ những người lính giáo binh Scotland đang siết chặt hàng ngũ trong đội hình Schiltron để chuẩn bị tấn công vào kỵ binh Anh, vị hiệp sỹ chỉ huy của họ theo cờ hiệu thì thuộc nhà Douglas.


    Đội hình Schiltron

    Thuật ngữ "schiltron " được sử dụng bởi Walter Guisborough để mô tả đội hình của các giáo binh Scotland ở trận Falkirk "... các vòng tròn được lập nên bởi những người lính bộ binh, và những vòng tròn này được gọi là schiltroun". Sau đó thuật ngữ này được sử dụng bởi các nhà văn khác có nghĩa là không có một đội hình cụ thể đặc biệt nào khác hơn là những chiến binh đứng sát nhau, vai kề vai ( có thể là hình vuông, lục lăng … chứ không chỉ là hình tròn). Thuật ngữ này có thể cũng được dịch là “Bức tường lá chắn” nhưng chúng ta không thể chắc chắn rằng các giáo binh Scotland có sử dụng những tấm lá chắn thực sự hay chỉ là những tấm mộc nhỏ. Có vẻ như trong trận chiến họ sẽ phải quàng chúng trên lưng để dùng cả hai hai bàn tay nắm giữ ngọn giáo cồng kềnh. Chiltron có lẽ là một đội hình gồm sáu hàng sâu với những chiến binh có áo giáp tốt hơn đứng ở các hàng đầu tiên. Đội hình chiltron của Wallace đã chiến đấu trong một thế trận phòng thủ ở Falkirk và điều này đã dẫn đến làm giảm khả năng cơ động của quân Scotland. Tuy nhiên tại Stirling Bridge không chỉ ở thế thủ, người Scotland có lẽ đã cơ động đến gần đối phương một cách đúng lúc, và người ta cho rằng chỉ một schiltron hặc một loạt đội hình kiểu này của quân Scot đã tấn công theo cùng một kiểu và đẩy người Anh xuống sông. Tại Falkirk, Edward chỉ đơn giản là đã không tạo cơ hội cho các schiltrons cơ động. ( bởi vì quân Anh có một số lượng kỵ binh quá lớn nên quân Scot phải dàn đội hình kiểu này, tại trận Falkirk kỵ binh Anh xung phong và bị đánh cho tơi bời với số thiệt mạng lên đến hơn 1.000 kỵ sỹ, người Anh phải dùng lực lượng cung thủ trường cung để rỉa nát đội hình schiltron của quân Scotland từ một khoảng cách an toàn)






    [​IMG]
    Các giáo binh Scotland tấn công và đánh bại đội quân tiên phong của Anh


    Kỵ binh Scotland

    Người Scotland đơn giản là không có đủ nguồn lực để thành lập một lực lượng lớn kỵ binh thiết giáp để đối đầu với các kỵ sỹ của Anh. Điều này đã được thể hiện trong trận Dunbar và một lần nữa ở trận Falkirk. Nhà sử học Guisborough không tin là quân đội của Wallace có một số lượng kỵ binh lớn mà chỉ cho rằng ông này đã có độ 180 kỵ binh ở trận Stirling Bridge, chúng ta phải chấp nhận thực tế này. Nhà Comyns và các Bá tước khác có cho mượn hoặc hỗ trợ, mặc dù họ không xuất hiện trong trận Falkirk và đóng góp một lực lượng kỵ binh nhỏ có thể lên đến dưới 500 lính kỵ binh. Guisborough nói rằng họ đã "bỏ chạy mà không kịp rút kiếm." Một số nói rằng có sự phản bội trong số các quý tộc Scotland, nhưng có lẽ là các kỵ binh người Scotland chỉ đơn giản là bỏ chạy khỏi chiến trường khi gặp phải các kỵ binh hạng nặng của Anh.

    [​IMG]
    Và dồn họ về phía bờ sông, cây cầu đã bị nghẽn và gần như tất cả những lính Anh nhảy xuống sông đều chết đuối vì sức nặng của đồ binh giáp mà họ mang trên người
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận đánh


    Theo nguồn tài liệu đương đại: Quấn biên niên sử của Valter Hemingborough của Guisborough Priory tại vùng Cleveland phía Bắc của Yorkshire là nguồn tin chính đương đại cho các trận đánh Stirling Bridge và Falkirk. Trong thực tế, nguồn tin chính của ông cũng là nguồn kiến thức cho chúng ta về tình hình Scotland vào thời điểm này. Quấn biên niên của Walter là đáng tin cậy và đầy đủ thông tin, các ghi chép của ông về các trận đánh là rất thực tế, không có các ghi chép chi tiết khác đi ngược lại với những gì mà ông đã viết. Walter đã dành mực để viết các bài khai thác bản chất anh hùng của Marmaduke tại Stirling Bridge. Nhưng thật không may tại thời điểm trận Falkirk, Marmaduke lại đang là một tù binh của người Scotland nên Walter không thể sử dụng ông để mô tả về các chi tiết của trận đánh đó. Không có bằng chứng nội tại trong các bài viết của Walter về trận Falkirk cho thấy các nguồn tin của ông, mặc dù nhiều hiệp sĩ đến từ phía Bắc, bao gồm cả những người ở những vùng đất giáp ranh với nhà dòng Guisborough Priory đã chiến đấu ở đó. Có các dấu hiệu thuyết phục trong quấn biên niên của Walter rằng ông và Hugh Cressingham ( tay quan coi ngân khố của Anh ở Scotland ) có quen biết nhau. Cressingham có ràng buộc với vùng Guisborough và Walter không bao giờ bỏ lỡ một cơ hội để miêu tả ông này với một tí chút tô hồng. Quấn sách của tôi ( Peter Amstrong – người viết quấn Battles of Stirling Bridge and Falkirk mà người sưu tầm đang giới thiệu) về các trận chiến này bám sát những ghi chép của Walter Guisborough một cách chặt chẽ.

    Địa hình của bãi chiến trường


    [​IMG]
    Cây cầu Stirling Bridge bằng đá được xây dựng ở thế kỷ 15 để thay thế cây cầu gỗ





    [​IMG]






    [​IMG]
    Lâu đài Stirling quan sát từ địa điểm trận chiến






    [​IMG]
    Toàn cảnh bãi chiến trường trận Stirling Bridge


    Stirling Bridge là một cây cầu bằng gỗ lớn, có tám chân cầu bằng đá, mặc dù nó hầu như không đủ rộng để cho phép một chiếc xe và một con ngựa lưu thông một cách dễ dàng. Cây cầu đá hiện nay được xây dựng ở thế kỷ 15 được sử dụng như là một cây cầu đường bộ. Các móng và nhịp còn lại của cây cầu cũ tạo một góc với sông Forth thay vì cắt ngang một cách trực tiếp, mặc dù điều này có thể là do dòng sông đã đổi chiều trong nhiều thế kỷ. Cây cầu thời trung cổ có lẽ đã bắt Warenne ( tư lệnh quân Anh ) đổ quân bao quanh một khúc uốn cong của con sông. Họ có thể đã lập đội hình ở phía bắc của con sông và chọn địa điểm mà các cuộc tấn công của người Scotland chắc chắn đã đẩy một số lượng lớn quân Anh vào một cái bẫy được hình thành từ khúc sông quanh co này. Từ cây cầu, một con đường đắp cao chạy về phía tây bắc qua một bãi chăn thả gia súc có thể một cách nhanh chóng biến thành đầm lầy sau những cơn mưa lớn.

    Bên ngoài khu này là rừng cây rậm rạp-Abbey Craig, một đoạn tách ra của vùng đồi Hills Ochil, kéo dài 360ft ở trên các đồng bằng phẳng của Forth. Cả hai Abbey Craig và Stirling Castle, đều được định vị trên các tảng đá cách con sông một dặm rưỡi, tạo ra một bức tranh toàn cảnh về chiến trường. Chỉ hơn một dặm ngược dòng sông theo đường chim bay từ cây cầu Stirling Bridge, giữa giới hạn của thủy triều đến điểm mà con sông Teith đổ vào Forth là khúc sông cạn nước mà Richard Lundie ( một chỉ huy của quân Anh trong trận này ) nói rằng có thể vượt sông tới sáu mươi người một lần". Khu vực ngày nay có nhiều thay đổi kể từ thời của Wallace bởi việc hệ thống đường bộ hiện đại và công trình thoát nước được xây dựng và dòng sông trở nên sâu rộng làm cho người ta khó mà chấp nhận tuyên bố của Lundie. Cũng không phải là dễ dàng có một khúc nông có thể vượt qua được ở đây quanh năm hoặc sau khi mưa lớn và lực lượng của Lundie sẽ phải vòng tròn phía bắc để đến khúc sông nông Teith trước khi họ có thể tạo mối đe dọa vào sườn của Wallace. Không nghi ngờ gì khúc nông Frew được biết đến và qua lại trong năm 1297, nhưng vị trí của nó là sáu dặm ở phía trên Stirling, quá xa để có thể vượt qua theo đề nghị của Lundie.

    Các di chuyển ban đầu

    Khúc dạo đầu cho trận đánh là sự di chuyển của James Stewart và những người trong đại đội của Bá tước Lennox cùng với một số lãnh chúa người Scotland khác, những người gia nhập với đạo quân của Bá tước Surrey ( quân Anh) ở Stirling. Có lẽ họ gần như không có sự lựa chọn nào khác là phải quy hàng Edward I, họ được triệu tập để phục vụ vua Anh với lực lượng của mình ở Stirling. Động lực đằng sau việc họ đến và bỏ đi trước khi trận chiến nổ ra gần như chắc chắn là bởi lòng ích kỷ, họ đã chờ đợi xem tình hình sẽ diễn biến như thế nào, và chòi chân vào cả hai phe. Stewart và đại đội của ông ta đề nghị với vị bá tước (Bá tước Surrey) là hãy hoãn binh thêm một khoảng thời gian nữa để họ có thể có thể nói chuyện với các nhà lãnh đạo Scotland và giải quyết tình hình một cách hòa bình. Phái đoàn mà họ cử đến gặp Murray và Wallace đã không mang lại được kết quả gì, cũng chẳng có ai tin tưởng Stewart và các đồng hành của ông này sau khi họ đã thương thuyết với người Anh tại Irvine, những sự tráo trở của họ đã bị cả hai Murray và Wallace thấu hiểu một cách rõ ràng.

    Stewart và đại đội của ông ta trở về doanh trại của quân Anh tại Stirling vào ngày 10 tháng 9 và hứa hẹn sẽ tăng cường thêm vào lực lượng của vị bá tước với 40 kỵ sỹ bọc thép vào ngày hôm sau. Khi họ di chuyển trong tối hôm đó, họ gặp một toán quân làm nhiệm vụ đột kích đang quay trở lại doanh trại, giữa hai bên đã nổ ra tranh cãi trong thời gian đó, Bá tước của Lennox đã đâm bị thương vào cổ lính bộ binh-một trong số những người cãi vã với ông ta bằng thanh kiếm của mình. Sự kiện này loan ra khắp toàn quân và đồng đội của người bị thương đã mang người này đến trước Bá tước của Surrey để đòi trả thù ngay trong buổi đêm. Tuy nhiên, vị bá tước nói với họ hãy chờ đợi đến buổi sáng và để xem liệu các lãnh chúa Scotland có giữ lời hứa của họ, và sau đó họ sẽ có cơ hội trả thù cho sự xúc phạm. Sau khi ra lệnh cho quân đội chuẩn bị sẵn sàng để vượt qua cây cầu Stirling Bridge vào buổi sáng, vị bá tước lên giường nằm nghỉ. Lúc này ông đã 66 tuổi và rất ốm yếu, ông đã viết thư cho nhà vua và khiếu nại về tình hình của bệnh tật của mình vào tháng trước và đã có dự kiến sẽ được thay thế bởi Brian Fitzalan của Bedale. Tuy nhiên những khó khăn về tiền bạc đã buộc vị bá tước đã cao niên vẫn còn phải nhận nhiệm vụ và quay lại phía Bắc để chỉ huy quân đội mặc dù ông không muốn lắm. Vào lúc bình minh của quân Anh bắt đầu vượt sông, cây cầu Stirling Bridge chỉ đủ rộng để cho hai kỵ sỹ đi ngựa hàng đôi nên phải mất một khoảng thời gian khá lâu để đội quân tiên phong có thể vượt qua, tuy nhiên họ đã bị gọi về rồi lại vượt qua cây cầu một lần nữa, vì vị bá tước vẫn chưa thức dậy.

    Khi Warenne thức dậy, theo truyền thống, trước khi bắt đầu một trận chiến ông đã gia phong tước hiệp sĩ cho một số các Hộ sỹ vào lúc đó, những người mà như Guisborough đã rầu rĩ kể lại-rất nhiều người trong số họ đã ngã gục trong ngày hôm đó. Sau đó quân Anh lại bắt đầu băng qua cây cầu Stirling Bridge một lần nữa, nhưng rồi một lần nữa họ lại quay trở, lần này là vì Stewart và Lennox cùng tiến vào trại và vị bá tước nghĩ rằng họ đến để chuyển lời nhắn xin quy hàng của người Scotland. Ông đã sai lầm, họ chỉ đến để xin lỗi vì đã không thuyết phục được người Scotland quy hàng và cũng không mang đến 40 binh sỹ như đã hứa hẹn. Cuối cùng, Warenne gửi hai vị tu sĩ dòng Dominican để điều điều đình với các thủ lãnh của người Scotland lúc này đang đóng ở Craig Abbey.

    Tuy nhiên, người Scotland đã thách chiến và đuổi các sứ giả quay trở lại với câu nói nổi tiếng mà Guisborough cho rằng là của Wallace; “ Hãy quay lại với câu trả lời này, chúng tôi đến đây không phải là để đàn phán hòa bình, mà là tham gia trận đánh để bảo vệ chính mình và giải phóng vương quốc của chúng tôi. Hãy để họ đến đây và chúng tôi sẽ chứng minh điều này trước mặt của họ.“



    Giai đoạn bắt đầu cho trận chiến

    Quân đội mà Wallace và Murray hội binh lại với nhau tại Stirling là nhiều hơn một sự kết hợp của các lực lượng đột kích cơ động mà họ đã chỉ huy trước đây. Lực lượng của họ vừa được bổ sung bằng những người mới đến, huy động từ các đội quân của các Bá tước, những người mà theo luật pháp, được phép vũ trang và được trang bị tốt nhất trong số đó, họ ( quân đội của các Bá tước Scotland ) sẽ tạo thành những hàng đầu tiên của đội hình schiltrons. Quân đội được vội vã tập hợp và các nhà lãnh đạo Scotland chỉ có một ít thời gian để đào tạo người của mình trong việc thành lập và cơ động trong những đội hình chiến đấu lớn cần thiết cho trận chiến, tuy nhiên như các sự kiện sau này đã chứng minh rằng cho dù thời gian là rất gấp rút, họ vẫn đã sẵn sàng cho chiến đấu. Người Scotland chiếm vị trí trong rừng Abbey Craig cho phép họ thách thức bất kỳ nỗ lực để vượt qua sông Forth và có thể quan sát chuyển động của đối phương trong khi vẫn dấu kín lực lượng của mình. Họ sử dụng chiến thuật theo dõi và chờ đợi để hoặc chấp nhận một trận chiến nếu tình hình thuận lợi, hoặc rút lui nếu thấy bất lợi. Từ trên các tảng đá của Craig Abbey, Wallace và Murray quan sát việc đến và đi của quân đội Anh trên cây cầu <ST1:PStirling </ST1:PBridge</ST1:P với một số lúng túng. Liệu họ có nên bắt đầu trận đánh hay không, cuối cùng hai nhà lãnh đạo đã nhất trí ra lệnh cho quân đội Scotland bắt đầu bước vào trận chiến. Quân đội Scotland đã cắm trại trong rừng giữa Craig Abbey và Ochil Hills trong vài đêm hôm trước. Đó là một nơi che giấu và có thể cung cấp một lối thoát qua các ngọn đồi trong trường hợp thua trận, nhưng nó không phải là nơi để triển khai một sô lượng binh lính lớn vào các đội hình chiến đấu.

    Người Scotland tiến lên từ phía rừng và thành lập đội hình chiến đấu của họ ở phía dưới Craig Abbey trong tầm mắt của người Anh. Chỉ cách đó có một dặm đường, các chỉ huy người Anh quan sát việc triển khai của quân Scotland từ những bức tường có lỗ châu mai của lâu đài Stirling Castle. Cả Warenne và Cressingham đều đánh giá thấp sức mạnh và khả năng chiến đấu của người Scotland. Warenne đã không biết rằng quân đội Scotland mà Wallace và Murray đã mang đến Stirling là một lực lượng khác xa đội quân vô tổ chức mà ông ta đã đánh bại một cách quá dễ dàng tại trận Dunbar. Lúc đó có một số các hiệp sĩ nhiều kinh nghiệm hơn, Richard Lundie là một người trong số đó, đã lo lắng về những gì họ đã nhìn thấy bên kia bờ sông và cho rằng cần thiết phải thận trọng.
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Một cuộc họp Hội đồng quân sự

    Warenne cho tập hợp các hiệp sỹ cầm cờ của mình vào một hội đồng quân sự, vị hiệp sĩ người Scotland-Richard Lundie, người đã gia nhập vào quân Anh sau sự kiện Irvine dường như là một trong số ít những người cảm thấy có những điều chẳng lành trong số những người có mặt. Ông tóm tắt ngắn gọn tình hình và cảnh báo; “ My lords, nếu chúng ta vượt qua cây cầu Stirling Scotland và buộc họ phải quay ra đối phó với mối đe dọa mới của mình. Đó là một hành động có thể sẽ thay đổi kết quả của trận đánh và người ta có cơ sở để cho rằng chiến thắng sẽ thuộc về người Anh. Quyết định của Warenne là một đánh giá hoàn toàn sai lầm và Guisborough bình luận rằng những gì đã xảy ra hoàn toàn đúng với những dự tính của Lundie “ nực cười là họ không bao giờ lại nghĩ kết quả của trận đánh lại khủng khiếp như vậy, tất cả những vị chỉ huy giàu kinh nghiệm, mặc dù họ biết đối phương chuẩn bị sẵn sàng, và họ bắt đầu vượt qua một cây cầu rất hẹp thậm chí rất khó khăn cho hai người cưỡi ngựa đi hàng đôi và họ đã mất cả buổi sáng để chuyển quân mà không gặp trở ngại gì, cho đến khi đội quân tiên phong đã được chuyển sang một bên bờ của dòng sông và phần còn lại của quân Anh lại ở bên kia. Thực sự, không có nơi nào tốt hơn trong vùng đất này để trao tính mạng của quân Anh vào tay của người Scotland-một lực lượng hùng mạnh mặc dù ít hơn rất nhiều về số lượng "

    Khoảng non nửa quân Anh, cả kỵ binh và bộ binh, đã vượt qua cây cầu Stirling Bridge vốn rất hẹp vào lúc 11:00 cùng với Cressingham và cờ hiệu của nhà vua và vị bá tước Tổng chỉ huy. Đội quân tiên phong gồm khoảng 2.000 người, bao gồm chỉ hơn 100 hiệp sỹ và một lực lượng bộ binh xứ Wales mạnh mẽ. Các hiệp sĩ đáng gờm của Marmaduke de Thweng vùng Yorkshire cùng với đội kỵ binh của Richard Waldegrave-huân tước của <ST1:PStirling </ST1:PCastle</ST1:P và nhiều binh lính đồn trú của ông.

    Người Scotland bàn bạc

    Các thủ lãnh Scotland bắt đầu nhận ra rằng quân đội Anh bắt đầu thành lập đội hình ở phía bắc của con sông lần thứ ba vào buổi sáng, lần vượt sông này được tiến hành một cách nghiêm túc. Khoảng thời gian trong buổi sáng ngày hôm đó hầu như không cho phép quân Anh đưa sang bên bên kia bờ sông những toán quân lớn. Có thể họ ( người Anh ) cho rằng quân địch ( quân Scotland ) đã rút lui trước khi quân Anh chuyển qua cây Stirling </ST1:PBridge</ST1:P đủ quân để mở ra một cuộc tấn công. Những gì đang diễn ra có thể đã có tác dụng cảnh báo các thủ lãnh Scotland về hành động của người Anh và họ cần có một khoảng thời gian để thảo luận về các biện pháp trả đũa. Một Hội đồng quân sự có lẽ đã cho phép những sĩ quan Scotland có kinh nghiệm nhất thảo luận về tình hình, những gì mà Warenne đã cho tiến hành ở phía bên kia của con sông. Trong trường hợp này người Scotland đã quyết định rằng, thay vì binh bất động và phòng thủ, cho phép toàn bộ quân đội Anh qua sông và tấn công họ, họ sẽ chủ động tấn công trước nhằm tiêu diệt đội quân tiên phong của đối phương vốn đang ở một tình trạng rất bấp bênh.


    [​IMG]
    Tổ chức và lực lượng của cả hai bên ( có điều đáng chú ý là tài liệu này được lấy từ một sử gia người Anh nên ông vày có xu hướng giảm bớt số lượng quân Anh và tăng quân Scotland lên để đỡ bị mất mặt


    Quân đội Scotland tấn công


    [​IMG]
    Tranh vẽ trận chiến Stirling Bridge, Andrew Moray là Hiệp sỹ cưỡi ngựa ở phía tay phải với huy hiệu 3 ngôi sao ở chiếc khiên, William Wallace ở bên trái, mặc áo đỏ có hình con sư tử trắng

    Tập hợp trong những đội hình schiltron chặt chẽ với chiều sâu sáu hàng, 6.000 binh sỹ Scotland đã dàn trận ở Craig Abbey dưới con mắt thận trọng của các chỉ huy của họ. Họ xuất hiện trước đội quân tiên phong của Anh ở khoảng cách dưới một nửa dặm trên một đồng cỏ bằng phẳng, tạo thành một người đám đặc với tua tủa những ngọn giáo sáng lóa. Có cung thủ từ rừng Selkirk đến để hỗ trợ và một lực lượng nhỏ trong khoảng 180 kỵ sỹ làm dự trữ, có lẽ là để đánh chặn bất kỳ mối đe dọa nào từ bên cánh. Trong khi đó, kỵ binh Anh đã vượt qua sông và chờ đợi một cách thiếu kiên nhẫn các bách đội bộ binh đang khẩn trương triển khai thành đội hình dòng sau khi họ vượt qua cây cầu hẹp. Wallace và Murray biết rằng họ phải tấn công ngay lập tức và đẩy kẻ thù xuống sông trước khi họ có tập trung một lực lượng quân quá lớn ở bờ bắc. Họ không muốn tấn công quá sớm-sẽ lãng phí cơ hội để phá hủy một khá lớn quân đội Anh. Đó là một tình huống cần có người chỉ huy kiên quyết và biết phán đoán tình huống đúng lúc. Ta phải giả định rằng chọn thời điểm để tấn công là một quyết định chung của cả Wallace và Murray vì họ là đồng chỉ huy, và đây là một quyết định rất khó khăn. Tuy nhiên quyết định đã được đưa ra vào đúng thời điểm. Đúng vào lúc người cuối cùng của 2.000 người trong đội quân tiên phong của Anh bước lên bờ phía bắc của Forth, hiệu lệnh tấn công đã được ban bố. Một tiếng còi thổi to từ trên Craig Abbey và các đám giáo binh Scotland bắt đầu sải bước về phía trước với một quyết tâm khắc nghiệt, các schiltron với những ngọn giáo sắt sáng lóa ( đương nhiên chỉ có mũi giáo bằng sắt) như những con nhím khổng lồ với cờ hiệu của họ bay phần phật ở phía trước. Các bước tiến của họ rất đều đặn với các sỹ quan của họ cố gắng ra lệnh và kiểm soát tốc độ và khoảng cách giữa các hàng quân. Lúc này Wallace và Murray nhảy lên ngựa, đội mũ sắt lên đầu cùng với các kỵ sỹ của họ chiến đấu tại tuyến đầu. Ở khoảng cách 1.000 yard quân Scotland tách tách ra thành hai đội quân và hầu hết khoảng cách giữa hai đội quân này được giữ nguyên với tốc độ không đổi và không có sự rối loạn giữa các hàng quân. Những binh sỹ Scotland có áo giáp tốt nhất đứng ở hàng đầu tiên của các schiltrons đang tiến lên và họ cổ vũ lẫn nhau khi những mũi tên bắt đầu bắn trúng vào đội hình của họ và đã có người bắt đầu gục ngã.

    [​IMG]
    A. Quân Anh-mầu đỏ
    B. Quân Scotlend-mầu xanh
    1. James Stewart và Bá tước Lennox được Warenne-Bá tước Surrey cử đi đàn phán với người Scotland
    2. Wallace và Murray quan sát di chuyển của quân Anh từ Craig Abbey
    3. Bá tước Surrey quan sát từ trên bức tường thành của lâu đài Stirling
    4. Quân Anh bắt đầu vượt sông
    5. Khi Bá tước Surrey thức dậy, ông bắt đầu tấn phong cho các hiệp sỹ và gọi số quân Anh đã qua sông quay trở lại
    6. Bá tước Surrey cử hai tu sỹ dòng Dominican đi thương thuyết hòa bình
    7. Wallace và Murray cho lập đội hình chiến đấu gồm 6 hàng dọc và 100 ngàng ngang với những binh sỹ có áo giáp tốt nhất ở hàng đầu
    8. Một cuộc họp Hội đồng quân sự, Bá tước Surrey quyết định vượt sông bất chấp những phản đối của một số hiệp sỹ
    9. Khoảng non nửa quân Anh, cả kỵ binh và bộ binh, đã vượt qua cây cầu Stirling Bridge vốn rất hẹp vào lúc 11:00 cùng với Cressingham và cờ hiệu của nhà vua và vị bá tước Tổng chỉ huy


    [​IMG]
    1. Quân Anh đã vượt sông lập đội hình chiến đấu trong khi các đội quân khác của người Anh tiếp tục vượt sông
    2. Khi người cuối cùng của đội quân tiên phong của Anh bước lên bờ phía bắc của sông Forth, hiệu lệnh tấn công đã được ban bố, quân Scotland tiến theo một đội hình đều đặn về khoảng cách
    3. Khi quân Scotland thu hẹp khoảng cách và áp vào gần được đội quân tiên phong của Anh, các giáo binh Scotland bắt đầu tấn công
    4. Quân Anh bị tràn ngập và không làm đưọc gì nhiều để chống trả và bị đẩy dần về phía khúc sông quanh co
    5. Quân Scotland chiếm lối thoát về cây cầu, quân Anh bị bẫy trong khúc cong của cây cầu, phần lớn trong số họ không thể chạy thoát và bị đối phương tàn sát
    6. Không thể vượt được sông, phần còn lại của quân Anh ở bờ Bắc chỉ còn biết trố mắt đứng nhìn quân Scotland tàn sát đạo quân tiên phong của họ
    7. Sir Marmaduke de Thweng của IyIlloii và nhóm nhỏ kỵ binh của ông ta đã thành công trong việc phá vây, và cưỡi ngựa vượt sông để thoát thân ( nhưng hình như bản thân ông này vẫn bị bắt tù binh)
    8. Khoảng 300 lính bộ binh xứ Wales trang bị nhẹ và không mặc áo giáp đã trốn qua khúc sông an toàn, nhưng rất nhiều binh lính Anh khác đã chết đuôi khi vượt sông

    Theo những tiếng còi hiệu lệnh cấp bách các đội giáo binh thu hẹp khoảng cách để tấn công và các schiltrons siết chặt đội ngũ và háo hức tiến về phía đối phương. Cây cầu Stirling Bridge vẫn bị chặt cứng bởi quân Anh, một số người khác đã điên cuồng tìm cách triển khai một số loại phòng thủ ở phía trước cùng với những người đã vượt qua sông trước đó, một số khác lại bị dao động khi quân Scotland bao quanh và lao vào họ. Tât cả các lực lượng kỵ binh, cung thủ và giáo binh đều không thể chịu được sức mạnh và độ tàn khốc của cuộc tấn công của quân Scotland. Họ bị tràn ngập, bị đông cứng và đẩy lùi trở lại trước những hàng giáo binh Scotland rồi rơi vào cái bẫy được hình thành bởi vòng lặp của khúc sông phía sau của họ. Đầu cầu đã sớm nằm trong tay người Scotland và không có lối thoát bởi một số lượng rất lớn binh sỹ Anh đang tắc nghẽn và hoảng loạn, với kỷ luật bị tan vỡ, quân Scotland cắt một qua một vùng rộng lớn đẫm máu của các đội quân Anh và tàn sát phần lớn trong số này. Warenne, Huntercombe và Latimer ( Đạo trung quân của quân Anh ) đều không thể vượt qua cây cầu Stirling </ST1:PBridge</ST1:P, cũng với phần lớn quân đội của mình, họ chỉ có thể đứng há hốc mồm nhìn một cách kinh ngạc từ bờ đối diện để quan sát quân Scotland làm công việc đẫm máu của họ. Không có đường thoát cho đội quân tiên phong bị mắc kẹt và rất nhiều lính vũ trang và thậm chí số lính bộ binh đã bị thiệt mạng bởi quân Scotland còn ít hơn số bị chết đuối khi cố gắng để qua sông trong những bộ áo giáp nặng nề của họ; mặc dù ít nhất có một hiệp sĩ cùng con ngựa của ông ta-cả hai vẫn còn được bọc thép đầy đủ đã bơi qua khúc sông một cách cực kỳ khó khăn. Khoảng 300 lính bộ binh xứ Wales trang bị nhẹ và không mặc áo giáp đã trốn qua khúc sông an toàn với ít khó khăn hơn.

    Những người khác không được may mắn như vậy, vị huân tước của Stirling Castle cùng với rất nhiều quân đồn trú của ông đã thiệt mạng trong thảm họa này, Cressingham-vốn béo phì nên ngồi không chắc trên lưng ngựa đã bị kéo xuống đất và bị giết chết dã man. Tuy nhiên hiệp sĩ Marmaduke de Thweng của Yorkshire đã tận dụng sự hỗn loạn này và trốn thoát; không còn nghi ngờ gì nữa Guisborough đã sưu tầm những câu chuyện này từ những chính những chiến binh đáng gờm chính mình. Marmaduke quan sát trong nỗi thất vọng khi thấy lá cờ của nhà vua và vị bá tước Tổng chỉ huy lần lượt đổ gục dưới các ngọn giáo của quân Scotland và lúc này ông ta nhận ra rằng đội quân tiên phong đã biến mất. Ông tập hợp lại các kỵ sỹ của mình và thay vì mạo hiểm chết đuối do cố gắng bơi qua sông, ông đã dẫn họ mở đường máu xuyên qua các hàng giáo binh Scotland và quay lại phía sau về phía cây cầu. Cuộc tấn công của nhóm kỵ binh bọc thép đã gạt được quân Scotland sang một bên và với Marmaduke dẫn đầu nhóm, họ mở một con đường máu về phía lối thoát của họ. Tại một thời điểm, người cháu trai trẻ tuổi của Marmaduke đã bị ngã xuống đất vì con ngựa của anh này đã bị giết, anh ta liền kêu lên để mong có sự giúp đỡ vì quân Scotland đang tiến lại gần. Marmaduke nhảy xuống từ trên yên ngựa của mình và nhấc bổng người thanh niên lên phía sau lưng viên Hộ sinh của ông ta ( hai người một ngựa ), sau đó ông lại lên ngựa và dẫn dắt họ nguyên vẹn đến cây cầu nơi mà ông và toán kỵ sỹ sức tàn lực kiệt của ông đã tìm cách để thoát sang bờ bên kia một cách an toàn. Trận phá vòng vây của Marmadukc là hành động kháng cự cuối cùng có tổ chức, chiến thắng của người Scotland là hoàn thành trọn vẹn; Warenne và phần quân đội còn lại của ông ta chỉ có thể đứng nhìn trong sự thất vọng khi quan sát kẻ thù sử lý nốt phần còn lại của đội quân vẫn còn bị mắc kẹt ở phía bắc của con sông.

    Người Scotland đã trả thù một cách rùng rợn vào cái xác chết béo phì của Cressingham ( vì chắc là ông ta đã bóp nặn họ bằng thuế má một cách khủng khiếp ) và Guisborough cho biết rằng họ đã lột da ông này và chia những miếng da của ông ta cho binh lính của họ-không phải là làm vật lưu niệm mà để chứng tỏ sự thù hận đối với ông ta. Sau khi hài lòng với sự trả thù họ làm cho ông ta một chiếc bia mộ có ghi «Trong số những kẻ lừa gạt ngày hôm nay, hắn ta là kẻ lừa gạt nhất, trơn trượt nhất, kiêu căng nhất, nghiện ngập nhất, tham lam nhất.« Cái xác đã bị lột da của Cressingham dường lại trở nên nổi tiếng ở Anh như trong một số các ghi chép khác dù nó chỉ để tả mức độ đẫm máu của trận đánh.

    Tuy nhiên trận giao tranh cũng không hoàn toàn là một chiều, bởi vì Andrew Murray đã nằm trong số người chết và bị thương trong trận đánh. Tên của ông tiếp tục xuất hiện trong một thời gian nữa trên các công văn giấy tờ cùng với Wallace như là Chỉ huy của quân đội Scotland, nhưng dường như ông đã qua đời vào đầu tháng mười.
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    QUÂN ANH THÁO CHẠY


    Chỉ có một phần của quân Anh bị đánh bại và tiêu diệt, phần lớn vẫn chưa tham chiến, nhưng thế cũng là đủ vì toàn bộ quân Anh đã chở nên chán nản và không thể khôi phục lại sau cuộc chiến mặc dù số lượng của họ vẫn còn đông hơn kẻ thù. Warenne rời bỏ cây cầu Stirling Bridge bị phá vỡ đằng sau ông ta và chạy trốn về Berwick một cách an toàn với một kỵ binh hộ tống mạnh mẽ. Ông ta đã bỏ đi một cách cực kỳ vội vàng, như Guisborough mô tả, “ như con ngựa của ông bao giờ được nếm mùi chạy nhanh như vậy” ông không chỉ bỏ lại quân đội của mình mà là toàn bộ miền nam Scotland cho số phận của họ và để lại một miền Bắc nước Anh rộng mở cho các cuộc tấn công trả thù của người Scotland. Marmaduke de Thweng và William Fitzwarin là những vị bá tước được uỷ thác việc bảo vệ lâu đài Stirling và ông hứa sẽ trở lại với một lực lượng mạnh vào trước cuối năm đó. Mặc dù đơn vị đồn trú đã được tăng cường bởi Robert de Ros của Wark từ Tweed và đoàn tùy tùng của ông này nhưng quân cứu viện thực sự đã không đến. Lâu đài này đã không thể chịu được một cuộc phong tỏa kéo dài và nhanh chóng đầu hàng Wallace. Ros đã bị trói bằng xích xắt và bỏ tù tại Dumbarton Castle, Fitzwarin và Thweng đã được tha như là một phần của cử chỉ nghĩa hiệp của Wallace, mặc dù không có gì phải nghi ngờ họ là những con tin có giá để đổi lấy tiền chuộc. Marmaduke được trao đổi cuối cùng tháng 4 năm 1299 sau hơn một năm làm một tù nhân, để đánh đổi lấy hiệp sĩ Scotland John de Moubray-người vào thời gian đó đang bị giam cầm bởi người Anh. Không có bất kỳ hồ sơ nào về tù nhân của cuộc chiến; có lẽ người Scotland đã không bắt tù binh. Khi quân đội Anh rơi bỏ lâu đài Stirling và hành quân về phía nam, Stewart và Bá tước của Lennox đã nắm lấy cơ hội này để rời bỏ quân Anh, lúc này họ tìm cách góp tí chút vào thắng lợi của Wallace để tự thổi phồng hình ảnh của họ trước người Scotland. Họ bám đuôi hàng ngũ quân Anh vốn đã bị mất tinh thần và những người lạc ngũ cho tới tận Falkirk. Họ là những người đi theo để phục vụ quân đội và các đoàn xe hành lý kéo dài để chở thương binh vượt qua đầm lầy phía đông nam của Stirling, quân của nhà Stewart đổ ồ vào họ, giết chết những người đánh xe ngựa không may, cướp bóc các xe chở hành lý nặng nề cướp được rất nhiều chiến lợi phẩm. Kỵ binh của quân Scotland bám đuổi và quấy rầy quân Anh lúc này đang rút lui về hướng Berwick, mặc dù họ không thể gây thêm thiệt hại nào đáng kể cho người Anh. Wallace với phần lớn quân đội của mình vẫn ở lại trong vùng Stirling, ăn mừng chiến thắng và chia sẻ những chiến lợi phẩm thu được từ trận đánh.

    Hậu quả của trận Stirling Bridge

    Trận chiến Stirling Bridge và cái chết của Murray trong tháng 11 làm cho Wallace trở thành nhà lãnh đạo không thể tranh cãi của Scotland, một vị trí mà ông nắm giữ cho đến sau kết thúc trận chiến Falkirk vào tháng Bảy năm sau. Tin tức về thảm họa tại Stirling lan tỏa nhanh chóng và đã gây sốc một cách khủng khiếp cho Quốc hội Anh quốc. Họ đối phó ngay không chậm trễ và ra lệnh cho các viên quận trưởng của Nottingham và Dery gửi các hiệp sĩ và binh lính của họ lên miền Bắc để chi viện cho Robert Clifford và Brian Fitzalan-những người bảo vệ biên giới những lực lượng tốt nhất mà họ có thể huy động tại địa phương. Robert Bruce tái xuất hiện và tập hợp quân đội ở phía tây-nam và Clifford đã đột kích các vùng đất của mình tại Annandale để trả thù cho các hoạt động của ông ta. Bá tước Surrey đi thẳng đến London sau khi chạy khỏi Scotland, ông cùng với Henry Percy hỗ trợ cho hoàng gia chống lại Norfolk và Hereford (các quý tộc địa phương của Anh). Trong tháng 10 các rạn nứt giữa nhà vua Anh và các Bá tước đã được hàn gắn và ngăn ngừa được mối đe dọa xảy ra nội chiến, sự chuẩn bị được tiến hành để gửi một lực lượng lớn kỵ binh và bộ binh đến Newcastle để phù hợp với tình hình ở miền Bắc. Wallace đã không ngay lập tức khuếch trương chiến thắng của mình tại Stirling bằng việc tấn công vào miền bắc nước Anh, trong khi đối phương đang ở trong tình trạng lộn xộn như đã được mong đợi. Khi ông đối mặt với quân Anh ở bên ngoài Berwick vào cuối vào tháng Chín, ông đã buộc phải lui quân để sắp xếp lại lực lượng để dàn trận chiến đấu. Tuy nhiên, ở Scotland đã gần như xóa sạch quân đội chiếm đóng, các lâu đài Dundee và Stirling chỉ chống lại được một thời gian, có lẽ chúng đầu hàng vào đầu năm 1298, nhưng Edinburgh, Roxburgh và lâu đài Berwick vẫn bị quân Anh chiếm đóng mặc dù các thị trấn-theo báo cáo của Lanercost không có các bức tường bảo vệ đã bị chiếm bởi Henry Haliburton.

    Wallace đột kích vào miền Bắc nước Anh

    Có một số cuộc tấn công qua biên giới ngay sau trận Stirling Bridge, sau đó vào tháng 10 bản thân Wallace đã dẫn một đội quân khoảng 100 kỵ binh và 3.000 bộ binh tấn công vào Northumberland. Các cuộc tấn công là cực kỳ tàn bạo và được đánh dấu bởi tội ác do sự vô kỷ luật của binh sỹ Scotland. Họ đốt cháy và cướp bóc từ Tynedale đến Corbridge và Hexham, nơi mà nhà dòng đã phải trả tiền bảo vệ và sau đó họ di chuyển về phía tây để tấn công Cumberland và Carlisle. Quân Scotland không thể chiếm được các thành lũy kiên cố ở vùng biên giới mà không có các thiết bị bao vây và máy công thành nhưng họ đã giam giữ được các đội quân đồn trú, bao gồm cả lực lượng của Henry Percy, trong một tháng với một lực lượng phong tỏa lớn, trong khi họ tàn phá và đốt cháy miền Bắc nước Anh trong vòng 100 dặm. " Sau đó, khi mùa đông bắt đầu họ đã hành quân về phía đông Durham nhưng sau khi vượt Stainmore, tuyết đã nặng nề làm cho họ phải chuyển sang bên kia ở Bowes và tiến hành bao vây Newcastle vốn ít kiên cố hơn Carlisle. Tuy nhiên, lực lượng phòng thủ lâu đài được tổ chức tốt và binh lính Scotland rất vô kỷ luật nên họ đã bị tiêu hao trong chiến dịch mùa đông và muốn trở về nhà với các đồ chiến lợi phẩm cướp bóc được của họ. Wallace đã vắng mặt từ Scotland đủ lâu và sự hiện diện của ông ở nhà là cần thiết. Ông không có sự lựa chọn nào khác là từ bỏ cố gắng của mình ở Newcastle và vượt biên giới quay trở lại Scotland vào đầu tháng 12. Các cuộc tấn công, mặc dù đã phá hủy được một vùng đất rộng lớn ở phía Bắc nước Anh, nhưng không đạt được các mục tiêu quân sự, tuy nhiên cái mà nó thu được là chiến lợi phẩm về mặt vật chất ở nước Anh. Nó được xem là mang lại quả báo cho người Anh và trên hết nó tăng cường vị thế của Wallace ở Scotland.

    Trong khoảng mùa đông năm 1297-1298 Wallace đã được phong tước hiệp sĩ bởi một trong những Bá tước đứng đầu Scotland và được bầu làm Người bảo hộ của Vương quốc. Chỗ đứng của ông trong giới quý tộc đã được tăng cường và do đó ông cũng có danh hiệu chính thức để điều hành đất nước ( chủ yếu là về mặt quân sự). Chúng tôi không có thông tin chi tiết của sự kiện này, bằng chứng duy nhất để chứng minh đó là sự thật chỉ là một điều lệ-một trong bốn tài liệu mà chúng tôi biết về thời gian cầm quyền của ông, trong đó nói Wallace được phong hiệp sĩ, Người giám hộ của vương quốc Scotland và chỉ huy quân đội của họ, nhân danh Tên của các hoàng tử nổi tiếng của chúa tể John (John Balliol ) của Scotland … Các tài liệu được ghi chép bởi Alexander Scrymgeour trong tháng 3 năm 1298, một thời gian ngắn sau sự thất thủ của lâu đài Dundee, lâu đài này được tạm giao cho ông và ông cũng được cấp lãnh địa để đổi lại ông phải tỏ sự thuần phục với John Balliol và hành động nhân danh nhà vua. Rõ ràng, Wallace tự coi mình như là người thay mặt cho vua Balliol đang sống lưu vong và không quyết định để tự lập như là một nhà cai trị độc lập. Ông nhận được sự chấp nhận rộng rãi từ quần chúng nhân dân, tuy nhiên có thể ông đã không được sự phục vụ tận tâm của tầng lớp quý tộc ( lúc này ta mới thấy cái chết của Andrew Murray có hậu quả như thế nào đến Wallace ). Hôm nay phần còn lại duy nhất trong bốn văn bản là bức thư gửi thị trấn Lubeck của Liên minh Hanseatic vào ngày 11 tháng 10 năm 1297, trong đó ông mời nối lại thương mại, như là kết quả thu hồi lại được Scotland sau cuộc chiến với người Anh. Tuy nhiên, lời yêu cầu này là quá sớm, vì thảm họa ở Stirling Bridge đã thống nhất giới quý tộc Anh với một quyết tâm là bắt người Scotland phải quỳ gối và họ lại tiến hành xâm lược vương quốc Scotland vào năm 1298.
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Falkirt


    CÁC CHIẾN DỊCH CỦA NĂM 1298

    [​IMG]
    Bản đồ chiến dịch của năm 1298


    Edward triệu tập lực lượng của mình

    Lúc này vua Edward khó có thể làm gì để trả thù cho thất bại của quân đội của mình tại StirlingScotland từ chối chiến đấu và rút lui.

    Nhà vua đã gửi mệnh lệnh cho ông là không được tiến hành một chiến dịch lớn cho đến khi ông ta đến nơi để nắm lấy quyền chỉ huy. Quân đội của Warenne tuy có số lượng đông nhưng chất lượng lại rât kém và hầu hết binh lính đã nhanh chóng giải tán. Trong tháng 4 và tháng 5 ông ta chỉ có khoảng 1.500 bộ binh và 100 kỵ binh để bảo vệ Biên giới. King Edward dự định sẽ tiến vào Scotland với một quân đội tốt hơn vào mùa hè và cuối ông đã cho ban hành giấy triệu tập mới. Chỉ có khoảng 2.000 bộ binh Anh đến chỗ tập trung, các quận của Cheshire và Lancashire, mỗi quận góp 1.000 người. Các tráp đòi còn tồn tại cho thấy phần lớn bộ binh của quân Anh ở Falkirk là người xứ Wales, Edward triệu tập tổng cộng 10.500 quân xứ Wales, những binh lính tốt nhất mà ông ta có. Có 250 lính bắn nỏ từ quân cua Warenne và 250-300 lính đánh thuê người Gascon mà chúng ta có thể giả định rằng họ cũng là lính bắn nỏ, một số người có ngựa. Các tài liệu cho thấy ngựa được sử dụng với số lượng còn lớn hơn ở Flanders. Nhiều đoàn tùy tùng đã được tổ chức lại cho chiến dịch Falkirk và các hiệp sĩ mới cùng với học sinh của họ. Rất nhiều người là Hộ sỹ trong chiến dịch Flanders đã được phong tước hiệp sĩ cho chiến dịch Scotland. Lính đánh thuê người Gascon như Captal de Buch cũng đưa đoàn tùy tùng của ông vào chiến dịch cũng như Henry de Beaumont người Pháp-người đóng vai trò rất nổi bật trong cuộc chiến chống lại người Scotland sau này. Có khoảng 2.200 kỵ binh trong đó 1.200 thuê bằng tiền và 1.000 người là các tùy tùng phong kiến. Quân đội mà Edward tập hợp cho chiến dịch Falkirk vượt xa so với ở Stirling</ST1:Place Bridge</ST1:Place. Quân đội của Anh ở trận Falkirk là đại diện cho tinh thần hiệp sỹ của người Anh, nó có 11 Bá tước, Giám mục của Durham, Henry của Lancaster, Aymer de Valence, Robert Clifford, Henry Percy và nhiều cái tên nổi tiếng khác trong số 115 banneret ( hiệp sỹ cầm cờ ); rõ ràng Wallace đã được xem như một mối đe dọa không thể coi nhẹ.

    Công việc của Edward trong năm 1298 không có gì hơn là tập trung hoàn toàn vào xâm lược Scotland. ... đoạn này thiếu 3 trang




    ... Hãy để họ gia nhập với người Scotland ông vặn lại, " sau đó chúng ta sẽ đánh bại toàn bộ bọn chúng chỉ bằng một trận đánh". Bất chấp sự tự tin một cách khoa trương của ông, chiến dịch của Edward ngày càng có chiều hướng xấu đi và ông quyết định nghỉ ngơi ở Edinburgh để tiếp tế quân đội. Edward có vẻ như không biết được chính xác quân Scotland ở đâu, và việc lập kế hoạch cho cuộc xâm lược được tiến hành bởi những báo cáo được gửi đến các quận trưởng của Northumberland, Cumberland và Westmorland ông sợ rằng Wallace có thể khởi động một cuộc tấn công đánh chặn bằng cách hành quân về phía Tây. Trong thực tế thời gian này quân đội của Wallace đã ở một nơi nào đó ở phía tây của Anh, ở giữa họ và Stirling Castle-mục tiêu của họ.

    Tại thời điểm tồi tệ này của quân Anh thì may mắn cho họ là có hai Bá tước Scotland-Patrick Dunbar và Gilbert d'Umfraville, Bá tước của Angus, cả hai người là người Scotland nhưng lại được phong tước hiệu bởi người Anh, đã đến chỗ Edward cùng với một tay trinh sát hoặc gián điệp và hắn nói với vua Anh rằng quân đội Scotland đã ở ngay không quá 18 dặm bên ngoài Falkirk "Họ có nghe nói rằng ngài có ý định rút lui về Edinburgh và họ sẽ bám sát ngài và tấn công vào doanh trại của ngài trong tối ngày mai, hoặc ít nhất là đánh úp vào hậu quân và mai phục quân tiên phong của ngài. " Từ điểm này có vẻ như là ý định của Wallace là không đợi và chiến đấu trong một trận chiến mở với quân Anh mà là để quấy nhiễu quân Anh và bắt họ rút lui, có lẽ ông hy vọng sẽ biến cuộc rút lui của quân Anh thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn. Khi nghe tin này đã được tin này nhà vua Anh đã nổi giận và tiến hành hành động và, tuyên bố rằng ông sẽ không gặp rắc rối gì vì “ chúng phải đến tìm ta “, ông đã ra lệnh tiến lên ngay lập tức theo hướng Falkirk. Quân Anh có thể đã cạn lương thực nhưng họ vẫn là đội quân chưa bị đánh bại và phải rút lui. Họ vẫn chưa phải chịu một đòn tấn công và một số thực phẩm cần phải có được đẩy nhanh tốc độ vận chuyển từ Leith, đủ cho một hai ngày hoặc như vậy nên ta không tìm thấy tài liệu ghi chép rằng họ bị đói mà chỉ thấy rằng họ hành quân và chiến đấu; Wallace đã đánh giá sai lầm về đối phương của mình. Vào đầu của thời gian buổi chiều quân Anh rời Kirkliston, đội hình họ đã trải dài hơn mười dặm và cắm trại ở Muir Burgh, phía đông của Linlithgow và hành quân với một tốc độ thong thả ổn định. Sau đó Guisborough cho chúng ta thấy rằng “ họ trải qua một đêm với vũ khí trong tay ( vì sợ quân Scotland tấn công bất thình lình ), họ lấy lá chắn làm gối và vũ khí làm giường. Ngựa của họ cũng vậy, chúng không được tháo yên cương và bị buộc ở gần người chủ của chúng.” Trong nửa đêm con ngựa của nhà vua được trông coi bởi một Hộ sỹ bất cẩn đã đạp lên người nhà vua lúc ông này đang ngủ và làm ông ta bị thương. Một sự hỗn loạn đã xảy ra sau đó khi có một tiếng kêu báo động trong trại là-địch quân tấn công và tất cả những người lính chồm dậy vồ lấy vũ khí của họ và sẵn sàng chiến đấu. Tuy nhiên nhà vua chỉ bị khá đau và rồi tình hình đã sớm được phục hồi, nhưng các trại đã tỉnh táo và tinh thần chiến đấu của quân đội đã được nâng cao Vì quá đau đớn ( nên không ngủ được ), Edward đã trèo lên con ngựa của ông và ra lệnh cho quân đội tiến về phía Falkirk trước khi bình minh lên một thời gian khá dài.


    Tài liệu đương thời về trận chiến Falkirk

    Mô tả của Walter Guisborough về trận chiến Falkirk là những gì chi tiết và chính xác nhất mà chúng ta có, nó có sự thống nhất với các sự kiện mà chúng tôi có thể kiểm tra đối với các nguồn tin khác, chẳng hạn như tên của các chỉ huy các chiến đoàn kỵ binh của Anh và sự hiện diện của chiến đoàn của Ralf Basset-Giám mục của Durham, được xác nhận trong các văn kiện hồ sơ về trận Falkirk và các văn bản khác.

    Các thông tin của Guisborough đến từ một người nào đó ở gần với các sự kiện, gần như chắc chắn là một nhân chứng, có lẽ một banneret hoặc một hiệp sĩ của ngự lâm quân, hoặc một giáo sĩ phục vụ tại hoàng gia. Một số hiệp sĩ nổi bật đến từ Yorkshire chiến đấu tại Falkirk có thể đã nói với Walter về câu chuyện của họ. Quấn biên niên sử của Lanercost rất ngắn và quấn Sealacronira cũng vậy, chúng chỉ đóng góp các thông tin cụ thể bổ sung lẻ tẻ. Các sử gia khác lấy theo các ghi chép của Guisborough từng từ từng chữ. Rất đáng kinh ngạc là các tài liệu của Walter Bower lại đổ lỗi thất bại cho Robert Bruce và người hát rong Harry mù lại thêu dệt một câu chuyện quanh co rằng là Wallace chiến thắng. Tài liệu của tôi kết hợp các mô tả khái quát của Westquarter Burn với tài liệu chi tiết chặt chẽ của Walter Guisborough.

    Tìm kiếm quân Scotland trước lúc rạng đông ngày 22 tháng 7 năm 1298

    Trong ánh sáng xám của bình minh ngày 22 tháng 7 đội tiên phong của quân Anh đã hành quân từ doanh trại của họ trên Muir Borough gần Linlithgow, và cuối cùng họ đã nhìn thấy quân Scotland. Trên đỉnh Redding Muir, phía trước của họ và về phía đội hình dòng đang hành quân của họ, rồi họ nhìn thấy một đội hình rất đông các giáo binh. Tin rằng toàn bộ đội quân của người Scotland đã ở trên vị trí ở các sườn núi bên ngoài, người Anh vội vã chuyển đội hình hành quân sang đội hình chiến đấu và tiến lên con dốc phía trước, nhưng, trên các sườn núi nhấp nhô họ không tìm thấy dấu hiệu của kẻ thù. Họ dừng lại và lều đã được dựng để phục vụ cho việc cầu kinh như là một nhà nguyện, nó là ngày của Magdalene và nhà vua Anh quốc và Giám mục Durham đã tổ chức một buổi lễ nhân danh của vị thánh. Vào lúc này các nghi trong ngày đã được bắt đầu trong lúc trời bắt đầu sáng và người ta có thể thấy rocthấy rõ ràng hơn. Ở khoảng cách chỉ hơn một dặm về phía Tây bắc, người ta có thể thấy người Scotland đang hối hả lập đội hình dã chiến và chuẩn bị chiến đấu.

    Bố trí của quân đội Scotland

    Các tay giáo của Scotland đã tập hợp thành bốn vòng tròn lớn, " các vòng tròn này được gọi là schiltrouns ", Guisborough không nói rằng liệu có bất kỳ hệ thống cọc nhọn phòng thủ có thể được cắm ở phía trước của các giáo binh, chỉ có trong những vòng tròn của các tay giáo đã được bố trí với các ngọn giáo của họ được hướng xiên ra phía ngoài; người này có sự liên kết chặt trẽ với người kia-bạn chiến đấu của mình và họ mặt quay về phía ngược lại với hướng tâm của chu vi của vòng tròn. Tôi không nghĩ rằng Guisborough mô tả là việc mỗi giáo binh có sự liên kết với đồng đội của mình của ông có ngụ ý một sự liên kết về mặt vật lý. Thay vào đó ông muốn đề xuất một hình phòng thủ rất vững chắc như là các giáo binh của miền Bắc xứ Wales đã từng làm. Bằng loại vũ khí là những " pháo đài người " mà Wallace đã dự định để chịu đựng được các cuộc tấn công của quân Anh. Rõ ràng là các giáo binh được hình thành trong các vòng tròn với kỳ vọng chống trả một cuộc tấn công từ mọi phía, đội hình này cũng ngụ ý rằng các cạnh sườn của quân Scotland đã không được cố định vào bất kỳ tính năng vật lý nào mà được thay thế bởi “ không gian”. Trong không gian giữa bốn cụm đội hình schiltrons, mỗi chiếc được tạo thành từ khoảng 2.000 được dàn trận là các đội cung thủ đến từ rừng Selkirk. Họ bình đẳng với cung thủ của Anh và xứ Welsh về mọi mặt, ngoại trừ số lượng của họ khi so với đối thủ “ họ là những người được đào tạo tốt và có kỹ năng cao” Guisborough gọi họ như vậy một cách khâm phục. “ Và ở phía sau, những đầu cánh là các hiệp sĩ của họ ", tôi mô tả điều này có nghĩa là các kỵ binh đã cùng chiến đấu trong một đội hình, trong lực lượng dự trữ ở phía sau một cánh của đội hình schiltrons. Rất khó để đoán biết về vai trò của Wallace trong suy nghĩ của lực lượng kỵ binh của ông-họ đã được đặt ở những vị trí dễ bị tổn thương, sự hiện diện của họ ở vị trí mở, như là động thái mở đầu của trận chiến đã được chứng minh bởi các cuộc tấn công của kỵ binh Anh mạnh mẽ hơn nhiều.


    Nhà Comyns và các Bá tước khác-những người ủng hộ Wallace đã đóng góp phần lớn lực lượng kỵ binh này và mặc dù chính họ lại vắng mặt, nhiều gia đình quý tộc Scotland gửi ít quân hơn. Những người này, mặc dù cho thấy rằng họ đã chiến đấu một cách nghèo nàn tại Falkirk, vẫn tiếp tục chống lại người Anh và cung cấp hỗ trợ cốt lõi cho Robert Bruce trong những năm tới. Người ta cho rằng Robert Bruce là một trong những hiệp sĩ có dự trận này, nhưng có những bằng chứng cho rằng việc ông có mặt tại đây vào thời điểm này là không thuyết phục. Chúng ta cũng có thể xác định được người đứng đầu kỵ binh Scotland là James, the Hight Steward.

    Các schiltron của quân Scotland đứng trên một sườn đồi dốc khô, hơi hướng mặt một chút về phía đông với khu rừng Callendar ở phía sau của họ và thị trấn Falkirk ở một khoảng cách không xa về phía tây-bắc, như Guisborough đã nói với chúng ta về các cánh của người Scotland. Các sườn đồi dốc đổ về phía chiếc thung lũng nông nơi mà Glen Burn cắt với Westquarter Ghi; ở đây trong đáy của chiếc thung lũng ngập nước, ở phía trước của đội hình của quân Scotland và đã hình thành lên một đầm lầy sũng nước sau một cơn mưa lớn

    TRÌNH TỰ ĐỘI HÌNH CHIẾN ĐẤU

    Falkirk, ngày 22 Tháng 7, 1298

    QUÂN ĐỘI ANH

    Tổng chỉ huy - Vua Edward I

    Kỵ binh

    Lực lượng Vanguard

    Chỉ huy: Bá tước của Lincoln (3 bá tước, 18 bannerets) 450 banneret, hiệp sĩ và lính kỵ binh

    Chiến đoàn kỵ binh thứ hai

    Chỉ huy: Anthony Bek, Giám mục Durham (1 giám mục, 2 bá tước 24 bannerets) 425 bannerets, hiệp sĩ và lính kỵ binh

    Chiến đoàn kỵ binh thứ ba

    Chỉ huy: vua Edward 1 (2 bá tước, 43 bannerets) 850 bannerets, hiệp sĩ và lính

    100 lính bắn nỏ cưỡi ngựa

    Chiến đoàn kỵ binh thứ tư

    Chỉ huy: John de Warenne, Bá tước Surrey (4 Earls, 15 bannerets) 425 bannerets, hiệp sĩ và lính kỵ binh

    Bộ binh

    5.500 cung thủ trường cung

    7.000 giáo binh

    400 lính bắn nỏ

    Tổng cộng: 2.250 kỵ binh, 12.900 bộ binh.

    Lưu ý: tổng số kỵ binh có thể là chính xác nhưng không có hồ sơ xác nhận số lượng bộ binh được triệu tập cho chiến dịch đã thực sự đã tham gia.

    Quân đội Scotland

    Tổng chỉ huy - Sir William Wallace, người giám hộ của Scotland.

    Kỵ binh

    Chỉ huy bởi James Hight Steward. 500 hiệp sĩ và lính kỵ binh

    Bộ binh

    8.000 tay giáo tổ chức thành 4 schiltrons

    1.500 cung thủ trường cung, chỉ huy bởi Sir John Stewart

    Tổng số: 500 kỵ binh, 9.500 bộ binh.



    [​IMG]
    Bản đồ diễn biến của trận Falkird

    Kỵ binh hạng nặng của Anh tấn công

    Khi vua Edward thấy tình hình ông do dự và cho rằng chờ đội thì tốt hơn là tấn công ngay lập tức, họ cắm lều và chuẩn bị thức ăn cho người và ngựa của họ-họ đã không được ăn gì kể từ khi bắt đầu hành quấn từ Kirkliston từ buổi chiều hôm trước đó. Nhưng các chỉ huy và các cố vấn gần gũi của ông không có lý do gì để có sự chậm trễ này, họ cho rằng như vậy là không an toàn, ở giữa hai quân đội không có gì ngoài một dòng suối rất nhỏ. "

    Có lẽ họ sợ rằng Scotland sẽ tấn công và đánh bại họ vào lúc họ không chuẩn bị. Họ thúc giục nhà vua hãy chủ động tấn công ngay lập tức để xóa sổ địch quân của họ bằng lực lượng kỵ binh nặng. "Thế cũng được" nhà vua nói và ông cầu mong sự thiếu kiên nhẫn của lực lượng kỵ binh sẽ được bảo vệ bởi Chúa Ba Ngôi. Wallace nhìn thấy chuyển động của các kỵ binh trên sườn đồi phía xa và biết rằng trận chiến sẽ nổ ra ngày hôm đó và ông quyết định động viên lòng can đảm của người của mình. Ông bước ra trước các hàng quân của mình và kêu gọi lòng can đảm của họ với một câu nói nổi tiếng của mình "Tôi đã mang các bạn đến đây để vui chơi, bây giờ các bạn hãy nhảy nếu có thể - I have brought you to the revel, now dance if you can. "


    [​IMG]
    Tranh vẽ cảnh Raft Basset trách mắng Anthony Bek-Giám mục Durham vì không ngay lập tức phát động tấn công


    Kỵ binh Anh được tổ chức thành bốn chiến đoàn ( lữ đoàn), chúng tôi có thể chắc chắn về điều này, nhưng chúng tôi không biết liệu bộ binh được tổ chức đê chiến đấu độc lập hoặc tạo thành sự kết hợp kỵ binh và bộ binh. Trường hợp nay tôi nghiêng về ban đầu các kỵ binh tấn công mà không có sự hỗ trợ của bộ binh, sẽ mất một khoảng thời gian để bộ binh đến nơi vì nhiều người vẫn đi bộ dọc theo con đường từ Linlithgow. Các Bá tước của Lincoln và Hereford và Roger Bigod, Bá tước của Marshal dẫn đầu đội kỵ binh của lực lượng tiên phong của Anh. Chiến đoàn của họ đã dẫn đầu cuộc tấn công và tiếp cận vị trí của quân Scotland từ đỉnh Redding Muir và vượt qua Westquarter Burn trước khi đợt tiến quân của họ đã bị chặn bởi bãy lầy ở đáy thung lũng. Đợt tấn công này gây ra một số sự chậm trễ và nhầm lẫn trong khi các hiệp sĩ nôn nóng và loay hoay phi ngựa quanh phía tây cưa đầm lầy, nhưng sự kiện này đã không ảnh hưởng đến quá trình hoặc kết quả của trận đánh. Có thể có một con đường vòng để đội tiên phong của Anhúc tiến được tới chỗ các kỵ binh người Scotland lúc phía sau cạnh sườn của các schiltrons. Trong khi đó, chiến đoàn kỵ binh thứ hai được chỉ huy bởi Anthony Bek, Giám mục Durham cùng với các Bá tước của Dunbar và Angus đang tiến đến Westquarter Burn ở bên trái. Đạo quân này đã được cảnh báo về chiếc đầm lầy bởi sự nhầm lẫn của đội kỵ binh tiên phong và hướng về phía đông rồi phi ngựa vòng quanh chướng ngại vật. Các kỵ binh Anh háo hức để được trở thành những người đầu tiên tấn công vào kẻ thù, các kỵ sỹ của Bek đã xa các chiến đoàn kỵ binh hỗ trợ phía sau, do đó, vị giám mục đã ra lệnh cho các hiệp sĩ chính của ông rút lui kiềm chế và chờ đợi sự tiếp ứng của chiến đoàn thứ ba-đó là lực lượng của vua, thay vì tấn công một cách manh động. Vị giám mục chỉ có khoảng 400 tay thương trong chiến đoàn của mình, chiến đoàn của nhà vua có khoảng 800 tay thương, đông gấp đôi so với ba chiến đoàn còn lại và còn được tăng một đội kỵ sỹ bắn nỏ mạnh mẽ người Gascon, thậm chí nếu gộp đội quân của vị giám mục và lực lượng của nhà vua, có thể họ sẽ có một đội kỵ binh đông hơn bởi một schiltron đơn lẻ. Nhưng là một hiệp sỹ kiêu căng và tự phụ nên Raft Basset của Drayton đã không có ý định chờ đợi lực lượng của nhà vua và quở mắng vị giám mục vì sự cảnh giác của ông này “ Thưa giám mục, tôi không phải là hiệp sỹ của ngài để ngài dậy khôn cho chúng tôi về nghệ thuật chiến tranh, ông hãy ra lệnh cho binh sỹ đi, nào tiến lên” và ông ta nói tiếp “ nếu chúng ta tấn công bây giờ, hôm nay chúng ta sẽ thắng” những câu nói của Raft cũng là những suy nghĩ của phần đông các hiệp sỹ người Anh và kỷ luật bị suy giảm đã lan tỏa vào hàng ngũ kỵ binh Anh mặc dù họ là những nhà quý tộc và rất dũng cảm với một tinh thần vô song nhưng khả năng chiến đấu phối hợp của họ lại không quá tốt. Các hiệp sỹ của Bek lại nhảy lên ngựa, phớt lờ những hành động ngăn cản của ông ta ( vì ông này muốn tập trung đông quân hơn nữa ) và triển khai một đợt tấn công bất ngờ vào một đám đông đặc các giáo binh ở đoạn dốc trước mặt. Cùng lúc đó chiến đoàn kỵ binh của vị giám mục lao vào schiltron ở bên cánh trái của đội hình quân Scotland, chiến đoàn kỵ binh của Bá tước Lincoln tấn công vào phía sau cánh phải của họ. Kỵ binh Scotland không phải là đối thủ và bị kỵ binh Anh tràn ngập rồi bị đẩy khỏi chiến trường một cách không đúng lúc. Họ bị đánh bại quá nhanh đến mức người ta nghi ngờ rằng họ đã bỏ chạy mà không chiến đấu. Tuy nhiên có một vài hiệp sỹ Scotland tìm cách đứng lẫn vào giữa đội hình schitron mà lúc này họ vẫn chiến đấu trong tư thế phòng ngự. Sau này có những lời kết tội về sự phản bội trong một phần các quý tộc chỉ huy kỵ binh của người Scotland và phần lờn những lời kết tội này nhằm vào nhà Comyn, nhưng không có bằng chứng cho thấy rằng họ là những người trung thành và dường như đây là lý do để sau này Robert Bruce đã tấn công và tiêu diệt họ như để loại bỏ những người không thể tin tưởng được


    Guisborough đã không đề cập vai trò của chiến đoàn kỵ binh số 4 dưới sự chỉ huy của Bá tước Surrey, tuy nhiên chúng tôi biết rằng đơn vị này có tham chiến vì có danh sách các hiệp sỹ đã tử trận của vị bá tước này Aymer de Valence, một trong những người đi trong đoàn tùy tùng của Thomas và Maurice de Berkeley. Họ đã chiến đấu một cách dữ dội và bốn binh sỹ dưới quyền chỉ huy của Aymer cũng đã tử trận, thậm trí con ngựa quý của Maurice de Berkeley cũng bị giết chết, có vẻ như chiến đoàn thứ tư đã theo chân của đội quân tiên phong và chiến đấu ở phía Tây của bãi lầy. Sau khi đẩy được kỵ binh của Scotland ra xa thì lúc này các Hiệp sỹ Anh quay ra tấn công vào đội hình các cung thủ đối phương


    Có vẻ như là các kỵ sỹ, có nhiều người đã vượt qua bãi lầy ở chính giữa đội hình ở phía trung tâm của quân Scotland, đã tiếp cận tới các schiltrons từ phía sườn hơn là từ phía trước. Với việc các cung thủ được triển khai ở giữa các schiltrons, thì tầm nhìn của họ vào các kỵ binh đang tiếp cận bị các giáo binh Scotland che lấp cho đến khi các hiệp sĩ Anh phi ngựa vòng tròn phía sau các schiltrons ở thời điểm cuối. Lanercost mô tả các kỵ binh di chuyển vòng quanh và tấn công bọc sườn họ từ cả hai phía và tài liệu của Guisborough cho thấy sự hỗn loạn và các cung thủ đã chiến đấu một cách tuyệt vọng và tập trung phòng thủ xung quanh xác của chỉ huy của họ, Sir John Stewart-người đã bị giết chết khi ông này ngã một cách tình cờ từ con ngựa của mình. Tài liệu cuả Scalacronica lại có ý kiến khác về vụ này việc này và nói rằng ông đã xuống ngựa `để chiến đấu trên bộ cùng với các thường binh và ông đã bị giết cùng với hơn mười ngàn thường binh Đây là điều không đúng sự thật vì quân Scotland không có đến 10,000 người ). Sau khi đã đánh bại các cung thủ, các hiệp sĩ Anh quay về phía các schiltrons của các giáo binh nhưng họ đã không thể vượt qua các bức tường dày đặc của các ngọn giáo. Những con ngựa của họ dễ bị tổn thương bởi các tay giáo Scotland mặc dù chúng đã được thiết giáp, và theo danh sách những con ngựa may mắn còn sống sót sau trận Falkirk, cho thấy có 111 con ngựa đã bị giết. Không có bản ghi tương ứng cho thương vong của các các kỵ sỹ, nhưng thương vong dường như không quá nặng nề, có hai bannerets đã thiệt mạng trong trận đánh. Trong chiến đoàn của nhà vua có hiệp sỹ Henry de Beaumont đã bị mất con ngựa của ông và ba người từ đoàn tùy tùng mười người của ông, Robert Clifford mất tám trong số 35 người và Bá tước của Lancaster mất 11 trong đoàn tùy tùng lớn gồm 45 người của mình. Đoàn tùy tùng 12 hiệp sĩ của Ralph Basset - Drayton, bất chấp sự xấc láo của ông ta đã không bị tổn thất. Ông này cũng như hầu hết các kỵ sỹ khác, có thể là đã phi ngựa vòng tròn xung quanh các schiltrons để thăm dò một điểm yếu của đối phương. Một số con ngựa bất chấp rằng đã bị thúc bằng đinh thúc ngựa đến mức nào đi chăng nữa cũng không chịu xông vào đầu các ngọn giáo. Ngựa là loại động vật thông minh, nhạy cảm chứ không phải là máy móc, chúng chọn cách chạy luồn lách giữa các schilton hơn là lao thẳng vào để tử sát. Hàng loạt những phát tên được bắn từ các tay kỵ sỹ bắn nỏ vào các khối giáo binh Scotland đang bất động nhưng những cung thủ của họ, những người còn sống sót và ẩn náu trong các schiltrons, đã nhanh tróng bắn trả và cầm chân được các kỵ sỹ Anh. Lúc này thì số lượng kỵ binh Anh lại ít hơn nhiều so với các giáo binh và nếu không có sự hỗ trợ của bộ binh thì họ sẽ không thể đánh bại được người Scotland. Cũng có thể là người Scotland lúc này đã mất hết các kỵ binh và hầu hết các cung thủ của họ, đã gây nhiều thiệt hại cho kỵ binh Anh. Tình huống lúc này đang bị bế tắc. Kỵ binh Anh đã không bị tấn công quá dữ dội, thương vong của họ khá nhẹ và họ đã thành công trong việc đẩy lui kỵ binh Scotland và tiêu diệt lực lượng cung thủ của họ. Các schiltrons đã bị cô lập và dường như bất động và đang chờ đợi những gì có vẻ như là không thể tránh khỏi sẽ xảy ra.


    [​IMG]
    Cảnh xô xát của trận chiến, các giáo binh Scotland hạ gục ngựa của các hiệp sỹ rồi tiếp đó là đến chủ của chúng




    TRIUMPH OF THE BOWMEN

    Người Scotland vẫn đứng vững một khoảng thời gian ngắn trước khi các cuộc tấn công của bộ binh Anh nổ ra. Họ đã tiến lên và tấn công vào các kỵ sỹ Anh, những người lúc này đang rút lui để tái tổ chức lại đội hình của họ. Các đội hình schiltrons của các giáo binh đã tạo nên một mục tiêu dễ dàng cho các cung thủ của Edward, những người đã tung ra một cơn bão các mũi tên và mũi nỏ làm tiêu hao hàng ngũ phía trước của quân Scotland. Ngoài các cung thủ, Guisborough cho chúng ta biết «có một số lượng lớn đá tròn được ném vào họ họ " Chúng tôi không thể chắc chắn rằng có những đội quân Slinger-quẩy đá chuyên nghiệp hoặc đơn giản chỉ là binh sỹ Anh nảy ra sáng kiến dùng đá để thêm vào với các trận mưa tên bắn làm cho người Scotland bị thương vong một cách khủng khiếp. Dần dần các schiltrons, không còn có thể trả bắn trả được nữa và họ bắt đầu do dự, mối liên kết giữa họ bắt đầu giảm và những người đứng bên ngoài đã bị buộc phải lùi về phía sau. Theo một sử gia người Anh thì họ bị bắn rụng như sung. Khi những cơn mưa tên chết chóc làm công việc của chúng, các lỗ hổng đã xuất hiện trong các schiltrons và các hiệp sĩ Anh đã phát hiện ra cơ hội của họ và đã tiến hành đột phá ở giữa đội hình của họ và đốn ngã những tay giáo binh ở những chỗ gần họ nhất. Mặc dù Guisborough không đưa ra những chi tiết hơn nữa về hoạt động của bộ binh Anh, nhưng người ta vẫn cho rằng một mình kỵ binh không thể đánh bại hoàn toàn quân Scotland, những người lúc đó vẫn đông hơn họ. Bộ binh Anh lúc này cũng mạnh tương đương bộ binh Scotland có thể cũng bao gồm một lực lượng giáo binh với số lượng lớn, là những người đã đóng một phần vai trò trong giai đoạn cuối cùng của trận chiến. Một bằng chứng cho thấy có sự tham gia của bộ binh Anh được cung cấp bởi danh sách của những con ngựa, trong đó ghi lại rằng những con ngựa của John de Merk và William Felton, cả hai viên chỉ huy của bộ binh đều đã thiệt mạng trong trận chiến. Khi toàn bộ sức mạnh của quân đội Anh được tung ra để tấn công vào đội hình của quân Scotland, họ đã bắt đầu bị vỡ trận và các giáo binh Scotland bắt đầu lùi lại phía sau, hàng trăm người bị đốn gục khi họ bỏ trốn về hướng rừng CallendarWood. Thương vong của người Anh được ghi lại chỉ bởi Brian de Jay-người đứng đầu tu viện dòng Đền và John de Sawtrey- người đứng đầu tu viện dòng Đền ở Scotland. William Wallace cùng với một số tùy tùng thân cận của ông thoát khỏi thảm họa và chạy vào rừng, có thể họ đã trú ẩn tạm thời ở rừng Torwood, cách năm dặm về phía bắc của Falkirk. Khi người Anh đến được Stirling vào ngày 26 tháng 7 họ chỉ tìm thấy một tòa nhà duy nhất còn lại, đó là ngôi nhà của các tu sĩ dòng Dominican, nơi mà nhà vua Anh chiếm nó làm trụ sở; Wallace đã cho phá hủy rất nhiều ngôi nhà trong thành phố rước khi ông ta rút lui về phía bắc từ Torwood.

Chia sẻ trang này