1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hoadaols

    hoadaols Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    05/08/2009
    Bài viết:
    193
    Đã được thích:
    203
    Bác hongsonvh đi đâu rồi. Tiếp tục đi bác ơi.
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Sorry các bác, em có tí công việc gia đình nên bị ngắt quãng


    [​IMG]
    Tranh vẽ các giáo binh Scotland đang chiến đấu với bộ binh Anh, để phân biệt người Scotland luôn thêu một dấu nhân mầu trắng ( một phần lá cờ Scotland ) ở trái tim


    Cái giá của sự thất bại

    Các sử gia đương thời đưa ra con số thiệt hại về nhân sự lớn đến mức kỷ lục cho người Scotland; Ước tính của Scalacronica là hơn 10.000 người bị giết là quá cường điệu, nhưng cũng còn có cơ sở. Số của Guisborough là 56.000 người và của Walsingham là 60.000 người chết được cho là quá lố bịch và vượt xa số lượng quân Scotland có thể có mặt trên chiến trường cho dù chúng có thể phản ánh quy mô của thảm họa và tỷ lệ thương vong cao. Cũng có nguồn tin rằng người Scotland bị giết hơn 2.000 bị thương vong cũng khoảng từng đó và có một vài nghìn người tẩu thoát, chính vì vậy mà miền Bắc Scotland vẫn nằm trong tay họ

    Về phía quân Anh có đến hơn 1.000 kỵ binh bị giết, cộng với số bộ binh bị giết trong trận đánh thì họ cũng phải tổn thất đến 2.000 người

    Hậu quả của trận Falkird


    Wallace sau trận Falkirk

    Wallace đã từ bỏ chức vụ người giám hộ sau trận Falkirk, vị trí của ông và sự hỗ trợ của giới quý tộc phụ thuộc vào sự thành công về quân sự của ông và sau thất bại này họ nhanh chóng chối bỏ ông. Uy thế của ông đã bị sụp đổ và ông không thể có cơ hội thứ hai. Vì không có một vị bá tước có thế lực nào hoặc một người có vị thế nổi bật trong tầng lớp quý tộc Scotland ủng hộ, Wallace đã trở thành cái bóng của chính mình trong lịch sử. Không có các tài liệu mô tả rõ ràng về hoạt động của Wallace trong khoảng 7 năm trời từ sau trận Falkirk cho đến lúc ông bị bắt và hành hình. Trong năm 1299 ông đã vượt biển đến triều đình Pháp cho một sứ mạng ngoại giao, có bằng chứng cho thấy là ông tiếp tục ủng hộ vương quyền của vua Balliol. Ông rời Pháp đến Roma để gặp Giáo Hoàng với những lá thư giới thiệu của vua Philip IV. Năm 1030 ông quay trở về Scotland và ở đây ông lại có những tranh cãi gay gắt ( với tầng lớp quý tộc) mặc dù ông vẫn là một trong số những nhà lãnh đạo chủ chiến với người Anh.

    Những hoạt động cuối cùng của chiến dịch năm 1298

    Edward vẫn ở lại lâu đài Stirling trong khoảng 2 tuần sau trận đánh. Bất chấp một điều đây là một thất bại trên quy mô lớn của người Scotland, nó đã không phải là một trận đánh có ý nghĩa quyết định. Người Scotland đã không chịu khuất phục, và lúc này họ chiến đấu với cái lưng dựa vào tường ( ý nói là họ vẫn có hy vọng thắng lợi ). Chẳng phải đợi đến 16 năm nữa thì người Scot mơi dám chiến đấu với người Anh trong một trận đánh mở (trận Bannockburn ). Vùng phía Bắc của lưu vực sông Forth vẫn nằm trong tay người Scotland, mặc dù các toán quân đột kích của Edward I vẫn vượt ranh giới và tổ chức đốt phá vùng nông thôn phía bắc của Stirling và bởi vì những ủng hộ của nhà MacDuff cho Wallace mà quân Anh đã tiến hành hành quân đốt phá từ Fife đến tận St Andrews. Lâu đài Stirling Castle lại một lần nữa rơi vào tay quân Anh và phải đến năm 1299 quân Scotland mới chiếm lại được tòa lâu đài này. Quân Anh đột kích vào Perth nhưng quân Scotland đã tự đốt phá và rời bỏ thành phố trước khi quân Anh đến nơi. Người Anh vẫn phải đối mặt với vấn đề về cung ứng lương thực và Edward vẫn có những bất hòa với các quý tộc của ông ta và họ tiếp tục gây ra những khó khăn cho việc kết thúc chinh phục Scotland. Bá tước Marshal và Bá tước Hereford đã quay về Anh với những đội quân phong kiến của họ và họ có quyền làm như vậy. Việc này làm cho Edward không có lựa chọn nào cả là ngoài cách là rút quân rời khỏi Scotland, lâu đài Stirling Bridge được tăng cường phòng thủ và tăng cường quân đồn trú trước khi ông ta rời về phía Nam bằng con đường đi từ Falkirk đến Torphichen. Ông ta đã ở Glencorse-phía nam của Edinburgh vào ngày 22 tháng 8. Nhà vua rẽ về phía Tây và tại thời điểm này ông hành quân đến Ayr với ý định là giải quyết những người nổi loạn ở phía Tây nam. Ông đến được thành phố một tuần sau đó nhưng lại thấy rằng nó trống rỗng và bị đốt cháy theo lệnh của Robert Bruce. Điều đó có nghĩa là người Anh không thể sử dụng nó được nữa. Edward mong muốn rằng có tầu trở lương thực cho ông ta từ Irland sẽ cập cảng Ayr, nhưng họ đã không đến được và Guisborough đã nói rằng “nạn đói trong doanh trại kéo dài trong vòng 15 ngày” Quân Anh đầy tràn buồn bã và thất vọng đã quay về phía nam và đi theo một con đường mòn trên vùng đồng hoang khô cằn gần thành phố Nithsdale, sau đó vào Lochmaben nơi mà lâu đài của Robert Bruce đã bị công phá. Edward cho đóng quân tại lâu đài này và dành thời gian để củng cố hệ thống phòng thủ của cả Lochmaben và Dumfries ở gần đó vì ông không có ý định từ bỏ phần đất của Scotland nằm dưới sự kiểm soát của ông. Robert Clifford được để lại để phụ trách phòng thủ Lochmaben trong khi Edward chuyển tới Carlisle và đến đó vào ngày 9 tháng Chín. Thiệt hại về ngựa của quân Anh ở Scotland là cực kỳ cao và chiến dịch tám tuần này là vô cùng tốn. Edward đã giành được một chiến thắng tuyệt vời, nhưng Scotland vẫn không chịu khuất phục và chiến dịch đã mang lại kết quả ít ỏi. Tại lâu đài Carlisle Edward phân chia các vùng đất tịch thu từ những quý tộc Scotland đã chống lại ông trong trận chiến này cho những người theo ông như một phần thưởng cho sự phục vụ của họ. Phần lớn số tài sản này vẫn còn trong tay người Scotland và các quý tộc Anh-những người được trao phần thưởng, như Edward mong muốn, lại sẵn sàng phục vụ ông một lần nữa ở Scotland để chiếm được tài sản mà họ sở hữu. Lâu đài ở Jedburgh vẫn còn nằm trong tay ngươi Scotland và Edward đã tiến hành một cuộc tiêu khiển khi giám sát công cuộc bao vây lâu đài này trước khi trở về phía nam vào cuối tháng 10.

    Đất nước Scotland năm 1298-1307

    Cuối năm 1298 Robert Bruce, Bá tước của Carrick và John Comyn của Badenoch đã được bầu làm đồng giám hộ của Scotland nhưng thỏa thuận này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và chức danh người giám hộ lại được trao cho người thừa kế của các thủ lĩnh đầu và nhà Comyn luôn được ưu tiên. Mặc dù có sự chia rẽ trong chính bản thân giới lãnh đạo và trong vương quốc cuộc đấu tranh chống lại sự chiếm đóng Anh quốc tiếp tục không suy giảm nhân danh nhà vua John Balliol. Chỉ một phần của đất nước Scotland vẫn còn nằm dưới sự cai trị của vương quốc Anh như một phần của Dumfriesshire và phía đông nam của Scotland, nơi người Anh vẫn nắm giữ được nhiều tòa lâu đài hơn so với các nơi khác.

    Vào cuối năm 1298 trong khi vẫn còn ở phía bắc, Edward I ban hành một trát để tập hợp quân đội cho chiến dịch năm 1299 nhưng điều này là không thể thực hiện được cho đến cho đến mùa hè năm 1300 khi ông trở về Scotland. Các chiến dịch của năm đó nhằm làm giảm sức ép mà người Scotland đã tạo ra để nhằm tái lập lại quyền kiểm soát của họ ở phía tây-nam của Scotland. Lâu đài Caerlaveroc đã bị bao vây và thất thủ, sau đó nhà vua và tiến vào Galloway đối trận với một đội quân người Scotland được chỉ huy bởi Bá tước của Buchan và John Comyn của Badenoch trên Cree sông. Trong trận chiến tiếp theo các kỵ binh Scotland-phần chính của quân đội của họ, đã lại một lần nữa bị đánh bại. Edward đã cảm thấy hối tiếc vì ông không có đội quân xứ Wales của mình để truy kích những kẻ đào tẩu vào vùng đất hoang dã nơi họ bỏ trốn và lánh nạn. Năm 1301 Edward I đã lại tiếp tục phát động một chiến dịch ở Scotland với ý định chiếm và giữ đường biên giới tự nhiên hình thành được hình thành từ hai thị trấn Tweeddale và Clydesdale. Quân Anh xâm lược Scotland theo hai đạo quân, đạo quân lớn hơn dưới sự chỉ huy của nhà vua tiến từ Berwick. Đạo quân nhỏ hơn dưới sự chỉ huy của Edward của Caernarvon lúc này là Hoàng tử xứ Wales, tiến vào từ phía tây nam để mà-theo cách nói của cha ông “ để lòng tự hào của người Scotland sẽ ngã gục dưới chân của con trai ông” Kế hoạch là hai đạo quân sẽ dự định tiến theo hai gọng kìm và gặp nhau tại Inverkip. Tuy nhiên do sự kháng cự mạnh mẽ của người Scotland kết hợp với đào ngũ hàng loạt trong lực lượng bộ binh đã làm cho vị hoàng tử này buộc phải rút quân về Linlithgow nơi mà cha của ông ( Edward I ) đã thiết lập sở chỉ huy mùa đông của mình. Trong tháng 1 năm 1302 Edward I đồng ý một thỏa thuận ngừng bắn trong 9 tháng chín với Scotland và khi hòa ước này hết hạn ông ta lại triệu tập và tập hợp quân đội trong tháng 5 năm 1303. Trong khi chờ đợi lực lượng chính, John de Segrave-trung úy của ông tại Scotland đã tiến hành tấn công vào một phần Lothian cho tới phía Tây Edinburgh vốn đang nằm trong tay người Scogtland. Ngày 24 tháng 2 năm 1303 ở gần Roslin các chiến đoàn tuyến đầu của Segraye vốn có sự phối hợp quá kém đã bị tấn công bất ngờ và tháo chạy với số thương vong nghiêm trọng bởi lực lượng lực lượng kỵ binh Scotland, trong số các chỉ huy Scotland có cả William Wallace. Segrave bị thương và bị bắt làm tù binh, mặc dù chiến đoàn thứ hai đến kịp thời gian giải cứu cho ông ta, trận đánh này đã gần như là một thảm họa lớn với người Anh và người Scotland đã tấn công bất thình lình vào đúng chỗ trọng yếu của quân Anh.

    Kết thúc các chiến dịch năm 1303-1304 ở Scotland

    Edward I lại phát động một cuộc tấn công từ Roxburgh trong tháng 6 năm 1303 với một lực lượng kỵ binh mạnh mẽ và khoảng 7.000 bộ binh nhằm để kết thúc sự kháng cự của quân Scotland. Các chiến dịch trong mùa hè năm trước đó đã không khuất phục được những người Scotland cứng đầu. Thời gian này nhà vua có ý định giữ một đội quân thường trực trong vùng này quanh năm, như ông đã làm khi ông bắt người xứ Wales quỳ gối và không cho phép người Scotland có thời gian nghỉ ngơi. Với một chi phí rất lớn, ba chiếc cầu phao thô sơ đã được chế tạo và vận chuyển bởi một hạm đội gồm 27 chiếc tàu. Edward tiến vào vào Scotland một cách khá dễ dàng, ở các bên sông ông cho đốt cháy thôn ấp, thị xã, trang trại và kho lương ...một cách không thương tiếc.

    Vị bá tước của Ulster với đội quân đến từ Ireland đã chiếm được lâu đài Rothesay và Inverkip ở phía tây, sau đó quay sang cướp bóc vùng nông thôn xung quanh. Người Scotland đã không thể có nổi một đội quân đủ lớn để đối mặt với người Anh trong một trận chiến mở, họ chỉ có thể không ngừng tập kích vào hậu quân của đối phương. Các cây cầu phao có lẽ được đặt tại đầu nguồn sông Forth vào tháng 6, cho phép quân đội Anh vượt qua lâu đài Stirling Castle và hành quân về phía Bắc đến Perth và sau đó đến Kinloss trên Firth Moray, nơi nhà vua nhận được sự quy hàng của quý tộc Scotland ở phía Bắc. Nhà vua tiếp tục hành quân theo một tuyến đường vòng qua những ngọn núi ở Dunfermline, nơi ông đã trải qua những tháng mùa đông của năm 1303-04. Edward I vẫn có một đội quân lớn trong vùng này và chiến đấu tiếp tục trong suốt mùa đông; một lực lượng đột kích trên 1.000 binh sỹ trang bị mạnh xâm nhập vào vùng Lennox tiến xa đến tận Drymen; John de Botetourt và John de St John đột kích vào vùng Galloway với một lực lượng mạnh gồm với bốn banneret, 141 kỵ binh và 2736 bộ binh. Các đạo quân được chỉ huy bởi Segrave, Clifford và Latimer đã tấn công bất ngờ và đẩy lui một lực lượng Scotland được chỉ huy bởi William Wallace và Simon Fraser ở Happrew thuộc vùng Tweeddale.

    Các đội quân nhỏ của người Scotland được chỉ huy bởi John Comyn của Badenoch tiến hành nhiều cuộc đột kích vào người Anh từ căn cứ của họ ở vùng rừng núi, nhưng tình hình của họ đã trở nên tuyệt vọng và họ nhận ra rằng thất bại có thể mang đến sự hủy hoại và chấm dứt quyền lực của nhà Comyn ở Scotland, các địa chủ của vùng Badenoch đã đưa ra các điều kiện thương thuyết hòa bình. Edward chấp nhận sự đầu hàng ( của nhà Comyn ) một cách khoan dung. Đổi lại họ được tự do theo luật cũ của họ và không bị tịch thu đất đai. Một vài phiến quân nổi tiếng bị giam giữ riêng biệt hoặc bị trục xuất một cách tạm thời, trong số đó có John de Soules-một trong những người giám hộ, người ưa thích sống lưu vong lâu dài tại Pháp. Không có điều khoản hòa bình nào được đưa ra cho William Wallace-kẻ thù của nhà vua, người vẫn sống một cách ngang tàng bất chấp mọi nỗ lực của Edward bắt giữ ông ta. Những gì mà ông có thể làm phản ánh sự hỗ trợ của đại chúng nhân dân mà ông vẫn có thể dựa vào.

    Cuộc bao vây lâu đài Stirling Castle

    William Oliphant, quan trấn thủ của lâu đài Stirling ( phe <st1:country-region class=imageattach onload=[/IMG]Scotland) gửi một tin nhắn qua Edward tới John de Soules để hỏi về các điều kiện có thể có để đầu hàng. Nhà vua từ chối yêu cầu này và trong ngày 22 tháng 4 cuộc vây hãm tòa lâu đài đã được bắt đầu một cách nghiêm túc. Đây vừa là một sự kiện xã hội và quân sự và nhà vua đã có một cửa sổ hướng đông được xây dựng trong tòa cung điện của ông để những người phụ nữ của triều đình có một điểm thuận lợi để ngắm cảnh. Hầu hết các phần của các khẩu pháo công thành được lắp ráp tại Scotland rồi được vận chuyển đến để tấn công vào các bức tường phòng thủ, nhưng đơn vị đồn trú vẫn đứng vững bất chấp sự quyết liệt của cuộc bắn phá này, mặc dù cuối cùng thì họ vẫn bị buộc phải đầu hàng vô điều kiện vì hết lương thực. Một câu chuyện khá hài hước được thêm vào sự kiện này bởi chính nhà vua, người có chiếc “Warwolf “- một chiếc máy công thành rất mạnh mới được chế tạo tại đó với một chi phí rất lớn những lại chưa được sử dụng. Nhà vua nhấn mạnh rằng cuộc bao vây chưa thể kết thúc ( mặc dù quân đồn trú đã xin hàng) và quân lính chưa được vào lâu đài “ cho đến khi nó-tòa lâu đài lại bị tấn công bởi chiếc “Warwolf “ và cho đến khi quân phòng thủ nhận ra rằng nó - chiếc “Warwolf “ là chiếc máy công thành mạnh mẽ nhất”

    Bắt giữ và hành quyết William Wallace

    Đến mùa hè 1304 về cơ bản thì Scotland đã nằm trong tay của Ed ward, các tòa lâu đài đã được lực lượng của ông đồn trú và quyền kiểm soát đã được phục hồi. Nhà vua rời chở về nước Anh với quân đội của mình và các nhà quản trị của Hoàng gia ( royal administration ) cũng trở về York, Edward bổ nhiệm người em họ của ông-John của Brittany, Bá tước của Richmond làm trung uý của ông (như vậy chức trung uý ở đây tựa như phó vương, hoặc đại diện cho nhà vua) ở Scotland và với sự nhạy bén chính trị ông đã sử dụng chính người Scotland để quản lý đất nước này cho ông ( dùng người Scotland để trị người Scotland ). Wallace là vẫn còn tự do nhưng tấm lưới đã được quây kín và nhà vua ra lệnh cho các quý tộc Scotland phải “ Gây sức ép ... để nắm bắt Sir William Wallace và bàn giao ông ta cho nhà vua-người sẽ giám sát xem họ tuân thủ mệnh lệnh của ông như thế nào và rồi ông ta sẽ trao nhiều ân huệ nhất cho bất cứ người nào bắt sống được Wallace để ... chuộc tội về những việc làm trong quá khứ ( chống lại ông ta ). “ Wallace đã bị bắt vào ngày 03 tháng 8 năm 1305 bởi một đồng bào người Scotland của ông-Sir John Menteith. Ông được đưa tới London và đã dẫn đi, đeo vòng nguyệt quế để bị chế diễu cùng với các thẩm phán vốn được bổ nhiệm để xét xử ông tại Westminster Hall giữa một đám đông lớn. Bản án cũng như là phiên toà chỉ mang tính hình thức và Wallace đã bị tra tấn một cách cực kỳ man rợ. Ông đã bị kéo lê qua các đường phố đến Smithfield. Ở đó, ông bị treo cổ, rồi lại được thả xuống trong khi vẫn còn sống và bị mổ bụng, ruột của ông bị đốt cháy trước mặt ông bởi những tay đao phủ. Cuối cùng ông đã bị chặt đầu và chiếc đầu của ông được trưng bày ở trên cây cầu London Bridge. Phần còn lại của cơ thể của ông bị cắt ra làm tư để trưng bày tại Newcastle phía-Tyne, Berwick, Stirling và Perth.

    Cái chết của Edward I và công cuộc khôi phục độc lập cho Scotland dưới sự lãnh đạo của Robert Bruce

    Đối với Edward I thì vấn đề ở Scotland dường như cuối cùng đã được giải quyết. Tuy nhiên, vào ngày 10 tháng 2 năm 1306 Robert Bruce đã ám sát John “the Red” thành viên nhà Comyn của Badenoch trong nhà thờ Greyfriars ở Dumfries và tự phong làm vua của Scotland. Ngày 07 tháng 7 năm 1307 Edward I qua đời ở Burgh-by-Sands trên bờ biển Solway trên đường tiến về phía bắc một lần nữa để bắt người Scotland quy hàng. Ông được kế vị bởi người con trai của ông-Edward của Caernarvon, người đã lên ngôi vua như là Edward II, nhưng những mối quan tâm của ông vua mới này lại không ở Scotland và Bruce đã tăng cường sức ép để thiết lập một vùng lãnh thổ nằm trong sự kiểm của mình, ông đã cố gắng đánh bại các đối thủ và dành lấy vương quốc Scotland từ sự đô hộ lỏng lẻo của người Anh (kể từ thời Edward II ).
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận bannockburn năm 1314

    [​IMG]

    Theo dòng lịch sử

    Năm 1274

    Robert Bruce được sinh ra ở Turnberry Castle, Ayrshire.

    Năm 1286
    Cái chết của Alexander III
    -vua của Scotland. Hậu duệ trực tiếp duy nhất của ông là Margaret-Maid của Na Uy, một em bé gái ba tuổi.

    Năm 1290

    Maid của Na Uy chết ngay sau khi cô đến Orkney, gây ra những cuộc khủng hoảng liên tiếp. Vua Edward I của Anh được mời đến để phân xử giữa các 'đối thủ' tranh giành vương miện của Scotland.

    Năm 1292

    John Balliol được lên ngôi vua của Scotland và
    bày tỏ sự quy phục với Edward I thay mặt vương quốc của mình.

    Năm 1296

    Chiến tranh giữa Anh và Scotland bắt đầu.
    Tháng ba: Edward I
    bao vây và chiếm thị trấn Berwick với rất nhiều vụ thảm sát tàn bạo.
    Tháng Tư:
    Người Scotland thảm bại tại trận Dunbar. Nhiều lãnh chúa Scotland bị bỏ tù ở phía nam nước Anh.
    John Balliol
    quy hàngvà từbỏ vương quốc của mình trước Edward I.

    Năm 1297

    11 tháng 9: William Wallace và Andrew Moray
    đánh bại quân Anh tại trận chiến Stirling Bridge.

    Năm 1298

    Wallace được đề cử làm người Giám hộ Scotland.
    22 tháng 7: Quân Scotland bị đánh bại bởi Edward I tại trận Falkirt, Wallace từ bỏ chức vụ người Giám hộ

    Năm 1304

    Stirling Castle bị chiếm bởi Edward I.

    Năm 1305

    William Wallace bắt.
    23 tháng 8: Wallace bị treo cổ, kéo và chặt làm tư ở London.

    Năm 1306

    Ngày 10 tháng 2: John Comyn 'The Red' bị sát hại bởi Robert Bruce trong nhà thờ Greyfriars, Dumfries.
    Ngày 25 tháng 3: Robert Bruce lên ngôi vua của Scotland ở Scone.
    Ngày 19 tháng 6: Trận Methven. Bruce bị đánh bại bởi Bá tước Pembroke.
    Ngày 11 tháng 8: Bruce bị đánh bại tại trận Dalry bởi John MacDougal của Argyll.

    Năm 1307

    Dường như: Bruce thắng trận thắng quan trọng đầu tiên của ông đối với Bá tước
    Pembroke ở Hill Loudon.
    Ngày 7 tháng 7: Edward I qua đời ở Burgh-by-Sands trên bờ biển Solway.

    Năm 1308

    Trận Herschip của Buchan, Bruce tàn phá các vùng đất của Bá tước Buchan và những người ủng hộ ông này sau chiến thắng của ông ( Bruce ) tại Inverurie.
    Tháng 8: Bruce đánh bại John of Lorn tại đèo Brander.

    Năm 1310

    Tháng 9: Edward II xâm nhập Scotland.

    Năm 1311

    Các chiến dịch của Edward II tại Scotland từ năm 1310-11 được chứng minh là vô ích và ông ngày phait rút quân vào tháng Tám.


    Năm
    1312

    Tháng 8: Bruce cuộc tấn công miền Bắc nước Anh.

    Năm 1313

    Tháng Giêng: Bruce chiếm thành phố Perth.
    Tháng Hai: Dumfries thất thủ
    Tháng Năm: Robert Bruce chiếm Isle of Mari.

    Năm 1314

    Người Scotland đã tái chiếm được các thành phố Roxburgh và Edinburgh. Chỉ còn có Bothwell và Stirling vẫn còn trong tay người Anh.
    Ngày 17 tháng 6: Quân Anh vượt qua con sông Tweed tại Wark và Coldstream. Ngày 22 tháng 6: quân Anh hành quân đến Falkirk. Ngày 23-ngày 24 tháng 6: Trận Bannockburn. quân đội Anh của Edward II đã bị đánh bại thảm khốc bởi quân đội Scotland dưới sự chỉ huy của Robert Bruce.
    Ngày 25 tháng 6: Edward II bỏ trốn đến Dunbar và lên tàu từ Bamburgh để đi Northumberland.
    Tháng 11: Tại Cambuskennteth Quốc-Hội Scotland rút lại những đòi hỏi về ngai vàng của đối thủ của Robert Bruce.

    Năm 1315

    Edward Bruce ( Em trai của Robert Bruce ) tự phong làm vua Irland và xâm nhập đất nước này để ngăn chặn sự chi viện về quân sự của đất nước này cho Anh quốc.
    Tháng bảy: Cuộc vây hãm của Carlisle.

    Năm 1318

    Tháng Tư: Berwick rơi vào tay Scotland. Edward Bruce bị giết chết tại trận chiến Faughart gần Dundalk tại Ireland.

    Năm 1319

    Edward II triển khai bao vây Berwick. Douglas và Moray xâm chiếm nước Anh. Hiến Chương Myton.

    Năm 1320

    Tuyên ngôn Arbroath.

    Năm 1322

    16 tháng 3: Trận Boroughbridge.
    Tháng 9: Chuyến chinh phạt Scotland của Edward II cuối cùng đã trở thành một thất bại.
    Ngày 20 tháng 10: Trận Byland Old.

    Năm 1327

    21 Tháng 9: Edward II bị lật đổ và bị giết chết tại Berkeley Castle. Con trai của ông được đăng quang như là Edward III.

    Năm 1328

    Hiệp ước Edinburgh kết thúc giai đoạn này của cuộc chiến tranh Scotland.

    Năm 1329

    Robert Bruce chết thọ 55 tuổi

    Năm 1330

    Sir James Douglas-Tốt lành bị giết chết trong trận chiến chống lại Người Moor ở Tây Ban Nha.

    Năm 1332

    Thomas Randolph-Bá tước Moray từ trần


  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    [​IMG]
    Tượng đài vua
    Robert Bruce ở Scotland


    [​IMG]
    Tranh vẽ
    vua Robert Bruce ở Scotland ở tiền Scotland

    Robert Bruce có nguồn gốc tổ tiên từ Adam Bruce, người đã đến nước Anh cùng với William the Conqueror, đến Lodver vào thế kỷ thứ 10 và trở thành Bá tước người Bắc Âu của Orkney. Người con trai cả của Adam là người đầu tiên được đặt tên là Robert Bruce và ông trở thành một trong những quý tộc lớn ở miền bắc nước Anh, với những vùng đất rộng rãi ở Yorkshire. Trong năm 1124 David I-vị lãnh chúa phong kiến của ông ở Anh, đã được thừa kế ngôi vua Scotland và đã lên ngôi. Ông ta muốn chuyển đổi Scotland từ một xã hội kiểu Celtic lạc hậu thành một nhà nước châu Âu hiện đại và khuyến khích những người Anglo-Norman định cư ở biên giới phía bắc. Một trong những hành động đầu tiên của ông là cấp cho chư hầu của mình-Robert Bruce một bất động sản rất lớn là lãnh địa Annandale. Do đó, nhà Bruce đã trở thành một trong những gia đình hùng mạnh ở Scotland.

    Lòng trung thành của Robert Bruce trong những năm cho đến năm 1306 là hay chuyển dịch và không chắc chắn. Cùng với nhiều quý tộc Scotland khác, ông đã đứng về phe Edward I trong cuộc chiến năm 1296. lập trường Robert của Bruce được quyết định một phần bởi các lực lượng kháng chiến yêu nước chống lại Edward được lãnh đạo bởi nhà Comyn-đối thủ quyết liệt của Bruce về ngai vàng ở Scotland, và bởi vì Bruce đã thấy Edward là hy vọng tốt nhất của ông trong việc chiếm lại vương quyền mà ông tin rằng nó phải thuộc về ông ta. Tuy nhiên, trong năm 1298 Robert Bruce, có lẽ không hoàn toàn vì động cơ yêu nước, đã trở thành đồng Giám hộ của Scotland cùng với John Comyn “ the Red” khi Wallace từ chức giám hộ sau thảm họa của trận Falkirk: Sau những bất đồng đầy bạo lực với Comyn, Bruce lại quay ra tỏ lòng trung thành với người Anh và được tha tội bởi Edward I trong đầu năm 1302.

    Ngày 10 tháng 2 năm 1306 Robert Bruce đã tổ chức cuộc họp với Comyn tại Nhà thờ Greyfriats ở Dumfries. Cuộc họp đã biến thành bạo lực và Bruce đâm đối thủ của mình, làm cho ông kia bị chảy máu ở bên cạnh bàn thờ sau đó thủ hạ của Bruce đã kết thúc tính mạng của ông này. Hành động giết người phạm thánh đã làm cho Bruce không còn lựa chọn; ông đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật bởi Edward I và bị tuyệt thông bởi Đức Giáo Hoàng, đòi hỏi về ngai vàng Scotland của như ông như là đời sau của David I. Với sự hỗ trợ từ một phần của Giáo Hội và quý tộc Scotland, ông đăng quang, bất chấp việc không có Hòn đá lên ngôi-Stone of Destiny, tại Scone ngày 25 tháng Ba. Nhiều lãnh chúa Scotland đã phản đối Bruce. Nhà Commyn và các đồng minh của họ thề sẽ trả thù và nhiều người khác đã không làm gì để giúp ông cả. Edward I đã thề rằng ông ta sẽ bắt Scotland phải quỳ gối. Trong tháng 6 năm 1306trung úy của ông ta là Aymer de Valence đã tấn công bất ngờ và đánh tan quân đội của Robert Bruce tại Methven gần Perth. Tệ hơn nữa sau đó là những người chị em của ông, con gái và Elizabeth-nữ hoàng của ông đã bị bắt giữ và chuyển giao cho Edward 1. Neil- anh trai của Bruce đã bị bắt sau sự sụp đổ của lâu đài Kildrtnnauv Castle và bị hành hình một cách tàn nhẫn ở Berwick. Đến cuối tháng 6 vị trí của Bruce đã bị sụp đổ, những người ủng hộ bị tan tác và người Anh gọi ông một cách chế giễu là “King Hobbe” như là một kẻ đào tẩu. Tuy nhiên ông thoát khỏi sự truy đuổi nhắm vào mình và lấy một con thuyền đến hòn đảo nhỏ Rathlin ở ngoài khơi bờ biển Ulster, nơi ông có một khoảng không gian để nghỉ ngơi và thiết lập và tổ chức lại các nguồn lực của mình.


    [​IMG]
    Tranh vẽ cảnh Robert Bruce quay về Scotland để tiếp tục chống quân Anh

    Vào đầu năm 1307 Robert Bruce và những người theo ông mạo hiểm quay trở lại Scotland. Ông đã đổ bộ xuống gần Turnberry Castle ở vùng Ayrshire và biến mất vào trong các cánh đồng hoang dã và vùng đồng cỏ của Carrick. Trong lúc đó hai người em trai của Bruce-Thomas và Alexander khởi hành đi Galloway với một toán quân viễn chinh nhằm mục đích cung cấp hỗ trợ cho Robert Bruce bằng việc quấy nhiễu đường liên lạc của quân Anh ở đoạn giữa Carlisle và Ayr, nhưng họ đã bị đánh bại một cách thảm khốc. Khi quân Scotland đổ bộ tại Loch Ryan họ đã bị phục kích bởi nhà MacDowells của Galloway, đối thủ quyết liệt của nhà Bruce và bị phân tán trong một trận đánh đẫm máu. Thomas và Alexander Bruce đã bị thương nặng và được mang đến Carlisle nơi Edward I đã treo cổ và đặt đầu rồi chặt đầu họ rồi trưng bày ở cổng của thành phố. Edward đã đổ quân vào miền nam Scotland, nhưng những người ủng hộ Robert Bruce ngày càng tăng và trong một loạt các cuộc đụng độ tại Glen Irool và London Hill, vua Robert đã thu được một số thành công khi chống lại người Anh. Ngày 07 tháng 7 năm 1307 Edward I-Cái búa treo trên đầu người Scotland, đã chết tại Burgh-by-Sands trên Solway và nói sự kìm kẹp đối với người Scotland đã được nới lỏng.

    ROBERT BRUCE PHỤC HỒI VƯƠNG QUỐC CỦA ÔNG, 1307-1314

    Edward II-người con trai bất tài và cũng là người kế nhiệm của Edward I đã bị phân tâm khỏi tình hình ở Scotland bởi vụ của ông ta với Piers Gaveston ( sủng thần của Edward II ) và sự chống đối ngoan cố của các đại quý tộc. Sự kiện này đã cho phép Bruce có một khoảng thời gian quý giá để đối phó với các đối thủ người Scotland của mình. Đầu tiên ông ta di chuyển về phía tây-nam và trả thù một cách tàn nhẫn MacDowells-kẻ thù của ông ta. Sau đó, ông để Jarnes Douglas ở lại để hoàn tất công việc chinh phục vùng Galloway, còn ông thì tiến về phía bắc vào tháng 9 vượt qua Great Glen để đối đầu với John Comyn-đối thủ của mình, ông này (John Comyn) làm chủ lãnh địa bá tước của Buchan rất giàu có trải dài từ Aberdeen đến Moray Firth. Nhà Comyn đã thất bại trong trận Inverurie tháng 5 năm 1308 và bỏ chạy về phía nam nước Anh, bỏ lại lãnh địa bá tước cho lòng thương xót của vua Robert, người đã nhẫn tâm tàn phá các vùng đất của những người ủng hộ nhà Comyn được gọi là “ herschip của Buchan”. Vào mùa hè Bruce đã chiếm được Aberdeen và vị thế của ông về phía đông bắc là không thể bị công kích. Vào năm 1309 hầu hết các phe chống đối lại nhà Bruce còn ở Scotland đã bị đánh bại và ông đã chuyển sự chú ý của ông đến việc đuổi người Anh ra khỏi vương quốc của mình.


    [​IMG]
    Tranh vẽ Robert Bruce dẫn đầu quân kháng chiến Scotland tấn công quân Anh




    [​IMG]
    Tranh vẽ Robert Bruce dẫn đầu quân kháng chiến Scotland tấn công quân Anh



    [​IMG]
    Tranh vẽ
    Robert Bruce cùng các hiệp sỹ của mình tấn công quân cung thủ Anh trong trận Bannock Burn - đây có lẽ là theo truyền
    thuyết hiệp sỹ lãm mạn chứ thực tế thì kị binh Scotland không đủ lực để tấn công các cung thủ Anh

    Trong khi đó, Edward II đã tìm cách hòa thuận một cách tạm thời với các đại quý tộc của mình để tìm cách đối phó với Scotland. Ông tổ chức các cuộc xâm lược vào Scotland năm 1309 và năm 1310, nhưng người Scotland chỉ đơn giản là tan biến đi trước khi ông ta đến, họ tránh giao chiến và phá hủy bất cứ thứ gì còn có thể sử dụng được ( kế vườn không nhà trống ), buộc quân Anh bị đói và chán nản rồi phải rút lui. Các chiến dịch của Edward rất tốn kém và đạt được các kết quả rất ít ỏi và chắc chắn rằng ông ta hết tiền để thanh toán cho quân đội của mình và đã phải trở về phía nam phải đối mặt với các yêu cầu của các đại quý tộc không khoan nhượng của mình. Tại một cuộc họ Quốc-hội được tổ chức vào tháng 8 năm 1311 Edward đã bị buộc phải chấp nhận tất cả những điều ràng buộc quyền hành của ông vốn được đưa ra bởi Đại quý tộc Ordainers và phải đẩy cận thần sủng ái của ông đi lưu vong ở Flanders. Nhưng trong vòng ba tháng sau đó Gaveston đã quay trở lại một cách bí mật và vì sợ cơn thịnh nộ của các đại quý tộc ông này vội vã chạy về phía bắc cùng với Edward ẩn nấp ở lâu đài Scarborough Castle. Trong khi nhà vua cố gắng đi để tuyển mộ quân lính ở nơi khác, Gaveston bị bao vây bởi Bá tước Pembroke và để được đảm bảo an toàn tính mạng ông này đã đầu hàng. Sau đó ông ta đã được chuyển về phía nam-lâu đài Wallingford của Pembroke, rồi bị chuyển giao cho Bá tước của Warwick và bị chặt đầu bởi mệnh lệnh của Bá tước của Lancaster. Robert Bruce đã lợi dụng những rắc rối của Edward để tấn công vào các quận Biên giới của Anh năm 1311 và đốt sạch những vùng mà ông đi qua. Trong mùa hè năm sau, với sự tự tin ngày càng tăng và với sức mạnh lớn hơn, ông dẫn quân đánh sâu vào quận Palatinate của Durham. Các quận không được phòng thủ phía Bắc thấy không có hy vọng về tiếp viện từ Edward II đã bị buộc phải trả tiền cho một thỏa thuận ngừng bắn một năm, để họ thoát khỏi sự cướp bóc của người Scotland, rồi họ lại phải trả nhiều khoản thanh toán hơn nữa như “ tiền chuộc” hoặc tiền bảo vệ trong năm sau và Robert Bruce dùng các khoản tài chính này để cải thiện cho các vùng nghèo khó ở vương quốc của ông.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Năm 1309 người Anh vẫn giữ được một tá các cứ điểm phòng thủ mạnh mẽ ở Scotland. Những cứ điểm này cùng với nhiều cứ điểm yếu hơn, cung cấp cho người Anh các căn cứ để từ đó họ có thể chiếm lĩnh các vùng xung quanh. Chiến thuật của Robert Bruce là chiếm và phá hủy các tòa lâu đài để làm cho chúng trở thành vô ích với kẻ thù, cũng như để ông không cần phải huy động quá nhiều nhân lực hạn chế của mình làm lực lượng đồn trú. Dần dần Bruce đã làm lỏng hệ thống kìm kẹp đất nước Scotland của người Anh. Vì không có dụng cụ bao vây công thành nên ông đã phải dựa vào thủ đoạn chiến thuật và các cuộc tấn công bất ngờ hoặc nếu tất cả các chiến thuật này thất bại, ông đã phải cho tiến hành một cuộc phong tỏa tẻ nhạt. Tại Berwick, cố gắng của Robert Bruce để chiếm thành phố vào ban đêm bằng thang đã thất bại vì một chú chó harking đã sủa cảnh báo cho đơn vị đồn trú. Tuy nhiên, ông đã có nhiều thành công trong tháng Giêng năm 1313, khi thị trấn chiến lược quan trọng Perth đã bị chiếm trong một cuộc tấn công bất thình lình vào ban đêm dưới ánh trăng.

    [FONT=&quot]Ở vùng phía đông nam Scotland hoặc Lothian, có rất nhiều vùng đất do những chủ đất người Anglo-Scotland nắm giữ ở hai bên vùng biên giới. Lothian thường nằm dưới sự cai trị của người Anh, do đó, người dân phải có nghĩa vụ trả “ tiền chuộc” hay tiền bảo vệ cho Robert Bruce theo cách tương tự như người dân ở miền Bắc nước Anh. Nhiều trong số các tòa lâu đài nhỏ hơn ở Lothian đã nằm trong tay người Scotland cho đến tháng 2 năm 1314, James Douglas đã tấn công bất ngờ và chiếm được Roxburgh tòa lâu đài quan trọng. Đỉnh cao của chiến dịch tấn công các pháo đài của người Anh ở Lothian nổ ra sau khi Thomas Randolph đã không chịu thua kém chiến công của Douglas đã chiếm Lâu đài Edinburgh bằng thang trong một đêm tấn công táo bạo.[/FONT]
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chỉ huy của các bên đối địch



    Chỉ huy của quân Anh

    Edward Plantagenet 1284-1327; Vua Edward II 1307-1327


    Các sử gia đương đại đều đồng ý rằng Edward của Caernarvon cao, có dáng người đẹp, thể thao, đẹp trai và dũng cảm nhưng yếu về mặt ý chí, nhẹ dạ, phù phiếm, lông bông. Ông không có đầu óc về chính trị, chiến tranh, kinh doanh… mà chỉ tìm cách thỏa mãn sở thích cá nhân. Ở tuổi thanh niên ông ít quan tâm đến nghiên cứu về lĩnh vực quân sự và mặc dù ông rất yêu loài ngựa, lĩnh vực thể thao dã ngoại và âm nhạc, ông quan tâm đến những vấn đề mộc mạc như lợp mái nhà, sửa chữa hàng rào và trình diễn ngựa, ông cũng rất nhiệt tình với các môn thể thao chèo thuyền và bơi lội trong mọi thời tiết, người đương thời với ông dường như bị sốc vì những sở thích được coi là không hợp thời của một vị hoàng tử. Piers Gaveston là một thanh niên luôn đi kè kè ngay bên cạnh Edward, ông này là con trai của một hiệp sĩ người Gascon phục vụ cho cha của ông ta ( Edward I). Ông này (Piers Gaveston) là một thanh niên cực kỳ đỏm dáng và hài hước và người ta nói rằng Edward yêu người bạn của ông đến mức mà mối ràng buộc là không thể chia lìa và bất chấp cả về mặt đạo đức của người châu Âu thời Trung cổ ( khả năng hai bác này là ĐTLA). Nhưng sự xấc xược bất kính mà Gaveston thể hiện tại triều đình là ông ta đặt những biệt hiệu “Burst Belly”, “Joseph the Jew” và “ Black Dog of Arden” cho những quý tộc hàng đầu[FONT=&quot] ở triều đình Anh quốc, khiến ông này bị họ căm thù một cách khôn nguôi. Kỹ năng sử dụng vũ khí của ông càng làm tăng sự giận dữ của họ, vì ông luôn đánh bại họ trong cuộc tỉ thí. Khi Edward của Caernarvon lên kế thừa ngôi vị vào năm 1307, mối quan tâm đầu tiên của ông là đề đạt Piers Gaveston là Bá tước xứ Cornwall, một danh hiệu theo truyền thống chỉ dành riêng cho hoàng gia. Các hành vi thiên vị quá độ của nhà vua và sự bất tài của ông ( thực ra nếu ông chỉ được sinh ra ở một gia đình giàu có thôi thì là quá tuyệt vời ) cùng với sự tham gia của Gaveston vào các công việc triều chính đã tạo nên một sự điên rồ và ngày càng đẩy ông vào các cuộc xung đột với các Đại quý tộc và làm cho vương quốc Anh đến bên bờ vực của cuộc nội chiến. Sự phân tâm của ông ( Edward II) với các sự kiện tại Scotland đã cho phép Robert Bruce có thời gian để thiết lập vị thế chính trị của mình và thực tế thì ông này đã thành công trong việc tống cổ người Anh ra khỏi vương quốc của mình.

    [/FONT]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Kinh nghiệm quân sự đầu tiên mà Edward Caernarvon có được là vào năm 1300 khi ông đang ở tuổi 16, ông cùng với Gaveston-người bạn không rời nửa bước của mình cùng cha của ông ( Edward I) tiến hành chiến dịch tại phía tây nam Scotland. Đầu năm 1301 Edward I dường như hài lòng với hành vi của con trai mình và phong cho ông làm Hoàng tử Wales. Sau đó trong cùng năm này ông giao phó cho ông ta (Edward Caernarvon) làm tư lệnh của một trong hai hướng [FONT=&quot]xâm lược vào Scotland. Lincoln-vị Bá tước giàu kinh nghiệm nhận nhiệm vụ hướng dẫn Hoàng tử về mặt chỉ huy quân sự, tuy nhiên cuộc viễn chinh này chỉ thu được những kết quả ít ỏi. Edward lại đi cùng với cha của mình ở chiến dịch năm 1303 của ông ở Scotland và ông lại một lần nữa có mặt ở phía bắc vào năm 1300 khi tòa lâu đài Kildrinum Castle thất thủ. Mặc dù sở thích của Edward con không phải là theo đuổi các sự nghiệp về quân sự, cha ông đã không bỏ bê trong việc giáo dục ông về lĩnh vực này và có lẽ ông ( Edward I ) cũng không biết rằng thực tế các chiến dịch chống lại người Scotland của ông là có ít tác dụng. Ở đầu triều đại của mình, ông ( Edward II ) đã có kinh nghiệm với chiến thuật kiểu Fabian của Robert Bruce ( tránh chiến đấu đối mặt) khi phải đối mặt với một lực lượng vượt trội trong thời gian Edward II xâm lược Scotland vào năm 1310. Edward II có quá nhiều thời gian mệt mỏi để truy đuổi người Scotland vốn rất khó chộp bắt trong các đầm lầy, nhưng ông lại không có kinh nghiệm về về lãnh đạo trong một trận chiến và các cuộc thử nghiệm về chiến tranh của ông tỏ ra khá là vô dụng.

    [/FONT]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Các chỉ huy cấp dưới của Anh

    Bá tước của Lancaster và các đại quý tộc Anh khác thuộc phái của ông đã không hưởng ứng lệnh triệu tập của nhà vua để tập hợp ở Berwick và chỉ gửi một số lượng rất tối thiểu của người của họ để thực hiện nghĩa vụ phong kiến trong thời gian chiến tranh. Chỉ có các Bá tước của Gloucester, Hereford, Pembroke và Angus là hưởng ứng lời triệu tập một cách cá nhân. Cũng không công bằng nếu cho rằng các chỉ huy của Anh là thiếu kinh nghiệm chiến trường, vì không có một trận đánh lớn ở Anh kể từ trận Falkirk năm 1298 nên có thể nói họ có trình độ ngang bằng với các chỉ huy người Scotland. Tuy nhiên, người Anh lại không muốn những sỹ quan dày dạn kinh nghiệm của họ tham gia vào chiến dịch Scotland lần này. Aymer de Valence-Bá tước Pembroke, người cao lớn và xanh xao đã bị Gaveston đặt cho biệt danh
    “Joseph the Jew-Joseph thằng Do Thái . Mặc dù ông đã phản đối lại Edward II trong suốt thời gian về vụ bê bối của Gaveston, về cơ bản ông là một người công bằng và trung thành trung thành với nhà vua. Ông là một chỉ huy có kinh nghiệm và đã tham gia nhiều chiến dịch tại Scotland trong thời gian của Edward I và đã từng đánh bại Bruce tại Metliven vào năm 1306. Ông là anh em họ của Edward I và là trung úy của nhà vua ở Scotland trong đầu năm 1314, ông tham dự vào việc tổ chức chiến dịch, trong khi khi chờ đợi sự xuất hiện của nhà vua ở Berwick. Đoàn tùy tùng cá nhân của Pembroke bao gồm22 hiệp sỹ và 59 kị sỹ trong năm 1314. Tuy vị bá tước là người có kinh nghiệm nhưng lại không được nắm quyền chỉ huy tại Bannockburn và không có ảnh hưởng đến kết quả của trận đánh, mặc dù hậu đội của ông đã đảm bảo cho nhà vua thoát khỏi thảm họa bị bắt làm tù binh.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Gilbert de Clare-Bá tước Gloucester, 23 tuổi và là một cháu trai của Edward II, người bổ nhiệm ông làm đồng chỉ huy của đội quân tiên phong cùng với Bá tước của Hereford, mà điều này chắc chắn đã dẫn đến sự tranh chấp, chia rẽ trong giới lãnh đạo. Ông này rất giàu có và có thể là rất ngạo mạn và mang vào trân chiến năm 1314 một số lượng lớn người của ông do chính ông trang bị cho họ, mặc dù theo sử gia Barbour có lẽ chỉ có dưới 500 người trong số này thực sự tham gia vào trận Bannockburn. Ông này có một con ngựa bị giết chết ngay vào ngày đầu tiên của trận chiến, và cùng với tính khí bốc đồng của tuổi trẻ, ông cưỡi lại cưỡi một con ngựa khác lao vào các ngọn giáo của quân Scotland và đã bị giết chết vào ngày hôm sau. Ông là nạn nhân quan trọng nhất của người Anh tại trận Bannockburn và cái chết của ông đã làm cho Robert Bruce rất phiền lòng vì ông này không chỉ mất một khoản tiền chuộc khổng lồ mà còn vì ông này còn là người anh em đồng hao của ông, vì cả hai đều kết hôn với các con gái của Richard de Burgh, Bá tước của Ulster. Ông này (Gilbert de Clare ) dường như là có khái niệm về tinh thần thượng võ nhưng không hề có kinh nghiệm chỉ huy chiến trường nào khác hơn là dẫn đầu một cuộc tấn công thiếu thận trọng từ phía trước.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Humphrey de Bohun, Bá tước của Hereford, anh em rể của nhà vua và Nguyên soái tương lai của Anh quốc, ông ở độ tuổi đầu 30 tại thời điểm của trận Bannockhurn. Ông đã từng là một trong những lãnh đạo của phe đối lập với Edward II nhưng đã được ân xá về phần của ông trong cái chết của Gaveston. Lúc còn trẻ ông đã chiến đấu bên cạnh cha mình tại trận Falkirk trong năm 1298, và ông là một trong những người tham gia bao vây lâu đài Caerlaycrock Castle năm 1300 khi đó ông được mô tả là một người đàn ông trẻ tuổi, giàu có và thanh lịch. Ông có những kỹ năng sử dụng võ khí tuyệt vời và đã tham gia tỉ thí với Gaveston ở giải đấu Wallingford của năm 1307. Như để thưởng công cho sự phục vụ của ông ở Scotland, Edward I ban thưởng lâu đài Lochmaben của Robert Bruce và các vùng đất thuộc lãnh địa của Annandale cho ông vào năm 1306. De Bohan đã phục vụ cùng với Robert Clifford và Henry Beaumont ở phía bắc và chắc chắn là chúng đã đóng góp không ít vào kinh nghiệm chiến tranh thực tế của ông. Ông đã được trao nhiệm vụ đồng chỉ huy của đội quân tiên phong của Anh cùng với Bá tước Gloucester.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Robert d'Umfraville là một nam tước hùng mạnh của Northumbrian và Bá tước của Angus-mặc dù chỉ có cái tên hiệu, bởi vì những vùng đất mà ông ta mơ ước đều ở Scotland và chúng đã được chia giữa những người ủng hộ của vua Robert. Ingram d'Umfraville là anh em họ của Robert. Ông là một người Anglo-Scot có quyền cao chức trọng ở Scotland nhưng kể từ nằm 1308 ông đã chuyển sang phục vụ cho người Anh. Kinh nghiệm của ông là vô giá đối với Edward II tại Bannockburn. Tuy nhiên, những lời khuyên của ông liên quan đến Scotland đã bị bỏ ngoài tai.

    Robert Clifford là một chỉ huy có kinh nghiệm từ các trận chiến ở vùng biên giới, ông cũng là người đã chiến đấu tại trận Falkirk trong năm 1298. Clifford phục vụ cả Edward II và cha của ông này trước đó trong suốt thời gian của chiến tranh Scotland cho đến khi ông chết ở tuổi 40 trong trận Bannockburn. Ông và Henry Beaumont dẫn đầu các kỵ binh đụng độ với lực lượng giáo binh của Randolph vào ngày 23 tháng Sáu. Sau Bá tước Gloucester, ông là tên nổi bật nhất trong số những người Anh thiệt mạng tại Bannockburn.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Henry Beaumont, một tay phiêu lưu người Pháp có họ hàng với hoàng tộc Pháp, có lý do tốt để hỗ trợ cho Edward II trong chiến dịch Bannockburn, trong trường hợp người Anh chiến thắng ông này sẽ kiếm được một Lãnh địa bá tước giàu có ở Scotland. Sự nghiệp quân sự của Beaumont kéo dài từ trận chiến Falkirk trong năm 1298, lúc ông ta còn là một thanh niên và vào những năm của thập kỷ 1330, những kỹ năng chiến thuật của ông đã mang đến thảm họa cho người Scotland ở Dupplin Moor và góp phần vào chiến thắng của Edward III tại Halidon Hill ( nhưng đó là chuyện của 16 năm sau ). Người ta nói rằng ông đã tìm kiếm sự nổi tiếng “ qua kinh nghiệm chiến đấu và những chiến dịch, nơi không có gì thường xuyên hơn là nguy hiểm và sự đe dọa.”

    Hugh Despencer con-sủng thần mới của nhà vua, thay thế vị trí của Piers Gaveston vốn đã bị sát hại trong con mắt của Edward vào thời gian này và ông này đã ở bên cạnh nhà vua trong trận Bannockburn. Ông đã được hứa hẹn về những vùng đất của Bá tước Moray và ông đã mang theo đoàn tùy tùng mạnh nhất gồm các hiệp sĩ và kị sỹ chỉ sau lực lượng của các Bá tước Pembroke và Gloucester để giúp ông ta giành lấy chúng.


    Có rất nhiều cựu chiến binh của Edward I tại các chiến dịch ở xứ Wales và Scotland trước đó tham dự trận Bannockburn và họ có vô số kinh nghiệm quân sự, mặc dù cuối cùng họ đã thất bại trong việc ảnh hưởng kết quả của trận chiến. Marmaduke de Thweng- hiệp sĩ nổi tiếng vùng Yorkshire, người đã lập nên kỳ tích ở trận Stirling Bridge trong năm 1297, hoặc như vị hiệp sỹ già Thomas Berkley, người đã chiến đấu lúc còn ở tuổi thanh niên trong trận Evesham trong năm 1265 và người ta nói rằng ông đã phục vụ cho hoàng gia gần như trong tất cả các năm của nửa sau của thế kỷ 13 ( nhiều hiệp sỹ rất là nghèo nên chỉ biết sống bằng thanh kiếm của mình ). đoàn tùy tùng của ông bao gồm Maurice-con trai của ông và hai cháu trai.

    [FONT=&quot]
    Edward 11 dường như đã có một sự quan tâm đặc biệt đến Giles d'Argentan-một trong ba hiệp sĩ giỏi nhất và ghê gớm nhất của Thiên Chúa giáo, người thể hiện tinh thần lãng mạn của những chàng hiệp sĩ lang thang. Edward đã viết thư nhiều lần tới vị hoàng đế Byzantine trong 1313 để đảm bảo cho việc phóng thích ông này từ nhà tù tại Salonica trong thời gian đó để đi cùng đoàn chinh phạt Scotland của mình. Giles đã ở bên cạnh của nhà vua cùng với Pembroke suốt trận đánh,
    [FONT=&quot]Scalacronia-một những của ông sau khi ông dẫn dắt nhà vua chạy thoát khỏi thảm họa xảy ra: “ Thưa bệ hạ, ngài hãy yên tâm vì sự tận tâm của thần, ngài đã ở chỗ an toàn, đây là tòa lâu đài của ngài nơi mà cá nhân ngài có thể được an toàn. Thần không quen với việc phải bỏ chạy và thần cũng không muốn bắt đầu phải bỏ chạy ngay bây giờ. Thần sẽ cầu Chúa cho ngài” Sau đó, sau khi đã cài lại đinh thúc ngựa cho con ngựa của mình, ông quay trở lại với trận đánh nơi ông đã bị giết chết. Argentan đã hy sinh một cách anh dũng, nhưng những cử chỉ anh hùng cá nhân [/FONT][FONT=&quot]của ông đã không thể thay đổi được cục diện của trận chiến, tinh thần quả cảm chắc chắn là một điều cần thiết trong một trận chiến, nhưng ông lại quá nóng tính để trở thành một nhà chỉ huy quân sự có hiệu quả.[/FONT][/FONT]
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chỉ huy quân Scotland

    Robert Bruce 1273-1329; Robert I, vua của Scotland 1306-1329

    Robert Bruce được sinh ra tại lâu đài Turnberry ở Ayrshire năm 1273, sau cái chết của người cha của ông năm 1304, ông trở thành Lãnh chúa đời thứ 7 của Annandale được thừa kế cái tên Robert Bruce. Từ nhỏ ông đã được nuôi dưỡng theo truyền thống qúy tộc quân sự Anglo-Scotland. Danh tiếng của ông đến từ sự dũng cảm và là một chiến binh có kỹ năng chiến đấu cực kỳ khủng khiếp. Ông được đánh giá là một trong ba hiệp sĩ lừng danh nhất trong tín đồ Cơ đốc giáo, hai người kia là Hoàng đế Henry VII và Sir Giles d'Argentan.

    Chiến lược của Bruce trong việc thu hồi và giải thoát Scotland khỏi quân xâm lược Anh với một lực lượng quân sự hạn chế đòi hỏi ông không được mắc sai lầm. Ông luôn tránh mắc phải những rủi ro không cần thiết và tránh những cuộc giao chiến khi lực lượng của đối thủ mạnh hơn quân của ông quá nhiều, ông ưu thích một chiến lược theo kiểu Fabian ( một tướng La Mã luôn tìm cách lẩn tránh một trận đánh quyết định khi phải đối đầu với Hannibal của thành Carthagơ ). Người ta cũng được biết rằng kinh nghiệm chỉ huy quân sự của Robert Bruce trước khi trận Bannockburn nổ ra chỉ hạn chế trong những trận chiến không thường xuyên hoặc xung đột ph.e phái. Không thể nghi ngờ một điều rằng ông là một nhà lãnh đạo xuất sắc, dưới sự chỉ huy của ông một lực lượng quân đội Scotland nhỏ bé đã gặt hái được những thành công và chở thành những chiến binh chiến đấu theo kiểu du kích một cánh đáng sợ, họ liên tục di chuyển, sử dụng các cuộc tấn công bất ngờ, phục kích và tấn công ban đêm vào kẻ thù của họ. Trong một số trận đánh tại Glen Trool, Loudon Hill, tại Đồi Barra và tại Đèo Brander, Bruce đã chọn lựa những thanh niên đầy quyết tâm và ông đã cẩn thận tập hợp họ thành một lực lượng chiến đấu và tạo nên một lực lượng giành được chủ động về mặt chiến thuật trên chiến trường. Đây là một lực lượng chiến đấu trên một quy mô nhỏ không hơn 1.000 người dưới sự chỉ huy của ông, nhưng khi các sự kiện chuyển sang một trang mới trên quy mô lớn hơn như trong năm 1314, Bruce cho thấy nguyên lý cơ bản người chỉ huy trên chiến trường là không đổi trong mọi tình huống đối diện với kẻ thù ( tựa như nguyên lý Dĩ bất biến ứng vạn biến của ta ).

    Sir Robert Keith là một người Anglo-Scot đến từ Lothian gia nhập lực lượng của Bruce từ năm 1308. Ông là người khá lớn tuổi so với các chỉ huy khác và là truyền nhân của nhà Marshal của Scotland-một dòng tộc có vị trí xã hội cao. Sử gia Barbour cho rằng ông đã chỉ huy một lực lượng gồm 500 kỵ binh thiết giáp tại trận Bannockburn, nhưng nhiều khả năng trong ngày thứ hai của trận chiến, cùng với những hiệp sĩ khác người Scotland ông đã xuống ngựa để chiến đấu, người của ông đã tạo nên một phần của đội hình schiltron của người Scotland.

    Những chỉ huy của Robert Bruce trong trận Bannockburn đã chiến đấu bên cạnh ông từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống lại người Anh. James Douglas biệt hiệu “ the Black “, sau này được gọi là Sir Jaynes “ the Good - Tốt lành “, tham gia vào đội quân của Bruce ở tuổi 18 sau khi cha ông-Sir William Douglas, một đối thủ không đội trời chung của người Anh, bị sát hại trong Tòa tháp của London. Các vùng đất của nhà Douglas đã bị vua Anh tịch thu và ban thưởng cho Sir Clifford Robert. Là một nhà lãnh đạo du kích, Douglas đã sớm nổi tiếng như cồn vì sự đáng sợ của ông khi tàn sát một cách tàn nhẫn những đơn vị đồn trú của người Anh ở phía tây nam Scotland. Tuy nhiên, sự táo bạo của tuổi trẻ của ông lại kết hợp với sự giảo hoạt và mưu mẹo, và trong trận tấn công bất thình lình vào lâu đài Roxburgh Castle-một vị trí được phòng thủ vững của người Anh thì phẩm chất của ông đã được phát huy. Người ta đã cho rằng tầm quan trọng của ông trước trận Bannockburn đã được đánh giá quá cao và vai trò của ông trong trận đánh đã bị phóng đại. Trong ngày đầu tiên của trận chiến ông chỉ huy một đội kỵ binh và đóng vai trò một lực lượng trinh sát. Mặc dù sử gia Barhour cho rằng Douglas đã chỉ huy binh đội thứ 4 của người Scotland nhưng dường như là trong ngày hôm sau ông đã cho người của mình xuống ngựa và dẫn họ ra nhập vào một schiltron của các giáo binh. Cuối ngày hôm đó ông lại lên ngựa và dẫn đầu một cuộc truy kích vào Edward II.

    [FONT=&quot]Edward Bruce-người anh em duy nhất còn lại của vua Robert trong năm 1314, được cho là một con người táo bạo và liều lĩnh một cách bạt mạng và ông cũng tham gia trận Bannockburn dưới sự lãnh đạo của người anh của mình, ông là của một chỉ huy cấp dưới đáng tin cậy. Ông là một chỉ huy của một trong ba đơn vị hoặc đội hình schiltron giáo binh trong trận đánh. Năm 1318 ông (Edward Bruce) đã bỏ sang Irland và tự xưng làm “ vua của Ireland” cuộc phiêu lưu của ông đã kết thúc khi ông bị đánh bại và bị giết tại trận Dundalk tại County Louth.

    [/FONT] Thomas Randolph là người cháu trai của Robert Bruce và một trong những người ủng hộ ông sớm nhất. Ông đã bị bắt bởi người Anh và phục vụ họ cho đến năm 1301 khi ông tái gia nhập lực lượng của Bruce. Lòng trung thành và sự phục vụ sau đó của ông đã được tưởng thưởng bởi lãnh địa bá tước Morav vào năm 1313. Ông chỉ huy một trong ba đội hình schiltron của người Scotland tại Bannockburn.

    Sir Robert Keith là một người Anglo-Scot đến từ Lothian gia nhập lực lượng của Bruce từ năm 1308. Ông là người khá lớn tuổi so với các chỉ huy khác và là truyền nhân của nhà Marshal của Scotland-một dòng tộc có vị trí xã hội cao. Sử gia Barbour cho rằng ông đã chỉ huy một lực lượng gồm 500 kỵ binh thiết giáp tại trận Bannockburn, nhưng nhiều khả năng trong ngày thứ hai của trận chiến, cùng với những hiệp sĩ khác người Scotland ông đã xuống ngựa để chiến đấu, người của ông đã tạo nên một phần của đội hình schiltron của người Scotland. [FONT=&quot]Bruce đã tạo ra một bộ khung sườn mạnh mẽ với những chỉ huy giàu kinh nghiệm chiến đấu và có cùng một mục đích về cuộc chiến này. Ngược lại trong nội bộ lãnh đạo của người Anh ít nhất là có sự bất hoà giữa các Bá tước Gloucester và Hereford chứ không phải là vấn đề uy tín cá nhân.[/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Quân đội của các bên đối địch


    Quân đội Anh năm
    1314

    Quân đội của Edward II tại trận Bannockburn bao gồm cả lực lượng kỵ binh phong kiến và được trả lương, cùng với các binh sĩ ngự lâm của nhà vua. Bộ binh của ông chắc chắn có lực lượng cung thủ nhưng người ta không rõ họ chiếm tỷ lệ bao nhiêu %. Một quân đội của nhà Edward điển hình được tổ chức thành ba đạo binh hoặc “ chiến đoàn.”. Người giữ chức vụ Nguyên soái chịu trách nhiệm về tổ chức và điều hành quân đội, và theo thói quen ông ta cũng thường chỉ huy đội tiên phong hoặc đạo tiền quân. Tại Bannockburn chức vụ Nguyên soái được giao cho Bá tước Hereford, mặc dù có nhầm lẫn bởi việc Edward chỉ định Gloucester là đồng chỉ huy của đội quân tiên phong. Đạo trung quân thường nằm dưới sự chỉ huy của nhà vua nếu ông ta có mặt, vì vậy chúng tôi có thể chắc chắn rằng Edward II đã nắm cánh quân trung tâm và rằng ông đã đi cùng với Sir Echnnud Miaulev-người chỉ huy đội Ngự lâm quân của ông. Còn với lực lượng hậu quân hoặc lực lượng dự bị thì không thấy bằng chứng cho biết ai là chỉ huy của họ tại Bannockburn. Chúng ta biết rằng quân đội Anh đến được Stirling trong một sự tổ chức rất tốt với đội quân tiên phong tiến trước nhưng, sau những thất bại của họ trong trận chiến ở ngày đầu tiên, những nhầm lẫn nghiêm trọng đã phát sinh. Sử gia Barbour cho chúng ta biết rằng nhà vua đã chia quân đội của mình thành mười đạo binh và bổ nhiệm những người mà ông nghĩ là chiến đấu tốt thành những chỉ huy. Nếu Edward đã có khoảng 10.000 lính bộ binh và điều này là hoàn toàn có khả năng, thì sự sắp xếp này dường như là hoàn toàn có thể xảy ra.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Kỵ binh của người Anh
    [FONT=&quot]
    Hệ thống phong kiến cho phép nhà vua yêu cầu các chúa đất chính của ông cung cấp một số lượng hạn định những các kỵ binh để phục vụ trong vòng 40 ngày, mặc dù vào thời gian của Edward II đã xảy ra một thói quen là các Đại quý tộc mang đến ít người hơn nhưng lại phục vụ lâu hơn. Năm 1310 Bá tước Peurbroke được triệu tập để hội binh ở Berwick và, mặc dù ông ta từ chối tham dự một cách cá nhân, ông vẫn thừa nhận rằng có nợ vua sự phục vụ của năm hiệp sĩ, một nghĩa vụ mà ông sẽ phải thực hiện bằng cách cung cấp một hiệp sĩ và tám “ Servient” hoặc kỵ sỹ cùng với 10 con ngựa. Từ đó ta có thể thấy rằng ngựa và trang bị của một kỵ sỹ mới chỉ là phân nửa chi phí của một hiệp sĩ. Năm 1310 chỉ tập hợp được ở Berwick có tất cả 37 hiệp sĩ và 172 kị sỹ bởi các Đại quý tộc chỉ gửi số lượng thấp nhất mà họ có thể với những con ngựa có chất lượng kém. Tương tự kể từ năm 1314 Bá tước Lancaster và phe cánh của ông này phớt lờ giấy triệu tập của Edward II và chỉ gửi một lực lượng tối thiểu các kỵ binh đến tập hợp tại Berwick.

    [/FONT]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Nhà vua cũng có thể huy động kị binh từ những người có tài sản giá trị [FONT=&quot]20 bảng đổ lên, hoặc qua một “ Knight fee-phí hiệp sĩ", có nghĩa là họ có nghĩa vụ phục vụ như một hiệp sĩ hay cung cấp một thay thế; những kị sỹ này sẽ được trả tiền cho sự phục vụ của họ. Trên lý thuyết thì ít nhất có hơn 5.000 hiệp sĩ sẵn sàng phục vụ, nhưng thực tế thì không phải lúc nào người ta cũng luôn luôn mong muốn được phong tước hiệp sĩ và nhà vua thường xuyên phải gây áp lực vào những chiến binh lười nhác-những người có thể là hiệp sĩ hoặc không. Một nguồn tin có giá trị từ thời Edward I là Horse Lists-Danh sách các con ngựa, danh sách này ghi tên của các kỵ sĩ mà nhà vua đã trả lương cùng với giá trị và mô tả về con ngựa của ông ta, để chủ ngựa có thể được bồi thường nếu con ngựa bị giết chết trong khi phục vụ nhà vua. Nhờ vào những danh sách này cho chúng tôi biết rằng trong trận Falkirk trong năm 1298, Edward I đã có 1.300 kỵ binh được trả tiền và kỵ binh trong đội ngự lâm quân của ông. Các chư hầu phong kiến góp thêm từ 500 đến 1.000 kỵ binh và tạo ra một lực lượng kỵ binh tối đa khoảng 2.300 người. Quấn Edwardi Vita Secundi của một Thầy tu tại Malmesburv nói với chúng ta rằng trong chiến dịch Bannockburn, “ số lượng các kỵ binh là khoảng hơn hai nghìn “ một dự tính hoàn toàn tỉnh táo ở cái thời mà người ta hay cường điệu hóa vấn đề số lượng. Cả hiệp sĩ và kị binh ở thời kỳ này đều là lực lượng kỵ binh thiết giáp hạng nặng ghê gớm nổi bật cưỡi trên những con ngựa được bọc thép. Có ít bằng chứng trực tiếp còn lại về chiến dịch Bannockburn hơn so với trận Falkirk,cũng như hầu hết các tài liệu cho phép chúng ta hình thành một ý tưởng số lượng tổn thất thật sự của quân đội Anh, có lẽ chúng đã bị thất lạc cùng với con dấu riêng của nhà vua trên đường tháo chạy sau cuộc chiến. Tuy nhiên “ the protections” được liệt kê trong Roll Scotch trong năm 1314, trong đó nhà vua đã phải tiến hành để bảo vệ các vùng đất, danh tiếng của những người đã tham gia phục vụ mình, gồm khoảng 890 kị sỹ, hiệp sĩ, hộ sỹ và kị binh, vì vậy chúng tôi biết rằng đây là số lượng kị binh tối thiểu đã có mặt tại Berwick. Con số này đã gợi ý về một số lượng có thể có tương đương với số lương mà Edward I đã có ở trận Falkirk. [/FONT][/FONT]

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Bộ binh người Anh
    [FONT=&quot]
    Lính nghĩa vụ ở miền Nam nước Anh đã không được triệu tập để phục vụ trong chiến dịch Scotland, chỉ có các quận phía Bắc và Trung du và xứ Wales là được gọi. Ngày 24 tháng 3 năm 1314, Edward II triệu tập từ các vùng này 21.540 lính bộ binh - một lực lượng khủng khiếp nếu đó là hiện thực - những người phải đến và tập hợp tại Wark on-Tweed vào ngày 10 tháng Sáu. Tuy nhiên bằng chứng từ các chiến dịch trước đó cho thấy rằng hệ thống hậu cần tối đa của quân đội chỉ có thể cung cấp cho Edward một số lượng bộ binh chỉ hơn một nửa số mà ông triệu tập và có một số người có lẽ sẽ đào ngũ khi có cơ hội đầu tiên. Một lệnh triệu tập vào ngày 9 tháng ba năm 1314 đã cho gọi 4.500 cung thủ từ năm quận phía Bắc với cung tên và các loại vũ khí khác mà họ phải trang bị, đã chỉ ra rằng một lực lượng cung thủ mạnh mẽ được trang bị đầy đủ đã được dự kiến. Mệnh lệnh này đã được thay thế bằng một lệnh triệu tập rộng hơn nhưng rất đáng tiếc là cái sau lại không được cụ thể, nó chỉ đơn giản là cần những bộ binh, làm cho người ta rất khó để đánh giá tỷ lệ của cung thủ và giáo binh trong quân đội. Vào cuối ngày 29 tháng 3, Edward đã viết thư một cách khẩn cấp cho đại diện của ông ta ở quân đội rằng “ Trước đó ta đã ra lệnh cho mọi người phải sẵn sàng ... ngươi đang làm ta tức giận, hãy nhanh lên và buộc những người đàn ông phải đến” từ ngữ của Edward cho thấy có khó khăn trong việc huy động lực lượng, một tình huống cho thấy ông ta chỉ huy được một lực lượng bộ binh chất lượng kém và không muốn phục vụ đến Berwick và đã quá muộn để ông có thể tập hợp họ thành một lực lượng chiến đấu gắn kết và có hiệu quả.

    [FONT=&quot]Cung thủ [/FONT][FONT=&quot]trường cung Anh

    Các vùng mà từ đó mà từ đó lực lượng bộ binh được tập hợp cho chiến dịch Bannockburn, miền Bắc nước Anh, các quận trung du và xứ Wales … là những vùng nổi tiếng về sức mạnh của các cung thủ trường cung của họ. Khi lệnh triệu tập của ngày 9 tháng 3 năm 1314 được so sánh với mệnh lệnh thay thế nó vào ngày 27 tháng Năm, người ta thấy rằng hơn 2.000 cung thủ được đòi từ Yorkshire đã trở thành 4.000 lính bộ binh. 1.000 cung thủ trường cung từ Nottinghamshire và Derbyshire đã trở thành 2.000 bộ binh… có thể giả định rằng tỷ lệ cung thủ trường cung và giáo binh đã được dự kiến là tương đương nhau. Roger Mortimer đã cố gắng huy động 3.000 bộ binh tại xứ Wales cho chiến dịch này. Nhà sử học Gerald của xứ Wales đã lưu ý rằng có một sự khác biệt đặc trưng giữa những người Welshmen; người ở phía bắc thường chiến đấu như các giáo binh trong khi những người ở phía Nam lại thường là các cung thủ trường cung. Vì vậy, có khả năng là trong số 3000 bộ binh mà Roger Mortimer huy động tại xứ Wales, 1.000 người mà ông huy động ở South Wales là cung thủ trường cung và hơn 2.000 người được huy động ở miền Bắc xứ Wales là các tay giáo.

    [/FONT]
    [FONT=&quot]Thị trấn Bristol bị triệu tập 100 tay nỏ và cung thủ, do đó, có vẻ như thị trấn này đã phải cung cấp một số lượng tay nỏ, nhưng không có sự đề cập đến tỷ lệ giữa tay nỏ và cung thủ. Lúc này nỏ vẫn là một loại vũ khí đắt tiền và nó chỉ được sản xuất và trang bị ở các thị trấn thịnh vượng, do đó nói chung lực lượng này chỉ nằm trong quân đội với một lượng tương đối nhỏ. [/FONT][FONT=&quot]Cây nỏ được sử dụng tại thời này được trợ lực bởi một cái móc dây nỏ hoặc đòn bẩy bằng ngón chân để nạp tên và mặc dù nó không có tốc độ bắn cao như các cây cung, nhưng không có nghĩa là chúng rườm rà và bắn chậm như những cây nỏ thép, nỏ tời được sử dụng sau này trong thế kỷ 14.

    [/FONT]
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Lính người nước ngoài và lính đánh thuê trong quân đội Anh
    [FONT=&quot]
    Sử gia John Barhouu cho rằng đã có các hiệp sĩ người Pháp, Gascons, Hà Lan, Breton và người từ Poitou, Aquitaine và Bayonne trong quân đội Anh và ông nói cũng có nhiều người Scotland đã chiến đấu cho Edward II tại Bannockburn. Barbour đề cập đến các hiệp sĩ Đức và Friar Baston cũng xác nhận điều này nhưng nói rằng chỉ có bốn hiệp sĩ Đức đến mặc dù họ phục vụ “miễn phí”. Việc thuê mướn quân đội nước ngoài thường đắt tiền một cách ky
    ̀[FONT=&quot] quặc. [/FONT][FONT=&quot]Barbour lầm tưởng rằng Bá tước của Hainault cũng chiến đấu ở Bannockburn, trong thực tế ông này và người của mình phục vụ trong các trận chiến chống lại người Scotland vào năm 1326 và 1327 khi các hóa đơn cho sự phục vụ của họ lên đến £ 55.000 một đáng kinh ngạc mặc dù kết quả thực tiến của các chiến dịch là không có gì! khả năng là đội quân người nước ngoài của Edward được đề cập bởi Barbour vì bản chất kỳ lạ hơn là số lượng lớn của họ. Hai mươi lăm thủ lĩnh Ailen được triệu tập để phục vụ trong chiến dịch 1314 cũng như bằng đó những hiệp sĩ Anh-Ailen nhưng chúng tôi không biết có bao nhiêu trong số này tham dự trận đánh. Richard de Burgh, Bá tước đỏ của Ulster đã gặp Edward II tại Newminster Abbey ở Northumberland,\ ngày 29 tháng 5 và đã mang theo một số binh lính người Ailen cùng với ông ta. [/FONT][/FONT]

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Chiến thuật của người Anh[FONT=&quot]

    Những cuộc chiến ở xứ Wales và Scotland cung cấp một số ví dụ về sự bất lực của kỵ binh khi không có sự hỗ trợ của bộ binh để phá vỡ các bức tường thành vững chắc của các giáo binh. Ở trận Builth vào năm 1282, Walter Hemingburgh cho chúng ta thấy rằng người xứ Wales đã bị chia cắt và phải bỏ chạy trước kỵ binh Anh vì “ cung thủ đã phối hợp chiến đấu ở giữa kỵ binh của chúng ta.” Tương tự, tại Maes Madoc năm 1295, Bá tước của Warwick với một lực lượng kỵ binh được chọn lọc và các cung thủ đã đối mặt với các tay giáo người Bắc xứ Wales, những người " hướng đầu ngọn giáo của họ vào những con ngựa của người Anh để chặn đứng các cuộc tấn công của họ ( kị binh Anh ). Nhưng vị Bá tước đã bố trí mỗi một tay nỏ giữa mỗi cặp kị sỹ, hoặc một số lượng cung thủ nhỏ và khi rất nhiều các tay giáo bị hạ gục bởi các mũi tên, kỵ binh lại tấn công một lần nữa và họ đã đánh bại đối thủ rồi sau đó là một trận tàn sát lớn “ các tài liệu của sử gia Nicholas Trevet cho thấy rõ ràng sự kết hợp giữa kỵ binh và cung thủ đã được chứng minh là không thể chống đỡ được chứ không phải là chỉ của riêng kỵ binh. Heminburgh tiết lộ rằng, ở trong trận chiến Falkirk năm 1298, lực lượng kỵ binh vô kỷ luật của Edward đã tấn công vào các tay giáo Scotland “ những người giống như một tấm gỗ dày và không có thể mở được một con đường của họ trước một số lượng lớn các tay giáo ... Nhưng bộ binh của chúng tôi đã bắn vào chúng những mũi tên và bắn đá vào họ làm cho rất nhiều người trong số họ đã ngã gục. Vì vậy, nhiều người đã bị giết và hàng ngũ ở phía trước bị đẩy lùi về phía sau và tạo ra lộn xộn và sau đó thì kị binh của chúng tôi đã phá vỡ và đánh bại họ” Avmer de Valence, Robert Clifford, Henry Beaumont, Humphrey de Bohuri và Giles d'Argentan tất cả đều đã từng chiến đấu ở Falkirk, nhưng không một trong số đó dường như tận dụng được kinh nghiệm, nhất là Clifford và Beaumont, những người rõ ràng đã dẫn đầu lực lượng kỵ binh của họ để tiến hành các cuộc tấn công đẫm máu chống lại các tay giáo của Moray mà không có bộ binh hỗ trợ. [/FONT]


    [FONT=&quot]Quân đội của Edward II không phải là một lực lượng chọn lọc có kỷ luật như quân của Bá tước Warwick đã chỉ huy tại trận Mac Madoc. Quân đội Anh ở Bannockburn là một đội quân [/FONT][FONT=&quot]lớn, cồng kềnh và vô định hình, được tập hợp bởi các yếu tố khác nhau do một vị vua chưa từng là người lính chỉ huy. Vấn đề chiến thuật kết hợp giữa kị binh và bộ binh hàm ý một sự kết nối khoảng cách giữa hai tầng lớp xã hội vốn đang tồn tại ( Kị binh-quý tộc nhà giàu và bộ binh-cung thủ người nghèo) ở Bannockburn có lỗ hổng lớn. Các chỉ huy bất tài đã cho phép các hiệp sĩ kiêu ngạo và tự tin hơn và cố ý coi thường những bộ binh ở xã hội cấp dưới và lao vào những cuộc tấn công thảm họa vì không có sự hỗ trợ của bộ binh. Lực lượng bộ binh thì tất nhiên nếu họ biết rằng kị binh đã bị đẩy lùi và tháo chạy thì đương nhiên là tất cả bọn họ cũng tháo chạy để cứu lấy bản thân họ để tránh chở thành thức ăn cho thần chết. Chỉ khi nào cả hai yếu tố này được kết hợp thì họ mới có thể đứng vững, do đó tại Bannockburn khi bộ binh thấy sự thất bại của kỵ binh, họ biết rằng trận chiến đã thất bại và nghĩ đầu tiên của họ là tẩu thoát. [/FONT]
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Quân đội Scotland năm 1314

    [FONT=&quot]
    Scotland là một đất nước nhỏ bé và nghèo khó, họ không bao giờ có thể đưa ra chiến trường một lực lượng kị binh lớn để đối mặt với đội quân thiết kỵ thượng võ của Anh. Quân đội Scotland về cơ bản là bộ binh, và họ dựa vào các schiltron của các tay giáo của họ để chịu đựng gánh nặng tác chiến với sự hỗ trợ từ các cung thủ và một lực lượng nhỏ kỵ binh hạng nhẹ. Dân số của Scotland vào đầu thế kỷ 14 chỉ bằng một phần năm của Anh ( chưa kể người Anh lại huy động được quân từ xứ Wales, Irland, người châu Âu… và thậm chí cả chính người Scotland ) và Robert Bruce không thể mang ra trận toàn bộ lực lượng của đất nước vì còn nhiều vùng vẫn còn ủng hộ người Anh, đặc biệt là ở Lothian nơi họ dễ bị đặt vào thế bị trả đũa nên vẫn thận trọng và chọn lập trường trung tính.
    [FONT=&quot]Tuy nhiên, quân đội mà Bruce tập hợp bên ngoài Stirling trong mùa hè năm 1314 là một lực lượng có sức chiến đấu cao, được đào tạo tốt và chỉ huy tốt và họ có một động lực duy nhất về mục đích chiến đấu đó là đuổi người Anh ra khỏi Scotland để bảo vệ quê nhà và nền độc lập của họ. Bruce đặt niềm tin của mình không phải vào số lượng mà vào tinh thần của binh sỹ và ông nói với tất cả những người thiếu can đảm rằng đó là thời gian mà họ có thể bỏ đi bởi vì ông chỉ cần những người đàn ông-người sẽ “ chết hoặc chiến thắng trong danh dự.” Ngoài ra mặc dù biết rằng quân của m[/FONT]ình sẽ ít hơn đối phương rất nhiều ( thực tế thì quân Scotland chỉ bằng hơn nửa quân Anh) nhưng Robert Bruce vẫn yêu cầu những người không có đủ binh giáp hoặc vũ khí phải quay về nhà, đây là một chi tiết nhỏ nhưng thể hiện rằng ông quyết tâm chiến thắng người Anh không phải bằng số lượng binh sỹ.
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]
    [FONT=&quot]Các đội quân người Scotland như thông thường đã tổ chức thành ba đạo binh. Đạo quân Tiên phong được chỉ huy bởi Thomas Randolph, với những người được tuyển ra từ lãnh địa bá tước Moray riêng của ông, từ xa phía bắc và từ Inverness và các thị xã phía đông bắc. Đạo quân trung tâm hoặc còn gọi là đạo quân chính không được chỉ huy bởi nhà vua mà ông đã ủy quyền cho Edward Bruce-và ông này có trong đạo quân của mình người từ Buchan, Mar, Angers, Mearns, Menteith, Strathearn, Lennox và một đội ngũ đến từ Galloway. Vua Robert chỉ huy lực lượng dự trữ hoặc đạo hậu quân, đó là những người đến từ Carrick đất riêng của ông cùng với người ở vùng đồng bằng phía nam Scotland, đội ngũ từ đến từ các bộ tộc cao nguyên và người của Angers Og MacDonald đến từ Argyll và các hòn đảo phía Tây.

    [/FONT]
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Nguồn tin của người Anh công bố rằng đã có ba có ba đạo bộ binh thông thường của người Scotland tại Bannockburn, nhưng sử gia Barbour cho biết thêm một đạo binh thứ tư được chỉ huy bởi James Douglas và Steward trẻ tuổi và cao quý của Scotland. Sử gia Barbour cũng cho chúng ta biết. Robert Bruce đã tung Jaymes Douglas, Marshal và Sir Robert Keith đi thăm dò về cách tiếp cận của quân đội Anh trước trận chiến “ Họ trèo lên ngựa và phi về phía trước, họ có những kị sỹ tuyệt vời ở đó ”. Vào cuối cuộc chiến khi Edward II bị đánh bại bỏ chạy, Douglas với đội kỵ mã nhỏ bé của ông được lệnh truy kích đối phương, nhưng "ông có quá ít quân, thậm chí ít hơn sáu mươi kị binh trong lực lượng của ông”. Có vẻ như lúc này không chỉ Sir Robert Keith mà còn cả James Douglas cũng không nắm quyền chỉ huy lực lượng chính của kị binh Scotland ở Bannockburn, mặc dù họ đã xuống ngựa vào ngày thứ hai chiến đấu trên bộ cùng với các giáo binh. Nếu Douglas đã có một lực lượng bộ binh độc lập để chỉ huy thì ít có khả năng Bruce sẽ đã tách ông ta ra khỏi vai trò quan trọng này để chỉ huy lực lượng kỵ binh trinh sát.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} John Barbour đã viết bài thơ sử thi “The Bruce “ trong năm 1376 trong triều đại vua Robert II-vị vua đầu tiên của nhà Stewart và ông cũng có thể đã đề cao vai trò của Steward trẻ tuổi và cao quý ( the young High Stewart ), tổ tiên của nhà vua đương thời, tại Bannockburn để làm chiều lòng nhà vua ( đương thời). Jaymes Douglas không phải là một nhân tố quan trọng cho đến trước năm 1314 như trí tưởng tượng của đông đảo nhân dân thường cho là như vậy, thậm chí ông ta còn không phải là một hiệp sĩ cho đến khi Bruce phong tước cho ông vào đêm 23/24 tháng Sáu. Tuy nhiên, ông ta (Jaymes Douglas) chở thành người anh hùng trong câu chuyện sử thi của Barhour ngang tầm với tầm quan trọng của chính bản thân Bruce trước khi trận chiến xảy ra cũng có thể đã được phóng đại.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Schiltron của người Scotland

    Schiltrum hoặc schiltron, có nghĩa là một bức tường chắn. Đây là thuật ngữ thường xuyên được sử dụng để mô tả đội hình, thường là những vòng tròn hoặc vòng rỗng các tay giáo Scotland bởi vì từ này xuất hiện trong các tài liệu của sử gia Guisborough về trận chiến Falkirk. Barbour đã không gọi đội hình bộ binh của Scotland tại Bannockburn là schiltrums nhưng cũng không sử dụng từ để mô tả sự rối loạn của người Anh; “ tất cả các bộ phận của họ tập hợp lại với nhau trong một schiltrum”, theo đó ông muốn mô tả là một đám đông đặc các tay giáo mà không ra đội hình nào cả. Sir Thomas Grey lại mô tả những người Scotland tiến lên tại Bannockburn như là “ tất cả đứng thành hàng trong schiltron”, hoặc đứng thành hàng chặt trẽ. Binh lính đứng thành hàng chặt trẽ, không có có đội hình cụ thể, vũ khí hoặc chiến thuật này cũng được ngụ ý là schiltron.


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Bộ binh Scotland

    Xương sống của quân đội Scotland là những đội hình giáo binh của họ, được hình thành từ sáu hàng theo chiều sâu và tạo ra một hàng rào không thể xuyên thủng bởi những ngọn giáo đầu nhọn hoắt bằng thép trước những kỵ binh bọc thép của Anh. Không thể xuyên thủng nhưng không linh động và đông đặc do đó họ dễ bị tổn thương bởi các lực lượng có thể tác chiến ở tầm xa như cung thủ, lính bắn nỏ, quẩy đá …. Sir Thomas Grey nói rằng người Scotland đã học được một bài học từ người Flemings-những người trước đó tại trận Courtrai đã đánh bại sức mạnh vượt trội của kị binh Pháp ". Không nghi ngờ gì về việc Robert Bruce cũng biết về trận Courtrai, nhưng ông cũng đã nhận thức sâu sắc về thất bại của các giáo binh của Wallace trước người Anh tại Falkirk. Robert Bruce đã nhận ra rằng những ngọn giáo của Scotland là một loại vũ khí dài, nặng và rườm rà và chỉ có hiệu quả nếu các binh sỹ được tổ chức và đào tạo tốt. Ông biết rằng sẽ là không đủ nếu các tay giáo đứng vững trước cuộc tấn công nhanh của kỵ binh; đội hình của ông còn phải có khả năng tiến lên và tấn công trực tiếp về phía trước nếu họ đóng vai trò quyết định của trận đánh. Các hành vi của các tay giáo của Bá tước Moray trong ngày 23 tháng Sáu đã minh họa không chỉ khả năng cơ động của họ, khi lực lượng của ông này nhanh chóng chiếm lấy chiến trường mở để chặn con đường rút lui của Clifford về lâu đài Stirling Castle, nhưng cũng cho thấy rằng họ được đào tạo để các hàng giáo binh đứng phía sau có thể đối mặt và đối đầu với sự bao vây của kỵ binh. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi, tuy nhiên có một thời điểm ở thời trung cổ quân đội của người Scotland đã thực hiện với sự chính xác những gì lính Vệ binh Phổ-ở thời đỉnh cao của họ, đã thể hiện một sự đồng nhất về mục đích thay vì hướng tới những mục tiêu cá biệt, lẻ tẻ.

    [FONT=&quot]Chúng tôi đã dành một cái nhìn thoáng qua một số loại vũ khí và trang thiết bị của bộ binh Scotland trong một nghị định được ban hành bởi Nghị viện Scotland tại Scone trong năm 1318, nó đã quy định rằng một người đàn ông có tài sản trị giá £ 10 đổ lên phải có một thanh kiếm, găng tay và mũ sắt một tấm kiểu bascinet, áo giáp của họ có thể là một áo đệm bông kiểu akheton hoặc áo giáp sắt kiểu haubergeon mail. Một phân loại thứ hai là những người đàn ông có tài sản giá trị tương đương một con bò phải tự trang bị một cây giáo hoặc một cây cung. Mặc dù áo giáp không được đề cập tới, người ta biết rằng đây là các thiết bị tối thiểu mà họ đã được yêu cầu để mang đến cho các cuộc tập hợp. Rõ ràng các cung thủ cũng là một phần của quân đội Scotland, nhưng chúng tôi không thể xác định được tỷ lệ giữa các tay giáo và tay cung. Ở những vùng đất thấp ( thung lũng) bộ binh-phần lớn nhất của quân đội Scotland, về cơ bản không có nhiều khác biệt với các đối thủ người Anh của họ. Không có đề cập đến một tấm lá chắn lớn hoặc chiếc khiên nhỏ; lực lượng bộ binh là những tay giáo và họ cần cả hai tay để nắm chắc loại vũ khí khó sử dụng này và không có chỗ cho các tấm lá chắn trong mật độ dày đặc của các giáo binh Scotland. Tiền thu được từ 30 quận phía bắc của Anh được dùng để tài trợ cho những nỗ lực chiến tranh của Robert Bruce, cho phép ông trang bị cho người của mình với những áo giáp chất lượng tốt và vũ khí mua từ Vùng đất thấp ( Hà Lan? ) và các thị trấn của Hanseatic ( Đồng minh thương mại Bắc Âu và cũng là bạn hàng truyền thống của người Scotland ).
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}

    [FONT=&quot]Có những người đến từ Argyll, Kintyre và quần đảo phía Tây tại trận Bannockburn và theo truyền thuyết thì một số các bộ tộc ở vùng cao nguyên Scotland đã khẳng định rằng họ có hiện diện ở đó. Những người ở cao nguyên đã chiến đấu trong các phần của quân đội của vua Robert ( thực ra đây không còn là quân đội của riêng nhà vua R. Bruce nữa mà là quân đội của nhân dân Scotland ),
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} và có thể là ngoài những trang phục kỳ dị của họ, họ đã chiến đấu như những giáo binh ở vùng đồng bằng hoặc như là những tay cung thủ. Chúng ta không thể biết được một cách chắc chắn là vua Robert huấn luyện quân sĩ như thế nào, nhưng có thể rằng là những người đàn ông được tập hợp trong các đơn vị nhỏ cho đến khi đủ người để rồi lại được tập hợp vào những đơn vị lớn hơn. Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Các sự kiện của trận chiến hai ngày là một chuỗi các mệnh lệnh có hiệu quả giữ vững cấu trúc của quân đội lại với nhau và cho phép Robert Bruce áp đặt các mệnh lệnh chiến thuật tích cực của mình vào quân đội Scotland trong ngày hôm sau. [/FONT]

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Các cung thủ Scotland
    [FONT=&quot]
    Người Scotland rõ ràng là thiếu các cung thủ trước ngày mà vua Robert xuất hiện và có bằng chứng rằng ông đã thay đổi nghĩa vụ phong kiến của các hiệp sĩ để đổi lấy các cung thủ và khắc phục nhược điểm này. Một ví dụ của sự thay đổi được cung cấp bởi Nam tước của The Manor tại Tweeddale, thay vì phải cung cấp một hiệp sĩ, vị Nam tước này phải cung cấp 10 cung thủ. Rõ ràng Bruce biết rõ sự nguy hiểm gây ra bởi các cung thủ trường cung Anh và dự định để chống lại mối đe dọa này bằng một lực lượng lớn của riêng mình. Phần lớn các cung thủ được tuyển từ vùng biên giới và miền nam Scotland, mặc dù cung đã được sử dụng ở vùng cao nguyên quá. Cung thủ người Scotland được trang bị các cây trường cung bằng gỗ thủy tùng có thể được nhập khẩu qua các cảng của Hanseatic. Sau này một minh họa không thể nhầm lẫn về cây trường cung của người Scotland được tìm thấy ở một ngôi mộ táng ở tại Arisaig. Không có lý do để cho rằng người Scotland đã sử dụng những cây cung ngắn hơn, ít mạnh mẽ hơn so với các đối thủ người Anh và xứ Wales của họ, sự tự ti của họ là nằm ở số lượng hơn là chất lượng của các cây trường cung.
    [/FONT]

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Các tay búa trận ( rìu chiến ) người Scotland
    [FONT=&quot]
    Chiếc rìu chiến Lochaber là một vũ khí quen thuộc của người ở vùng Cao nguyên và chiếc rìu Jedart tương tự loại búa trận polearrn ( búa trận hai lưỡi) đây là loại vũ khí khủng khiếp đầy hiệu lực được sử dụng ở vùng đất thấp. Có khả năng là một phần binh sỹ Scotland tại Bannockburn đã chiến đấu với những loại vũ khí này, có thể đứng xen kẽ trong các nhóm với các tay giáo. Sử gia Barbour đã đề cập đến những chiến binh-những người lao ra khỏi đội hình của họ, bổ gục những con ngựa ... và hạ gục nốt những kị sỹ của chúng ". Rõ ràng những người này đã không trang bị cồng kềnh mà họ được trang bị những thanh kiếm, dao găm, rìu và búa trận polearm… những loại vũ khí phù hợp cho cận chiến.
    [/FONT]

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Kỵ binh Scotland

    Lực lượng kỵ binh nhỏ bé của người Scotland dưới sự chỉ huy của Sir Robert Keith-hậu duệ của nhà Marshal, có thể có số lượng ít hơn 500 người. Dường như là không có nhiều hiệp sĩ được thiết giáp đầy đủ trong số họ. Vai trò của họ-ngược lại với lực lượng kị binh hạng nặng của Anh, không phải là một lực lượng tấn công chính và họ cũng không được sử dụng để chống trả mối đe dọa từ kị binh hạng nặng của Anh. Vai trò của họ là của kỵ binh hạnh nhẹ và vì vậy họ có nhiệm vụ do thám những bước tiến của quân đội Anh và báo cao cho Bruce về sức mạnh của kẻ thù. Họ không có khả năng đối mặt với kỵ binh Anh và có thể trong thực tế họ đã xuống ngựa để chiến đấu bên cạnh các giáo binh vào ngày thứ hai của trận đánh. Tất cả các nguồn tài liệu đương thời đều đồng ý rằng tất cả người Scotland đều chiến đấu trên bộ tại Bannockburn và không đề cập đến các kỵ binh Scotland và điều này đã được dùng làm bằng chứng để phủ nhận sự tồn tại của họ. Tuy nhiên, tài liệu của John Barbour cho biết lực lượng trinh sát bằng kị binh do Douglas và Keith chỉ huy là hoàn toàn đáng tin cậy, cũng như câu chuyện về sự bất lực của Douglas tại cuối cuộc chiến vì không có đủ kị binh để truy kích một cách hiệu quả vua Anh đang tẩu thoát. Chỉ có của câu chuyện của Barbour về việc kỵ binh Scotland tấn công và kết quả là các cung thủ Anh phải bỏ chạy là vấn đề phải xem xét. Liệu một một lực lượng nhỏ kỵ binh hạng nhẹ có thể tấn công một đội cung thủ Anh đủ lớn để tạo ra một mối đe dọa cho sự tiến quân của bộ binh Scotland? Có thể là Barbour đã phát minh ra các sự kiện để che lấp thất bại không thể bào chữa được của các tay cung đã làm ảnh hưởng đến cuộc chiến. Tuy nhiên, ông ta cũng đã thuyết phục và thông báo cho một nhà văn bỏ chi tiết này trong tài liệu của mình đi chỉ đơn giản là vì các nguồn tài liệu của Anh, vốn đã phải thừa nhận là trước đó, đã không đề cập đến chúng (kị binh nhẹ Scotland).

    [FONT=&quot]Gần đây có tin đồn về sự hiện diện của các hiệp sĩ Dòng Đền tại Bannockburn. Hội này đã không còn tồn tại từ năm 1312 sau khi đã chính thức bị đàn áp bởi Đức Giáo Hoàng. Pháp xử lý Dòng Đền và 45 hiệp sĩ Templar bằng cách thiêu sống họ ở Paris trong năm 1314. Ở Anh các Hiệp sỹ templar bị tước đoạt một cách đàng hoàng hơn và Thủ lĩnh của Dòng đền ở đây chỉ đơn giản là được an trí nghỉ hưu. Tại Scotland, đầu tháng 10 năm 1309, John de Segrave-trung úy của nhà vua, được ra lệnh khoanh vùng các Hiệp sỹ dòng Templar ở trên phạm vi quốc gia. Hoàn toàn có thể là các cựu thành viên của Hiệp sỹ Dòng Đền ở Scotland đã chiến đấu trong hàng ngũ quân đội của vua Robert, nhưng họ sẽ không làm như vậy nếu tuân theo biểu ngữ nổi tiếng “ Beauseant “ của các Hiệp sỹ Templar.
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    KẾ HOẠCH CỦA CÁC BÊN ĐỐI ĐỊCH

    KẾ HOẠCH CỦA NGƯỜI ANH

    Số lượng người mà Edward II đã triệu tập để phục vụ trong năm 1314 và quy mô của sự chuẩn bị và đào tạo rất lớn của ông cho đoàn quân chinh phạt Scotland cho người ta thấy rằng đây là một cuộc xâm lược toàn diện nhằm mục đích không có gì khác hơn là nô dịch hoàn toàn Scotland. Hiệp ước giữa Philip Moubrav và Edward Bruce chỉ làm tăng thêm sự cấp bách để chuẩn bị cho cuộc xâm lược và thời hạn cuối để Edward phải xuất hiện ở Lâu đài Stirling Castle. Tòa lâu đài vô cùng hùng mạnh được xây dựng trên những khối đá tảng lớn thống trị các thị trấn và các cây cầu trên Sông Forth đã nằm trong tay người Anh kể từ khi Edward I chiếm được nó trong năm 1304. Bất kỳ cuộc xâm lược nào vào Scotland đều phải tính đến vị trí chiến lược của nó trong eo đất tại điểm cầu nối đầu tiên của sông Forth, canh giữ phần cổ hẹp giữa Firth of Forth và Clyde; nó sở hữu con đường huyết mạch đi về phía bắc của Scotland.

    [FONT=&quot]Các kế hoạch hậu cần của chiến dịch đã được giao cho các sỹ quan có năng lực và quân đội Anh đã được cung cấp đầy đủ bởi bộ phận quân nhu khi họ hành quân một cách có tổ chức về phía bắc. Vua Edward đã nhận được các báo cáo tình báo tốt về sự chuẩn bị của người Scotland ở gần Stirling, ông không thiếu các cố vấn giàu kinh nghiệm và dường như đã nhận thức được giá trị của lực lượng bộ binh trong tại địa hình khó khăn ở Scotland. Tuy nhiên, không có bằng chứng từ
    [FONT=&quot]các sự kiện cho thấy rằng Edward II đã suy nghĩ về kế hoạch của trận chiến ở Bannockburn và ông cũng không thể hiện sự kiểm soát vào quân đội của mình mặc dù điều này giúp ông có lên một kế hoạch vận hành. Nếu nhà vua đã từng học được một bài học nào đó từ cuộc chiến xứ Wales và trận chiến của Falkirk thì chúng đã bị lãng quên; không có ý tưởng cho một chiến thuật tấn công kết hợp giữa bộ binh và kỵ binh. Các hiệp sĩ cứng đầu được phép tấn công độc lập một cách chất phác để cố gắng đột kích xuyên qua các lớp giáo binh của Scotland. Edward giả định rằng chỉ trong đợt tấn công của ngày đầu tiên người Scotland sẽ bị vỡ trận. Thực tế đã chứng minh đây là một sai lầm bởi sự kháng cự mạnh mẽ của người Scotland và bởi sau khi kết thúc ngày đầu tiên thì bất cứ kế hoạch nào mà nhà vua đã đặt ra đều trở thành vô ích. Ông ta đã bị mất quyền kiểm soát trận đánh và ưu thế đã được chuyển sang cho người Scotland.

    [/FONT]
    [/FONT]
    KẾ HOẠCH CỦA NGƯỜI SCOTLAND

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Robert Bruce biết rằng quân đội của Edward II có thể đã được dự kiến đến Stirling Castle trước ngày hè của năm 1314. Đội quân nhỏ nhưng đã trải qua thử thách của Robert Bruce đã cố gắng để trở thành hạt nhân của một đội quân lớn hơn mà ông đã tập hợp được ở Torwood để đáp ứng với mối đe dọa này. Người ta không chắc chắn rằng liệu Bruce có ý định quyết chiến trận này vì rõ ràng là ông chỉ có ý định quấy rối đối phương trong rừng các con đường đến Stirling từ phía nam đều phải chạy qua đó và có thể ông cũng đã cho đào một loạt các hố hoặc bẫy để cản trở bước tiến quân của kị binh Anh. Ông là một viên chỉ huy cực kỳ cẩn thận và trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã hiển thị một sự miễn cưỡng để tham gia vào một trận đánh mạo hiểm với một kết quả không chắc chắn khi mà số lượng của đối phương chống lại ông và đã có thông tin từ lực lượng trinh sát của mình rằng người Anh đang tiến lên với một sức mạnh khủng khiếp. [FONT=&quot]Trong cuộc xâm lược trước đây của Edward II vào Scotland trong năm 1310, Robert Bruce đã [/FONT][/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]trả lời bằng cách rút sâu vào bên trong nội địa để lại các vùng đất bị đốt cháy và không có thực phẩm cùng cỏ xanh cho ngựa cho đến khi trời mưa lạnh và mùa đông và chi phí cung cấp cho một đội quân lớn trong vùng trở nên đắt đỏ bắt buộc người Anh phải rút lui. Việc Robert Bruce đã bố trí vùng New Park ( nơi nếu tránh giao chiến Robert Bruce sẽ cho rút quân về đó ) cho thấy rằng ông đã hoàn toàn tính đến mọi tình huống kết quả của trận đánh trong tâm trí. Bị đánh bại bên ngoài Stirling sẽ gây tác hại cho sự nghiệp của ông nên ông phải suy nghĩ về số phận của Wallace và hoàn cảnh tuyệt vọng của người Scotland sau thất bại ở Falkirk.

    [/FONT]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Nhưng nhược điểm trong chiến thuật Fabian là lâu đài Stirling sẽ được giải vây và cánh cửa phía bắc và Perth-chiếc cảng quan trọng chiến lược sẽ được mở tung. Edward sẽ có thể đạt được nhiều hơn so với một mỏm cụt trên đất nước này trước khi mùa đông bắt đầu. Đó là một mùa hè dữ dội và các cựu binh trong quân đội của Scotland cùng với những người mới ra nhập háo hức cho một trận chiến đấu, do đó, Bruce đã quan tâm đến một bố trí cho phép ông ta không chỉ có thể rút lui một cách an toàn mà còn có thể đối mặt và chiến đấu nếu có một cơ hội thuận lợi để ra tay.[/FONT]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    [FONT=&quot]BẮT ĐẦU CHIẾN DỊCH

    Cuộc bao vây Lâu đài Stirling

    Tháng 10 năm 1313 mối bất hòa giữa Edward II với Bá tước của Lancaster và phe của ông đã được xoa dịu, Bá tước Lancaster đã chuyển lời xin lỗi khiêm tốn về vai trò của ông ta trong vụ sát Gaveston và được ân xá. Tình hình chính trị bây giờ đã ổn định, đủ để cho Edward chuyển sự chú ý của ông đến tình trạng tuyệt vọng tại Scotland và vào tháng 11 ông đã quyết định bắt đầu chiến dịch. Tháng 10 năm 1313, tại một cuộc họp Quốc-hội ở Dundee, Robert Bruce đã cho những người Scotland vẫn chưa chịu ký kết hòa bình với ông một năm để tới thề trung thành hoặc họ sẽ bị đất đai của họ. Vào cùng thời gian này các quý tộc Anglo-Scot của Lothian kêu gọi sự bảo vệ Edward II và ông ta có lẽ được báo động bởi mối đe dọa từ Robert King, đã hứa hẹn sẽ mang đến Scotland một đội quân vào giữa mùa hè năm sau. Đầu năm 1314 vị trí của người Anh tiếp tục trở nên xấu đi khi James Douglas đã tấn công bất ngờ và chiếm được Roxburgh-một lâu đài quan trọng và không chịu thua kém Douglas, Thomas Randolph đã chiếm lâu đài Edinburgh trong một cuộc tấn công táo bạo bằng thang vào ban đêm. Bên ngoài Lothian chỉ còn Bothwell và Stirling là các cứ điểm mạnh vẫn nằm trong tay người Anh. Walter Gilbertson-người cai quản thành trì Bothwell, bị cô lập và không phải là mối đe dọa ngay lập tức nên sau sự sụp đổ của Edinburgh, vua Robert đã chuyển sự chú ý của ông đến việc công phá lâu đài Stirling Castle-vị trí phòng vệ của con đường giữa phía bắc và phía nam của vương quốc. Edward Bruce nhận được sự ủy thác của người anh của mình cho cuộc bao vây Lâu đài Stirling, nhưng vì không các dụng cụ bao vây công thành nên ông không làm được gì nhiều ngoại trừ việc phong tỏa tòa lâu đài và chờ đợi. Philip Moubray-vị thống đốc bị bao vây, nhận ra rằng Stirling thất thủ chỉ là vấn đề thời gian và đã tiến hành một thỏa thuận với Edward rằng nếu ông không được giải vây trước ngày 24 tháng 6 ông ta sẽ nộp lại tòa lâu đài.
    [FONT=&quot]Sự thỏa thuận mang tính nghĩa hiệp như vậy xảy ra khá phổ biến trong thời đó và trên thực tế cho phép nhà vua tiến hành cứu viện cho nơi đang bị bao vây. Trong ngày 27 tháng 5 Edward II, người đã đang trên đường đi về phía bắc để tập hợp quân đội của mình ở Berwick, đã được thông báo về thỏa thuận, sự kiện này đã gây áp lực với ông ta là phải cứu viện cho Stirling ngay trước thời hạn này. Có thể ông ta đã được cảnh báo bởi các tín sứ rằng địa hình ở phía nam của lâu đài là không thuận lợi và thực tế là quân đội Scotland đã chiếm một vị trí rất mạnh ở đó. Vua Robert đã tỏ ra không hài lòng với cử chỉ nghĩa hiệp của người em trai của mình đối với Moubray. [/FONT][FONT=&quot]Ông ta nhận ra rằng thời hạn cuối cùng này sẽ thúc ép vua Anh phải hành động và rằng trong khoảng thời gian đã thỏa thuận thì lâu đài có thể được giải vây. Phải cần đến một trận chiến để ngăn chặn quân tiếp viện và ông không muốn tiến hành một hành động sai lầm nào mà nó có thể sẽ phá hủy những gì mà ông đã gây dựng được cho đến lúc đó.

    [​IMG]
    Bản đồ thể hiện quá trình xâm lược vào Scotland của Edward II trong năm 1314

    [/FONT]
    [FONT=&quot]Đầu tháng 3 năm 1314 Edward II bắt đầu ban bố hàng loạt mệnh lệnh để tập hợp người và vật tư cho cuộc xâm lược vào Scotland. Tiền để chi trả cho chiến dịch này được tài trợ bằng một khoản vay từ Giáo hoàng-khoản vay này được thế chấp bằng thu nhập từ các vùng đất của Edward ở Pháp. Aymer de Valence-Bá tước Pembroke được chỉ định là trung úy của Vua tại Scotland. Ngày tập hợp được ban bố là ngày 10 tháng 6 và từ sở chỉ huy của mình ở Berwick, Pembroke tổ chức các đội thu gom dọc theo Tweed dưới sự che trở của các pháo đài lớn như Norhann và Wark dọc biên giới. Một số lượng lớn thực phẩm và trang thiết bị đã được đưa tới phía bắc bằng đường biển và bởi vì người Anh không có cơ sở cung cấp an toàn ở Scotland, một đoàn xe khổng lồ được tập hợp để vận chuyển đồ cung cấp cho quân đội bằng đường bộ. Ông đã cho dự trữ và vận chuyển tất cả mọi thứ cần thiết cho chiến dịch. Tiến quân một cách thong dong và vào ngày 29 tháng 5 Edward II đã ở phía bắc Bắc và gặp ông ta (Aymer de Valence-Bá tước Pembroke) ở Lâu đài Newminster Abbey ở vùng Northumberland. Các thành viên của chính phủ cũng đi kèm với ông ta và việc kiểm soát hàng ngày cần thiết cho việc quản lý vương quốc đã không còn được kiểm soát trong suốt chiến dịch (vì các thành viên của chính phủ đã đang đi cùng nhà vua ). Mặc dù nhiều thành viên của chính phủ đã ở lại Berwick khi mà Edward hành quân vào Scotland, một số lượng đáng kể tài liệu cùng con dấu của Viện Cơ mật của Anh cùng được mang theo ông ta đến Scotland. Từ Newminster Edward đã viết thư cho mình Ủy viên của mình ở Array yêu cầu họ gửi cho ông bộ binh, ông đã cho triệu tập khẩn cấp một lực lượng bộ binh lớn bởi vì “ người Scotland đang cố gắng tập trung một số lượng lớn bộ binh ở những địa điểm hiểm yếu và vùng đầm lầy, đây là những địa điểm vô cùng khó khăn cho sự xâm nhập của kỵ binh giữa chúng ta ( quân đội Anh ) và lâu đài Stirling”. Đây là bằng chứng cho thấy Edward đã nhận được các báo cáo tình báo tốt và đã ông đã đánh giá cao sự cần thiết phải có một lực lượng bộ binh đủ mạnh để đánh bại người Scotland lúc này đang chiếm các vị trí ở phía trước con đường tiến tới Lâu đài Stirling trong chiến dịch sắp tới. Một lời kêu gọi huy động quân đội vào cuối của tháng 5 làm cho họ chỉ có ít thời gian để đến được nơi tập hợp, vì các tay nỏ được triệu tập từ Bristol phải mất ít nhất ba tuần để hành quân đến Berwick. Các tay giáo ở miền Bắc xứ Wales có thể đến địa điểm tập hợp trong khoảng 17 ngày nhưng các cung thủ ở miền Nam xứ Wales có thể phải cần đến hơn một tuần dài hơn nữa. Có thể vì thiếu bộ binh mà cuộc xâm lược này đã bị trì hoãn cho đến thời điểm cuối cùng. Khi ông đến Berwick, Edward-một người vốn hào phóng một cách vô hạn bằng tài sản của người khác, đã khuyến khích những người đi theo mình bằng cách phân phối đất đai và các chức danh ở Scotland trước khi ông bắt đầu cuộc chinh phục của mình.

    [/FONT]
    [FONT=&quot]EDWARD II HÀNH QUÂN VỀ PHÍA BẮC NGÀY 17-22 THÁNG 6 NĂM 1314 [/FONT][FONT=&quot]

    Ngày 17 tháng 6 quân Anh vượt sông Tweed tại Wark và Coldstream theo rất nhiều đội hình hàng dọc và đi trên con đường nhấp nhô từ Merse of Berwickshire về phía chân đồi Lamermuir Hil, một ngày hành quân dễ dàng. Edward đã xem xét những lợi thế của việc sử dụng ven biển để đi về phía trước từ Berwick, nhưng rồi ông lại chọn con đường trong nội địa bởi vì nó thích hợp cho việc sử dụng xe vận tải và công việc cung cấp quân nhu qua nó trở thành nhanh hơn và trực tiếp hơn về phía bắc cho quân đội của ông. Thời tiết mùa hè năm đó rất đẹp và đã không làm trì hoãn việc tiến quân và trong thực tế dường như nó ( thời tiết ) đã không có ảnh hưởng gì vào cả quá trình chiến dịch. Chúng tôi có một bằng chứng gián tiếp về thời tiết trong năm 1 314 từ tác giả của quấn “ Biên niên sử của London” người đã lên các danh sách về thương vong tại Bannockburn với những thông tin rằng năm sau năm của trận chiến mới là năm mưa. Từ đây chúng ta có thể suy luận rằng thời tiết của năm 1314 là ổn hoặc ít nhất là không có gì bất thường. Bá tước Pembroke-người biết rất rõ về đất nước này đã cưỡi ngựa dẫn đầu quân đội cùng với một toán kị binh mà không gặp sự kháng cự nào.

    [/FONT]
    [/FONT] Vào ngày sau đó, ngày 18 tháng 6, quân Anh vượt qua Lammermuir Hill theo con đường La Mã và vượt qua một cánh đồng hoang để đến Soutra, nơi mà họ cắm trại qua đêm ở đó. Ngày hôm sau quân Anh hành quân 15 dặm trên những con đường uấn khúc đưa họ đến Edinburg. Tại đây họ phải ở lại đến ngày 21 tháng 6 để đợi đoàn xe vận tải gồm hơn 200 chiếc xe ngựa chở hành lý và đồ cung cấp vốn đi tụt lại sau đội hình kị binh và bộ binh. Edward hy vọng phần còn lại trong ngày sẽ cho phép lực lượng bộ binh mà ông ta rất cần-những người đến tập trung quá muộn, có thể đuổi kịp bọn họ. Tại cảng Leith ở gần đó, các con tầu chở hàng cung cấp của Anh đã cập bến để bốc rỡ hàng cho quân đội-những lực lượng đang nghỉ ngơi ở cách chúng khơngr 35 dặm và họ sẽ mang chúng ( đồ hậu cần ) đến lâu đài Stirling trước thời hạn cuối cùng là ngày 24 tháng 6. Vào tối ngày Chủ nhật 22 tháng 6, các đội tiền quân của quân Anh đã tiến hành bao vây Falkirk. Quân đội của Bruce tập hợp ở phía nam của Stirling, lúc này lại chuyển đến đóng ở giữa quân Anh và mục tiêu của họ và hai bên chỉ cách nhau dưới 10 dặm

    The Vita ( quấn sách sử nào đó ) mô tả một bức tranh xác thực về các bước tiến của Edward vào Scotland “ Chỉ được chợp mắt nhữn giấc ngắn, thời gian để ăn còn ngắn hơn nữa. Ngựa, kị sỹ và bộ binh… di chuyển một cách nặng nhọc và không thể đổ lỗi cho việc thiếu lương thực cho thất bại của họ trên chiến trường.” Đây dường như là một sự đổ lỗi khó chấp nhận vì quân đội dường như có đủ thức ăn và hành quân 15 dặm một ngày cho đến khi họ tới được Edinburgh. Để so sánh ta có thể thấy quân đội La Mã hành quân 18 dặm 1 ngày. Tuy nhiên cuộc hành quân từ Edinburgh đến Falkirk là khá dài, khoảng 24 dặm và dường như là trong ngày hôm đó lực lượng Clifford của Beaumont cùng với lực lượng kị binh hạng nặng cùng với các thành phần kỵ binh khác của đội quân tiên phong đã vượt lên trước lực lượng bộ binh di chuyển chậm và đoàn xe hậu cần. Một sự so sánh lý thú được thực hiện giữa quãng đường quân đội của vua Edward II đã hành quân mà với quãng đường mà quân của vua Henry III đã phải vượt qua trong tháng 4 năm 1264. Trong khoảng thời gian chiến dịch Lewes, một đội quân lớn đã hành quân từ Grantham tới Aylesbury, một khoảng cách 80 dặm trong 5 ngày, trung bình 16 dặm một ngày. Các sử gia đương thời luôn nhấn mạnh vào tốc độ hành quân của Edward, và đề cập đến các buổi đêm ít ngủ. Vua Henry và lực lượng kỵ binh của ông vượt lên phía trước, thậm trí đến tận Croydon khi mà bộ binh và hành lý mới đến được Aylesbury cách xa chỗ đó 45 dặm. Dường như là khi quân Anh đến gần được vị trí của quân Scotland ở New Park trong ngày 23 tháng 6, phần lớn lực lượng kị binh-chứ không chỉ lực lượng tiên phong đã vượt lên phía trước còn lực lượng bộ binh hỗ trợ bị tụt lại phía sau còn đoàn xe tải thì bị bỏ rơi hàng dặm cách xa lực lượng bộ binh.

    Trong lúc này người Scotland ở Torwood đã rút lui theo đội hình 3 đạo quân. Thomas Randolph-Bá tước của Moray chỉ huy đạo quân tiên phong-cũng là lực lượng ở gần Stirling nhất. Đạo trung quân được chỉ huy bởi Edward Bruce chiếm vị trí ở gần đạo quân của Moray. Ở xa Stirling nhất và phía Nam của đạo quân của Edward Bruce là Robert Bruce cùng với đạo hậu quân. Kị binh Scotland đã mang tin tức về việc quân Anh đã tiến đến Falkirk và Bruce ra lệnh rút lui khỏi Torwood. Vào buổi tối quân Scotland đã chiếm vị trí ở New Park phía sau Lâu đài Stirling.

Chia sẻ trang này