1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    TỔ CHỨC CỦA CÁC BÊN TRONG TRẬN BANNOCKBURN



    TRẬN BANNOCKBURN NGÀY 23-> 24 THÁNG 6 NĂM 1314


    Quân đội Anh


    Tổng chỉ huy-Vua Edward II

    Lực lượng tiên phong


    Đồng chỉ huy bởi Gilbert de Clare-Bá tước Gloucester và Humphrey de Bohun,
    Bá tước Hereford-Nguyên soái của Anh quốc.

    Kỵ binh
    600 Kỵ binh thiết giáp
    250 Kỵ binh Hobelar xứ Wales được chỉ huy bởi Sir Henry de Bohun.

    Bộ binh
    1.500 Cung thủ trường cung
    150 Xạ thủ bắn nỏ
    1.500 Giáo binh


    Lực lượng Trung tâm ( Đạo quân chính)
    Chỉ huy bởi vua Edward II

    Kỵ binh
    200 hiệp sĩ và kị sỹ ở phía trước như một lực lượng vệ binh dưới sự chỉ huy của Bá tước Pembroke.
    300 kỵ binh dưới sự chỉ huy của Sir Robert Clifford
    300 kỵ binh Ngự lâm của vua dưới sự chỉ huy của Sir Edmund Mauley

    Bộ binh
    2.500 Cung thủ trường cung
    150 Xạ thủ bắn nỏ
    2,500 Giáo binh

    Lực lượng hậu quân


    Kỵ binh
    600 Kỵ binh

    Bộ binh
    1.500 Cung thủ trường cung
    150 Xạ thủ bắn nỏ
    1.500 Giáo binh

    Tổng cộng: 2.000 kỵ binh hạng nặng, 250 kỵ binh hạng nhẹ 11.450 bộ binh
    (Cung thủ trường cung, Xạ thủ bắn nỏ, Giáo binh)


    Quân đội Scotland (23/6/1314)





    Tổng chỉ huy-vua Robert I

    Đạo hậu quân ( Đạo quân Trung Tâm trong ngày 24 tháng 6)
    Chỉ huy của bởi vua Robert I.
    4 tiểu đoàn với tổng số 2.400 tay giáo


    Đạo quân trung tâm (Đạo quân cánh phải trong ngày 24 tháng 6)
    Chỉ huy bởi Bruce Edward-Bá tước của Carrick.
    3 tiểu đoàn với tổng số 1.800 tay giáo


    Đạo tiên phong (Đạo quân cánh trái vào ngày 24 tháng 6)
    Chỉ huy bởi Thomas Randolph-Bá tước Moray.
    3 tiểu đoàn tổng cộng 1.800 tay giáo

    Kỵ binh nhẹ
    Chỉ huy bởi James Douglas và Sir Keith Robert,

    [FONT=&quot]Marshal của Scotland [/FONT][FONT=&quot]
    350 Kị binh Hobelar những người chiến đấu như bộ binh

    Cung thủ
    1.500 Cung thủ trường cung.

    Tổng cộng: 7.500 bộ binh, 350 kỵ binh nhẹ.


    [/FONT]
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Địa hình tại Bannockburn


    [FONT=&quot]Carse of Stirling, trong đó Carse of Balquhiderock là một phần của nó, trong năm 1314 vùng đồng bằng có diện tích lớn, bằng phẳng, thấp với mặt đất lầy lội với các vỉa than bùn ẩm ướt. Nó bị khoanh vùng ở phía bắc bởi sông Forth và phía nam bởi một bờ sông hoặc vách đá dốc đứng cao đến 20 mét chạy vòng quanh, rồi sau đó chạy gần như thẳng về phía đông nam từ Stirling. Trên bờ phía tây nam địa hình khô hơn và và vững chắc hơn, mặt đất nhấp nhô và rừng dần dần [/FONT][FONT=&quot]xuất hiện ở khoảng hai hoặc ba dặm về phía thượng nguồn và vùng đồi hoang xung quanh đầu nguồn của Carron và Bannock phía trên the Carse 500m. Ngoài ra mùa xuân đến làm cho nước trên bề mặt của các vách đá chảy xuống từ các ngọn đồi thoát xuống Carse phẳng và vỉa than bùn, kết quả là đã ra nơi giao nhau trong của rất nhiều con suối chảy chậm các bể than bùn sâu và làm bờ sông nứt vỡ trong Thế kỷ 14, chúng được biết bởi người Celtic như là các “ pol”. Toàn bộ Carse of Stirling đã được biết đến tại thời điểm của cuộc chiến như là “ les Polles “ và nó sẽ tạo ra một trở ngại nghiêm trọng cho một đội quân lớn với đoàn xe chở hành lý của họ. Ngày hôm nay Carse of Stirling chủ yếu là đất nông nghiệp có hệ thống thoát nước tốt, phần lớn các “ pol” đã biến mất, mặc dù các địa danh của khu vực này đã tiết lộ sự tồn tại trước đó của chúng. Do vậy việc lựa chọn lối tiến quân cho quân Anh để tiếp cận Stirling từ phía nam-đông là rất hạn chế. Cách thiết thực nhất là đi dọc theo hành lang nhấp nhô trong nước giữa vùng đất hoang cao ở phía tây và bãi lầy ở phía đông. Do đó tuyến đường lý tưởng là đi dọc theo con đường cao chạy qua giữa khu vực này. Con đường trải dài tới khu rừng New Park, đó thực sự là con đường tiếp tục đi về phía bắc của Torwood, nhưng tách ra từ nó là một phần đất canh tác của thung lũng Bannock Burn. Bãi đất đã được rào chắn từ thời của Alexander III trong năm 1264 và được gọi là New Park ( Công viên Mới ) để phân biệt nó với Công viên của nhà vua trước đó ở bên dưới Stirling Castle. Phía đông New Park là các vùng đất của Balquhiderock, trong đó bao gồm một phần là cánh đồng khô ráo có thể trồng trọt và một phần là Carseland. Cánh đồng khô ráo mở rộng khoảng nửa dặm giữa khu rừng của công viên và bờ dốc đi xuống Carse đầm lầy của Balquhiderock, nó nằm giữa Bannock Burn và Pelstrearn Burn. Cả hai dòng suối chảy qua Cánh đồng khô ráo ở chỗ cao, các bờ dốc, bụi rậm và cây cối. Những hẻm núi của Bannock Burn vẫn còn giữ lại một số đặc điểm này và vẫn còn gây ấn tượng cho đến ngày nay. Năm 1314 những người sinh sống ở các điểm trên các hẻm núi của Bannock Burn được biết đến như Bannock và sau đó lại được gọi Bannockburn. Có ý kiến khác nhau là không biết trận lấy tên từ vùng này hoặc từ con suối cùng tên.

    [/FONT]
    Nguồn tài liệu đương đại về trận đánh

    [FONT=&quot]Có ba nguồn tài khoản quan trọng bằng tiếng Anh về trận đánh; theo Vita Edwardi Secundi viết bởi Thầy tu nổi tiếng ở Malmeshury có thể được viết vào đầu 1315. Quấn Biên niên Lanercost viết bởi một [/FONT][FONT=&quot]Thầy tu dòng Augustin gần Carlisle, bao gồm một tài liệu đó có lẽ là bằng văn bản đồng thời với thông tin được cung cấp bởi một hiệp sĩ đã chiến đấu trong trận chiến. Trong quấn Scalacronica của Sir Thomas Grev chúng tôi có một tài liệu viết về trận chiến Bannockburn từ cha của tác giả người đã từng chiến đấu trong trận chiến. Tuy nhiên quấn biên niên này đã không được biên soạn cho đến năm 1355, khi câu chuyện về trận chiến đã phải được kể lại rất nhiều lần bởi tác giả trước khi ông cuối cùng đã đúc kết nó bằng văn bản. Ít quan trọng hơn là quấn Annales Edwardi Secundi của John de Trokelowe, được viết vào khoảng năm 1327, và quấn biên niên của Geoffrey le Baker năm 1341. Cả hai mô tả máy móc trận chiến, nhưng lại xóa đi các sự kiện, thiếu kết luận và thêm bớt vào so với các tài liệu trước đó. Quấn Canon của Bridlington, viết trong Thập kỷ 1330 cũng có chút ít bổ sung thêm bớt.

    [/FONT]
    [FONT=&quot]Từ quan điểm của người Scotland nguồn chính của trận Bannockburn được lấy từ các bài viết của John Barbour, phó chủ giáo của Aberdeen, người đã hoàn thành quấn sử thi về tiểu sử của Robert Bruce trong năm 1376. Nó có một đoạn dài và thuyết phục mô tả về trận chiến, trong đó thống nhất về nhiều mặt với các tài liệu mà chúng tôi ( Peter Amstrong và Graham Turner tác giả quấn này) có từ các nguồn tiếng Anh. Barbour có thể đã viết quấn sử thi này 60 năm sau cuộc chiến, nhưng đối với tác phẩm của mình, ông đã dựa vào các nguồn văn bản mà bây giờ đã thất lạc và câu chuyện ông đã nghe trong những năm qua từ một cựu binh sống sót, mặc dù chỉ còn lại đúng cái tên của ông là Sir Alan Cathcart, đã nói với ông về cuộc phiêu lưu của mình với Edward Bruce ở Galloway. Đây là phương pháp thực tế của bất kỳ việc nghiên cứu về lịch sử, cổ đại hay hiện đại.

    [/FONT]Từ quan điểm của người Scotland nguồn chính của trận Bannockburn được lấy từ các bài viết của John Barbour, phó chủ giáo của Aberdeen, người đã hoàn thành quấn sử thi về tiểu sử của Robert Bruce trong năm 1376. Nó có một đoạn dài và thuyết phục mô tả về trận chiến, trong đó thống nhất về nhiều mặt với các tài liệu mà chúng tôi ( Peter Amstrong và Graham Turner tác giả quấn này) có từ các nguồn tiếng Anh. Barbour có thể đã viết quấn sử thi này 60 năm sau cuộc chiến, nhưng đối với tác phẩm của mình, ông đã dựa vào các nguồn văn bản mà bây giờ đã thất lạc và câu chuyện ông đã nghe trong những năm qua từ một cựu binh sống sót, mặc dù chỉ còn lại đúng cái tên của ông là Sir Alan Cathcart, đã nói với ông về cuộc phiêu lưu của mình với Edward Bruce ở Galloway. Đây là phương pháp thực tế của bất kỳ việc nghiên cứu về lịch sử, cổ đại hay hiện đại. Barbour đã đưa ra phần xương của câu chuyện với các chi tiết đã kết nối các sự kiện một cách sống động nhưng ông đã bị cáo buộc là đã sáng tạo một cách trầm trọng và bởi vì các chi tiết của ông đã không được chứng thực bởi các tài liệu khác và không khớp với các bài viết của rất hiếm các tác giả ở trận chiến. Các tài liệu Vita, Lanenosl và Scalaronica-tất cả đều không đầy đủ và làm trầm trọng hơn các sai lệch về chi tiết. Ngay cả nguồn tài liệu giá trị nhất -Vila

    Người Scotland triển khai - thứ Bảy ngày 22 tháng 6

    [FONT=&quot]New Park là một khu rừng săn bắn được bảo vệ bằng một hàng rào khoảng một dặm từ phía bắc tới phía nam và khoảng hai dặm từ phía đông sang phía tây. Công viên được định vị ở khoảng nửa dặm về phía bắc của Bannock Burn tại điểm mà con đường chính, đây chính là con đường mà người Anh dự kiến sẽ đi vào để tiến vào khu rừng. Tại đây, tại "lối vào" New Park, vua Robert đã cho dừng lại và cho dấu hậu đội của ông vào khu rừng thưa. Bá tước Moray với đội tiên phong đã ở tại Kirk of St Ninian-phía bắc của hậu đội của nhà vua. Đạo quân của Edward Bruce ở vào vị trí nào đó giữa hai người để khống chế con đường. Người Scotland vẫn còn duy trì lệnh hành quân để rút lui của họ, nhưng họ đã ẩn nấp trong rừng để người Anh không thể biết được là họ sẽ đối mặt với kẻ thù từ bên cánh hay đối mặt: trong trường hợp họ tấn công từ cả hai hướng, the “ Smal Folk”-những người đi theo phục vụ chiến đấu được gửi đến thung lũng có thể là một trong những hốc ở Coxet Hill, nơi họ được an toàn ở xa khỏi bãi chiến trường vì Bruce muốn chỉ những người có thể chiến đấu được sẽ đứng bên cạnh ông khi người Anh kéo đến gần.

    [FONT=&quot]Bruce đã ra lệnh cho đào hàng loạt các hố được ng.uỵ trang hoặc bẫy ngựa ở trên bờ ruộng hoặc bên cạnh con đường, nơi mà ông nghĩ rằng người Anh sẽ phải đi qua nếu-họ muốn di chuyển qua công viên để đến được Tòa lâu đài Stirling. Có bằng chứng rằng họ đã ở một bên của con đường khi mà có thể ông dự kiến về một cuộc tấn công vỗ mặt vào New Park.


    [​IMG]
    Ảnh các giáo binh Scotland đứng trong đội hình schiltron hai tay nắm chặt cán giáo để chống trả các đợt tấn công của kỵ binh Anh



    [​IMG]
    [/FONT]
    [/FONT][FONT=&quot]Ảnh các giáo binh Scotland đứng trong đội hình schiltron hai tay nắm chặt cán giáo để chống trả các đợt tấn công của kỵ binh Anh[/FONT]
    [FONT=&quot]


    [​IMG]
    [/FONT][FONT=&quot]Ảnh các giáo binh Scotland đứng trong đội hình schiltron hai tay nắm chặt cán giáo để chống trả các đợt tấn công của kỵ binh Anh[/FONT]
    [FONT=&quot]


    [​IMG]
    [/FONT][FONT=&quot]Ảnh các giáo binh Scotland đứng trong đội hình schiltron hai tay nắm chặt cán giáo để chống trả các đợt tấn công của kỵ binh Anh[/FONT]
    [FONT=&quot]


    [​IMG]
    [/FONT][FONT=&quot]Ảnh các giáo binh Scotland đứng trong đội hình schiltron hai tay nắm chặt cán giáo để chống trả các đợt tấn công của kỵ binh Anh[/FONT]
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chủ nhật 23 tháng 6 năm 1314 – những động thái đầu tiên


    Vào đầu ngày chủ nhật buổi sáng người Scotland vẫn còn ở các vị trí mà họ đã rút về từ ngày hôm trước và chờ đợi quân Anh với tinh thần hăng hái cao. Kỵ binh của Douglas và Keith được tung ra để trinh sát hướng tiến quân của quân Anh từ Falkirk. Sir Philip Mouhray-quan trấn thủ của Lâu đài Stirling Castle, có lẽ đã có được sự cho phép của Robert Bruce, đã cưỡi ngựa ra gặp nhà vua (Edward II) khi ông này tiến quân qua Torwood. Moubray nói với Edward rằng lúc này quân Anh chỉ còn cách Lâu đài Stirling có 6 dặm và sẽ đến đó trước Ngày thánh St John's tức là ngày 24 tháng 6, và theo điều khoản của thỏa thuận của ông ta với người Scotland có nghĩa là lâu đài đã được giải vây, lời hứa danh dự vẫn được giữ trọn vẹn và ông ta khuyên nhà vua không cần phải tiến xa hơn nữa. Có thể là người Scotland muốn rút lui mà không phải chiến đấu và cũng có thể là Moubray-vốn cũng là người Scot nên không muốn chiến tranh. Ông ta biết rằng lực lượng của Bruce là cực kỳ nguy hiểm và cảnh báo Edward về thực lực của người Scotland ở New Park, nơi mà rừng cây đã cản trở sự qua lại bằng cách chắn ngang con đường nhỏ hẹp. Người ta không biết rằng lời khuyên khôn ngoan này có lọt vào những đôi tai điếc nặng không? Chỉ biết rằng rồi sau đó một nhóm nhỏ của đạo quân tiên phong của Anh đã nôn nóng tiến lên và lực lượng kỵ binh trinh sát của Scotland liên tục rút lui. Có vẻ như lúc này mọi việc đã ngoài tầm kiểm soát dù rất kém hiệu quả của Edward II

    [FONT=&quot]Trong khi đó, Robert Bruce đã rất chăm chú khi nghe Douglas báo cáo về lực lượng của quân Anh đang kéo tới và chỉ nói rằng ông này không được đưa ra các cảnh báo gây hoang mang mà chỉ thông báo với quân Scotland rằng người Anh đang tiến đến trong một đội hình vô cùng rối loạn. Trong thực tế điều này là đúng, những toán quân đi đầu lao lên phía trước bất chấp toàn quân bị rơi lại phía sau và bị tản mát trong nhiều dặm ở phía sau. Sự chỉ huy cũng ở trong tình trạng lộn xộn tương tự như vậy, King Edward đã có một hành động dại dột khi tỏ ra thiên vị đối với người cháu trai của ông-vị Bá tước trẻ tuổi của Gloucester khi bổ nhiệm ông này không những vừa làm Nguyên soái của quân đội mà còn là đồng chỉ huy của đội quân tiên phong cùng với Humphrey de Bohun-Bá tước của Hereford. Bá tước Hereford là người cao tuổi hơn, có nhiều kinh nghiệm chiến trận hơn và theo luật phong kiến thì ông ta phải là Nguyên soái của Anh quốc. Vì họ đều là những lãnh chúa láng giềng ở vùng Marches xứ Wales ( vùng đệm giữa xứ Wales và Anh quốc ), và đã có một thời gian dài tranh cãi gay gắt giữa Bohuns De Brecknock và Glares của Glamorgan. Bằng cử Bá tước Gloucester làm chỉ huy với một sự thiếu cân nhắc về mặt quân sự, Edward đã làm suy yếu Bá tước Hereford và làm cho đạo tiền quân Anh chở nên mất phương hướng một cách quyết định.

    [/FONT]Robert Bruce hạ gục Henry de Bohun

    Cuối cùng đã xế chiều khi Edward và đoàn tùy tùng của ông dừng lại để quyết định xem quân đội có nên cắm trại nghỉ qua đêm hay triển khai chiến đấu ngày hôm đó. Đội quân tiên phong không về biết gì về sự chậm trễ này mà vẫn phi ngựa để đối mặt với Park New. Khi họ xuất hiện từ Torwood, họ đã nhìn thấy lực lượng trinh sát Scotland đang rút lui ngay trước mắt, các kị sỹ Anh liền thúc thúc giục những con ngựa của họ để truy đuổi hướng về phía trước và tiến vào New Park. Ở hàng đầu là Bá tước Hereford với đoàn tùy tùng mạnh mẽ của ông gồm các hiệp sĩ và kị sỹ, trong số đó Gilbert de Bohun-người em trai và Henry de Bohun-người cháu trai máu nóng của ông. Khi thấy toán đầu tiên trong số các kị sỹ đã băng qua thung lũng mở của Bannock Burn, các giáo binh Scotland đã bắt đầu tiến lên từ khu rừng phía trước và tập hợp đội hình để chặn đứng bước tiến của họ. Henry de Bohun quan sát về phía quân Scotland bằng đôi mắt sắc lém như của một tay cung thủ nhà nghể và cố kiềm ngựa trước người Scotland, ông nhìn thấy một hiệp sĩ cưỡi trên một con ngựa cái nhỏ mầu xám, đang chỉ huy đội giáo binh của mình với một cây rìu chiến trong tay, trên áo khoác của ông có con sư tử được trang trí bằng họa tiết đôi và các tia sáng phản chiếu từ chiếc vương miện bằng vàng của ông và Henry đã xác định rằng đó là Robert Bruce. Henry de Bohun cảm thấy rằng thời điểm vinh quang của ông đã đến và quyết định thúc ngựa tấn công vào nhà vua với một nụ cười chế nhạo kiêu ngạo trên môi. Bruce điều khiển con ngựa hướng về phía đối thủ của mình, người lúc này đang cúi rạp như trong một trận đấu thương. Khi họ ở gần nhau Bruce lái con ngựa nhanh nhẹn của mình sang một bên để tránh ngọn thương của de Bohun và đứng thẳng trên bàn đạp của mình rồi giáng vào đầu ông kia (Henry de Bohun) một cú đánh trời giáng bằng chiếc rìu chiến của mình, cú đánh cắt xuyên qua chiếc mũ sắt của vị hiệp sĩ Anh và bổ sâu vào não của ông này. Cán của chiếc rìu gãy đôi vì tác động của lực chém quá mạnh và Henry De Bohun ngã nhào từ trên yên ngựa xuống-ông đã chết trước khi rơi xuống đất.


    [​IMG]
    Tranh vẽ Henry de Bohun lao vào tính hạ gục Robert Bruce



    [​IMG]
    Nhưng thoắt một cái Robert Bruce đã tránh được ngọn thương của Henry de Bohun


    [​IMG]
    và một búa thế là Henry de Bohun tiêu đời khi xác còn chưa chạm đất


    [​IMG]
    Một bức tranh khác vẽ cảnh Robert Bruce hạ gục Henry de Bohun


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Viên hộ sỹ của ông này (Henry de Bohun[FONT=&quot]) cũng đã bị giết chết khi những giáo binh Scotland tiến về phía trước, họ cực kỳ phấn khích chiến thắng lạ lùng của vua Robert. Hàng ngũ các tay giáo lập thành một hàng rào không thể xuyên thủng gồm những ngọn giáo có đầu bằng thép để chống lại các đợt tấn công của kỵ binh thuộc đội tiên phong của Anh-lúc này đã bỏ xa lực lượng bộ binh hỗ trợ của họ và trong trận chiến đẫm máu Bá tước Gloucester-luôn dẫn đầu đội quân của mình đã được kéo đến chỗ an toàn vì con ngựa chiến của ông đã bị giết chết trong cuộc xung đột. Sau đó, đạo binh của Edward Bruce tiến ra khỏi rừng cây nhằm hỗ trợ cho đạo hậu đội, người Anh đã bị đẩy lui trở lại. Với một tiếng hét lớn, người Scotland tiếp tục tiến lên và các kỵ binh Anh phải quay lại và bỏ chạy, bị đánh tơi bời và rối loạn. Quân Scotland cố gắng truy kích họ nhưng các kỵ sỹ Anh đã [/FONT][FONT=&quot]trốn thoát với một số nhỏ thiệt hại nữa. Bruce ra lệnh cho quân của mình ngừng truy kích và rút lui vào vùng cây cối rậm rạp an toàn của New Park.[/FONT]Những lãnh chúa người Scotland đã trách nhà vua của họ vì đã dám chấp nhận rủi ro cho chính bản thân ông ta khi đã đương đầu với thách thức từ Henry de Bohun mà trong tình huống xấu thì ông cũng sẽ trở thành không khác gì chàng thanh niên kia. Robert Bruce không trả lời mà chỉ luôn mồm phàn nàn vì đã làm hỏng mất chiếc rìu chiến tốt nhất của mình. ( Đúng là dân Scotland có khác keo kiệt quá he he)[/FONT]

    [FONT=&quot]Quấn Vita thì chỉ đưa ra những thông tin ít anh hùng hơn nhiều về trận đánh này. “Henry thấy rằng ông không thể chống lại vô số các tay giáo Scotland liền quay ngựa với ý định quay trở lại với đoàn tùy tùng của mình, nhưng Robert đã chặn ông ta và đánh vào đầu ông ta bằng chiếc rìu ... viên hộ sỹ của ông lúc đó đang cố gắng để bảo vệ hoặc giải cứu chúa của mình cũng đã bị hạ gục bởi những tay giáo Scotland.”


    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Lực lượng của Clifford bị đẩy lùi
    [FONT=&quot]
    Khi mà các kỵ binh của Gloucester và Hereford chạy dọc theo con đường chính hướng tới mục tiêu là New Park, một lực lượng kỵ binh mạnh mẽ dưới sự chỉ huy của Sir Robert Clifford thúc ngựa phi về phía trước về bắc của Lâu đài Stirling, nhằm đi vòng vèo qua New Park và tới được lâu đài vượt qua cánh trái của Scotland. Các ước tính về sức mạnh của lực lượng kỵ binh này là rất khác nhau, nhưng chắc chắn có một điều là nó mạnh hơn nhiều so với một toán đột kích hoặc tuần tra, chắc chắn đây là một lực lượng chiến đấu cực kỳ tinh nhuệ. Barbour nói rằng có khoảng 800 kị sỹ dưới sự chỉ huy của các hiệp sỹ cầm cờ tài giỏi, bao gồm cả Sir Robert Clifford. Sir Henry Beaumont và các hiệp sĩ vùng Yorkshire như Sir Miles Stapleton, Sir Thomas Grey-người có bố là Hiệp sỹ cao tuổi Sir Thomas Grey của Heaton tại Till, nói rằng lực lượng kỵ binh đi cùng với của Clifford chỉ có khoảng 300 người và vì ông này đã ở đó nên chúng ta phải nghiêng về con số này của ông. Có thể là lực lượng của Clifford dự định để tiến hành một cuộc trinh sát xem liệu quân Anh có thể đến được Stirling mà không cần đi qua New Park hay không. Tuy nhiên, điều này đã không được xác nhận bởi các tác giả đương đại. Grey đã không đưa ra các giải thích. Barbour nói rằng nhiệm vụ của Clifford là đi đến được lâu đài, cho nếu thực sự họ có thể đến được đó, họ đã nghĩ rằng đã được an toàn.
    [FONT=&quot]T[/FONT][FONT=&quot]heo nhà sử học Lanercost, Clifford “muốn đi vòng qua rừng cây để ngăn chặn người Scotland rút lui”. Có vẻ như là người Anh ở thời điểm này vẫn tự tin rằng người Scotland không có ý định chiến đấu ở bên ngoài Stirling. Chúng tôi không thể chắc chắn những gì mà Clifford muốn làm bởi có thể cuộc tiến quân của ông là hoàn toàn tách rời sự chỉ huy của nhà vua như các Bá tước Gloucester và Hereford. Tuy nhiên, chúng ta có thể [/FONT][FONT=&quot]chắc chắn một điều rằng không có liên lạc cũng không sự phối hợp giữa các đội quân đang tiến lên của quân Anh và có thể cả hai ( quân tiên phong và quân của Clifford) đều bắt đầu với một ảo tưởng rằng họ đang truy một một kẻ thù đang hoàn toàn rút lui. [/FONT][FONT=&quot]

    [/FONT]
    [FONT=&quot]Cả Grey và Barbour đều nhấn mạnh rằng lực lượng của Clifford đã phi ngựa trên cánh đồng mở và con đường đã được dọn sạch từ New Park để tới Stirling. Con đường mà họ đã sử dụng có lẽ được gọi là “ the way” dọc theo vách núi dốc đứng qua một Carse phẳng và dẫn đến một khúc lội nơi ở hẻm núi nơi dòng suối bắt đầu Bannock Burn để chảy xuống Carse của Balquhiderock. Họ cưỡi ngựa vượt qua St Ninian’Kirk, phía dưới là đầm lấy Pelstream mà con suối này chảy vào. Họ đã không gặp sự kháng cự nào và chắc chắn là đã nghĩ rằng đường đến Stirling là hoàn toàn dễ dàng. Tuy nhiên, một phần lực lượng của Bá tước Moray đã chiếm vị trí ở gần St Ninian để bảo vệ con đường chính đi về phía Bắc để ngăn chặn một đòn tấn công ngang sườn, chẳng hạn như toán quân này của người Anh. Bruce đã không bố trí ngăn chặn đối phương ở xa hơn nữa trên chiếc Carse, có lẽ ông cho rằng với địa hình như vậy thì ( đòn đánh vào sườn ) là không thực tế. Clifford đã vượt qua vị trí phía dưới của Moray trước khi vị bá tước này kịp phản ứng, svua Bruce đã không hài lòng và nói thẳng thừng vơi bá tước rằng “ một bông hoa đã rơi từ vòng hoa đội đầu của ngài”. Moray đã cảm thấy khó chịu và tức giận với chính mình và quyết tâm khôi phục lại tình hình, và vội vã tập hợp 500 người để đối đầu với Clifford. Trước sự quan sát của người Scot từ New Park, người Anh đã kiềm cương ngựa và với sự dứt khoát của Beauiuont, họ đã tự tin tiến ra khỏi nơi trú ẩn ở trong khu rừng.[/FONT]
    [/FONT]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận chiến trong ngày 23 tháng 6



    Bản đồ của trận Bannock Burn ngày 23 tháng 6


    [​IMG]


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Bá tước Moray thấy nguy cơ là có thể bị quân Anh bao vây nên cho hàng quân cuối cùng của mình chĩa giáo về phía sau để hình thành một đội hình lông nhím bằng giáo ở cả hai mặt trước và mặt sau. Trong tài liệu của mình, Sir Thomas Grey nói rằng đã can gián sự tự tin thái quá của Beaumont trong nhưng ông đã bị quở trách với lời buộc tội là hèn nhát. Tức giận vì sự chế nhạo này, Thomas đã thúc con ngựa của ông một cách thiếu thận trọng giữa Beaumont và Sir William Devncourt và tấn công vào một đội hình dày đặc các tay giáo của đối phương. Rất nhanh Deyncourt bám theo ông và cả hai con ngựa của ông này và của Sir Thomas Grey đã bị xuyên thủng bởi các ngọn giáo. Thomas đã được kéo vào trong schiltron và bị bắt làm tù binh, nhưng Deyncourt không may hơn đã bị giết chết cùng với Reginald-người anh trai trẻ tuổi của mình. Những kị sỹ còn lại tập hợp lại và chở nên thận trọng hơn nhiều, họ phi ngựa xung quanh người Scotland, nhưng không thể đột nhập vào đội hình được xử lý với một kỷ luật chặt chẽ của họ. Các tay giáo Scotland đâm chết những con ngựa mon men đến gần họ và giết chết kị sỹ khi họ đã ngã xuống, trong khi những người khác từ trong đội hình đã đâm xốc vào những con ngựa và và làm các hiệp sĩ ngã gục. Vì không có sự hỗ trợ của các cung thủ và trong một tâm trạng thất vọng, các kị sỹ không thể phá vỡ các schiltron của Scotland. Barbour nói rằng sự nổi tiếng của Douglas bắt đầu tại thời điểm này khi ông yêu cầu vua Robert cho phép mình đi hỗ trợ Bá tước Moray-người lúc này đang bị ép mạnh, nhưng lời yêu cầu của ông đã bị từ chối. Sau đó, không giải thích nguyên nhân tại sao, Barbour nói rằng Bruce đã đổi ý và Douglas cùng với người của mình, có khả năng là vào lúc này vẫn đang ngồi trên yên ngựa, vội vã đến cứu viện cho vị bá tước lúc này đang bị đối phương áp đảo về số lượng. Tuy nhiên, trong trường hợp chúng ta theo quan điểm của Sir Thomas Grey là người Anh có số lượng ít hơn! Khi người Anh thấy được mối đe dọa mới sắp xảy đến họ đã quay trở lại và Douglas thấy rằng cuộc tấn công của Clifford đã ngày càng chở nên yếu đi, ông đã thu người của mình trở lại một cách cao thượng và để mặc cho Moray hoàn tất chiến thắng của mình.

    Một số người sống sót trong lực lượng của Clifford vội vã phi ngựa về phía Lâu đài Stirling và những người khác bao gồm cả bản thân Sir Clifford “bỏ chạy trở lại với lực lượng chính của quân đội Anh. Vị thầy tu của Malmesbury cho rằng Clifford đã bị giết chết vào ngày hôm sau cùng với Bá tước Gloucester, Payn Tibetot và William Marshall. Sau Bá tước Gloucester, Clifford là người nổi bật nhất trong những người thiệt mạng tại Bannockburn. Đoàn tùy tùng của ông gồm 50 hiệp sĩ và kị sỹ có 13 người gồm cả Sir Miles Stapleton dường như đã bị giết chết trong cuộc chiến.

    Kết quả của ngày đầu tiên của trận chiến


    [FONT=&quot]Thất bại của lực lượng kỵ binh của Clifford đã kết thúc trận chiến của ngày 23 tháng 6, đã là cuối ngày và quân Ang đã không còn có những cố gắng hơn nữa để phá vây đến Stirling Castle. Thất bại với việc các Bá tước Hereford và Gloucester bị đẩy lùi, u ám và buồn chán lây lan làm nản lòng trong tất cả các cấp của quân đội Anh. Tầm quan trọng của các hành động quy mô lớn dẫn đến sự thất bại của đội quân tiên phong Anh trong các tài liệu hiện đại đã bị phai nhạt bởi sự kiện về cuộc đối đầu giữa Robert Bruce và Henry de Bohan.

    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sir Thomas Grev, nhân chứng tận mắt của chúng tôi, mặc dù ông đã nằm trong tay của người Scotland vào tối ngày 23, nói rằng các sự kiện trong ngày đã có thể làm tan biến sự tự tin và lòng quyết tâm của người Anh. Có thể đúng là như vậy, tuy nhiên sự chán nản của người Anh có thể đã được phóng đại để làm nhẹ đi thất bại của ngày hôm sau. Chỉ một phần nhỏ của quân Anh đã đối mặt với kẻ thù và hầu hết thậm chí còn chưa nhìn thấy người Scotland. Theo John của Trokelowe thì nhiều người đã được nếm mùi cay đắng vì bị người Scotland đẩy lùi đã tuyên bố sẽ trả thù vào ngày hôm sau.

    Chiến thắng của Moray không chỉ dừng lại việc chặn không cho người Anh mở một tuyến đường đến Stirling Castle mà quan trọng hơn, nó còn chứng minh hiệu quả của các giáo binh Scotland trong việc chống lại quân kỵ binh người Anh. Rất có thể kế hoạch của Edward II là cho quân của mình đóng trại ở Park-Công viên của vua dưới sự che chở của Lâu đài Stirling vào đêm 23/24 tháng sáu. Ông đã dự kiến người Scotland hoặc sẽ rút lui trước khi ông ta đến mà không chiến đấu hoặc có thể dễ dàng bị đánh bại. Bây giờ ngày đã sắp kết thúc, kế hoạch của ông đã bị cản trở và phá hoại. Hai trong số các đội quân của ông đã bị đánh tơi tả và bị đẩy lùi bởi người Scotland và tuyến đường để đến Stirling và kế hoạch cắm trại trên vùng đất an toàn của ông đã bị chặn lại. Quân đội Anh cần một nơi để nghỉ nghơi vào ban đêm, bởi vì người của họ đói và kiệt sức sau một cuộc hành quân dài và ngựa cần nước để uống. Vì vậy mà người Anh đã quyết định chuyển tất cả kỵ binh và có thể cùng với một số phần của bộ binh từ Bannock Burn sang Carse of Balquhiderock nơi những con ngựa sẽ tìm thấy một nguồn cung cấp nước dồi dào và người thì có thể nghỉ qua đêm.

    [FONT=&quot]Cái cồn ( carse) không phải nơi mà người Anh đã lên kế hoạch để nghỉ qua đêm; Grey gọi đó là một đầm lầy với dòng nước sâu và không có nghi ngờ rằng tại thời điểm của trận đánh đó là một nơi ẩm ướt hơn và lầy lội hơn ngày hôm nay. Barbour nói rằng có các “pows” hoặc dòng suối chảy chậm trong chiếc carse, họ ( quân Anh ) đã dỡ nhà và chặt các cây gỗ để làm cầu vượt qua các dòng suối. Các công việc này không thể kết thúc trước nửa đêm vào thời gian này trong năm ở phía bắc. Người Anh đã mất cả một đêm không ngủ và lo lắng; những con ngựa luôn được thắng cương và những người đàn ông luôn có vũ trang kè kè, luôn có cảnh báo về sự hung dữ của người Scotland với khả năng của một cuộc tấn công ban đêm. Edward đã đánh giá cao sự lúng túng của vị trí của mình và nhận ra rằng vẫn còn một khả năng tiếp tục chiến đấu vào ngày hôm sau, nhưng cuối cùng ông chẳng có thể làm gì để cải thiện tình hình. Có khả năng là đội hình chính của bộ binh Anh đã không vượt Bannock Burn sang chiếc cồn tắc nghẽn mà ngủ qua đêm trong khu vực phía nam của con suối, vẫn còn ở trong tình trạng rối loạn như khi họ đến vào cuối buổi tối từ hướng Falkirk.

    [FONT=&quot]Trong khi người Anh bị lúng túng ở chiếc cồn, Robert Bruce cho gọi các sĩ quan của ông đến để bàn bạc trong một cuộc họp hội đồng quân sự. Ông đã được khuyến khích rất nhiều bởi những thành công trong ngày, kế hoạch của ông vẫn còn nguyên vẹn và quân đội Scotland sôi sùng sục muốn có [/FONT][FONT=&quot]chiến thắng. Tuy nhiên, sự thận trọng làm ông muốn rút quân vào sâu trong những vùng có địa hình gồ ghề. Sự hiểm yếu của Lennox, nơi mà các vùng đất trở nên quá hoang dã đối với người Anh nếu họ muốn truy kích. Kinh nghiệm khắc nghiệt đã dạy Bruce tránh những trận đánh và làm ông nghiêng về phía các chiến thuật ít mã thượng và chiến tranh du kích. Các các đạo quân của quân Scotland vẫn ở nguyên vị trí như lúc mới rút lui lúc đầu, vào buổi tối, Sir Alexander Seton-một hiệp sĩ Scotland đã lợi dụng sự nhầm lẫn trong doanh trại quân Anh để vượt qua để bước vào sở chỉ huy của Robert Bruce[/FONT].[FONT=&quot] Seton nói với Bruce của tình trạng vô tổ chức và chán nản và thiếu lãnh đạo của người Anh và lấy cuộc sống của mình ra để đảm bảo rằng nếu Bruce tấn công vào buổi sáng ngày hôm sau ông sẽ chiến thắng[/FONT], [FONT=&quot]Barbour nói rằng vua Robert quay sang phía các sĩ quan của mình để hỏi họ xem có nên chiến đấu hay không và tất cả bọn họ đều cùng đồng thanh trả lời quyết chiến. Phải đến thời điểm này thì vua Robert mới quyết định chấp nhận rủi ro của một trận chiến tổng lực vào buổi sáng hôm sau. Tu viện trưởng Bernard của Arbroath cũng có mặt ở đó, ông đã mang chiếc thánh tích nổi tiếng [/FONT][/FONT][FONT=&quot] của Saint Columba[/FONT][FONT=&quot] được giữ gìn cẩn thận cùng với ông ta để truyền cảm hứng cho quân đội Scotland.Ông sáng tác những lời cảm hứng để Robert Bruce phát biểu trước toàn quân của ông vào đêm trước của trận Bannockburn và rõ ràng họ đã tạo được một ấn tượng sâu sắc.[/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Địa điểm của trận đánh ngày 24 tháng 6

    [​IMG]
    Lâu đài Stirling nhìn từ hướng Nam-hướng King's Park


    [FONT=&quot][​IMG][/FONT]
    Mặt trước của lâu đài Stirling, ảnh chụp ngày nay


    [​IMG]
    Cánh đồng Bannockburn nơi đã từng xảy ra trận chiến giữa người Anh và người Scotland năm 1314


    [​IMG]
    Thung lũng Bannock Burn nhìn từ vị trí đóng quân của quân Scotland


    [​IMG]
    Những con suối và những bụi rậm đã ngăn cản việc triển khai bộ binh Anh trong trận Bannock Burn năm 1314


    Bản đồ của trận đánh ngày 24 tháng 6




    [​IMG]

    [FONT=&quot]Các sự kiện trong ngày chiến đấu đầu tiên có thể được mô tả với một số tự tin và không có quá nhiều mâu thuẫn. Đó là việc mô tả các sự kiện của ngày thứ 2 của cuộc chiến, cao trào của trận đánh mà những khó khăn đã xảy ra. Mô tả của tôi về trận chiến được đặt vào Cánh đồng khô (Dryfield) của Balquhiderock, nhưng cũng ý kiến có ý kiến khá và nhiều người đã ủng hộ the Carse của Balquhiclerock như là địa điểm chính của trận đánh. Quyết định để chọn giữa hai điểm là khá khó khăn vì đã có những thay đổi về cảnh quan qua nhiều thế kỷ. Chắc chắn rằng là có rất nhiều rừng hơn trong năm 1314. Đầm lầy và những chỗ lầy lội cũng được mở rộng hơn rất nhiều và Carse của Balquhiclerock thì gần như chắc chắn không thể thoát nước tốt như đất canh tác nông nghiệp mà chúng ta thấy ngày nay.


    [FONT=&quot]Chúng ta biết từ Sir Thomas Grey rằng, "Đội hình hàng dọc của Anh ... đã bị kẹt lại với nhau và không thể tiến hành chống lại họ [người Scotland]. Lanercost cũng nói về một điều gì đó tương tự “người Anh ở đạo hậu quân không thể chiến đấu được với người Scotland vì đạo quân tiên phong đã bỏ chạy”. Có tình trạng này bởi là vì khoảng không gian của mặt đất rất hạn chế và người Anh đã bị bao vây, vì vậy họ đã không thể triển khai ưu thế về số lượng cũng như đưa các cung thủ của họ vào hoạt động. Địa hình của cả Dryfield và Carse của Balquhiclerock có thể phù hợp với tình hình đó. [/FONT]

    [FONT=&quot]Trên chiếc Carse, dòng suối Bannock Burn và Pelstream Burn là những nhân tố để hạn chế sức mạnh của quân Anh, vì chỗ tiếp cận gần nhất của cách xa nửa dặm. tuy nhiên dòng Pelstream Burn đã không chạy theo hướng ban đầu của nó vào chiếc carse hoặc bất cứ đầm lầy và vũng lầy có liên quan đã từng tồn tại nào để thoát nước, do đó không có nhiều hơn một dòng suối như chúng ta nhìn thấy trong ngày hôm nay.[/FONT]
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}

    [FONT=&quot]Trên địa điểm của Cánh đồng khô, dòng Pelstream đi qua Dryfield trong một chiếc kênh sâu mặt dốc, mà ngay cả ngày hôm nay một phần còn lại của chúng vẫn còn được che phủ bởi cây cối và bụi rậm như trước kia, điều này cho thấy rằng nó sẽ ngăn cản việc chuyển các đội hình chính của
    [FONT=&quot]quân đội trong năm 1314. Nó tạo nên phần cực bắc của bãi chiến trường trên địa điểm cánh đồng khô-Dryfield. Phía Nam là khu rừng Balgithiderock, mặc dù đã giảm độ dốc, nó vẫn còn bao gồm các vách dốc và tạo nên các trở ngại trong việc tiến quân giữa carse và Dryfield giữa điểm mà dòng suối Bannock Burn đã chuyển trở lại carse và định cư ở Broomridge. Từ Broomridge Pelstream Burn có những điểm mở rộng đủ để cho phép dễ dàng cánh đồng khô, ở đây có một lỗ hổng mà qua đó kỵ binh nặng của Anh vẫn tiến được theo cách của họ vào ngày 24 tháng 6 để tạo một…[/FONT][/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}


    [​IMG]
    Các tay giáo Scotland tiến lên trong lên trong đội hình schiltron và các hiệp sỹ Anh lao vào trước những rừng giáo thép Scotland


    [​IMG]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} và kết quả đương nhiên là các hiệp sỹ Anh bị hạ gục-tranh vẽ bá tước Gloucester bị hạ gục nằm trên mặt đất khi ông không kịp mặc chiếc áo choàng có hình chiếc gia huy ( nếu có mặc thì ông chỉ bị bắt làm tù binh).

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Quân Scotland tấn công

    Thứ Hai ngày 24 tháng 6 năm 1314, đầu buổi sáng, nhìn từ phía đông nam. Sau cuộc các đợt bắn tên dữ dội của các cung thủ người Scot bắt đầu tấn công vào kỵ binh Anh lúc này đang đóng ở trên Dryfield. Bá tước Gloucester dẫn các kỵ binh của đội tiên phong Anh tấn công một cách bốc đồng và, tai hại vào schiltron của Edward Bruce. Các tay giáo Scotland tiến vào gần đội hình vô tổ chức của kị binh Anh và một cuộc hỗn chiến đẫm máu bắt đầu tạo thành dòng từ phía tây bắc đến đông nam đối diện với New Park. Sự mở rộng cũ của rừng Wood of Balquhiderock tại Dryfield là không rõ ràng nhưng chúng ta chỉ chắc chắn rằng nó rộng hơn so với ngày nay và làm hạn chế chiều rộng của chiến trường ở phía nam.


    Nếu đây là trường hợp mà sau đó quân Anh có thể đã bị đẩy lùi trở lại từ Dryfield đến bờ một con kênh hẹp được hình thành bởi gỗ của rừng Wood of Balquhiderock và con suối Pelstream Burn, kết quả là họ ngày càng dúm lại với nhau thành một đám đông chật chội. Từ đây những kẻ bị đánh bại vượt qua chiếc carse ở phía sau họ rồi sau đó họ có thể thoát ra hoặc là về phía bắc, hướng tới lâu đài Stirling, hoặc theo hướng sông Forth hay lại Bannock Burn. Điều này phù hợp với những gì chúng ta biết về cuộc tháo chạy của người Anh trên chiến trường. Tuy nhiên, không thể chắc chắn trong việc xác định đặc điểm của cảnh quan ở đầu thế kỷ thứ mười bốn làm cho chúng ta khó biết chính xác địa điểm của trận chiến. Bất chấp sự đô thị hóa liên tục của vùng Dryfield, việc đến thăm nó là vẫn rất thú vị và đáng giá. Người tavẫn còn có thể đi bộ qua vùng này, các đặc điểm chính của địa hình vẫn còn đó và với một chút trí tưởng tượng độc giả có thể hình thành nên ý kiến của mình địa điểm của trận chiến.

    Bình minh thứ Hai ngày 24 tháng 6 năm 1314 - quân Scotland tấn công

    Khi ánh sáng đầu tiên bắt đầu chiếu sáng trên bầu trời của Firth of Forth vào khoảng 03:15 (thời tiết phương Bắc) vào ngày thứ hai định mệnh này, trong rừng của New Park người Scotland đã chuẩn bị sẵn sàng cho trận chiến. Vua Robert đã ra lệnh cho một cuộc tấn công lúc bình minh, và các đội hình đầy kỷ luật của các giáo binh đã tiến vào trong chiến trường mở cùng với các lá cờ của các chỉ huy của họ. Khi đã quan sát đầy đủ đối phương, người Scot quỳ xuống cầu nguyện trong một thời gian ngắn để cầu Chúa và để được Chúa tha tội.


    Các kỵ binh Anh đã lợi dụng những đoạn đường vòng dễ dàng hơn giữa Pelstream Burn và rừng Wood of Balquhiderock để bắt đầu thiết lập đội hình hoặc ở trên Dryfield trên con đường vòng khoảng 20 m. Họ cảm thấy vui mừng khi rời khỏi Carse of Balquhiderock và mặc dù họ đã lường trước các cuộc tập kích nhằm vào họ, họ vẫn không chờ đợi việc người Scotland tiến ra từ khu rừng và lập đội hình tấn công với số đông như vậy. Việc đạo quân của Edward Bruce, vốn có thể đã đóng quân ở đâu đó giữa Borestone và Saint Ninian, lúc này xuất hiện ở bên phải của đội hình hàng ngang của quân Scotland và có vinh dự dẫn đầu cuộc tấn công. Bên trái và hơi lùi về phía sau một chút là đạo quân của vua Robert. Đạo quân của Bá tước Moray tạo thành trái cánh của quân đội Scotland, nhưng đối với người Anh thì họ dường như chỉ thấy một đám rất lớn đông đặc những người Scotland đang tiến lên. Vua Edward II đứng nhìn người Scotland tiến ra ầm ầm từ rừng cây và dườgng như ông vẫn không biết họ xuất hiện để làm gì và hỏi “ Cái gì vậy, người Scotland muốn đánh nhau à” Sir Ingram d'Umfraville-một người Scot, đã khẳng định chắc chắn với nhà vua rằng họ muốn chiến đấu. Khi người Scotland tạm dừng và quỳ xuống và cầu nguyện, Edward-theo sử gia Barbour, đã hiểu nhầm và nói với Umfraville “ có phải bọn chúng đang quỳ xuống để xin lòng thương xót”. “ Họ cầu xin lòng thương xót, chắc chắn rồi, nhưng không phải từ Ngài. Họ xin Chúa thương xót cho tội lỗi của họ” Sir Ingram trả lời “những người đàn ông này sẽ giành chiến thắng hoặc nằm xuống, không một người nào sẽ chạy trốn vì sợ chết. “ Umfraville và một số hiệp sĩ có kinh nghiệm hơn-những người đánh giá cao những phẩm chất chiến đấu của người Scotland, đã thông báo trì hoãn việc tiến binh một ngày vì tình trạng mệt mỏi của quân đội sau khi hành quân dài ngày về phía Bắc. Gloucester-người đã chia sẻ ý kiến này của ông đã đề nghị với nhà vua, nhưng các hiệp sĩ trẻ hơn đã gọi ý tưởng đúng đắn này là sự hèn nhát và Edward đã cãi nhau với vị Bá tước rồi lại cáo buộc ông tội phản bội. Lời khuyên chiến thuật của Umfraville cho vua là tiến hành một cuộc trá rút là không thực tế và có khả năng để lại hậu quả tai hại và Edward-duy nhất một lần đúng đắn, đã bác bỏ nó. Đã là quá muộn để áp dụng chiến thuật này. Sự chủ động đã được chuyển qua phía người Scotland và người Anh đã không có sự lựa chọn nào khác, họ đã ở một góc quá hẹp và phải chiến đấu để thoát ra khỏi đó. Nhà Sử học Lanercost theo hồi ký của một nhân chứng, đã nói rằng trước khi các binh lính Scotland áp được vào gần với kẻ thù của họ thì “các cung thủ Anh đã được tung về phía trước trước đội hình hàng ngang và các cung thủ người Scotland đã tấn công, có một số bị giết và bị thương ở cả hai bên, nhưng rồi các cung thủ của Anh đã nhanh chóng bị đẩy vào thế phải bỏ chạy” Việc các cung thủ hai bên có giao chiến qua lại bằng cung tên chỉ là một phần cá biệt của trận đánh và nó không có hiệu lực để ngăn cản bước tiến quân của người Scotland. Các cung thủ Scotland có thể đã bị làm phiền trong trận đánh qua lại lúc đầu nhưng không có nghĩa là họ bị đánh bại và có thể là họ đã chiến đấu ở quy mô lớn, ở thời điểm đỉnh cao của trận chiến. đóng góp của họ vào chiến thắng đã bị đánh giá thấp hơn nhiều so với thực tế.


    Khi bộ binh Scotland đang tiến lên thì phía trước của quân Anh vẫn còn đang ở tình trạng vô tổ chức, Bá tước Gloucester vội vã lập lại đội hình cho các kỵ binh của đội quân tiên phong và chính ông đã dẫn đầu họ lao vào các hàng đầu của schiltron của Edward Bruce. Vị Bá tước đã bỏ xa những người hỗ trợ mình và vội vã lao vào hàng ngũ các tay giáo của Scotland, con ngựa của ông đã lập tức bị hạ gục và ông ta cũng bị thiệt mạng. Người ta nói rằng ông đã quá vội vàng trong lúc mặc trang phục và quên không mặc chiếc áo choàng có chiếc gia huy bên ngoài chiếc áo giáp của mình và như vậy không có ai nhận ra ông và ông đã bị giết bởi các tay giáo. Vì vậy sau đó Robert Bruce đã lấy làm tiếc vì bị mất một khoản tiền chuộc một đại quý tộc ( cũng đồng thời là anh em đồng hao của ông). Cuộc tấn công của Gloucester là một thất bại thảm hại và đội tiên phong Anh đã bị tàn sát một cách đẫm máu trước khi bỏ chạy trước một rừng các tay giáo người Scotland vốn không thể xuyên thủng.

    [​IMG]
    Tranh vẽ kị binh Anh lao vào những hàng giáo binh Scotland như những con thiêu thân


    [​IMG]
    Tranh vẽ
    Bá tước Gloucester ( người có chiếc khiên giống như cờ của mấy bác VN cọng hành ) lao vào đội ngũ các tay giáo Scotland và đã tiêu đời.

    Hai đạo quân Scotland tiến về phía trái của Edward Bruce với một sự kết hợp gần như đồng thời và họ tấn công vào đội hình dàn hàng ngang của Anh-lúc này đang bị rối loạn tơi bời ở phía trước, lúc này quân Anh chỉ hơn một khối lượng lớn người tụ lại với nhau và ở trong tình trạng lộn xộn, nhầm lẫn, “ tất cả giống như trong một schiltrom” như Barbour đã nói. Grey thì mô tả người Anh dường như bị kẹt lại với nhau và giống như Lanercost đã nói trước đó.

    [FONT=&quot]Có vẻ như lúc này một số lớn bộ binh Anh đã lên đến nơi nhưng họ đã không thể triển khai vì khoảng không gian bị giới hạn giữa rừng cây Wood of Balquhiderock vướng víu và cả dốc mặt của con kênh Pelstream Burn rồi những kỵ binh của đội tiên phong bại trận lao vào gây nhầm lẫn.
    Phần lớn bộ binh Anh vì lý do này mà dường như đã không thể tham chiến, mặc dù có thể rất nhiều người vẫn còn ở phía nam của Bannock Burn và do sương mù trên bãi chiến trường đã không biết về những gì đang xảy ra trong đội hình hàng ngang của. Trong khi đó, một số lượng đáng nguy hiểm cung thủ Anh đã cố gắng để chiếm vị trí bên sườn của cuộc hỗ chiến và bắt đầu bắn tên “ nếu họ tiếp tục bắn tên thì có thể đã có khó khăn cho người Scot " Barbour đã viết. Robert Bruce còn biết nhiều hơn so với các chỉ huy Anh về mối nguy hiểm của các tay cung và ông ra lệnh cho Marischal-Sir Robert Keith, người nắm giữ lực lượng dự bị, để tấn công vào họ với đội kỵ binh hạng nhẹ của ông. Cuộc tấn công của họ đã được triển khai ngay lập tức và nó có hiệu lực làm các cung thủ bị phân tán và đẩy họ vào hàng ngũ của những người tiến lên từ phía sau, gây ra nhiều nhầm lẫn và báo động.

    [FONT=&quot]Vào thời điểm này thì trận đánh là khá cân bằng, toàn bộ toàn bộ lực lượng của quân đội Scotland lúc này đã tham chiến và trận chiến đấu nổ ra rất quyết liệt ở toàn bộ mặt trước của đội hình hàng ngang của cả hai bên. Không gian tràn đầy tiếng kêu la, thét gào hỗn loạn của trận chiến cùng với sức nặng không thể lay chuyển nổi của những schiltrons tua tủa những mũi giáo thép nhọn nhấn xuống một khối lượng lẫn lộn của kị binh và bộ binh đang bị mắc bẫy. Người Anh đã bị kẹt chặt lại với nhau và thậm chí không có khoảng không để hua vũ khí của họ lên và nhiều người bị ngã rồi bị chà đạp đến chết. Các cung thủ Scotland được khuyến khích bởi sự thất bại của các cung thủ Anh, đã đổ những trận mưa tên chết người vào đội hình chiến đấu của đối phương. Người Anh bắt đầu lùi lại, lúc đầu thì từ từ sau đó kháng cự của họ sụp đổ và những toán nhỏ rút dần về phía sau để tìm đường sống đã trở thành một cơn lũ khi họ tản ra và bỏ chạy. Vào lúc này, một tiếng hét " chiến thắng " đã được cất lên từ hàng ngũ của người Scotland và các chiltrons giáo binh tăng tốc rảo bước về phía trước. [/FONT]
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Vào giữa buổi sáng người Anh bị đánh bại hoàn toàn

    Trận chiến là một kỷ niệm đáng buồn cho người Anh và quân bại trận chỉ còn lo nghĩ làm thế nào để sống sót và chạy thoát. Tại thời điểm này ở phía hậu quân của người Scotland đã xuất hiện một đám đông những người không phải là chiến binh như những người đánh xe ngựa, wagoners, đầu bếp, những người đi theo doanh trại, người giúp việc… những “ small folk “, những người đã được gửi đến một nơi an toàn ở phía Bắc Coxet Hill bởi Robert Bruce trước khi trận chiến nổ ra. Lúc này với vũ khí của những binh sỹ mới tử trận và các lá cờ tự tạo trong tay họ đã lao vào đoàn quân đang nao núng với một sự khát máu khủng khiếp. Sự can thiệp của họ có rất ít hoặc thậm chí chẳng có tí hiệu quả quân sự nào vào kết quả của trận đánh, mặc dù tàn quân Anh đang chạy trốn có thể đã nghĩ rằng họ là một lực lượng tiếp viện mới đến và càng làm tăng nỗ lực của họ để trốn thoát. Robert Bruce khó mà có thể hoan nghênh sự xuất hiện của đám người vô kỷ luật và chỉ khoái cướp bóc này.

    [FONT=&quot]Khi các chỉ huy Anh nhìn thấy rằng tất cả đã mất hết, Bá tước Pembroke và Sir Giles dArgentan, những người luôn ở bên cạnh vua Edward, nhận ra rằng an toàn của nhà vua là rất quan trọng và rằng ông ta không phải rơi vào tay của người Scotland vì hậu quả của vụ bắt bớ này là không thể tưởng tượng được
    [FONT=&quot]. Mọi người hộ tống cho nhà vua an toàn đến được lâu đài Stirling Castle theo những con đường dọc theo cạnh của the carse vẫn hoàn toàn rộng mở. Người Scotland đã tổ chức những đợt vây bắt nhà vua nhưng ông đã chạy ra ngoài và tấn công họ bằng chiếc búa của mình. Ông đã có một con ngựa bị giết khi đang tìm cách thoát khỏi những kẻ đang vây bắt mình, Sir [/FONT][FONT=&quot]Roger Northhurgh đã bị kéo xuống ngựa và bị bắt. Khi chắc chắn về trận đánh, nhà vua đã cố gắng thoát về lâu đài Stirling cùng với Bá tước Pembroke và một phần lớn các kỵ binh. [/FONT][FONT=&quot]Ngay sau khi ông nhìn thấy nhà vua đã thoát khỏi nguy hiểm, Giles d'Argentan, cảm thấy sợ bị mất danh dự và không quen với việc phải bỏ chạy, đã cho quay ngựa của mình trở lại vào trận chiến nơi dày đặc nhất và ông đã bị giết. Chuyến bỏ chạy của Edward II từ chiến trường báo hiệu sự tan vỡ của quân đội Anh. Một số người chạy theo nhà vua và hướng về phía Lâu đài Stirling, những người khác bỏ chạy qua the carse (chiếc cồn) về phía sông Forth nhưng chỗ này là không thể vượt qua [/FONT][FONT=&quot]và nhiều người bị chết đuối khi cố gắng để vượt qua con sông. Một số lượng người rất đông và hỗn loạn đã cố chạy về phía Nam và họ đã cố gắng để vượt qua Bannock Burn. Việc hàng ngàn người chạy qua lại đã biến bờ của con suối thành một đám bùn lầy nguy hiểm và tạo ra một cái bẫy và bẫy rất nhiều người đang bỏ chạy. Ở đây quân đội bại trận phải chịu đựng một số cú đánh với những thiệt hại nặng nhất của nó, bao gồm cả Sir Edmund Manley-người chỉ huy Ngự lâm quân của nhà vua. Barbour đã vẽ lên bằng chữ viết một bức tranh sống động về Bannock Burn.[/FONT][/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    [FONT=&quot]
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sự sụp đổ của quân đội Anh
    [FONT=&quot]
    Thứ Hai ngày 24 tháng 6 năm 1314 vào giữa cuối buổi sáng, quan sát từ phía đông nam. Kỵ binh Anh bị đẩy lùi bởi các tay giáo người Scotland và cuộc rút lui của họ đã chuyển thành bị đánh bại và bỏ chạy, nhà vua phải rời bỏ chiến trường. Lực lượng bộ binh nhanh chóng tiến lên, nhiều người trong số họ không thể chiến đấu với đối phương vì họ ở phía sau kỵ binh và bị bao quanh bởi địa hình. Chỉ một phần nhỏ của quân Anh đã bị đánh bại nhưng thế là đủ, người Scotland đã giành được một chiến thắng tuyệt vời.

    [​IMG]
    Bản đồ cho thấy các hướng tháo chạy của quân Anh trong trận Bannockburn

    [​IMG]
    [/FONT][FONT=&quot] Bản đồ cho thấy chi tiết cuộc đào tẩu của quân Anh trong ngày 24 -> 29 tháng 6


    [/FONT] Khi vua Edward và các hiệp sĩ của ông đến trước Lâu đài Stirling Castle họ thấy rằng Sir Phillip Moubray đã cho kéo chiếc cầu rút lên và cấm cửa không cho họ vào tòa Lâu đài. Nếu Edward đã vào tòa lâu đài thì chắc chắn ông đã rơi vào tay của người Scotland khi tòa lâu đài bị thất thủ vì đây chắc chắn sẽ là hậu quả của trận đánh. Hành động của Moubrav có thể được hiểu là ông đã đoán trước được điều này. Và như vậy nhà vua đã trốn thoát. Ông ta (Edward II) phi ngựa xung quanh King’s Park, sau đó vượt qua hậu quân của quân Scotland trước khi giành lại con đường chạy đến Torwood, đây chính là con đường mà ông đã tiến lên một cách tự tin vào ngày hôm trước.

    Hậu quả của trận đánh

    Vua Edward đã chạy trốn khỏi chiến trường kèm theo viên sủng thần của mình, Sir Hugh Despencer-vốn kỳ vọng về các vùng đất của Bá tước Moray lúc này đã tiêu tan và bởi Sir Henry Beaumont-người cũng đang tham vọng một lãnh địa bá tước, ít nhất đến thời điểm này thì ông này cũng tràn đầy thất vọng. Đoàn tùy tùng của Bá tước Pembroke gồm các hiệp sĩ và những kị sỹ có thể đã hình thành một hậu đội và bảo vệ đường rút lui của Edward. Đoàn tùy tùng của Pembroke đã bị tổn thất nặng nề trong cuộc chiến đấu, bao gồm cả Sir John Comyn-con trai của Comyn “the Red” vốn bị sát hại bởi Bruce tại Dumfries trong năm 1306. Những kẻ đào tẩu đã phi ngựa đến cảng Dunbar sau khi vượt qua 60 dặm với tốc độ mà như Barbour đã nói “ thậm chí không có thời gian để đi tè”. Sir James Douglas tiếp tục truy kích dù ông chỉ có ít hơn 60 kị sỹ được thu thập vội vàng cùng với ông ta. Khi ông phi ngựa qua Torwood ông gặp Sir Lawrence Abernethy với 80 kị sỹ-vốn đến để giúp đỡ người Anh, nhưng khi thấy tình hình này, ông ta lựa chọn tốt hơn là tham gia vào cuộc săn đuổi cùng với Douglas. Trước khi đến được Linlithgow, người Scot đã đuổi kịp người Anh lúc này đang chạy trốn và cất lời chế nhạo và la hét nhưng Douglas đã đánh giá rằng họ quá ít để tấn công trong một trận chiến mở. Barbour khẳng định về sức mạnh của Edward, ông có khoảng 500 kị sỹ so với lực lượng của Douglas và Abernethy, người Scot chỉ có khoảng 120 người, có lẽ đây là giải thích cho thất bại của ông trong việc ngăn chặn Edward tẩu thoát. Douglas vẫn bám sát hậu đội Anh và tiêu diệt những người lạc ngũ. Tại Vinchburgh người Anh xuống ngựa và cho những con ngựa mệt mỏi của họ nghỉ ngơi trong khi Douglas vẫn lảng vảng ở gần đó. Sau khi dừng lại ở Winchburgh Edward đã chỉ huy một cách thận trọng cũng có tổ chức lực lượng kị binh và dẫn dắt họ rút lui một cách có trật tự. Edward đến được Dunbar nơi Bá tước Patrick trung thành đã chuẩn bị một con tàu để đưa nhà vua an toàn đến Bamburgh ở vùng Northnmhcrlaud. Douglas thấy rằng những cố gắng để bắt vua Anh đã không thành công và từ bỏ việc truy đuổi rồi quay trở về Stirling. Đoàn hộ tống của Edward từ Dunbar đã đi theo con đường ven biển đến Berwick-cách khoảng 25 dặm và trở lại thị trấn vào tối ngày 26 tháng 6, chỉ 11 ngày sau khi họ xuất phát. Nhà vua cưỡi ngựa đến Berwick từ Baniburgh và ở lại đó trong hai tuần tiếp theo từ ngày 27 tháng Sáu.

    [​IMG]
    Tranh vẽ Bá tước Pembroke ( người trong trang phục xanh trắng ) chỉ huy đoàn tùy tùng chiến đấu bảo vệ nhà vua


    [​IMG]
    [FONT=&quot]Nhà vua Edward ( với áo choàng có biểu tượng tam sư) đang được các hiệp sỹ của mình xả thân để bảo vệ, Bá tước Comyn trẻ ( người quay về Scotland để trả thù cho cái chết của cha mình) đã bị giết chết , chiếc khiên của ông với gia huy ba bó lúa đang nằm trên mặt đất.

    Khi quân đội Anh bị vỡ trận, một số lượng lớn các binh sĩ muốn thoát khỏi sự trả thù của người Scotland, đã chạy theo nhà vua đến Lâu đài Stirling, ở đây họ đã không thể vào tòa lâu đài mà bị dồn vào phần nổi trên mặt đá bên dưới của tòa lâu đài.
    [FONT=&quot] Họ đã tạo ra một mối đe dọa ở phía sau và Bruce đã buộc phải tách một phần lực lượng mạnh mẽ của mình để bao vây cho đến khi họ đầu hàng vào cuối ngày. Barbour cho rằng sự cố này đã tạo nên một phần thất bại của Robert Bruce và Douglas trong việc tập trung một lực lượng kỵ binh đủ mạnh để truy đuổi Edward II. Quân Anh đào tẩu đã không bị truy đuổi quyết liệt ở ngoài Bannock Burn và ngay khi những toán quân còn lại của đối phương ở lâu đài Stirling Castle đã được xử lý ( bị giết hoặc đầu hàng), người Scotland đã dành phần còn lại của ngày hôm đó để cướp bóc chiến lợi phẩm trên chiến trường và đoàn xe hậu cần của người Anh. Quấn Vita nói với chúng ta rằng " Người của chúng tôi đã chạy thoát một cách an toàn là do một phần quân Scotland đã mải mê cướp bóc ... nếu tất cả người Scotland đã cùng tham gia vào việc truy kích người của chúng tôi, rất ít người có thể trốn thoát được. "


    [​IMG]
    [/FONT]
    [/FONT]Lâu đài Bothwell Bá tước Hereford-nguyên soái của quân đội Anh bị bắt tù binh
    [FONT=&quot]
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Nhiều binh sĩ Anh rời khỏi cuộc chiến trong một vẻ bề ngoài có tổ chức, thậm trí một số còn không tham dự tí nào vào chiến đấu và một tài liệu nguồn tiếng Anh viết “ Hơn 200 hiệp sĩ đã không kịp rút gươm và cũng không phải chiến đấu một tí nào”. Sir Maurice Berkeley đã rời trận chiến cùng với “ cuộc rút lui vĩ đại của các binh sỹ xứ Wales của ông”. Bá tước Hereford cùng “ với một đám đông các hiệp sỹ, sáu trăm kị sỹ khác và khoảng một nghìn lính bộ binh bỏ chạy về phía lâu đài Carlisle”. Tại lâu đài Bothwell ở vùng Clyde lúc này vẫn còn trong tay người Anh. Walter Gilbertson-quan trấn thủ, đã đón tiếp vị Bá tước và 50 người đi theo hộ tống. Bá tước Hereford hiểu nhầm rằng nhà Vua đã đi lánh nạn ở Stirling và ông sẽ tự chui vào bẫy ở đó, nhưng lúc này Edward Bruce lại nghĩ là vị Bá tước vẫn ở Bothwell, ông này liền tập hợp một lực lượng mạnh mẽ và không chậm chễ hành quân đến lâu đài Bothwell (Bá tước Hereford là một khoản tiền chuộc lớn ), khi ông ta xuất hiện ở trước tòa lâu đài Gilbertson-bản thân cũng là một người Scotland, đã thay đổi lòng trung thành của mình một cách nhanh chóng và mở cửa đầu hàng cùng với Bá tước Hereford và Bá tước Angus và rất nhiều Đại quý tộc cùng với các hiệp sĩ cấp cao.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Phần còn lại của những kẻ đào tẩu đã chạy chốn đến thung lũng Clyde Valley. Họ vẫn phải hành quân trong bốn ngày từ vùng biên giới và vẫn phải chiến đấu liên tục trong vòng 20 dặm từ vùng Southern Upland cho đến vùng Annandale. Vùng nông thôn của Scotland đã sẵn sàng và dân chúng đã mài dao với thái độ thù địch. Rất nhiều binh sỹ đào tẩu đã trở thành nạn nhân của các bộ tộc Scotland ở vùng biên giới-những người liên tục bám sát và tập kích vào họ cho đến tận Solway Firth

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Tính toán con số thương vong và bị bắt tù binh

    Bá tước Hereford là anh rể của nhà Vua và là một giải thưởng rất giàu có mà Bruce đã dùng để trao đổi lấy 15 nhà quý tộc Scotland bị giam cầm ở Anh. ; Trong số những người được thả có Elizabeth-Nữ hoàng của ông, Marjory- con gái lớn, Christina-chị gái của ông và Robert Wishart-Giám mục của Glasgoss, người đã trở nên già đi và bị mù lòa trong thời gian bị giam giữ ở Anh. Donald, vị Bá tước trẻ tuổi ở Mar-cháu trai Robert Bruce, đã quyết định không quay trở lại Scotland vì ông đã có một mối quan hệ cá nhân thân thiết với Edward II.


    Yêu cầu về tiền chuộc là rất lớn và không có các ví dụ trực tiếp về một trường hợp của bất kỳ một vị bá tước nào bị bắt trong trận Bannockburn, chúng ta biết rằng John de Bretagne-Bá tước Richmond, người bị Bruce bắt tại trận Byland năm 1322, đã phải trả một khoản tiền chuộc rất lớn khoảng 20.000 Bảng cho sự tự do của mình. Robert con trai của Sir Ralph Robert Neville vốn được biết đến như là “ chú công của miền Bắc “ đã bị bắt tù binh tại trận Bannockburn và cho dù người Scotland chỉ đòi một khoản tiền chuộc 2,000 đồng Mark ( một đồng Mark tương đương 2/3 một đồng bảng Anh). Trận đánh làm nhà Neville phải trả giá là Alexander và John Neville cũng bị bắt làm tù binh và làm Chúa Neville suy sụp vì phải lo tiền chuộc. Sir Walter Fauconberg mất người con trưởng ở Bannockburn, người con thứ đã có nhiều may mắn hơn-ông này bị bắt và tiền chuộc yêu cầu là 500 đồng Mark. Trong tháng 11 năm 1314 nhà vua đã ra lệnh mở kho bạc để giúp cho Aylen de Walingford-trung sĩ kỵ binh của mình một khoản tiền £ 100 để chuộc con trai, người cũng đang ở trong tay của người Scotland.

    [​IMG]
    Tranh vẽ Sir Robert Clifford, một trong những hiệp sĩ nổi tiếng nhất đã bị giết chết tại trận Bannockburn

    Bruce hối tiếc về cái chết của Gloucester-người anh em rể của ông, cũng như bị mất một khoản tiền chuộc và đã gợi ý đưa xác của ông này đến một nhà thờ gần đó, nơi ông tiến hành một buổi cầu nguyện trong đêm sau trận chiến. Bá tước Gloucester và Sir Robert Clifford là những hiệp sĩ nổi tiếng nhất đã bị giết chết tại Bannockburn và Bruce đã cho ngâm xác của họ trong các thùng rượu và trở về Berwick. Vị Bá tước trẻ tuổi đã được chôn cất tại Tewkesbury Abbey. Bruce cho mọi người thấy sự rộng lượng của ông đối với một số tù nhân của mình. Khi Marmaduke de Thweng, anh hùng của trận chiến Stirling Bridge và nhiều người khác đã đầu hàng trước Bruce một cách cá nhân sau khi trải qua một đêm lẩn trốn trong bụi rậm sau trận chiến, ông được đối xử như một người bạn cũ và được gửi về nhà ở Yorkshire mà không phải trả tiền chộc. Sir Ralf Monthermer được trả tự do mà cũng không phải trả tiền chuộc, sự kiện này cho thấy câu chuyện lãng mạn của ông ta về việc đã giúp Bruce chạy trốn khỏi sự giận dữ của Edward I trong những ngày của ông này ở tại Triều đình Anh là có thất. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều may mắn thoát khỏi cơn trả thù thịnh nộ của người Scotland, và chúng tôi nghe thấy rằng con trai của Robert Bottel của Merstone “ đã bị xẻo mất cả hai bên tai do bạo lực của người Scotland”.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Hàng trăm con ngựa và các xe tải chở đồ dự trữ có giá trị đã bị bỏ rơi bởi người Anh và rơi vào tay của người Scotland. Con dấu của vua Anh-Privy Seal đã bị bỏ lại và được tìm thấy trong một đống những hỗn độn mà bộ máy chính phủ của Edward đã để lại. Robert Baston-thầy tu dòng Carmelite Friar đã sáng tác một bài thơ khi ông đi lang thang trên chiến trường; Ông là một nhà thơ đáng chú ý thời đó và vua Edward II đã đưa ông cùng đi với mình để sáng tác những bài thơ kỷ niệm chiến thắng của ông trước người Scotland. Thay vào đó, để được chuộc lại tư do, Bruce đã gợi ý ông sáng tác một bài thơ ca ngợi chiến thắng của người Scotland. Nó còn tồn tại đến ngày hôm nay, nhưng tiếc là Brother Baston đã chỉ quan tâm nhiều đến câu thơ hơn là việc truyền đạt thông tin và bài sử thi tiếng Latin của ông là khá tẻ nhạt và ít giá trị thực tế. Philip Mowbray cho lâu đài Stirling Castle đầu hàng vào buổi sáng ngày hôm sau trận chiến và được phép thay đổi lòng trung thành của mình và được đối xử một cách thân thiện từ vua Robert. Người Scotland theo chính sách thông thường của họ, ngay lập tức dỡ bỏ hệ thống phòng thủ của lâu đài ( vì họ không muốn tốn một lực lượng để đồn trú cũng không muốn quân Anh tái chiếm và sử dụng tòa lâu đài này ).

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Không thể để ước tính con số thương vong của bộ binh Anh, mặc dù tổn thất có thể là một số không cân xứng, một đơn vị đã không tham gia vào trong chiến đấu và có thể đã rút lui mà không bị thương vong. Số lượng hiệp sĩ và Quý tộc bị giết tại Bannockburn là cao đáng kinh ngạc theo tính toán của Anh. Danh sách nạn nhân là các hiệp sĩ của họ thường là ngắn, vì như tập quán hồi đó một hiệp sĩ thường là đầu hàng và trở thành tù nhân hơn là bị giết trong trận chiến bởi vì họ sẽ mang lại một khoản tiền chuộc lớn. Ở các trận đánh Lewes và Evesham ( những trận chiến ở biên giới Scotland và nước Anh sau này ) đã có một số lượng lớn các kị sỹ quý tộc chiến đấu với nhau nhưng chỉ một số ít những hiệp sĩ đã bị giết chết. Trong thời gian trước đó ở Scotland tình hình cũng xảy ra tương tự. Thậm chí trong trận chiến thảm khốc Stirling Bridge, vốn được thêu dệt rất khủng khiếp trong dân gian, ngoài Sir Hugh Cressingham vốn không được thương xót thì một số hiệp sĩ dường như cũng đã phải trả tiền chuộc tự do cho Wallace. Trong trận chiến Falkirk ở năm sau vốn có đầy đủ tài liệu hơn có thấy trận chiến nổ ra trên quy mô lớn và mặc dù chúng ta biết từ danh sách tổn thất của những con ngựa của các hiệp sỹ bị giết chết nhưng không có bằng chứng nào cho thấy tổn thất của các kị sỹ là rất cao.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Các sử gia thời Trung Cổ có một quy tắc cực kỳ hay đánh giá quá cao số lượng quân đội tham gia vào trận chiến, có thể vì họ không được cung cấp thông tin và dường như họ luôn bị ám ảnh trong đầu về một số lượng lớn sự thật. Barbour đã cho rằng quân đội của Edward II theo nguồn tin đáng tin cậy là phải lên đến 100.000 người. Tuy nhiên, khi ông viết về số lượng các hiệp sĩ Anh bị thiệt mạng tại Bannockburn ông cho biết., "Hai trăm cặp đinh thúc ngựa được lấy ra từ chân của các hiệp sĩ đã tử trận". Đây chắc chắn là một ước tính tỉnh táo và đáng tin cậy. Đặc biệt là khi ông có thể có thể liệt kê thương vong theo tên của các nạn nhân. Đáng chú ý, có tồn tại hai danh sách nạn nhân trong trận chiến Bannockburn được biên dịch ngay sau khi trận đánh kết thúc quan tâm đến thảm họa ở số lượng lớn nạn nhân.

    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Các sử gia thời Trung Cổ có một quy tắc cực kỳ hay đánh giá quá cao số lượng quân đội tham gia vào trận chiến, có thể vì họ không được cung cấp thông tin và dường như họ luôn bị ám ảnh trong đầu về một số lượng lớn sự thật. Barbour đã cho rằng quân đội của Edward II theo nguồn tin đáng tin cậy là phải lên đến 100.000 người. Tuy nhiên, khi ông viết về số lượng các hiệp sĩ Anh bị thiệt mạng tại Bannockburn ông cho biết., "Hai trăm cặp đinh thúc ngựa được lấy ra từ chân của các hiệp sĩ đã tử trận". Đây chắc chắn là một ước tính tỉnh táo và đáng tin cậy. Đặc biệt là khi ông có thể có thể liệt kê thương vong theo tên của các nạn nhân. Đáng chú ý, có tồn tại hai danh sách nạn nhân trong trận chiến Bannockburn được biên dịch ngay sau khi trận đánh kết thúc quan tâm đến thảm họa ở số lượng lớn nạn nhân. Một là quấn biên niên sử được gọi là Annal of London-nó đưa tên 37 hiệp sĩ bị giết tại trận chiến. Nguồn thứ hai được gọi là quấn Continuation of Nicholas Trevet và là một quấn sách được viết bởi các nhà sử học phương Tây ở khoảng năm 1307->1318. Nó đã liệt kê tên của 80 người thiệt mạng và bị cầm tù trong trận đánh này. Bá tước Gloucester đứng đầu danh sách, sau đó là tên của 27 Quý tộc và hiệp sỹ cao cấp đã thiệt mạng, trong đó có 18 cái tên cũng đã xuất hiện trong quấn Biên niên sử của London. Danh sách này được tiếp tục với các tên của 22 Bá tước, quý tộc và hiệp sỹ cao cấp cùng với 31 hiệp sĩ thường bị bắt. Tổng số các hiệp sĩ thiệt mạng và bị bắt theo Trevet là 154 người, trong đó có hơn một trăm mà chúng tôi đã biết tên. ( theo quấn sách Battle: A visual journey through 5,000 years of combat của Grant, R.G. DK Publishing, trang 118. thì người Anh có 700 kị binh, 4.000 bộ binh thiệt mạng, nhưng theo tài liệu Statutes of the Parliament of December 1318 (1318/29) thì có đến 11.000 bộ binh Anh thiệt mạng trong trận đánh này. Giải thích về sự khác nhau có thể là do một tài liệu thì tính toán số thương vong tại chiến trường còn một tài liệu tính cả số thiệt hại dọc đường rút chạy)

    [FONT=&quot]Cũng có những tổn thất trong các hiệp sĩ người Scotland, mặc dù họ chỉ bị tổn thất không đáng kể, theo sử gia Barbour chỉ có William Vipoint và Walter Ross là bị giết trong trận chiến. Edward Bruce đã cảm thấy có nhiều buồn đau bởi cái chết của Walter-đây là người em trai trẻ tuổi của Isabella, con gái của Bá tước của Ross, người đã kết hôn với Edward năm 1308. Sir William Airth cũng đã bị giết chết, mặc dù không phải trong hoàn cảnh chiến đấu. Ông ta đang ở
    [FONT=&quot]Cambuskenneth, phía bắc của sông Forth, bảo vệ kho cung cấp của người Scotland và vào đêm 23/21 tháng 6, Bá tước của Atholl ( cũng là một người Scotland) đã tấn công cướp bóc các kho hàng, để lại Sir William và một cơ số người của ông này bị giết chết. Sự bất mãn của Atholl với nhà Bruce có nguyên nhân là do Isabella-em gái đã sinh cho Edward Bruce một con trai ngoài giá thú và như vậy làm cho ông ta điên tiết khi đứng về phía nhà Ross. [/FONT][/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    LÝ DO CHO SỰ THẤT BẠI CỦA QUÂN ANH

    Trận Bannockburn là một cuộc đối đầu giữa nhà vua-chiến binh vĩ đại nhất của Scotland và một vị vua luôn thất bại của Anh-người đã cho thấy là ông có rất ít những kiến thức thực tế về quân sự. Sử gia Lauercost đã không có nghi ngờ gì về người bị đổ lỗi cho thất bại nhục nhã, cũng không phải là một trong số các nhà bình luận đương đại đổ lỗi thẳng cho Edward II.


    Người Anh đã giả định sai lầm rằng khi họ tiến những bước tiến ban đầu dọc theo con đường cái đến Falkirk sẽ dễ dàng xua người Scotland đi xa và rằng họ sẽ cắm trại một cách an toàn ở bên dưới Lâu đài Stirling Castle. Kế hoạch của họ đã bị phá sản khi hai lần họ bị đẩy lui trong ngày 23 , dẫn đến việc các kỵ binh phải cắm trại trên chiếc cồn lầy lội và bộ binh bị tản mát quá xa. Trong khi người Anh bị mất thế chủ động và bị buộc phải phân tán rộng ra để ngủ qua đêm ở một vị trí không thoải mái mà không có trong kế hoạch của họ. Trong buổi sáng người Scotland đã lợi dụng triệt để tình hình và tấn công và trận chiến đã trở thành một nỗ lực của người Anh để chui vào trong một cái bẫy do chính họ tạo lập nên.

    Edward đã bỏ ngoài tai những lời khuyên và vẫn có thể đã nghĩ rằng người Scotland sẽ tránh né một trận chiến dốc vào ngày 24 tháng 6 và kết quả là đã tạo ra những nhầm lẫn khi họ (người Scotland) tấn công vào lúc bình minh. Chiến thuật yêu cầu có sự kết hợp của kị binh và bộ binh đã bị bỏ qua. Tuy nhiên, chiến thuật này dựa vào khả năng tổ chức và lãnh đạo quân đội và dường như những phẩm chất này đã không được thể hiện tại Bannockburn, và gì đi chăng nữa thì chắc chắn chiến thuật này không phải là một lựa chọn của họ. Việc thiếu sự lãnh đạo trong quân đội cho phép lực lượng kỵ binh của các bá tước kiêu ngạo không tuân theo mệnh lệnh để đảm nhận vai trò mà các hiệp sĩ cấp trên yêu cầu, trong khi vai trò của bộ binh bị giảm xuống nhỏ hơn so với tình trạng mà họ phải có. Cán cân về số lượng đã nghiêng về người Anh, nhưng chiều rộng bị hạn chế của chiến trường, nơi người Anh thấy họ ở đó vào lúc bình minh ngày 24 đã vô hiệu hóa lợi thế này. Lực lượng của Robert Bruce đã không bao giờ phải đối mặt với toàn bộ quân đội Anh, người Scotland đã đánh bại chỉ là một phần của nó nhưng thế là đủ để đảm bảo chiến thắng. Đặc biệt, các kỵ binh hạng nặng của các Quý tộc đã bị đánh bại và thất bại của họ đã được chứng minh là có ý nghĩa quyết định. Bất chấp những kỳ vọng vào các hiệp sĩ, cuộc tấn công vội vã của họ là tất cả những gì họ có thể làm và nó nhanh chóng bị đánh bại. Khi họ bị đuổi khỏi chiến trường trước các tay giáo Scotland, nhà vua đã bỏ trốn để đảm bảo an toàn tính mạng ở Lâu đài Stirling Castle và nhiều lính bộ binh-những người thậm chí đã không rút kiếm, đã theo gương của ông và bỏ chạy.

    Những đội hình schiltron được luyện tập tốt của các tay giáo Scotland được chỉ huy bởi những người mà Robert Bruce biết rằng ông có thể tin tưởng họ sẽ thực hiện được ý định của ông. Ông cũng đã nhận thức được khả năng cũng như tính dễ tổn thương của các tay giáo nếu không được hỗ trợ và ông đã chứng minh trong cuộc chiến rằng ông biết sử dụng họ như thế nào trong cả vai trò phòng thủ lẫn tấn công. Ngược lại sự lãnh đạo không hiệu quả của người Anh thể hiện ở chỗ họ không có chiến thuật nào khác hơn là cố gắng sử dụng kỵ binh nặng-hoàn toàn không được hỗ trợ bởi bộ binh, để tấn công và cố khoan thủng các hàng giáo binh Scotland.


    Mối đe dọa lớn nhất đối với các schiltron của Scotland là những cung thủ trường cung Anh nhưng một khi quân đội hai bên đã áp sát vào nhau một cách chặt chẽ trong chiến trường thì họ (cung thủ trường cung Anh) cần phải chiếm một vị trí ngang sườn để bắn trực tiếp vào các hàng ngũ của giáo binh Scotland. Họ lại thấy mình bị kẹt vào một khối lượng đông đảo binh lính ở phía sau hàng đầu tiên của kị binh Anh và làm cho họ không thể v hoặc triển khai một cách hiệu quả vì sự trật hẹp của chiến trường. Thất bại tại Bannockburn bị đổ lỗi cho Edward II nhưng chiến thắng chắc chắn thuộc về Robert Bruce, người mà chiến thắng này đã đảm bảo vị thế của ông là một vị vua vĩ đại nhất của Scotland.

    [FONT=&quot]KẾT QUẢ CỦA TRẬN CHIẾN-CHIẾN TRANH VẪN TIẾP TỤC TỪ NĂM 1314-1328


    [​IMG]
    Bản đồ những cuộc xâm lược trả đũa của người Scotland vào miền Bắc nước Anh từ năm 1314 -> 1328
    [FONT=&quot]
    Với chiến thắng áp đảo của ông, Robert Bruce đã tự lập cho mình một vị thế không thể công kích nổi cũng như là vua của Scotland và giành được độc lập cho Scotland ngay cả khi người Anh vẫn cứng đầu không chịu chấp nhận thực tế này. Nếu kị binh Scotland đã có truy đuổi hiệu có hiệu quả hơn sau trận chiến và vị Bá tước của Dunbar cũng hành động như Walter Gilbertson tại Bothwell thì sau đó Edward II có thể đã bị bắt. Như vậy, việc nhà vua Anh may mắn trốn thoát đã làm cho chiến thắng trở thành không đầy đủ và việc giải quyết hòa bình đã được chứng tỏ là khó nắm bắt. Bannockburn đánh dấu thời điểm tệ hại nhất của triều đại của Edward II không may mắn, nhưng nó không phải là sự kết thúc của những bất hạnh của ông bởi những cuộc tấn công vượt qua biên giới của người Scotland trở nên ngày càng thường xuyên hơn và rằng thực tế có vẻ như là họ muốn sát nhập phía bắc nước Anh, từ sông Tees vào Scotland. Northumberland đã trở nên ở trong tình trạng hỗn loạn không chỉ bởi sự phá huy của người Scotland mà còn bởi những đơn vị đồn trú địa phương ( những kẻ uống máu người không tanh ) và các toán kẻ cướp. Nhiều người dân của Cumberland và Northumberland đã tuyệt vọng trông mong vào “ cứu trợ từ chính phủ Anh” và họ đã trở thành “ người Scotland “, cũng giống như nhiều người ở Lothians trước đây đã trở thành “ người Anh”. Một vùng lớn các quận ở phía Bắc đã bị tàn phá và bị buộc phải trả cho người Scotland những khoản “ tiền chuộc” để họ có thêm tài chính cho chiến tranh Scotland. Trong tháng 7 năm 1315 vua Robert đã mạnh dạn tiến hành bao vây Carlisle, nhưng thành phố vẫn đứng vững, nó được bảo vệ và tổ chức tốt bởi Sir Andrew Harcla. Trong tháng 4 năm 318 Berwick-thị trấn duy nhất của Scotland vẫn nằm trong tay đối phương sau trận Bannockburn, đã trở lại với người Scotland bởi các cuộc tấn công dưới sự chỉ huy của Sir, James Douglas. Sự sụp đổ của Berwick là một đòn nặng nề giáng vào người Anh và sự mất mát của họ lại vẫn tiếp tục tăng lên với việc các lâu đài Wark-on-Tweed Harbottle và Mitford ở vùng Northumbrian thất thủ,. Trong năm đó một cuộc đột kích của người Scotland được tiến hành sâu vào tận vùng Yorkshire và đã đốt cháy Northallerton, Boroughbridge và Knaresborough và làm cư dân của Ripon phải hoảng sợ-họ đã phải trả 1.000 đồng Mark để có hòa bình.

    [/FONT]
    [FONT=&quot]Trong nỗ lực tuyệt vọng nó để bảo vệ niềm kiêu hãnh của mình, Edward II đã cùng tham gia với lực lượng của đối thủ trong nước của ông-Bá tước Thomas của Lancaster để bao vây lâu đài Berwick, nhưng ông này lại tiếp tục không thành công. Hai Bá tước Moray và Douglas với một lực lượng gồm 8.000 người đã đột kích sâu vào vùng Yorkshire trong một nỗ lực để đánh lạc hướng cuộc bao vây của Edward ( chiến thuật vây Ng.ụy cứu Triệu). Viên thị trưởng và Đức tổng-giám-mục của York đã huy động tất cả những người mà họ có thể và hành quân ra để đương đầu với các quân cướp bóc người Scotland. Tại Myton-on-Swale lực lượng hỗn tạp của họ đã bị đánh bại một cách nặng nề bởi một lực lượng không cân xứng của người Scotland-trận này được gọi là “ Chapter of Myton” vì một số lượng lớn các giáo sĩ Anh đã thiệt mạng và bị bắt tù binh. Edward đã từ bỏ cuộc bao vây vào Berwick và rút lui về phía nam của sông Trent, cho phép người Scotland tàn phá Cumberland và Westmorland một cách không thương xót. Trong tháng 12 người Anh đã chấp nhận đàm phán và ký một thỏa thuận ngừng bắn kéo dài hai năm, nhưng để có một nền hòa bình lâu dài vẫn còn rất xa vì sự kiêu ngạo của Edward-ông này đã từ chối từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình đối với Scotland. Năm 1320 ngườiScotland đã gửi tới Đức giáo hoàng [/FONT][FONT=&quot]Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng Decrelation of Arbroath với, trong đó họ tuyên bố rõ rằng Scotland đã và luôn luôn là một vương quốc độc lập. Đàm phán hòa bình tiếp theo trong năm 1321 đã lại kết thúc trong bế tắc.[/FONT]Cuối năm quan hệ giữa nhà Lancaster và người ủng hộ ông với nhà vua và sủng thần của ông ta là Despencers ngày càng xấu đi và một cuộc nội chiến đã nổ ra. Trong tháng 3 năm 1322 các Đại quý tộc nổi loạn đã bị đánh bại bởi Sir Andrew Harcla tại trận Boroughbridge, kết quả là Bá tước Lancaster đã bị bắt và bị hành hình. ( sau này chiến tranh hai bông hồng là cuộc chiến giữa nhà Lancaster-Bông hồng đỏ với Nhà York-Bông hồng trắng kiêm hậu duệ của Edward II Plantagenet)

    [FONT=&quot]Với vị thế của mình ngày càng được tăng cường Edward lại tổ chức một cuộc chinh phạt cuối cùng của ông vào Scotland trong tháng 8 năm 1322. Người Anh hành quân qua Lothian đến tận Edinburgh, nhưng cái đói sớm buộc họ phải dừng các bước tiến của họ vì người Scotland đã rút lui sau khi đốt cháy mọi thứ, họ không để lại bất cứ thứ gì mà quân xâm lược có thể ngoài ngọn lửa phía sau họ. Khi Edward rút lui về phía nam, Robert Bruce đã dẫn đầu một lực lượng đột kích mạnh tấn công từ Solway xuống thung lũng Eden vào phía Bắc Yorkshire. Tại Northallerton, khi nghe tin Edward đang ở Rievaulx Abbey cách đó 15 dặm, Bruce và người của ông đã không chậm trễ phi ngựa đến Abbey để hy vọng bắt sống vua Anh. Tại Old Bvland quân Scotland họ bị chặn đường bởi John Brittany-Bá tước của Richmond với một toán quân Anh không quá mạnh. Nếu chậm trễ Douglas và Moray cho người của mình xuống ngựa và phát động một cuộc tấn công khủng khiếp lên ngọn đồi nơi mà người Anh đang đóng quân trên đó. Đồng thời vua Robert và những người đến từ vùng Cao nguyên của ông đã vượt qua người Anh và tiến hành một cuộc tấn công bên sườn và làm đối phương bị bất ngờ rồi tan rã. Edward đã được cảnh báo về nguy hiểm của mình và lần thứ hai ông suýt bị bắt nhưng ông đã một lần nữa bị buộc phải bỏ lại các trang bị cá nhân của mình, vàng bạc, đồ nữ trang và ngựa khi ông bỏ chạy. Đây không phải là một thảm họa trên quy mô như của Bannockburn nhưng đối với Edward thì sự sỉ nhục lặp lại thậm chí còn lớn hơn. Năm 1323 một thỏa thuận ngừng bắn mới giữa Anh và Scotland đã được ký kết và dự định kéo dài trong 13 năm, nhưng nền hòa bình cuối cùng đã chỉ đến sau nhiều cuộc [/FONT][FONT=&quot]chiến nữa. Edward II đã bị lật đổ vào 20 tháng 1 năm 1327 và người con trai 14 tuổi của ông đã lên ngôi như Edward III vào ngày đầu tiên của tháng Hai. Một hội đồng nhiếp chính đã được thành lập để cai trị đất nước do Henry-Bá tước mới của nhà Lancaster cầm đầu, mặc dù ảnh hưởng của Nữ hoàng Isabella-người mẹ của nhà vua và Mortimer người tình của bà là rất sâu rộng trong chính phủ mới. Vào mùa hè một chiến dịch cực kỳ tốn kém đã được tiến hành ở Northumberland, đã kết thúc với thất bại đáng xấu hổ của người Anh ở Stanhope Park, đồng thời họ không chặn nổi những cuộc tấn công mới cực kỳ dữ dội của người Scotland vào miền Bắc nước Anh. Tình hình dường như tuyệt vọng vì vào thời gian này Robert Bruce có ý định chiếm lấy vùng Northumberland vốn đã bị mất tinh thần và chiếm các vùng đất ở đó cho người của mình. Isabella và Mortimer muốn lựa chọn chiến tranh nhưng sợ hãi trước các phản ứng dữ dội của thất bại, thay vì thế họ đã chọn hòa bình. Các điều khoản của hiệp ước Edinburgh đã kết thúc cuộc chiến lâu dài và cuối cùng người Anh đã từ bỏ tất cả các tuyên bố về chủ quyền đối với Scotland. Đó là một giải quyết tranh chấp công bằng và nó thực sự sẽ tốt cho cả hai vương quốc nếu các thỏa thuận của năm 1328 đã điều chỉnh mối quan hệ của hai trong phần lớn thời gian còn lại ở thời trung cổ. Nhưng thực tế lại không như vậy Edward III đã lại chọn quyết chiến và tình trạng chiến tranh đã lại kéo dài trong thời gian 5 năm nữa và một thời kỳ mới của cuộc chiến tranh Anh-Scotland lại bắt đầu.

    [/FONT]
    [/FONT] Chiến thuật quân sự sau trận Bannockburn

    [FONT=&quot]Trận Bannockburn đã thiết lập ưu thế về quân sự cho người Scotland trước người Anh và điều này còn được duy trì cho phần còn lại của triều đại của vua Robert. Các trận đánh Myton-on-Swale trong 1319, Old Bvland trong 1322 và Stanhope Park trong năm 1327 đã tạo ra những nỗi nhục nhã cho người Anh. Đây là những trận đánh thành công của họ với quy mô nhỏ dựa vào tính động, bất ngờ và tài lãnh đạo của Robert Bruce cùng với những trung úy của ông. Những chỉ huy cao cấp người Scotland vẫn biết rằng chiến thắng tại Bannockburn là do sự kết hợp của giáo binh, cung thủ và kỵ binh nhẹ kết hợp với sự thuận lợi của địa hình và họ tiếp tục khai thác chiến thuật này. Robert King đã qua đời trong năm 1329, James Douglas đã bị giết chết ở Tây Ban Nha trong năm 1330 ( ông đã tham gia vào phong trào Thánh chiến chống lại người Hồi giáo Moor) và với việc Moray cũng qua đời trong năm 1332… người Scotland đã không còn những chiến binh giàu kinh nghiệm nữa.
    [/FONT][FONT=&quot]
    Trận Bannockburn đã thiết lập ưu thế về quân sự cho người Scotland trước người Anh và điều này còn được duy trì cho phần còn lại của triều đại của vua Robert. Các trận đánh Myton-on-Swale trong 1319, Old Bvland trong 1322 và Stanhope Park trong năm 1327 đã tạo ra những nỗi nhục nhã cho người Anh. Đây là những trận đánh thành công của họ với quy mô nhỏ dựa vào tính động, bất ngờ và tài lãnh đạo của Robert Bruce cùng với những trung úy của ông. Những chỉ huy cao cấp người Scotland vẫn biết rằng chiến thắng tại Bannockburn là do sự kết hợp của giáo binh, cung thủ và kỵ binh nhẹ kết hợp với sự thuận lợi của địa hình và họ tiếp tục khai thác chiến thuật này. Robert King đã qua đời trong năm 1329, James Douglas đã bị giết chết ở Tây Ban Nha trong năm 1330 ( ông đã tham gia vào phong trào Thánh chiến chống lại người Hồi giáo Moor) và với việc Moray cũng qua đời trong năm 1332… người Scotland đã không còn những chiến binh nhiều kinh nghiệm nữa. Bài học của trận Bannockburn đã trở nên bị lu mờ và các chỉ huy Scotland lúc này lại chỉ đặt niềm tin vào các đợt tấn công không được yểm trợ của các schiltron gồm chỉ một mình các tay giáo. Tuy nhiên, người Anh lại đã trải qua nhiều cay đắng và đã có những bài học tốt, như Sir Andrew Harcla đã chứng minh tại Boroughbridge vào năm 1322 (ông này đã đánh bại và bắt sống vị Bá tước Lancaster nổi loạn ). Harcla đã ra lệnh cho các hiệp sĩ và kỵ sỹ của ông xuống ngựa và đưa họ vào một đội hình schiltron, hai bên sườn là các cung thủ. Sử gia Lanercost tại thời điểm đó đã viết Harcla đã chiến đấu theo kiểu Scotland, nhưng ngay sau đó sự kết hợp vô đối của cung thủ và các kị sỹ xuống ngựa để chiến đấu trên bộ đã được biết đến như là đội hình chiến đấu nổi tiếng của người Anh. Khi Edward III chính thức lên ngôi vua Anh vào năm 1328 chiến tranh đã sớm trở lại với Scotland-những người đã nhận ra cái giá phải trả của họ khi mà người Anh đã ghi nhớ đến tâm can những bài học từ trận Bannockburn. Không bao giờ kỵ binh Anh lại còn tấn công một cách vô kỷ luật và vội vã vào các schiltron giáo binh của Scotland nữa. Thất bại của Scotland tại Dupplin Moor trong năm 1322 không chỉ là một sự báo trước của thảm họa lớn hơn nữa ở Halidon Hill vào năm sau mà còn báo trước hàng loạt thất bại nữa của họ về tay người Anh. Tại Halidon Hill chiến thuật kết hợp giữa cung thủ và hiệp sĩ, kị sỹ xuống ngựa chiến đấu đã được phát triển đầy đủ cùng với sự lựa chọn một vị trí chiến đấu cẩn thận và được chỉ huy bởi đích thân nhà vua ( Edward III ) đã trở thành chiến thuật của riêng người Anh. Các đợt tấn công của schiltrons giáo binh của người Scotland đã bị chặn đứng khi phải đối mặt với những cơn bão của các mũi tên từ các cung thủ trường cung Anh và họ lại thoái lui trở lại và những kị sỹ lại nhảy lên ngựa rồi biến cuộc tấn công thất bại của đối phương thành một cuộc tháo chạy đẫm máu. chiến thuật trường cung của Anh đã có dưới 20 năm để được phát triển thành một công thức của chiến thắng và công thức đó sẽ được lặp lại ở Pháp trong Chiến tranh Trăm năm. Trong khi đó người Scotland lại quên béng những bài học của Robert Bruce và những tháng năm của chiến thắng.
    [/FONT]
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến tranh trăm năm giữa Anh và Pháp năm 1337 -> 1453

    Vi đây là cuộc chiến kéo dài đến gần 120 năm lúc đánh lúc nghỉ giữa Anh và Pháp cùng các đồng minh của họ nên để cho bạn đọc dễ hiểu người sưu tầm sẽ lập bố cục như sau:

    -Giới thiệu tổng quát về chiến tranh trăm năm ( nguyên nhân, diễn biến chính, nội bộ hoàng tộc các phe ...)
    -Tóm tắt diễn biến của chiến tranh trăm năm theo dòng lịch sử
    -Giới thiệu về vũ khí, trang bị, chiến thuật của các bên tham chiến
    -Giới thiệu chi tiết những trận đánh lớn, những danh tướng trong chiến tranh trăm năm

    Vì cách bố cục như vậy nên không tránh khỏi việc các sự kiện sẽ bị lặp đi lặp lại, mong các bác đón đọc và góp ý


    Giới thiệu tổng quát về chiến tranh trăm năm

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Chiến tranh trăm nămlà một loạt các trận chiến diễn ra từ năm 1337-1453 giữa Nhà Valois và Nhà Plantagenet-vốn còn được gọi là Nhà Anjou ( đến từ vùng Anjou nước Pháp), để tranh giành ngôi nước Phá lúc này bị bỏ trống sau khi chi nhánh trưởng của dòng Capetian-dòng Hoàng tộc của vua Pháp bị tuyệt tự. Nhà Valois tuyên bố kế thừa ngai vị Vua của Pháp, trong khi Nhà Plantagenet cũng tuyên bố đòi hỏi này. Các vị vua Nhà Plantagenet là những người cai trị Vương quốc Anh từ thế kỷ 12 và có nguồn gốc từ các vùng Anjou và Normandy của Pháp.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cuộc xung đột kéo dài 116 năm nhưng vẫn được điểm vào bởi một số thời kỳ hòa bình, trước khi cuối cùng nó kết thúc với việc trục xuất Nhà Plantagenets ra khỏi nước Pháp (ngoại trừ hạt Calais). Cuộc chiến cuối cùng là một chiến thắng cho nhà Valois, những người đã thành công trong việc chiếm lấy quyền kiểm soát mà nhà Plantagenet nắm giữ lúc ban đầu và trục xuất phần lớn người Anh ra khỏi nước Pháp vào những năm của thập kỷ 1450. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh đã làm nhà Valoi gần như kiệt quệ trong khi nhà Plantagenet lại làm giàu cho bản thân họ bằng cách có được những số tiền rất lớn cướp bóc được từ lục địa. Còn bản thân người Pháp thì lại bị thiệt hại nghiêm trọng từ cuộc chiến bởi vì hầu hết các cuộc xung đột đều xảy ra trên lục địa và chính xác hơn là ở trên lãnh thổ nước Pháp.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} "Chiến tranh trăm năm" trong thực tế là một loạt các cuộc xung đột và thường được chia thành ba hoặc bốn giai đoạn: Cuộc chiến của Nhà Edward (1337-1360), Cuộc chiến của Nhà Caroline (1369-1389), Cuộc chiến của Nhà Lancaster (1415-1429), và sự suy giảm vận may của Nhà Plantagenet sau khi có sự xuất hiện của Joan of Arc (1412-1431). Một số cuộc xung đột khác tại thời đó ở châu Âu cũng đã có trực tiếp liên quan đến cuộc xung đột này: Chiến tranh thừa kế Breton, Nội chiến Castilian, Cuộc chiến của hai Peters và cuộc Khủng hoảng 1383-1385. Thuật ngữ " chiến tranh Trăm năm" "là một thuật ngữ sau này được phát minh bởi các nhà sử học hiện đại để miêu tả sự kiện này.

    [FONT=&quot]Cuộc chiến tranh còn có ý nghĩa lịch sử của nó ở một số yếu tố. Mặc dù nó là một cuộc xung đột chủ yếu ở các triều đại, chiến tranh cũng tạo động lực cho ý thức hệ dân tộc của cả người Pháp và người Anh. Về mặt Quân sự, nó cũng đã thấy sự ra đời của những loại vũ khí mới và những chiến thuật mới-những loại vũ khí và chiến thuật mới này đã bào mòn hệ thống quân đội kiểu cũ của phong kiến mà lực lượng kỵ binh hạng nặng chiếm ưu thế và cũng bắt đầu đánh bại sự thống trị của kỵ binh hạng nặngTây Âu. Lần đầu tiên quân đội thường trực được sử dụng trong chiến tranh ở Tây Âu kể từ thời điểm Đế quốc La Mã phương Tây sụp đổ, do đó nó đã thay đổi vai trò của nông dân. Bởi tất cả những đặc điểm này, cũng như khoảng thời gian kéo quá dài của nó, nó thường được xem là một trong những cuộc xung đột quan trọng nhất trong lịch sử chiến tranh thời Trung cổ. Ở Pháp các quốc nạn như nội chiến, dịch bệnh, nạn đói và các đội quân cướp bóc … đã làm giảm dân số của nước Pháp xuống khoảng một nửa.

    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Nguyên nhân của cuộc xung đột có thể bắt đầu từ năm 1066, khi William, Công tước xứ Normandy, Dẫn đầu cuộc xâm lược vào nước Anh. Ông đã đánh bại quân đội Anh dưới sự chỉ huy của Vua Harold II tại Trận Hastings ( mời các bác quay lại trang 7 cùng toppic để tham khảo chi tiết ) và đã tự mình lên ngôi vua của nước Anh. Trong khi đó với chức danh Công tước của Normandy, ông vẫn là một chư hu của vua Pháp và được yêu cầu phải thề trung thành lời thề với vua Pháp thay mặt cho vùng đất của mình tại Pháp, đối với một vị vua phải thề trung thành với một vị vua khác được coi là một điều nhục nhã, và các vị vua Anh người gốc Norman đã thường cố gắng để tránh phải làm việc này. Về phía Pháp, những vị quốc vương dòng Capetian luôn cảm thấy bực bội vì một vị vua nước láng giềng đang nắm giữ quá nhiều đất đai ( các vùng đất của Anh tại Pháp là Aquitani, Normandy, Angevin, Brittany… ) trong vùng lãnh thổ riêng của họ và họ tìm cách để hóa giải các mối đe dọa mà nước Anh đã áp đặt vào nước Pháp.

    [FONT=&quot]Sau khoảng thời gian lâm vào nội chiến và bất ổn ở Anh vốn được biết đến như Thời Anarchy (1135-1154), triều đại Anglo-Norman đã được kế thừa bởi các vị vua dòng Angevin. Ở đỉnh cao quyền lực Công tước xứ Angevin kiểm soát vùng Normandy và Anh quốc cùng với các vùng đất khác như Maine, Anjou, Touraine, Poitou, Gascony, SaintongeAquitaine (Tập hợp của những vùng đất này đôi khi còn được gọi là Đế quốc Angevin). Vua của nước Anh trực tiếp cai trị nhiều vùng lãnh thổ trên lục địa châu Âu hơn so với bản thân vua của nước Pháp. Tình trạng này - trong đó các vị vua nhà Angevin phải nợ tình trạng lệ thuộc trước một nhà cai trị ( vua Pháp ) mà trên thực tế người này yếu hơn họ rất nhiều - là một nguyên nhân của cuộc xung đột liên tục. Vua John của Anh quốc thừa kế đã thừa kế những tài sản rất lớn từ Vua Richard I ( Risa Sư tử tâm ). Tuy nhiên, vua Philip II của Pháp đã có những hành động dứt khoát để khai thác những điểm yếu của vua John cả trên mặt pháp lý và quân sự, và vào năm 1204 ông ta đã thành công trong việc giành giật từ tay nhà nhà Angevin quyền kiểm soát hầu hết các vùng đất thuộc Anh ở trên lục địa Âu châu.
    Những trận chiến tiếp theo như Trận Bouvines (1214), cùng với trận chiến Saintonge (1242) và cuối cùng là Chiến tranh Saint-Sardos[/FONT] (1324), đã lấy đi toàn bộ những vùng đất mà nhà Angevin đang nắm giữ trên lục địa này chỉ trừ một số lãnh đại nhỏ xíu ở xứ Gascony và thậm chí toàn bộ lãnh địa công tước xứ Normandy đã rơi vào tay vua Pháp.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Đến thế kỷ 14, rất nhiều người trong giới quý tộc Anh vẫn còn nhớ có một thời gian các bậc tiền bối đời trước của họ đã kiểm soát những vùng giàu có ở tại lục địa châu Âu, chẳng hạn như Normandy-nơi mà họ luôn luôn coi là quê hương của tổ tiên của họ. Họ coi đó là động lực để giành lại quyền sở hữu vùng lãnh thổ này.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  10. Rua_suphu

    Rua_suphu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/09/2010
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    0
    bác có tư liệu về các trận đánh của Tây Hạ, Khiết đan, Kim đập Tống thời kỳ này ko bác?

Chia sẻ trang này