1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Diễn biến của cuộc nội chiến phe phái

    Với ý định trả thù cho cha mình, Charles của Orléans ủng hộ kẻ thù của các công tước nhà Burgundy bất cứ nơi nào ông ta có thể nhưng ngay cả như vậy, trong 1409, một hiệp ước hòa bình được ký kết tại Chartres dường như để chấm dứt xung đột. Tuy nhiên, vào ngày 15 tháng 4 năm 1410, tại đám cưới của Charles (Con trai của Louis d’Orléans) và Bonne d'Armagnac tại Gien, Công tước của Orléans và cha vợ mới của ông và các Đại quý tộc của Pháp thành lập một liên minh chống lại John của Burgundy và người ủng hộ ông ta. Cuộc hôn nhân làm cho phe Orleans có một thủ lĩnh mới để thay thế Louis (Bernard VII, Bá tước của Armagnac-cha vợ mới của Charles , người bảo trợ mới cho Công tước và cũng trở thành người bảo trợ của mẹ ông ta-Valentina Visconti) và tạo ra một cái tên mới cho phe này (phe Armagnac). Các thành viên khác của phe này bao gồm các công tước của Bourbon, Berry và Brittany, cũng như các côngtước của Alençon và Clermont.

    Bernard VII-cha vợ của Charles d’Orléans tuyển dụng những binh lính ở Midi- những Écorcheur (quân lột da), vốn chiến đấu với sự tàn bạo chưa từng có. Với lực lượng này làm quân xung kích họ, ông đã tàn phá các vùng lân cận của Paris và tiến vào khu ngoại ô Saint-Marcel. Một hiệp ước mới được ký kết tại Bicêtre ngày 02 tháng 11 năm 1410 đã đình chỉ được chiến sự, nhưng cả hai bên đã lại huy động quân đội một lần nữa vào đầu mùa xuân năm 1411. Tháng 10 năm 1411, với quân đội hùng mạnh lên đến 60.000 người công tước xứ Burgundy tiến vào Paris và tấn công quân của công tước Bretons vốn liên minh với nhà Armagnacs, người đã bị chặn tại La Chapelle. Cuối cùng ông ta (công tước xứ Burgundy) đã phải rút, nhưng trong đêm ngày 09 tháng 11, ông rời qua Porte Saint-Jacques và cho quân của mình tuần hành trên khắp Saint-Cloud và quyết tâm đánh bại đội quân Écorcheur của nhà Armagnacs. Sau đó, John the Fearless truy đuổi hoàng thân Orléans và các đồng minh của họ đến tận Bourges, rồi công tước Orléans đã bị bao vây, nhưng sau đó quân đội hoàng gia xuất hiện trước mặt thành phố vào ngày 11 tháng 6 năm 1412. Một hòa bình đã được ký kết tại Bourges trong ngày 15 tháng 7 năm 1412 và được xác nhận tại Auxerre ngày 22 tháng 8.

    Người Anh đã lợi dụng tình hình bằng cách hứa hẹn hỗ trợ cho cả hai phe hoặc mua sự trung lập của họ. Phe Armagnac đã ký kết một hiệp ước với Henry V của Anh quốc trong năm 1412, để ngăn chặn một liên minh Anh-Burgundy, vì vậy họ đã nộp Guyenne với ông ta (Henry V của Anh quốc) và đã công nhận chủ quyền của ông ta ở Poitou, Angoulême và Périgord. Tất cả cùng, John the Fearless cũng thương thuyết với người Anh, kể từ khi một lệnh cấm vận xuất khẩu len của Anh có thể hủy hoại nền thương mại vải len của Flanders.

    Năm 1413, John the Fearless hỗ trợ cho cuộc nổi loạn Cabochien và do đó đã nổ ra một cuộc tàn sát tại Paris. Dân Paris quá sợ hãi đã kêu gọi phe Armagnacs chi viện. Quân đội của họ chiếm lại thành phố vào năm 1414. Khi Henry V của Anh quốc nối lại chiến sự trong năm 1415, công tước xứ Burgundy vẫn giữ thái độ trung lập đối với ông ta (Henry V), để Henry có thể đánh bại toàn diện quân đội Pháp (chủ yếu cónòng cốt từ nhà Armagnacs) tại trận Agincourt vào tháng 10 năm 1415.


    [​IMG]
    John the Fearless-công tước xứ Burgundy, ông cũng bị ám sát để trả thù cho cái chết của Công tước Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} d’Orléans, việc ông bị ám sát đã đẩy hẳn xứ Burgundy về phía người Anh và làm cho người Pháp càng đuối thế.

    Ngày 29 tháng 5, năm 1418, nhờ sự phản bộị của Perrinet Leclerc và sự hỗ trợ của các thợ thủ công và trường đại học, Paris đã được bàn giao cho Jean de Villiers de L'Isle-Adam, đại úy của một đội quân ủng hộ công tước xứ Burgundy. Sau đó vào ngày 12 tháng 6 Bernard VII và những người nhà Armagnacs khác đã bị tàn sát bởi một đám đông. Do đó John đã trở thành chủ nhân của Paris lại một lần nữa và ông tham gia vào các cuộc đàm phán với người Anh, dường như ông có vẻ sẵn sàng chào đón tuyên bố của nhà vua nước Anh về ngai vàng Pháp. Tình huống trở nên bắt buộc đối với nhà Dauphin (Hoàng tộc Pháp) để thương lượng tìm kiếm một sự xích lại gần với người Burgundy một lần nữa để tránh một liên minh Anh-Burgundy. Về phần mình, John the Fearless đã trở thành chủ nhân của một phần lớn vương quốc sau khi ông ta chiếm được Paris, nhưng tình hình tài chính của ông đã cạn kiệt. John đã phải buộc tiến hành một cuộc họp với Charles VII của Pháp-nhà Dauphin để ký kết một nền hòa bình có lợi, do đó một vài cuộc hội họp đã được tổ chức.


    [​IMG]

    Huy hiệu của nhà Dauphin-Pháp, với bông hoa huệ thể hiện Hoàng tộc Pháp và chú cá heo- nhà Dauphin

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} John the Fearless-Công tước xứ Burgundy đã bị ám sát trên cầu Montereau trong ngày 10 tháng 9 năm 1419 trong một cuộc họp với nhà Dauphin của Pháp (vua Charles VII tương lai của Pháp), Thủ phạm là tay chân của phe Armagnac-những người sợ rằng Charles có thể ngả theo quan điểm chính trị của phe Burgundy. Sự kiện này ngăn chặn tất cả các hành động hòa giải và do đó cho quân đội Anh tiếp tục thành công trên chiến trướng.


    [​IMG]
    Phần lãnh thổ ở Pháp mà người Anh và của họ đồng minh là người Burgundy trong năm 1435

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Hiệp ước Troyes và Hậu quả của nó

    Sau đó Philip the Good-Công tước mới của Burgundy, đã gia nhập vào một liên minh với người Anh (đây là điều mà người cha của ông đã luôn luôn tránh) kết quả tạo ra hiệp ước Troyes. Hiệp ước này đã công bố rằng Charles VII là một người con hoang của Louis d’Orléans chứ không phải là người thừa kế của Charles VI, do đó làm cho Charles VI không có người thừa kế nam hợp pháp và Catherine của Valois-con gái của Charles VI đã kết hôn với Henry V-vua của nước Anh vì thế ông này muốn đòi vương miện của Pháp và Charles VI đã được trả lại quyền lực trong năm 1392, ngay trước khi ông này bị điên. Hiệp ước yêu cầu Henry trở thành nhiếp chính thay mặt Charles VI cho những vùng đất ở phía đông nam nước Pháp cho đến khi Charles qua đời. Người cháu hợp pháp trong tương lai của ông ( Charles VI) sẽ có quyền sở hữu của cả Pháp và Anh. Như đã biết trước, hiệp ước này đã bị lên án bởi nhà Armagnacs-những người lý luận rằng “vương miện thuộc về nhà vua chứ không phải ngược lại”. Tuy nhiên Henry V đã chết bất đắc kỳ tử ở đầu tháng 8 năm 1422 và sự can thiệp của Joan d’Arc là cần thiết để Charles VII được hợp pháp bởi một hành động thiêng liêng và đăng quang tại Reims vào ngày 17 tháng 7 năm 1429, sớm hơn một năm trước sự đăng quang của người kế nhiệm của Henry V (Henry VI của Anh mới chín tuổi) vào ngày 16 tháng 12 năm 1430 tại Notre Dame de Paris.

    Kết thúc cuộc nội chiến giữa các phe phái

    Để tái chiếm lại các lãnh thổ của Pháp vốn bị người Anh chiếm đóng, Charles VII muốn cô lập và chia rẽ người Anh với người Burgundy. Năm 1435, ông đã ký kết hiệp ước Arras với Philip the Good và công nhận nền độc lập của Burgundy. Thỏa thuận này chính thức chấm dứt chiến tranh và cho phép Charles VII trên thực tế chiếm lại tất cả các lãnh địa của người Anh ở trên lục địa châu Âu và chỉ để lại cho họ mỗi hạt Calais vào.năm 1453.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến tranh trăm năm, cuộc chiến của nhà Lancaster năm 1415->1429

    Cuộc chiến của nhà Lancaster là giai đoạn thứ ba của chiến tranh trăm năm giữa Anh và Pháp. Nó kéo dài từ năm 1415, khi Henry V của Anh xâm lược Normandy, đến năm 1429 khi thành công của người Anh đã bị đảo chiều bởi sự xuất hiện của Joan of Arc. Cuộc chiến này bắt đầu sau một thời gian dài hòa bình từ 1389 ở cuối cuộc chiến của nhà Caroline. Nó được gọi là cuộc chiến của nhà Lancaster bởi vì nó được khởi đầu theo kế hoạch của Henry IV-người đầu tiên của Nhà Lancaster ngồi lên trên ngai vàng của nước Anh. Mặc dù kế hoạch của ông không bao giờ trở thành hiện thực trong triều đại của ông, nhưng người con trai thiện chiến của ông ( Henry V ) đã hồi sinh cho nó và đã đạt đến đỉnh cao quyền lực cho Nhà Lancaster tại Pháp với việc một vị vua Anh lên ngôi vua Pháp tại Paris.

    Anh chiến thắng tại trân Agincourt và khoảng thời gian sau đó

    Henry V chối đề nghị của phe Armagnac trong năm 1414 để khôi phục lại biên giới năm 1369, mà ông này yêu cầu quay trở lại với các vùng lãnh thổ đầy đủ của Henry II. Trong tháng 8 năm 1415, ông đã cùng với quân đội của mình đổ bộ xuống thành phố [FONT=&quot]Harfleur[/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} trong vùng Normandy và chiếm giữ thành phố. Mặc dù bị cám dỗ về việc tiến trực tiếp vào Paris, ông đã chọn cách tiến hành một chiến dịch hành quân đột kích trên toàn nước Pháp rồi sau đó chiến Calais trên kênh English Channel. Trong một gợi nhớ đến chiến dịch của Crécy, ông tự cảm thấy mình rõ ràng giỏi hơn các bậc tiền bối và có ít vật tư chiến tranh hơn nhưng phải đứng lên chống lại một đội quân Pháp lớn hơn nhiều tại Trận Agincourt ở phía bắc sông Somme. Bất chấp những bất lợi của ông, chiến thắng của ông là hoàn toàn và thất bại của người Pháp đã trở thành một thảm họa với việc họ đã bị mất (bị giết hoặc bị bỏ tù) rất nhiều thủ lĩnh của phe Armagnac.


    [​IMG]
    Tranh vẽ Trận Agincourt, bức tranh có điểm không chính xác đó là quân Pháp chỉ có các tay nỏ chứ không có cung thủ bắn trường cung như quân Anh.


    Một đội quân của Pháp, ước tính khoảng 6.000 người, cũng bị đánh tan bởi lực lượng quân Anh tại trận Valmont nhỏ hơn nhiều ở gần Harfleur vào tháng 3 năm 1416. Trong chiến dịch tiếp theo sau một chiến thắng hải quân đáng kể của Hải quân Anh Trên sông Seine (dưới sự chỉ huy của Bedford-em trai của Henry,) vào tháng 8 năm 1416, Henry đã chiếm nhiều vùng ở Normandy, kể cả Caen trong năm 1417 và Rouen vào ngày 19 tháng 1 năm 1419, đặt Normandy dưới sự cai trị của Anh sau hơn 200 năm nằm dưới sự kiểm soát của người Pháp.

    Liên minh Anh-Burgundy dẫn đến Hiệp ước Troyes

    Henry V của Anh đã chính thức liên minh với Philip the Good-Công tước xứ Burgundy, người đã chiếm được Paris, sau khi nhà Armagnac ám sát John Burgundy trong năm 1419. Họ cùng nhau ép Charles VI-nhà vua điên đã ký Hiệp ước Troyes và Henry cưới Catherine của Valois-con gái của Charles và Henry sẽ là người thừa kế ngai vàng nước Pháp. Charles VII-Dauphin bị tuyên bố là bất hợp pháp. Henry chính thức tiến vào Paris một năm sau đó và thỏa thuận này đã được phê duyệt bởi General Estates of France ( Quốc-Hội Pháp). Đầu năm đó một đội quân Anh dưới quyền chỉ huy của Bá tước Salisbury, một người lính có năng lực cao, đã phục kích và tiêu diệt một lực lượng liên minh Pháp-Scotland ngay ở Fresnay, 20 dặm về phía bắc của Le Mans (tháng 3 năm 1420) - theo một sử gia quân liên minh đã mất 3.000 người cùng toàn bộ đồ đạc doanh trại của họ và bao gồm cả két bạc của người Scotland.

    [​IMG]
    Tranh vẽ trận Baugé, một chiến thắng hiếm hoi của liên quân Pháp-Scotland trong năm 1421

    Năm 1421, một đội quân Anh khoảng 10.000 người đã bị đánh bại bởi một đội liên quân Pháp-Scotland khoảng 6.000 người tại Trận Baugé trong đó Thomas of Lancaster, Công tước của Clarence và cũng là anh trai của Henry V đã bị giết.

    Quân đội Anh-Burgundy gây áp lực vào phe Armagnac và Thái tử Charles

    Sau cái chết sớm của Henry V tại năm 1422, gần như đồng thời bố vợ của ông ( Charles VI của nước Pháp ), con trai con của ông (Henry V) lên ngôi vua và thành Henry VI của Anh quốc và cũng là vua của nước Pháp, nhưng phe Armagnac vẫn trung thành với Charles Dauphin-con trai của Charles VI và chiến tranh tiếp tục nổ ra ở miền trung nước Pháp. Sau cái chết của Henry V, quân đội Anh tiếp tục làm chủ chiến trường bởi tính hiệu quả cao về chiến thuật quân sự của họ.

    [​IMG]
    Tranh vẽ liên quân Pháp-Scotland bị đại bại tại trận [FONT=&quot]Cravant năm 1423[/FONT]

    [​IMG]
    [FONT=&quot]Tranh vẽ trận Verneuil, trận này có thể được coi [/FONT][FONT=&quot]là một trận “Agincourt thứ hai“, quân đội Hải ngoại Scotland tại Pháp gần như hoàn toàn bị xóa sổ
    [/FONT]
    Năm 1423, Bá tước của Salisbury, có lẽ là chỉ huy Anh xuất sắc nhất, hoàn toàn đánh bại một lực lượng Pháp-Scotland tại Cravant trên bờ Sông Yonne. Ông đích thân dẫn đầu quân đội vượt sông và của đối phương tấn công thành công một vị trí rất mạnh mẽ và trong trận chiến quân Scotland đã bị thiệt hại rất nặng nề, quân đội hải ngoại Scotland tại Pháp không còn tồn tại. Cùng năm đó quân Pháp lại thắng một trận ở La Brossinière.

    [FONT=&quot]Trong năm sau Bedford đã có một chiến thắng được mô tả như là một “Agincourt thứ hai“ tại Verneuil khi quân đội của ông đã phá hủy một đội quân liên quân Pháp-Scotland ước tính khoảng 16.000 lính. Đây không phải là một chiến thắng của các tay cung, mà là của những tiến bộ trong những chiếc áo giáp bọc thép tấm đã tạo cho kỵ binh một phương tiện bảo vệ lớn hơn nhiều, điều này có nghĩa là các cung thủ không thể bắn xuyên nổi áo giáp của họ, đã dẫn đến các cung thủ đóng ở bên sườn sẽ bị cuốn phăng đi. Tuy nhiên, tuy nhiên kỵ binh Anh vẫn đứng vững và tấn công dữ dội vào kẻ thù của họ, sự hỗ trợ của một cuộc tấn công của các cung thủ từ bên cánh khác của quân Anh đã phá hủy quân liên minh. Người Scotland đã bị bao vây trên chiến trường và bị tiêu diệt hầu như đến người cuối cùng – khoảng 6.500 lính Scotland đã chết ở đó bao gồm tất cả các chỉ huy của họ. Kết quả là không còn một lực lượng Scotland quy mô lớn đổ bộ vào nước Pháp một lần nữa. Người Pháp cũng đã bị trừng phạt nặng nề, tất cả các chỉ huy của họ trong trận này cũng đều bị giết hoặc bị bắt làm tù binh.

    [/FONT] Sự xuất hiện của Joan of Arc

    [​IMG]
    Tranh vẽ trận Herrings, quân Pháp-Scotland tấn công một đoàn xe chở cá trích của Anh, nhưng họ đã bị các tay cung của Anh bắn tan nát đội hình sau đó là các kị sỹ Anh xông lên làm thịt nốt những người không kịp chạy trốn

    Hơn nữa, trong tháng 2 năm 1429, Sir John Fastolf-người đã chỉ huy một đoàn xe chở đồ cung cấp cho quân Anh đang bao vây thành phố Orléans, đã bị tấn công bởi một đội quân Pháp cùng với một nhóm nhỏ quân Scotland (Đa phần lính Scotland đã tử trận trong các trận đánh trước đó). Fastolf có có khoảng 1000 quân cung kỵ (cung kỵ của Tây Âu không có khả năng vừa phi vừa bắn tên như của người du mục mà thường họ phải xuống ngựa để lập đội hình chiến đấu) và một lực lượng nhỏ kị sỹ, họ tạo thành một đội hình vòng tròn xung quanh đoàn xe chở đồ cung cấp của mình. Ít hơn đối phương rất nhiều, nhưng lực lượng Anh đã đánh bại cuộc tấn công của quân Pháp trong một trận đánh được gọi là Battle of the Herrings -Trận Cá trích vì đoàn xe trở cá trích đến cho quân Anh. Trước khi bị quân Anh phản công, quân Pháp và Scotland đã bị đánh bại và bỏ chạy. Các vở kịch của Shakespeare thường đã không công bằng khi mô tả Sir John Fastolf trong vai phản diện và hèn nhát và. Trận chiến này đã thuyết phụcRobert de Baudricourt đồng ý với yêu cầu của Joan of Arc và cho một hộ tống nàng đến Triều đình Pháp ở Chinon.
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Nhà Valois chiến thắng, giai đoạn từ năm 1429 -> 1453

    Năm 1424, các chú bác của Henry VI đã bắt đầu tranh cãi về quyền nhiếp chính và Humphrey, Công tước của Gloucester đã kết hôn Jacqueline-Nữ bá tước của Hainaut và ông này quyết định xâm lược Hà Lan để lấy lại lãnh địa cũ của mình, sự kiện này đưa ông ta vào một cuộc xung đột trực tiếp với Philip III, Công tước của Burgundy.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Năm 1428, người Anh đã sẵn sàng để theo đuổi cuộc chiến tranh một lần nữa và họ tiến hành bao vây thành phố Orléans. Lực lượng của họ không đủ để bao vây toàn bộ thành phố, nhưng vẫn làm cho một lực lượng quân đội Pháp đông hơn lâm vào thế bị động. Năm 1429, Joan of Arc đã thuyết phục được nhà Dauphin gửi nàng đến thành phố bị bao vây vì nàng nói rằng đã nhận được lới nhắn của Thiên Chúa-cho biết rằng nàng sẽ đẩy lui được người Anh. Sự có mặt của nàng đã có tác dụng nâng cao tinh thần chiến đấu của quân đội Pháp và họ đã tấn công vào vị trí cố thủ của quân Anh và buộc người Anh phải huy bỏ cuộc bao vây. Lấy cảm hứng từ Joan, người Pháp đã tấn công vào nhiều cứ điểm mạnh mẽ của quân Anh ở bên bờ sông Loire. Ngay sau đó, một đội quân Pháp khoảng 8000 binh sỹ trang bị đầy đủ đã đánh bại một lực lượng lớn cung thủ Anh tại trận Patay bằng đội kỵ binh hạng nặng làm tiên phong gồm 1500 tay thương, rồi sau đó lại đánh bại một quân đội mạnh gồm 3000 tay cung dưới sự chỉ huy của Sir John Fastolf và John Talbot, Bá tước của Shrewsbury. Chiến thắng này đã mở đường cho nhà Dauphin đi đến Reims để làm lễ đăng quang và lên ngôi vua Pháp với tên hiệu là Charles VII.

    [​IMG]
    Tranh vẽ Joan of Arc chỉ huy quân Pháp tấn công vào chiến lũy của Anh vốn được lập lên để bao vây thành phố Orléans. Nàng luôn cầm cờ và đứng ở tuyến đầu nên các binh sỹ Pháp sẽ cảm thấy xấu hổ nếu họ không dám xông lên

    [​IMG]
    Tranh vẽ Joan of Arc không đội mũ và dẫn đầu quân Pháp tấn công, thường thì các tranh đều vẽ nàng cưỡi ngựa, thực tế hiếm người nào lại có thể mặc giáp nặng như vậy ( trên 30 kg) mà còn chạy bộ được

    [​IMG]
    Tranh vẽ Joan of Arc trong buổi lễ đăng quang cho thái tử Charles Dounphine làm vua Charles VII của nước Pháp tại Reim


    [​IMG]
    Tượng đài Joan of Arc ở Paris, trong con mắt người Pháp thì nàng luôn là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước của người Pháp

    v\:-* {behavior:url(#default#VML);} o\:-* {behavior:url(#default#VML);} w\:-* {behavior:url(#default#VML);} .shape {behavior:url(#default#VML);} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sau khi Joan bị bắt bởi người Burgundy vào năm 1430 và sau đó bị bán cho người Anh, nàng đã bị kết tội là phù thủy tại một Tòa án Tôn giáo và bị hành hình, các cuộc tiến quân của người Pháp bị đình trệ bởi các cuộc đàm phán. Tuy nhiên, năm 1435, người Burgundy dưới sự lãnh đạo của Philip III chuyển phe và ký Hiệp ước Arras và trả lại Paris cho vua Pháp. Mặc dù lòng trung thành của người Burgundy vẫn còn hay thay đổi, nhưng họ tập trung chỉ tập trung vào các cuộc chiến ở vùng đất thấp ( Hà lan ngày nay) và không có đủ lực lượng để can thiệp vào nước Pháp. Hòa ước với người Burgundy kéo dài đánh dấu sự thay đổi trong chiến tranh cũng đã cho Charles thời gian để tổ chức lại quân đội và chính phủ của ông, ông đã tiến hành thay thế đội quân theo kiểu phong kiến [FONT=&quot]​​của mình bằng một quân đội chuyên nghiệp hiện đại hơn để có thể tận dụng triệt để được ưu thế vượt trội của mình và tập trung hóa trong việc quản lyd các vùng của nước Pháp.

    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Vào năm 1449, người Pháp đã chiếm lại Rouen và trong năm 1450 Bá tước Clermont và Arthur de Richemont-Bá tước của Richmond của gia đình Montfort ( Arthur III, Công tước xứ Brittany tương lai) đã chộp được một quân đội Anh trong khi nó đang cố gắng để giải vây cho Caen tại Trận Formigny và đánh bại nó, quân Anh đã bị tấn công từ bên cánh và phía sau bởi lực lượng của Richemont chỉ khi họ đang áp sát đội quân của Clermont. Người Pháp đã chiếm lại được Caen vào ngày 6 tháng 7 năm 1450 cùng với Bordeaux và Bayonne trong năm 1451. Các nỗ lực của Sir Talbot để chiếm lại vùng Gascony, mặc dù ban đầu được sự hoan nghênh của người dân địa phương nhưng cuối cùng đã bị nghiền nát bởi Jean Bureau và các khẩu pháo của ông tại Trận Castillon năm 1453, nơi Talbot đã dẫn đầu một lực lượng nhỏ của Anh-Gascon trong một cuộc tấn công trực diện vào một doanh trại cố thủ của Pháp. Đây được xem là trận chiến cuối cùng của cuộc Chiến tranh Trăm năm.

    Ý nghĩa của chiến tranh trăm năm
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}

    Chiến tranh năm trăm là một khoảng thời gian để tiến hóa về lĩnh vực quân sự. Tất cả vũ khí, chiến thuật, cấu trúc quân đội và ý nghĩa xã hội của chiến tranh đều đã thay đổi, một phần là để đáp ứng cho nhu cầu của cuộc chiến, một phần qua các tiến bộ trong công nghệ, KHKT và một phần thông qua các bài học trong chiến tranh.

    Anh có thể được coi là một nhà nước hiện đại hơn so với Pháp. Nó có một Quốc-hội và cơ quan thuế thuế tập trung hóa. Khi nhà văn quân đội-đại tá Alfred Burne ghi chú, nước Anh đã cách mạng hóa hệ thống tuyển dụng của nó trong việc dùng một đội quân được trả lương để thay thế cho một đội quân được tuyển ra từ những người làm nghĩa vụ phong kiến. Các đội trưởng/ đại úy chuyên nghiệp đã được bổ nhiệm làm người tuyển dụng quân đội trong một thời gian được chỉ định (về mặt lý thuyết thì ngắn). Ở một mức độ nào đó, đây là một điều cần thiết vì nhiều đại quý tộc đã từ chối để tham gia vào một chiến dịch ở nước ngoài vì làm nghĩa vụ phong kiến ​​được cho là chỉ để bảo vệ vương quốc.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Trước khi nổ ra Chiến tranh Trăm năm, Lực lượng kỵ binh hạng nặng được xem là binh chủng mạnh nhất trong quân đội. Nhưng vào lúc chiến tranh kết thúc, niềm tin này đã thay đổi. Ngựa dù được thiết giáp hạng nặng ngày càng bị phủ nhận do việc sử dụng lực lượng trường cung (và sau này là súng tay-một loại vũ khí có tầm sát thương xa hơn) và các kị sỹ chiến đấu ở các vị trí phòng thủ cố định, chiến thuật này đã giúp người Anh chiến thắng ở Crécy và Agincourt. Học tập từ người Scotland, người Anh bắt đầu sử dụng những đội kỵ binh được thiết giáp hạng nhẹ-sau này gọi là dragon (Kỵ binh Đầu rồng)-Những người sẽ xuống ngựa để chiến đấu trong trận chiến. Đến cuối Cuộc chiến Trăm năm, chiến thuật này có ý nghĩa làm mờ dần vai trò của lực lượng kỵ binh hạng nặng vốn được trang bị và đào tạo đắt tiền và cuối cùng kết thúc vai trò của người hiệp sĩ bọc thép như là một lực lượng quân sự và vai trò của giới quý tộc như là một lực lượng chính trị.

    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Mặc dù người Anh có một lợi thế về chiến thuật, "tuy nhiên diện tích của nước Pháp là quá lớn và không đủ quân thường trực để chiếm đóng" như một nhà văn quân đội-tướng Fuller nói. Với một diện tích lớn hơn nhiều so với nước Anh (lúc này chưa có liên hiệp Anh và người Scotland luôn tỏ ra thù địch với người Anh) và có dân số đông gấp bốn lần dân số của nước Anh, nước Pháp tạo ra khó khăn cho người Anh khi muốn chiếm đóng nó.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Một vấn đề không thể giải quyết nổi đối với các chỉ huy người Anh là, trong thời đại của chiến tranh vây hãm, các có nhiều thêm lãnh thổ bị chiếm đóng thì lại càng yêu cầu nhiều đơn vị đồn trú hơn nữa. Điều này đã làm giảm đi sức mạnh tấn công của quân đội Anh khi thời gian trôi về phía cuối của cuộc chiến (người Scotland đã giải quyết vấn đề này bằng một giải pháp khôn ngoan là phá huy các thành trì -> không cần quân đồn trú mà đối phương cũng không sử dụng được sau khi tái chiếm được chúng). Quân đội của Salisbury tại Orleans chỉ bao gồm có 5.000 người, không những không đủ chỉ để bao vây thành phố mà còn có số lượng kém hơn so với lực lượng Pháp đóng trong và ngoài thành phố. Người Pháp chỉ cần phục hồi lại được một phần của sự tự tin đã bị tan vỡ (sau những trận thua mất mặt) của họ thì kết quả thất bại của quân Anh là điều trở thành không thể tránh khỏi. Tại Orleans họ đã được hỗ trợ bởi cái chết của Salisbury qua một phát đạn pháo may mắn và do cảm hứng được truyền tới bởi Joan of Arc.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Hơn nữa, sự kết thúc của liên minh với Burgundy đã đặt dấu chấm hết cho những nỗ lực của Anh tại Pháp, bất chấp các chiến dịch tích cực của John-Lord Talbot và các lực lượng của ông để trì hoãn một thất bại không thể tránh khỏi.
    [​IMG]
    Tranh vẽ cái chết John Talbot-một dũng tướng của Anh trong trận Castillon đã kết thúc chiến tranh trăm năm với thắng lợi hoàn toàn thuộc về người Pháp
    [FONT=&quot]
    Cuộc chiến cũng kích thích tình cảm dân tộc. Nó đã tàn phá nhiều vùng của nước Pháp thành bình địa, nhưng nó cũng đánh thức chủ nghĩa dân tộc của người Pháp. Chiến tranh trăm cũng có tác dụng tăng tốc quá trình chuyển đổi nước Pháp phong kiến phân quyền sang một chế độ quân chủ tập quyền. Cuộc xung đột đã trở thành không chỉ là một cuộc xung đột của vua Anh với vua Pháp mà đã trở thành cuộc chiến của người Anh với người Pháp dân tộc. Có tin đồn liên tiếp tại Anh rằng người Pháp có ý định xâm chiếm và hủy diệt ngôn ngữ của người Anh. Chủ nghĩa quốc gia đã xuất hiện trong những tin đồn như vậy để thống nhất người Pháp và người Anh vào những trận chiến trong thời gian lâu hơn nữa. Chiến tranh Trăm năm về cơ bản đã làm biến mất những từ gốc Pháp trong tiếng Anh, vốn đã là ngôn ngữ của giai cấp cầm quyền và tầng lớp thương gia từ thời các cuộc chinh phục của người Norman cho đến năm 1362.

    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Giai đoạn sau của cuộc chiến đã cho thấy sự xuất hiện của công tước Burgundy đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực chính trị và nó khuyến khích người Anh tham gia liên minh với vùng đất ở miền nam Hà Lan trong suốt cuộc xung đột (Bây giờ là nước Bỉ-một trung tâm sản xuất vải len phong phú [FONT=&quot]​​vào thời điểm đó), để phát triển ngành công nghiệp dệt len của chính họ và ở thị trường nước ngoài. ( xứ Burgundy quay về với nước Pháp cũng chính là vì dân ở vùng này-thuộc địa của Burgundy lại tỏ ra quá thân thiện với người Anh)[/FONT]

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Vũ khí

    Cây trường cung

    Loại vũ khí được tán dương nhất của người Anh là cây trường cung của những người nông dân ( nguyên gốc Yeomen-chủ đất nhỏ): nó không phải là loại vũ khí mới vào thời điểm đó, nó đóng một vai trò đặc biệt trong suốt cuộc chiến, tạo lợi thế chiến thuật cho người Anh trong một số các trận đánh chính - mặc dù vũ khí này đòi hỏi phải có tay nghề cao và quân đội Anh vốn trang bị nhẹ hơn đã chứng minh là nó (lực lượng trường cung) là một nhân tố quyết định đến kết quả cuối cùng của cuộc chiến. Người Pháp chủ yếu là dựa vào nỏ, thường được sử dụng bởi lính đánh thuê người Genova, chỉ có những người có tay nghề cao và được đào tạo tốt mới khai thác được những điểm yếu của vũ khí của đối phương bằng những trang thiết bị đặc biệt. Cây nỏ được sử dụng bởi vì nó yêu cầu rất ít đào tạo và do đó có thể nhanh chóng tuyển một lính bắn nỏ mới từ người làm nghĩa vụ quân sự và nó có một sức công phá khủng khiếp ở tầm gần đối với cả áo giáp chuỗi và áo giáp lưới. Tuy nhiên, nó có đặc điểm là nạp tên chậm, nặng nề và dễ bị thiệt hại mưa to. Cây trường cung là một loại vũ khí rất khó sử dụng và các cung thủ Anh đã phải đã thực hành từ khi còn nhỏ để trở nên thành thạo. Nó cũng đòi hỏi phải có sức mạnh lớn để sử dụng, với lực kéo thường vào khoảng 620-670 Newton (140–150 lbf) và có thể lên đến 800 N (180 lbf). Cây trưởng cung có thể bắn volley (rót dầu) tương đối chính xác, mặc dù khả năng này là đặc điểm của bất kỳ loại cung nào. Nó được sử dụng rộng rãi trong quần đảo Anh và điều này đã cho phép người Anh sử dụng nó như một vũ khí. Cây trường cung đã được phát triển thành vũ khí tầm chiến lược. Người Anh trong những trận chiến của họ với người xứ Wales và Scotland, đã học được cách sử dụng những cung thủ xuống ngựa và dựa vào địa hình của các vị trí cố định để có thể đánh bại lực lượng kỵ binh nặng từ xa. Từ khi các mũi tên bắn từ một cung có thể giết hoặc loại khỏi vòng chiến một con ngựa không được thiết giáp, một cuộc tấn công cuả lực lượng kỵ binh có thể bị chặn đứng trước khi họ tới được chỗ cuả lực lượng phòng thủ (một hiệu ứng tương đương với pháo binh của thời sau). Các cung cho phép quân đội trang bị nhẹ hơn và cơ động hơn của người Anh chọn và củng cố vị trí chiến đấu và đẩy quân đội đối phương vào một trận đánh theo kiểu bao vây. Vào thời gian chiến tranh Trăm năm sắp kết thúc, số lượng cung thủ trường cung giảm mạnh. Bởi khó khăn trong việc đào tạo một số lượng lớn các cung thủ có tay nghề cao để thay thế số thương vong đáng kể của các cung thủ trường cung tại các trận Verneuil (1424) và Patay (1429) là đáng kể. Việc cây cung ngày càng trở nên khó sử dụng và không có đủ người để sử dụng chúng. Ngoài ra, những cải tiến trong áo giáp phiến từ thế kỷ 15 có nghĩa là trong khi áo giáp được thực tế chứng minh là không bị xuyên thủng bởi các mũi tên, các cung lại vẫn là một vũ khí tĩnh và không hiệu quả. Chỉ có những cây cung mạnh nhất ở tầm gần có thể có cơ hội xuyên thủng các tấm áo giáp.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Một loạt các loại vũ khí mới cũng được bắt đầu đưa vào sử dụng trong cuộc Chiến tranh Trăm năm như: Thuốc nổ cho súng tay và pháo đã đóng vai trò quan trọng vào đầu năm 1375. Trận Castillon-trận chiến cuối cùng của cuộc chiến trăm năm, là trận đánh đầu tiên trong lịch sử châu Âu mà ở đó pháo binh là yếu tố quyết định.

    Chiến tranh và xã hội

    Hậu quả của các loại vũ khí mới có nghĩa là giới quý tộc không còn là yếu tố quyết định trong trận chiến; nông dân trang bị trường cung hoặc súng tay có thể dành được chiến thắng, phần thưởng và có được uy tín vốn chỉ dành cho những hiệp sĩ-những người được thiết giáp kín mít. Thành phần của quân đội đã thay đổi, từ các lãnh chúa phong kiến những người có thể hoặc không thể bỏ trốn khi chúa tể của họ triệu tập, những lính đánh thuê được trả tiền. Đến cuối chiến tranh, cả Pháp và Anh đã huy động đủ tiền qua các sắc thuế để tạo ra một đội quân thường trực, lần đầu tiên kể từ sự sụp đổ của Đế quốc La Mã phương Tây mà người ta lại thấy các đội quân thường trực ở Tây hoặc Trung Âu (không kể Đế quốc Đông La Mã). Quân đội thường trực đại diện cho một hình thức hoàn toàn mới của quyền lực của nhà vua. Quân đội này không chỉ có thể bảo vệ vương quốc của họ từ những kẻ xâm lược, mà còn có thể bảo vệ nhà vua từ các mối đe dọa nội bộ và cũng để giữ cho dân chúng trong vòng kiểm soát. Đó là một bước tiến quan trọng trong sự phát triển ban đầu đối với quốc gia tập quyền và nó cũng làm xói mòn các tập quán của thời trung cổ.


    Có một niềm tin phổ biến rằng sau Trận Crécy-trận chiến lớn đầu tiên của chiến tranh, , Thời đại “ hiệp sỹ mã thượng “ đã đi vào kết thúc khi các đợt tấn công của lực lượng kỵ binh hạng nặng không còn có ý nghĩa quyết định trong trận đánh Đồng thời, có một sự hồi sinh trong các tập tục của tinh thần mã thượng, đó tầm quan trọng cao nhất của việc chiến đấu cho ai và chết để làm gì, trong một cách thượng mã nhất có thể. Khái niệm về tinh thần thượng mã bị ảnh hưởng mạnh bởi các sử thi lãng mạn của thế kỷ 12 và hãy tưởng tượng các hiệp sĩ tái hiện những câu chuyện này trên chiến trường.. Có người đã kể rằng Bertrand Du Guesclin
    bước vào trận chiến với một mắt nhắm và một mắt mở và tuyên bố " Tôi sẽ không mở con mắt còn lại vì danh dự của người phụ nữ của tôi cho đến khi tôi sẽ giết được ba người Anh." Các Hiệp sĩ thường mang màu sắc ( tóc, áo?) của người phụ nữ của họ vào trận chiến.

    Tại Pháp, trong thời gian Vua John II bị giam cầm, the Estates General (Hội hiệp thương) cố đoạt lấy quyền lực của nhà vua. Hội hiệp thương là một cơ quan đại diện của ba nhóm người theo truyền thống có quyền tư vấn tại Pháp: giáo sĩ, quý tộc và thị dân. Lần đầu tiên dưới thời Philip IV " the Fair ", Hội hiệp thương có quyền xác nhận hoặc không đồng ý với các sắc thuế chính mà các vị vua của nước Pháp dùng để huy động tiền. Dưới sự lãnh đạo của một thương gia tên là Etienne Marcel, Hội hiệp thương đã cố gắng để buộc nền quân chủ phải chấp nhận một cái gọi là thỏa thuận Đại Pháp lệnh (the Great Ordinance). Giống như thỏa thuận Magna Carta của người Anh, Đại Pháp lệnh cho rằng Hội hiệp thương cần giám sát việc thu, chi số tiền thuế thu được, quyết định một cách độc lập trước các yêu cầu của nhà vua, có quyền hạn nhất định về mặt tư pháp và thường đóng một vai trò lớn hơn trong chính phủ. Các quý tộc đã đóng một vai trò quyết định trong Hội hiệp thương, tuy nhiên trong năm 1358 đã nổ ra một cuộc nổi dậy của nông dân được gọi là Jacquerie. Nông dân tức giận về thuế cao của quý tộc và chính sách lao động cưỡng bức đã nổi lên giết chóc và đốt phá ở phía bắc nước Pháp. Một trong những nạn nhân của họ đã được chứng minh lại chính là Etienne Marcel và không có sự lãnh đạo của ông Hội hiệp thương đã bị chia rẽ.

    Nước Anh và Chiến tranh Trăm năm

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Những ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh Trăm năm ở Anh cũng đưa ra một số câu hỏi về mức độ của chính quyền hoàng gia. Giống như người Pháp, người Anh đã trải qua một cuộc nổi loạn nghiêm trọng chống lại nhà vua trong một khoảng thời gian tiếp sau cái chết của Edward III khi người cháu trai của ông vẫn chưa đến tuổi trưởng thành. Được gọi là phong trào Nông dân nổi dậy hay còn là cuộc nổi dậy của Wat Tyler, cuộc nổi dậy năm 1381 đã cho thấy một số lượng lên đến 100.000 nông dân tiến vào London để phản đối việc nộp thuế quá cao để tài trợ cho chiến tranh và nỗ lực của giới quý tộc để bần cùng hoá thân phận của người nông dân Anh. Đám đông đã sát hại các quan chức chính phủ và người thu thuế và đốt cháy nhà của họ. Nhà vua trẻ-Richard II, gặp những người nông dân ở bên ngoài lâu đài của mình, xoa dịu sự bạo lực của họ bằng cách hứa hẹn sẽ đáp ứng nhu cầu của họ. Đồng thời, các điệp viên của nhà vua đã giết chết Wat Tyler, một nhà lãnh đạo chủ chốt của cuộc nổi dậy và Richard II đã đuổi những người nông dân trở lại nhà của họ ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, sau khi họ về nhà ông này đã không giữ lời hứa của mình và vẫn giữ mức thuế cao.

    Ban đầu thành công của các chiến dịch mang lại sự giàu có cho bản thân giới quý tộc và triều đình Anh. Khi chiến tranh tiếp diễn, chi phí để bảo vệ và duy trì vùng chiếm đóng tỏ ra quá nặng nề và Hoàng gia Anh về cơ bản bị phá sản, ngược lại sự giàu có làm cho nước Pháp liên tục tập hợp lại được các quý tộc và quân đội của họ. Khi triều đình Anh bắt đầu có một cách tiếp cận hợp lý hơn đối với nước Pháp, nhiều quý tộc người Anh đã đang nắm giữ các vùng đất tại lục địa châu Âu và đã bị bỏ rơi trong quá trình này liền đã bị vỡ ảo tưởng với Hoàng gia Anh. Những bất đồng này đã trở thành một trong những yếu tố chính góp phần vào Cuộc chiến của Hoa Hồng.

    Vào cuối cuộc chiến, nước Anh đã phải quay lại quốc đảo, ngoại trừ Calais. Hoàn toàn ở rìa của châu Âu, tương lai của nó dường như là rất tối tăm. Tuy nhiên, việc châu Âu khám phá ra Tân thế giới ở bên ngoài ranh giới phía tây của bờ biển Đại Tây Dương vào năm 1492 có nghĩa là quốc gia trên biển cả như nước Anh đã rất phù hợp để tận dụng cơ hội mới cho nền thương mại và phiêu lưu vùng chinh phục những vùng đất mới.
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Những trận đánh lớn

    • Năm 1337, tháng 11-Trận Cadsand: Khởi đầu các hành động thù địch. Quân phòng thủ người Flemish của hòn đảo Cadsand đã bị làm cho rối loạn do đầu tiên các cây trường cung của Anh được sử dụng trên Lục địa châu Âu.
    • Năm 1340, 24 tháng 6 -Trận Sluys: Edward III đã phá hủy hạm đội Pháp-Genova của Philip VI ở ngoài khơi bờ biển Flanders, nước Anh được đảm bảo sẽ không bị xâm chiếm và rằng phần lớn các trận chiến sẽ nổ ra ở đất Pháp.
    • 1345, Ngày 21 tháng 10 -Trận Auberoche: Một chiến thắng của các tay cung của Henry-Bá tước của Derby khi chống lại một đội quân Pháp tại Auberoche thuộc xứ Gascony.
    • 1346, 26 tháng 8 -Trận Crécy: Cung thủ trường cung người Anh đánh bại hoàn toàn đội kỵ binh Pháp ở gần sông Somme vùng Picardy. Những người chết bao gồm:
      • Vua John của Bohemia
      • Công tước của Lorraine
      • Bá tước của Flanders
      • Công tước Alençon
      • Bá tước của Blois
      • Nam tước Rohan
      • Lord của Laval
      • Lord của Chateaubriant
      • Lord của Dinan
      • Lord của Redon
      • 1.542 Hiệp sĩ thiệt mạng
      • 2.300 tay nỏ người Genova tử trận
      • 10.000 bộ binh thiệt mạng
    • Năm 1346, Tháng chín 4-1347, 03 Tháng Tám -Cuộc bao vây Calais: Calais nằm dưới sự kiểm soát của người Anh.
    • Năm 1350, 29 tháng 8 –tại Les sur Mer Espagnols: Người Anh đánh bại hạm đội hạm đội Castile trong một trận cận chiến.
    • Năm 1351, ngày 26 tháng 3 Trận chiến Ba mươi: Ba mươi Hiệp sỹ Breton từ Chateau Josselin đã được Beaumanoir chọn ra và đánh bại ba mươi Hiệp sĩ người Anh và người Breton dưới quyền Pembroke và Sir Robert Bramborough, Bramborough đã bị giết.
    • Quân đội Pháp dưới sự chỉ huy của De Nesle đã bị đánh bại bởi quân Anh dưới sự chỉ huy của Bentley tại Mauron Anh, De Nesle đã thiệt mạng.
    • Năm 1356, Ngày 19 tháng 9 -Trận Poitiers: Edward-Hoàng tử đen đã bắt tù binh vua John II của Pháp, quân đội Pháp rơi vào hỗn loạn. Những người bị bắt và giết ở phía Pháp:
      • 2.500 bị giết và bị thương
      • 2.000 bị bắt, bao gồm
        • John II
        • 17 lãnh chúa
        • 13 Bá tước
        • 5 Nam tước
        • 100 + hiệp sĩ
    • Năm 1364, Ngày 29 tháng 9 -Trận Auray: Kết thúc Chiến tranh thừa kế Breton
      • Bị giết: Charles của Blois, Công tước xứ Brittany
      • Bị bắt: Bá tước của Auxerre & Du Guesclin
    • Năm 1367, 03 tháng 4 -Trận Najera: Hoàng tử đen đã đánh bại một đội quân người Castile và Pháp trong trận Najera ở Castile.
    • Năm 1370, tháng 3 -Trận Pontvallain: Bertrand du Guesclin đánh bại một đội quân đột kích của người Anh, kết thúc danh hiệu vô địch của người Anh trong trận đánh mở.
    • Năm 1372, ngày 22 tháng 6 -Trận La Rochelle: hạm đội Castilian-Pháp đánh bại hạm đội Anh, dẫn đến mất ưu thế tại các cuộc tấn công và cướp biển và ven biển của Pháp.
      • Bị bắt: John của Hastings, Bá tước Pembroke, 400 hiệp sĩ và 8.000 binh lính
    • Năm 1380, Fernando Sánchez de Tovar chỉ huy của hạm đội Castilian bao vây và đánh phá các thành phố cảng của người Anh.
    • 1385 -Trận Aljubarrota: Nuno Alvares Pereira, Chỉ huy một đội quân nhỏ của Bồ Đào Nha-Anh, đánh bại lực lượng Castile-Pháp tại Bồ Đào Nha.
    • 1385 -Jean de Vienne, thành công trong việc tăng cường hải quân Pháp, đổ bộ một đội quân lên Scotland, nhưng rồi lại buộc phải rút lui.
    • Năm 1415, ngày 25 tháng 10 -Trận Agincourt: cung thủ trường cung Anh dưới sự chỉ huy của Henry V đã đánh bại quân Pháp dưới sự chỉ huy của Charles d'Albret.
      • Các chỉ huy Pháp bị bắt gồm:
        • Thống chế Pháp Jean Le Maingre
        • Charles, Công tước d’Orléans
        • John I, Công tước của Bourbon
        • Louis, Bá tước của Vendôme
      • Các chỉ huy Pháp thiệt mạng gồm:
        • Antoine của Burgundy, Công tước Brabant và Limburg
        • Philip của Burgundy, Công tước của Nevers và Rethel
        • Charles I d'Albret, Công tước của Dreux, Nguyên soái của Pháp
        • John II, Bá tước của Bethune
        • John I, Công tước Alençon
        • Frederick của Lorraine, Bá tước của Vaudemont (Sinh 1371)
        • Robert, Bá tước của Marles và Soissons
        • Edward III của Bar ( Đất công tước Bar mất đi sự độc lập của nó như là một hệ quả của cái chết của ông)
        • John VI, Bá tước của Roucy
        • Jean I de Croÿ và hai con trai của ông
        • Waleran III của Luxembourg, Bá tước của Ligny
        • Jan I van Brederode
        • George Edward Stewart III, Lãnh chúa Shetland - Scotland
        • 7,000-10,000 thương vong (chủ yếu bị giết) và khoảng 1.500 tù binh quý tộc
      • Anh thiệt mạng:
        • Edward của Norwich, 2 Công tước xứ York
        • Michael de la Pole, 3 Bá tước Suffolk
        • Ít nhất 112 người chết, không rõ người bị thương
    • Năm 1416, Anh đánh bại số lượng lớn quân đội Pháp tại Valmont gần Harfleur
    • Năm 1417, Hải quân Anh dưới sự chỉ huy của Bedford chiến thắng trên sông Seine.
    • Năm 1418, tháng bảy 31-1419, tháng 19 -Cuộc bao vây Rouen: Henry V của Anh giành được một chỗ đứng chân ở Normandy.
    • 1419 -Trận La Rochelle: hạm đội Pháp-Castile đánh bại hạm đội Anh-Hanseatic.
    • Năm 1421, ngày 22 tháng 3 -Trận Bauge: Lực lượng Pháp và Scotland dưới sự chỉ huy của Bá tước Buchan đánh bại một lực lượng rõ ràng đông hơn của người Anh dưới sự chỉ huy của Công tước của Clarence.
      • Chỉ huy Anh bị bắt tù binh:
        • John Beaufort, 3 Bá tước Somerset
        • Thomas Beaufort, Bá tước Perche
        • John Holland, 2 Công tước của Exeter
        • Lord Fitz Walter
      • Chỉ huy Anh thiệt mạng:
        • Thomas của Lancaster, 1 Công tước của Clarence
        • John Grey, Bá tước 1 Tankerville
        • John de Ros, 8 Baron de Ros
        • Sir Gilbert de Umfraville
    • Năm 1423, tháng bảy 31 -Trận Cravant: Quân đội Pháp và Scotland bị đánh bại tại Cravant trên bờ của dòng sông Yonne.
      • Pháp thiệt mạng: 6.000
      • Pháp bị bắt: 2.000 bao gồm
        • John Stewart, 2 Earl của Buchan
        • Louis, Bá tước của Vendôme
    • Năm 1424, 17 tháng 8 -Trận Vernuil: Các lực lượng Pháp-Scots là đánh bại.
      • Scotland thiệt mạng: 4.000 bao gồm
        • John Stewart, 2 Earl của Buchan
        • Archibald Douglas, 4 Earl của Douglas
    • Năm 1426, 06 tháng 3 -quân đội Pháp đang bao vây dưới sự chỉ huy của Arthur de Richemont bị phân tán bởi một lực lượng nhỏ sự chỉ huy của Sir Thomas Rempstone có biệt hiệu "The Rout của St James" của Anh.
    • Năm 1428, October 12-1429, tháng 8 -Cuộc vây hãm Orléans: lực lượng Anh dưới sự chỉ huy của Bá tước Salisbury, Bá tước Suffolk, và Talbot ( Bá tước của Shrewsbury) bao vây Orleans và bị buộc phải rút lui sau khi quân đội tăng viện đi kèm với Joan of Arc đến thành phố này.
    • Năm 1429, 12 tháng 2 -: Trận Herrings quân Anh dưới sự chỉ huy của Sir John Fastolf đánh bại quân đội Pháp và Scotland.
    • Năm 1429, ngày 17 tháng 7 -Trận Patay: một trận đánh đảo ngược của trận Agincourt và Crécy, một đội quân Pháp dưới sự chỉ huy của La Hire, Richemont, Joan of Arc, và các chỉ huy khác đã đánh tan các cung thủ Anh dưới sự chỉ huy của Lord Talbot và sau đó đã truy kích và tấn công vào các phần khác của quân Anh, giết hoặc bắt tù binh một nửa (2.200) số quân của họ. John Talbot, 1 Bá tước của Shrewsbury và Walter, Lord Hungerford bị bắt tù binh.
    • 1435 -Trận Gerbevoy: La Hire đánh bại một lực lượng Anh dưới sự chỉ huy của Arundel.
    • 1435: Quân đội Pháp chiếm lại Paris.
    • 1450, ngày 15 tháng 4 -Trận Formigny: Một đội quân Pháp dưới sự chỉ huy của Comte de Clermont đánh bại một lực lượng quân Anh dưới sự chỉ huy của Thomas Kyriell.
    • 1451: quân Pháp đánh chiếm Gascony.
    [FONT=&quot]1453, ngày 17 tháng 7 -Trận Castillon: Jean Bureau đánh bại Talbot để kết thúc cuộc Chiến tranh Trăm năm. Đây cũng là trận đánh đầu tiên trong lịch sử châu Âu mà việc sử dụng pháo là một yếu tố quan trọng trong việc xác định người chiến thắng. John Talbot, 1 Bá tước Shrewsbury đã thiệt mạng trong trận chiến.[/FONT]


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Những nhân vật quan trọng
    Phía Anh
    Vua Edward III
    1327-1377
    con trai của Edward II
    Vua Richard II
    1377-1399
    cháu trai của Edward III
    Vua Henry IV
    1399-1413
    cháu trai của Edward III
    Vua Henry V
    1413-1422
    con trai của Henry IV
    Vua Henry VI
    1422-1461
    con trai của Henry V
    Edward, Hoàng tử đen
    1330-1376
    con trai của Edward III
    John của Gaunt, Công tước 1 của Lancaster

    1340-1399
    con trai của Edward III
    John Lancaster, Công tước 1 của Bedford
    1389-1435
    con trai của Henry IV
    Henry của Grosmont, Công tước 1 của Lancaster
    1306-1361
    Hiệp sỹ
    John Talbot, Bá tước 1 của Shrewsbury
    1384-1453
    Hiệp sỹ
    Richard Plantagenet, Công tước 3 xứ York
    1411-1460
    Hiệp sỹ
    Sir John Fastolf
    1378? -1459
    Hiệp sỹ


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    Phía Pháp
    Vua Philip VI
    1328-1350

    Vua John II
    1350-1364
    Con trai của Philip VI
    Vua Charles V
    1364-1380
    Con trai của John II
    Louis I của Anjou
    1380-1382
    Con trai của John II
    Vua Charles VI
    1380-1422
    Con trai của Charles V
    Vua Charles VII
    1422-1461
    Con trai của Charles VI
    Joan của Arc
    1412-1431
    Được phong thánh
    Jean de Dunois
    1403-1468
    Hiệp sỹ
    Gilles de Rais
    1404-1440
    Hiệp sỹ
    Bertrand du Guesclin
    1320-1380
    Hiệp sỹ
    Jean Bureau
    13? -1463?
    Hiệp sỹ
    La Hire
    1390-1443
    Hiệp sỹ

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    Phía Burgundy
    Philip the Bold Công tước của Burgundy
    1363-1404
    Con trai của John II của Pháp
    John the Fearless Công tước của Burgundy
    1404-1419
    Con trai của Philip the Bold
    Philip the Good Công tước xứ Burgundy
    1419-1467
    Con trai của John the Fearless


  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Giới thiệu về binh giáp và vũ khí của quân đội Anh trong cuộc chiến Trăm năm

    Trang thiết bị của quân đội Anh trong thời kỳ chiến tranh Trăm năm-nửa cuối thế kỷ 14

    [​IMG]
    [FONT=&quot]1) Vào đầu thế kỷ này,
    [FONT=&quot]các [/FONT][FONT=&quot]hiệp sĩ [/FONT][FONT=&quot]chỉ có những [/FONT][FONT=&quot]khác biệt nhỏ [/FONT][FONT=&quot]với những hiệp sỹ[/FONT][FONT=&quot] của cuối thế kỷ trước và [/FONT][FONT=&quot]phải đến [/FONT]khoảng những năm 1325-1330 thì việc sử dụng áo giáptấm/ phiếnmới trở thành phổ biến. Bộ áo giáp dựng lại của Sir William FitzRalf cho thấy áo giáp thời này có nhiều điểm tương tự như nhiều loại áo giáo ởphần sau của thế kỷ trước, bảo vệ chính là một chiếc áo giáp bằng chỉ sắt nới rộng vào găng tay.Tuy nhiên, vào thời này đã xuất hiện những tấm sắt hình máng trên cánh tay, cùng với một miếng giáp tấm ở vai . Giáp bảo vệ đùi có hoạ tiết [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} poleyn ở đầu gối, với phần giáp ống quyển và phần giáp bàn chân.
    [FONT=&quot]2)
    [FONT=&quot]Người Hộ sỹ[/FONT][FONT=&quot] của ông mặc một[/FONT][FONT=&quot] chiếc áo[/FONT][FONT=&quot] aketon bằng [/FONT][FONT=&quot]bông [/FONT][FONT=&quot]kẻ t[/FONT][FONT=&quot]heo chiều dọc với cổ áo[/FONT][FONT=&quot]dựng, và mang theo một thanh kiếm và dao găm ballock.[/FONT]
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} 3) mũ kettle và bevor.
    4) Vị hiệp sĩ này có một chiếc mũ sắt nhỏ với chiếc aventail có đóng đinh tavét và dây móc nối các nắp bao các khớp. Lưu ý ông ta có chiếc nắp trang trí mặt con sư tử.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} 5) Mũ sắt có tấm giáp che mặt
    6) Mũ sắt có tấm giáp che mặt
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} 7) Đinh thúc ngựa.
    8) Đinh thúc ngựa.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} 9) Kiếm ở nửa đầu thế kỷ 14 dài 39,5 inch (100,4 cm) lưỡi-Bảo tàng London.
    10) Kiếm ở nửa đầu thế kỷ 14.
    11) Kiếm-loại không phổ biến trong những năm 1290-1330.
    12) Kiếm có dây buộc, có đính kèm móc mắt làm từ đồng thau của Sir Robert de Septvans.
    [FONT=&quot]13) [FONT=&quot]Búa trận[/FONT][FONT=&quot].[/FONT][/FONT]


    [​IMG]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} ĐÀO TẠO
    Các Hộ sĩ và hiệp sĩ rất cần phải luyện tập liên tục để giữ cho cơ bắp dẻo dai và để trau dồi kỹ năng của họ. Có thể là trong lúc này vũ khí có trọng lượng nặng gấp đôi được sử dụng, do đó khi họ sử dụng vũ khí thông thường sẽ cảm thấy dễ dàng để vung và bạt hơn. Hầu hết các hình minh họa được dựa trên những hình ảnh chi tiết trong Romance Flemish của Alexander, trong năm 1335-48.
    1) Đấu vật, hai hộ sỹ cưỡi trên cổ người khác để vật nhau để tăng cường khả năng ngồi vững trên lưng ngựa.
    2) chiến đấu với kiếm gỗ. Lưu ý hình dạng biến thể mô tả lá chắn.
    3) Hộ sĩ tập cưỡi ngựa và điều khiển những con ngựa chiến mạnh mẽ và có thể thực hành tấn công một tấm bia với một lá chắn kèm.
    4) Chạy trên bộ mang một thanh giáo chống lại một hiệp sĩ đang ngồi.
    5) Chạy trên bộ tấn công vào một chiếc lá chắn có thể quay được.


    [​IMG]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Ngựa chiến
    Tất nhiên là ngựa chiến rất quan trọng đối với một hiệp sĩ. Ngựa chiến là những con ngựa tốt nhất và cũng đắt nhất, đôi khi chúng chỉ được sử dụng hạn chế trong đấu giải Tournament. Người ta tin rằng nó được điều khiển bằng bàn tay phải hoặc được đào tạo để bước lên trước với bàn chân phải. Chúng có kích thước giống như những con ngựa dùng để đi săn ở thời hiện đại, những con ngựa có nòi tốt thường có giá trị hơn những con ngựa chỉ cao và lớn. Vùng ngực của con ngựa phải sâu để nó có thể hít thở tốt và cơ bắp phải khỏe để nó có thể mang được thiết giáp mà vẫn có thể chạy theo hiệu lệnh từ đinh thúc ngựa. Ngựa chiến luôn luôn phải là ngựa đực và không được thiến, một phần do tự nhiên đã ban cho chúng sự hung dữ để đá và cắn vào ngựa kẻ thù, nhưng có lẽ cũng vì hình ảnh nam tính của chúng. Một số lãnh chúa mua những con ngựa chiến với giá từ 100 bảng, một tài sản theo tiêu chuẩn theo tiêu chuẩn của ngày đó. Một loại ngựa chiến ít tốn kém hơn nhưng dù sao vẫn có giá trị-đó là ngựa đua. Được kiểm soát bởi đinh thúc ngựa và hạn chế bởi dây cương. Mặc dù ngày nay đinh thúc ngựa được thiết kế để không đâm quá sâu, một số đinh thúc ngựa cho thấy có dính máu đã được nhìn thấy cùng với những chú ngựa đua.

    1) Ngựa chiến trong khoảng năm 1325 với tấm shaffron nguyên thủy và một áo giáp ngựa bằng vải thời đầu
    2) Ngựa chiến ở nửa cuối thế kỷ 14. Nó giáp đầu bằng sắt và áo giáp thân ngựa bằng giáp chỉ thép có lẽ với áo vải lanh ở bên trong cho tăng độ thoải mái và hấp thụ mồ hôi và một áo giáp ngựa bằng vải ở bên ngoài.
    3) Ngựa chiến của kị binh hạng nhẹ những năm1380.
    4 và 5) Dây cương ngựa ở thế kỷ thứ 14 dùng để kiềm chế dưới hàm, mà sẽ bóp nó, mặc dù đại diện rất khó để tìm thấy ở thời kỳ này.
    6) Hàm ngựa tiêu biểu ở thế kỷ 14.
    [FONT=&quot]7) Bàn đạp ngựa.[/FONT]

    [​IMG]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Chế tạo áo giáp chỉ sắt
    Một số loại giáp đã được bởi các nhóm công nhân gần giống như là một dây chuyền sản xuất, với một nghệ nhân cụ thể mà ông ta sử dụng kỹ năng của mình để sản xuất một phần trang thiết bị cụ thể, chẳng hạn như chiếc khóa. Loại hình này đã tạo ra sự sắp xếp trong ngành công nghiệp vốn sẽ trở nên phổ biến trong thế kỷ sau khi yêu cầu về số lượng của áo giáp tấm tăng vọt lên nhiều lần. Tuy nhiên đối với việc chế tạo áo giáp chỉ sắt, hình thức sản xuất này có lẽ là bình thường. Những dây sắt được nung nóng được rút ra qua những chiếc lỗ có đường kính khác nhau trong một chiếc bảng gỗ cho đến khi có được độ dày phải. Sau đó dùng thước để đo và tạo những khớp nối. Đối với phần lớn những chiếc áo giáo chỉ sắt mỗi chỗ nối phải được làm phẳng tại mỗi điểm đầu và điểm cuối của nó và tạo một lỗ nhỏ đục xuyên qua để sẵn sàng cho một chiếc đinh tán. Tất cả các công việc này được lặp đi lặp lại và tốn thời gian và cũng có thể đã được thực hiện bởi một đội ngũ công nhân có lẽ bao gồm cả người học nghề. Sau đó các vòng sắt có thể được tôi cứng trong than củi. Những sau đó chúng được chuẩn bị để lắp ráp lại bởi các người tạo áo giáp chỉ sắt, người này nối bốn vòng sắt vào một chiếc vòng thứ năm với nhau trước khi chốt chiếc vòng sau cùng lại bằng kìm để chồng lên nhau và đảm bảo kết thúc với những [FONT=&quot]chiếc nêm đinh tán nhỏ cắt từ một đoạn xích. Kỹ năng của ông không chỉ nằm trong công việc khó này mà còn trong lắp ráp các vòng sắt thành hình quần áo mà nó yêu cầu tạo hình bằng cách tăng hoặc giảm số lượng các kết nối và sắp xếp một cách cẩn thận hoặc thậm chí có thể bớt đi một số các kết nối như ở nách, để chặn việc để lại một phần lồi ra. [FONT=&quot]Người ta không biết liệu có loại công cụ đặc biệt nào được sử dụng để tăng tốc độ quá trình làm các kết nối, chẳng hạn như một loại kìm đặc biệt. Có vẻ là một hình thức ít phổ biến trong công việc chế tạo, trong đó các vòng sắt được hàn đóng thay thế các đinh tavét khá là hiếm thấy ở thế kỷ 15.[/FONT]
    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Các kỹ năng khác cần thiết trong việc làm áo giáp tấm. Giáp tấm được định hình trên một cái đe (thường có hình vuông) được gắn vào một thân cây. Một lò lửa được điều khiển bằng một chiếc quạt bằng ống thổi làm bằng da, đây là dụng cụ cần thiết để nung nóng kim loại và các nguồn ánh sáng cũng là cần thiết phải kiểm soát để cho phép ngườ[/FONT][FONT=&quot]i thợ cả để kiểm tra màu sắc của miếng kim loại được rèn này để cho phép ông ta bỏ nó ra ở thời gian cần thiết hoặc để xử lý thêm

    [/FONT] [​IMG]
    Minh họa cấu tạo của áo giáp chỉ sắt ( áo giáp lưới sắt)



    [​IMG]
    Minh họa cấu tạo của áo giáp chỉ sắt ( áo giáp lưới sắt)


    [​IMG]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trang thiết bị của hiệp sỹ năm 1350
    1) Vào giữa thế kỷ thứ 14 áo choàng của hiệp sỹ có xu hướng rút ngắn lại, đặc biệt là ở phía trước, như được thấy trên con số ở trên tấm biển đồng của Sir John d'Aubenon. Ông mặc áo giáp nhiều lớp: một chiếc áo aketon bằng vải bông, sau đó là một chiếc áo giáp chỉ sắt, sau đó một chiếc áo giáp phiến với trang trí bằng các đầu đinh tán. Các giáp tay thấp hơn bảo vệ toàn bộ phần cánh tay, nhưng phần cánh tay vẫn chỉ được bảo vệ bởi tấm giáp hình máng trên tay áo giáp chỉ sắt rút ngắn. Những tấm giáp hình tròn bảo vệ nách. Poleyns, schynbalds và tấm sabatons đã bị mòn. Một tấm lưới bằng chỉ sắt được đóng đinh rivet bên trong chiếc sắt tạo thành chiếc rãnh và có một cái lưỡi trai mạ vàng.
    2) Chiếc mũ sắt có mặt nạ và cổ áo giáp phiến
    3) Chiếc mũ sắt của Hoàng tử đen, có lỗ thở được trang trí chỉ ở bên phải của người đội-năm 1376.
    4) Mũ sắt trang trí với mặt dây chuyền vàng.
    5) Quan sát của một chiếc áo giáp tấm kiểu chui đầu với phần lá chắn vai hình chiếc khiên được gắn kèm theo, vẽ theo loại tìm thấy ở Wisby tại Gotland.
    6) Loại áo giáp phiến bảo vệ rất vững chắc phần ngực.
    7) Bảo vệ tay.
    8) Giáp vảy cá bảo vệ cánh tay.
    9) Găng tay bằng sắt với giáp tấm có đóng đinh rivet.
    10) Giáp bàn chân loại vảy cá, cùng với kèm theo giáp ống chân.
    11) Đinh thúc ngựa bằng đồng.
    12) Kiếm lưỡi tương đối ngắn có điểm một viên kim cương năm 1350.
    13) Kiếm ở nửa đầu của thế kỷ 14, được tìm thấy ở London.
    14) dây phụ kiện đeo kiếm, tìm thấy từ hình nộm của Maurice-Lord Berkeley (chết năm 1326) tại Bristol.
    15) Áo chùng Garnache với ve áo hình cái lưỡi và chiếc mũ rộng vành.
    [FONT=&quot]16) Áo choàng kiểu Cote-Hardie với mũ chùm đầu. [FONT=&quot]
    [/FONT]
    [/FONT]

    [​IMG]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} F: ĐÀO HẦM MỎ Ở CORMICY, 1359
    Trong suốt cuộc bao vây Rheims một số quý tộc người Anh đã đi khắp các vùng nông thôn Pháp để ngăn chặn sự xâm nhập. Lord Bartholomew Burghersh (xem bên phải) đã đồn trú ở thị trấn Cormicy, nơi mà tòa lâu đài của đối phương có một tháp canh mạnh mẽ và có thể quan sát an toàn mà không bị tấn công. Ông ra lệnh đào một chiếc hầm mỏ và khi tất cả đã sẵn sàng, ông cho mời viên quan cai quản thành trì-Sir Henry de Vaulx, được đi ra trong điều kiện an toàn và cho ông ta thấy sự nguy hiểm mà ông phải chịu, nụ cười của Sir Henry nhạt dần khi ông đến nơi và thấy rằng nền tảng của ngọn tháp chỉ đứng vững được do hệ thống cây chống. Ông chấp nhận đầu hàng danh dự thay mặt tất cả những người của mình và sau đó ngọn tháp đã bị đánh sụp. Sir Henry thừa nhận rằng nếu Jacquerie của Pháp ('Jack Goodmans')-đại ý nếu quân Pháp mà chiếm được thượng phong trước đơn vị đồn trú tựa như vậy, thì họ sẽ không bao giờ đối xử hào phóng như người Anh đã làm. Tấm giáp che mặt của Sir Bartholomew được cấu tạo để có thể kéo xuống và hình thành một lá chắn cho cuống họng và chiếc áo giáp phiến của ông có thể được nhìn thấy rõ qua viền của chiếc áo khoác nhỏ của ông. Ông đeo những tấm giáp phiến bảo vệ đùi nhỏ được đóng đinh rivet bên dưới lớp vải che. Vị hiệp sĩ ở xa hơn bên trái mặc một áo giáp phiến có bọc bên ngoài.



    [​IMG]


    [​IMG]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trang bị của Hiệp sỹ năm1390
    1) Sir Hugh Calveley, dựa trên các hình nộm của ông tại Bunbury, Cheshire, ông có mặc một chiếc áo choàng vừa khít bên ngoài áo giáp của ông. Bên dưới chiếc áo này là chiếc áo giáp phiến vốn được thiết kế tách bạch phần giáp phiến ngực và phần giáp phiến lưng, và được tạp dạng với một chiếc váy bằng giáp phiến có dây đai da đeo từ bên trong. Một chiếc áo giáp chỉ sắt đầy đủ và áo lót aketon được thường vẫn được mặc bên dưới, nhưng vào thế kỷ tiếp theo chúng sẽ được loại bỏ để mặc một chiếc áo jaket bằng giáp phiến. Giáp bàn chân được gắn liền với chiếc giày bởi một điểm qua hai lỗ ở tấm giáp và cũng có được buộc vào khớp của giáp ống chân. Các họa tiết trang trí được gắn vào một tấm giáp đùi bằng đinh tán và phần giáp đùi có một cái dải để buộc nó vào quần áo lót từ điểm này. Giáp phiến ở vai được buộc vào vai qua hai điểm luồn qua các lỗ thủng trong một cái dây da được tán đinh rivet ở phía trên cùng của giáp tay phía trên kèm theo. Mũ sắt có một bang trang trí trên hộp sọ, mặt nạ có thể được loại bỏ. Từ khoảng năm 1370 một số lưới giáp che đầu được ẩn ở đằng sau một tấm dải có tác dụng trang trí. Đai đeo gươm nạm có thể giấu móc treo ở hông và được cân bằng bởi một con dao găm rondel.

    2) Một dạng áo jupon chùng và giáp che đầu được bọc bởi một lớp vải trang trí.
    3) Mũ sắt kiểu Đức dưới dạng Klappvisier, một vài ví dụ về lọai này mà người Anh cũng được trang bị.
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trang thiết bị của quân đội Anh trong thời kỳ chiến tranh Trăm năm-nửa cuối thế kỷ 14 ( tiếp)




    [​IMG]
    Chiếc mũ sắt của Hoàng tử Đen với họa tiết trang trí hình con sư tử trên đỉnh đầu




    [​IMG]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Các mũ sắt kiểu hàm ếch đời đầu khoảng cuối thế kỷ 14 được tìm thấy trong hầm mộ của Sir Reginald Braybrook (bên trái) và Sir Nicolas Hawberk tại nhà thờ Cobham, Kent


    [​IMG]
    Ảnh chụp chiếc lá chắn của Hoàng gia Anh, bông hoa huệ ( thể hiện yêu cầu ngai vị nước Pháp) và biểu tượng tam sư ( nhà Plantagenet)



    [​IMG]
    Tấm giáp phiến bảo vệ bắp tay và khủy tay



    [​IMG]
    Một chiếc mũ sắt lớn ở khoảng năm 1379 được tìm thấy ở hầm mộ của Sir Richard Pembridge ở Hereford Cathedral. Đây có thể là loại sản phẩm đặc trưng của người Anh



    [​IMG]
    Chiếc giáp bọc đầu ngựa ở khoảng cuối thế kỷ 14, đầu thế 15 được tìm thấy ở Lâu đài Warwick



    [​IMG]
    Chiếc găng tay hiệp sỹ với phần mu được bọc thép và phần lòng bàn tay làm bằng da



    [​IMG]
    Tranh vẽ Hoàng tử đen ở hầm mộ của ông




    [​IMG]
    Tranh vẽ một Hộ sỹ ( hiệp sỹ học nghề ) đang thực tập bài cưỡi ngựa đánh thương, cậu ta được ngồi trên chiếc ghế ghỗ có bánh xe có hai người hầu kéo đi để gỉa ngựa-thời này là cả gia tài và vị Hiệp sỹ sư phụ đứng ở bên trái


    [​IMG]
    Tranh vẽ cảnh một Hiệp sỹ chia tay người yêu để ra chiến trường hê hê rất lãng mạng nhưng thực tế thì có những hiệp sỹ nghèo đến mức phải lái cả máy bay bà già để có tiền mua ngựa, binh giáp ... để đi chiến đấu



    [​IMG]
    Tranh vẽ hai Hiệp sỹ-Sir Robert Knollys cùng Sir Thomas Grandison và đoàn tùy tùng của họ ở năm 1392. Họ có dùng chiếc cờ chữ thập đỏ St George của quân đội Anh


    [​IMG]
    Tranh vẽ một hiệp sỹ Anh mặc trang phục mang biểu tượng Tam sư và một Hiệp sỹ Anh khác mặc trang phục thánh St George, sau này khi nhà Plantagenet không còn cai trị nước Anh thì biểu tượng chủ yếu của quân đội anh là biểu tượng thánh St George


    [​IMG]
    Chiếc áo [FONT=&quot]aketon[/FONT] được cho là của Hoàng tử đen



    [​IMG]
    Chiếc áo [FONT=&quot]aketon[/FONT] được cho là của Hoàng tử đen


    [​IMG]
    Tranh vẽ một kỵ sỹ Anh bị trúng một phát nỏ vào lưng và chuẩn bị ngã ngựa
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trang thiết bị của quân đội Anh trong thời kỳ chiến tranh Trăm năm-nửa đầu thế kỷ 15



    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]


    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cung thủ trường cung Anh trong chiến tranh Trăm năm

    Những tay cung thủ trường cung Anh ( và rất nhiều trong số họ là người xứ Wales ) là những người bình dân, nông dân ( tiếng Anh là Yeomen) ... thậm chí là quân trộm cướp hoặc ít nhất là những tay săn bắn trái phép. Nhưng nhờ có họ mà trong chiến tranh trăm năm người Anh mới duy trì được chuỗi chiến thắng trước người Pháp. Nếu không có các tay cung thì sức mạnh quân sự của Anh chỉ là con gián trước người khổng lồ ở lục địa. Thực tế đã chứng minh vào giai đoạn cuối của cuộc chiến khi cây trường cung đã hết thời và thuốc súng lên ngôi thì người Anh đã liên tục thua bết bát
    .


    [​IMG]
    Tranh ảnh và thông tin được lấy từ quân " cung thủ trường cung Anh: vũ khí-thiết giáp-chiến thuật



    [​IMG]
    Tranh vẽ các cung thủ trường cung Anh với trang phục ở khoảng giữa thế kỷ 14-> đầu thế kỷ 15 đang chuẩn bị chiến đấu



    [​IMG]
    Các cung thủ trường cung Anh trong trận chiến Agincourt



    [​IMG]
    Cảnh các cung thủ trường cung Anh đang hoàn toàn lép vế trước đại bác của quân Pháp trong trận Castillon năm 1453



    [​IMG]
    Cảnh các cung thủ trường cung Anh đang luyện tập tay nghề và cảnh lãng mạn của một bác cung thủ đang tìm cách " thả dê" để tạo một tay cung con hê hê



    [​IMG]
    Trang bị quần áo, vũ khí và binh giáp của các cung thủ trường cung Anh



    [​IMG]
    Đồ nghề của một tay cung thủ trường cung Anh



    [​IMG]
    Tại một xưởng sản xuất cây trường cung ở Calais năm 1465



    [​IMG]
    Có vẻ như là người Burgundy đang tuyển mộ cung thủ trường cung vào năm 1475



    [​IMG]
    Cảnh một cung thủ trường cung Anh đã qua đời vì bệnh tật, ở trong sân người ta đang tập bài phòng ngự cơ bản nhất, đó là các tay giáo dàn hàng đứng phía trước, tạo thành một hàng rào thép không thể xuyên qua, phía sau là các cung thủ trường cung liên tục nhả đạn vào kẻ thù


    [​IMG]
    Cảnh các cung thủ trường cung Anh hành quân, cho dù họ có ngựa để cưỡi đi chăng nữa nhưng đến khi chiến đấu họ vẫn xuống ngựa để chiến đấu trên bộ.



    [​IMG]
    Cảnh cung thủ Anh và người Đức đánh lộn với nhau ở trong quán nhậu


    [​IMG]
    Công thức chiến thắng nổi tiếng của người Anh: Kị binh xuống ngựa + cung thủ trường cung + Cọc nhọn = Chiến thắng


    [​IMG]
    Lính xạ thủ Anh
    Lính cung thủ Anh
    Lính mang Kích của Anh



    [​IMG]
    Cung thủ trường cung Anh thường là những nông dân, thậm chí là cả những tay săn trộm ( như bác Robin Hood trong truyền thuyết dân gian của người Anh), đây là một vài khuôn mặt đặc trưng của họ


    [​IMG]
    Cảnh vua Charles VII Dounphin của Pháp đi thăm một gia đình người dân nghèo Pháp với sự hộ tống của các cung thủ Scotland ( vì hâm mộ các tay bắn trường cung Anh nên bác này đã tuyển mộ một loạt lính trường cung Scotland-đồng minh gắn bó của người Pháp lúc đó làm Lính ngự lâm quân)
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trang bị của quân đội Pháp trong chiến tranh trăm năm



    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]



    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]



    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]

Chia sẻ trang này