1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Giai đoạn 2: Đội hình chính của quân Pháp tấn công và Cuộc loạn đả ( Melée )

    [​IMG]
    Ảnh minh họa đội quân tiên phong của người Pháp bắt đầu tiến lên

    Lúc này thay vì là một lực lượng mạnh mẽ, đầy ghê gớm và hoàn toàn lấn át, đội quân tiên phong của người Pháp lại bị nát nhừ, cực kì dễ bị tổn thương và bị va đập đến choáng váng. Vị giáo sỹ của quân Anh tuyên bố rằng họ đã có thể tổ chức lại đủ để tạo cho chính họ thành ba đội quân mà họ đã tấn công . Đó là để nói, ba vị trí của người Anh, nơi mà các chỉ huy của ba đạo quân: tiền quân, trung tâm và hậu quân đang đứng. Điều này là hoàn toàn có thể và Keegan dự đoán rằng các cung thủ đang chuyển làn tên vào các hiệp sĩ bọc thép của Pháp đang tiến lên để đối đầu với các kị sỹ của họ. Giả định rằng quân Anh đứng thành ba bộ phận riêng biệt, mỗi bên cạnh sườn được yểm trợ bởi các cung thủ đã không còn đứng vững được nữa. Có lẽ tốt hơn là hãy lắng nghe người đương thời-những người nói với cho chúng ta biết rằng người Pháp đã rơi hoàn toàn vào tình trạng lộn xộn sau khi bị va đập bởi những kỵ binh bị đánh bại. Mặc dù vậy họ vẫn phải tiến lên. Danh dự buộc họ phải đọ kiếm với những kị sỹ đối thủ của họ. Trong thực tế, họ mang những cây thương bị cắt ngắn đi khoảng từ 5 -> 6 feet để làm cho họ ít bị va quệt vào nhau hơn và dễ quản lý hơn khi chiến đấu trên bộ. Nhưng họ đã gần kiệt sức. Các mặt đất nơi họ đi qua, không giống như nơi quân Anh đã vượt qua trước đó trong ngày, đó là một bãi lầy. Nó bị làm cho nghiêm trọng hơn bởi những con ngựa của kị binh của họ vốn được cưỡi bởi các kiếm đồng và những người hầu trong suốt đêm lạnh, nó đã bị khuấy sâu thêm bởi các đợt tấn công và rút lui của kỵ binh, và lúc này thì hàng ngàn người đàn ông trong những bộ thiết giáp nặng nề và tiến trong có lẽ từ 8 -> 10 hàng theo chiều sâu và cày ải nó thành khủng khiếp hơn nữa.


    [​IMG]
    Bản đồ cho thấy hướng tiến quân của các đạo tiền quân và trung quân của Pháp, còn đạo hậu quân thấy thảm cảnh của hai đạo quân trước đó đã nhảy lên ngựa và chạy trốn.


    [​IMG]
    Ảnh minh họa các cung thủ Anh đứng sau các lớp hàng rào cọc nhọn và nã tên như mua vào quân Pháp

    [​IMG]
    Ảnh minh họa các cung thủ Anh đứng sau các lớp hàng rào cọc nhọn và nã tên như mua vào quân Pháp

    [​IMG]
    Ảnh minh họa các cung thủ Anh đứng sau các lớp hàng rào cọc nhọn và nã tên như mua vào quân Pháp

    Những cơn mưa tên đã buộc tất cả mọi người phải cúi đầu của mình xuống vì sợ rằng một mũi têm có thể bắn trúng mắt sau khi xuyên qua tấm giáp che mặt trên chiếc mũ sắt của mình. Hơn nữa người Anh lại đứng với mặt trời mùa đông đã xuống thấp phía sau họ - một yếu tố nữa làm người Pháp thêm phần hoang mang và mất phương hướng. Trong một phạm vi ngắn, không nghi ngờ gì rằng những mũi tên kiểu bodkin của người Anh, vốn được thiết kế để sử dụng trong việc này, đã bắt đầu xuyên qua ngay cả nững tấm áo giáp phiến bảo vệ. Khi người Pháp đến được vị trí của quân Anh, sau ba trăm yard như những người mù, với những cơ chân bị trật khớp vì đi bộ, có thể họ đã không còn sức lực để chiến đấu. Có lẽ họ đã đẩy người Anh lùi lại một vài yard, nhưng nhiều người Pháp đã hoàn toàn kiệt sức. Và họ đã rất đông đến mức rằng ngay cả khi họ còn có đủ sức mạnh để nâng vũ khí của mình lên thì họ cũng không có khoảng không gian để vung chúng lên và ra đòn đánh.

    [​IMG]
    Các kị sỹ xuống ngựa của Pháp vẫn tiếp tục tiến lên, danh dự của họ không cho phép họ tháo lui

    [​IMG]
    Tiến lên

    [​IMG]
    Các kị sỹ xuống ngựa Anh cũng nghênh tiếp quân Pháp và trận hỗn chiến bắt đầu


    [​IMG]
    Trong cuộc hỗn chiến này người Pháp hơn hẳn về số lượng


    [​IMG]
    Nên các hiệp sỹ Anh không dễ dàng gì để có thể đánh bại được họ

    [​IMG]
    và người Anh cũng phải chịu những tổn thất

    [​IMG]
    Có những hiệp sỹ Anh đã gục ngã và cả nhà vua Anh cũng dính đòn tơi bời

    [​IMG]
    Nhưng khi các cung thủ Anh buông các cây cung ra và vồ lấy vũ khí thì quân Pháp liền bị đẩy lui


    [​IMG]
    Và chính những tay cung thủ mới là nhưng người chiến thắng trong trận cận chiến


    Tuy nhiên trận chiến vẫn tiếp tục diễn ra ở cường độ cao. Người Anh cũng đã bắt đầu bị thương vong, đáng chú ý nhất là Công tước xứ York. Ông ta có lẽ không phải bị chết ngạt dưới một núi các xác chết như vẫn thường được tuyên bố, mà là những cú đánh đã làm vỡ mũ sắt dẫn đến việc là hộp sọ của ông này bị vỡ. Số phận tương tự xảy cũng gần như là xảy đến với nhà vua Anh. Tất cả mười tám người được cho là những hộ sỹ đều thề rằng Henry đã ngã gục và thiệt mạng, nhưng ai đó (Có lẽ một trong số họ hoặc có thể là Công tước Alencon) đã đánh trúng ông ta một đòn vào chiếc mũ sắt và trúng ngay vào chiếc vương miện bằng vàng trên đầu và cho các họa tiết trên đó phải chịu nhiều sứt mẻ. Chắc chắn là Henry đã chiến đấu ở chỗ dày đặc nhất. Ông ta đứng ở bên cạnh bá tước Oxford-lúc này đang bị thương năng và ngăn cản không để ông bị giết bởi người Pháp. Cuộc chiến giữa những kị sỹ dường như là một trận cận chiến. Đáng ngạc nhiên, có lẽ sự can thiệp hiệu quả nhất có ảnh hưởng quyết định đến kết quả của cuộc giao tranh dường như lại được tiến hành bởi các cung thủ được trang bị nhẹ. Tất cả các tài tài liệu đều mô tả rẵng họ đã ném những cây cung của mình đi và tham gia vào cuộc chiến đấu tay đội. Họ được trang bị bằng những thanh kiếm, bao gồm cả gươm lưỡi cong, rìu chiến và những chiếc vồ nặng nề (vốn được sử dụng để đóng những chiếc cọc nhọn xuống đất lúc này lại được dùng để đánh ngã đối phương). Họ rất nhanh nhẹn và dễ dàng di chuyển trên mặt đất lầy lội, làm cho họ trở nên có một trận đánh dễ dàng với những vị hiệp sỹ đang kiệt sức và đang hết sức kinh ngạc-những người trái ngược với họ-vốn hay xem thường những tay cung thủ vốn được sinh ra ở đẳng cấp thấp nhưng lúc này lại trở thành con mồi dễ dàng cho bọn họ.


    Vì vậy, dường như điều không thể ra đã xảy ra. Một đội quân Anh nhỏ bé bắt đầu đẩy lùi người Pháp ở phía trước của nó, giết chết, đánh gục xuống và bắt tù binh tất cả những ai đối mặt với họ. Một số quấn biên niên sử nói rằng những đống xác chết cao ngang chiều cao của một người đàn ông. Trong khi thực tế thì không có gì phải nghi ngờ, có rất nhiều thân thể nằm rải rác xung quanh, một số người đã chết và một số khác thì bất tỉnh, một số nữa chỉ đơn thuần là bị mắc kẹt và trở nên bất động về mặt vật lý, nhưng người ta bắt đầu có cảm giác về một vụ thảm sát.. Lúc này thì đạo quân đầu tiên của Pháp đã bị buộc phải quay trở lại và lẫn lộn vào đạo quân thứ hai. Nhưng điều này dường như cũng không có tác dụng củng cố đội hình của người Pháp. Nó cũng chỉ đơn thuần là tạo ra một kết quả y như lần trước. Tất cả các kị sỹ của quân Pháp bao gồm cả những người có đẳng cấp cao nhất trong bọn họ đã không còn muốn tiếp tục chiến đấu. Đấy là do sức nóng-một điều rủi ro trong trận chiến. Quá nhiều người Pháp dường như luôn nghĩ một trận cận chiến như là một cuộc cưỡi ngựa đâ
    ́u thương giữa các quý tộc, mà họ có thể trao chiếc găng tay của mình cho một người khác như một biểu tượng của sự đầu hàng khi một cuộc đấu đã có kết quả rõ ràng để bảo tồn danh dự của cả hai bên. Công tước xứ Alencon ( con của ông ta-John of Alencon, lại tiếp tục tham gia chiến đấu với người Anh và sau đó đã trở thành một chiến hữu thân cận của Jan d’ Arc ) đã bị mất đi cuộc sống của mình theo cách này và không nghi ngờ gì nữa rất nhiều người khác cũng vậy. Sau trận chiến tay đôi với Henry và thấy mình trở nên cạn kiệt hết sức lực, ông ta (Công tước xứ Alencon ) đã cố gắng để tìm cách hạ vũ khí và đầu hàng. Nhưng sau khi làm như vậy, ông đã bị đánh đập đến chết bởi một binh sỹ người Anh, người đã bị phát điên.

    Đạo quân thứ ba của người Pháp, hoàn toàn trở nên kinh hoàng thất bại của hai đạo quân đầu tiên và thứ hai, đã không thể di chuyển. Thực sự thì một số kị sỹ đã nhảy lên ngựa và bỏ chạy. Một sốnhững kị sỹ may mắn trong đạo quân đầu tiên và thứ hai cũng đã nhảy lên những con ngựa của họ với sự giúp đỡ của các thuộc hạ và trốn thoát. Nhưng tất cả các chỉ huy chiến trường của người Pháp đã đều hoặc bị giết hoặc bị rơi vào tay người Anh.Cả hai người lập kế hoạch chiến đấu của quân Pháp, vị Thống chế và viên Nguyên Soái: d'Albretđã bị giết và Boucicault đã bị bắt. Chúng tôi đã thấy rất nhiều những cái tên trong kế hoạch chiến đấu hoặc đã bị giết hoặc bị bắt nếu không thì cũng phải chịu những số phận nghiệt ngã khác. Với việc tất cả các vịchỉ huy của nó đều bị vô hiệu hóa, lực lượng còn lại của quân đội Pháp, mặc dù vẫn còn rất hùng hậu đã trở nên khá bất lực.[FONT=&quot]
    [/FONT]
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Giai đoạn 3: Thảm sát tù binh


    [​IMG]
    Tranh vẽ sau khi trận Agincourt kết thúc

    Trận chiến chính diễn ra rất ngắn. Nó có thể chỉ diễn ra trong nửa giờ, mặc dù theo một số tài liệu là từ hai đến ba giờ ( có lẽ bao gồm cả một số những bước tiến quân ban đầu ). Tại đầu buổi chiều ngày hôm đó-một ngày ngắn ngủi của cuối tháng Mười. Người Anh đang đi tìm kiếm để thu thập các tù nhân của họ và tính toán về các khoản tiền chuộc béo bở mà họ sẽ kiếm được cũng như chăm sóc vết thương cho thương binh của họ và hô hấp cho những người không thể thở. Chiến thắng đã là điều quá rõ ràng, người Pháp đã hoàn toàn bị đánh bại và bỏ chạy. Nhưng một điều gì đó đã xảy ra với Henry và đây chính là nguyên nhân để ông này ra một mệnh lệnh vi phạm đến các điều ước của chiến tranh thời Trung cổ: đó là hạ sát phần lớn những người đã bị bắt làm tù nhân. Trong thực tế, có hai điều xảy ra.


    Đầu tiên là một người tới chỗ Henry và báo cáo rằng doanh trại của ông đã bị tấn công. Chính xác khi nào cuộc tập kích này được thực hiện là điều hoàn toàn không rõ ràng. Câu chuyện thông thường được chấp nhận bởi các nhà sử học là sau trận đánh thì vị lãnh chúa ở địa phương –Isembart d'Agincourt, được trợ giúp bởi Rohinet de Bournonville, Riflart de Clamasse và một số kị sỹ khác, đã dẫn đầu 600 nông dân tình nguyện của họ và phát động một cuộc đột kích vào trong doanh trại của quân Anh. Chắc chắn một vài đồ quý giá như một chiếc vương miện, một số bạc và một thanh kiếm báu đã bị cướp phá từ doanh trại quân Anh. Sau đó, một điều kiện để chuộc Ralph de Gaucourt là ông này phải tìm lại những đồ quý giá này. Ông ta (Ralph de Gaucourt ) đã thành công trong việc tìm lại một phần những đồ đã bị cướp phá. Câu chuyện này sau đó còn kể rằng d'Agincourt và Bournonville đã bị bỏ tù bởi Công tước xứ Burgundy ( thực chất ông này là đồng minh của người Anh) vì hành động đáng hổ thẹn này của họ, mặc dù họ đã dùng thanh kiếm báu để làm quà tặng cho con trai ông ta. Nhưng tất cả những sự kiện này có thể không nhiều hơn là một sự biện minh để đổ lỗi cho ai đó sau khi bi kịch đã xảy ra.


    Hành động thứ hai thúc đẩy vụ thảm sát là cố gắng phản công bởi một phần còn lại của
    đạo quân thứ ba. Giữa sự hỗn loạn, một số các lãnh chúa như Bá tước của Marle và Fauquembergh và các Lord của Louvroy và Chin, đã cố gắng tập hợp 600 kị sỹ. Với lực lượng này, họ đã tung ra một đòn tấn công bằng kị binh, mà theo Monstrelet, nó kết thúc trong thảm hoạn cũng như tất cả những đợt tấn công khác. Theo vị Giáo sỹ của quân đội Anh thì có vẻ như đây là thời điểm mà Ilenry đã ra lệnh giết chết gần như tất cả các tù nhân. Theo Monstrelet thì như chúng ta đã thấy, nguyên nhân là một cuộc tấn công bột phát vào đám hậu quân. Cả hai hành động trên đều được sử dụng để đổ lỗi cho việc tham dự vào cuộc tàn sát sau đó. Cả hai đều được cho rằng có thể thay đổi kết quả của trận chiến và được ghi nhận một cách không nghi ngờ là những cuộc đột kích đầy sáng tạo.

    Mặc dù đã chiến thắng, nhưng người Anh vẫn rất dễ bị tổn thương. Họ không có phương tiện để bảo đảm cho tất cả các tù nhân hoặc chấp nhận sự đầu hàng của tất cả bọn họ. Vẫn còn quá nhiều binh sỹ Pháp được trang bị thiết giáp hạng nặng đủ để áp đảo người Anh nếu họ phục hồi lại được tinh thần. Vì vậy, Henry đã ra lệnh hạ sát các tù nhân. Chỉ những tù nhân nổi bật nhất mới được giữ lại tính mạng, như các Công tước d’Orleans và
    Bourbon. Nhưng như chúng ta đã thấy, những người vốn sinh ra đã cao quý cũng không được đảm bảo, như thời điểm này. Các hiệp sĩ và kị sỵ coi đều coi đó là một hành động đê tiện và mất phẩm giá của họ khi phải tham gia vào việc giết chết những người không thể tự vệ, vì vậy nhiệm vụ này được thực hiện bởi 200 tay cung thủ dưới sự chỉ huy của một viên hộ sỹ. Ngay cả khi so sánh với tình trạng lộn xộn, đẫm máu của trận chiến nó vẫn là một cảnh nghiệt ngã hơn nhiều. Người Pháp đã bị giết như thế nào? St Remy, người chứng kiến ​​vụ thảm sát, mô tả họ như là bị chặt ra từng mảnh, đầu và mặt. Thực tế đó là nơi duy nhất mà một hiệp sĩ với đầy đủ giáp trụ thực sự dễ bị tổn thương. Chỉ khi họ loại bỏ mũ sắt hoặc tấm giáp che mặt của một người đàn ông, thì người này mới có thể bị giết chết một cách dễ dàng. Những người kháng cự lại có thể sẽ bị đâm qua khe mắt trong chiếc mũ bascinet của họ. Kiểu giết người máu lạnh đầy kinh hoàng như vậy thường không được lưu lại trong sách sử đương thời, nên người ta không chắc chắn rằng nó đã được thực hiện như thế nào, dù rằng đây cũng là một vấn đề đáng được đề cập, nhưng còn việc ai là những người đã bị hạ sát. Những người đàn ông bị giết chết đều là những quý tộc và quý ông, không phải là những người sinh ra ở đẳng cấp thấp và phải chết ở trên chiến trường ( quân địch không bắt tù binh những thường binh vì không có tiền chuộc). Người đã viết các tài liệu này cũng là người có nguồn gốc từ tầng lớp thượng lưu, và thực tế tàn bạo này đã gây mâu thuẫn với hình ảnh của một cuộc chiến lịch lãm đầy chất mã thượng mà họ thường theo đuổi, mà họ thường mô tả. Nhưng, như chúng ta đã thấy, họ đã không đổ lỗi cho Henry vì đã ra cái mệnh lệnh tuy cần thiết nhưng quá tàn bạo này, mà đổ lỗi cho những chỉ huy người Anh đã mang đến cho ông ta những thông tin sai lệch về tình hình chiến cuộc.

    Tham khảo Kế hoạch của người Pháp


    Cho đến nay các mô tả về cuộc tấn công vào đạo hậu quân ở Agincourt được định giá bề mặt từ các sử gia đương đại: đó là một cuộc tấn công bột phát bởi một lãnh chúa địa phương tham lam. Nhưng nó cũng rất phù hợp với kế hoạch ban đầu của người Pháp. Họ ( các chỉ huy chiến trường của Pháp ) đã dự kiến
    ​​một cuộc tấn công sâu rộng khoảng trên bên trái ở phía sau quân Anh, kết hợp với các đợt tấn công bằng kỵ binh vào cánh phải của nó. Chúng tôi không được biết khi nào cuộc tấn công vào doanh trại của quân Anh đã nổ ra. Một số tài liệu cho rằng nó xảy ra vào giai đoạn đầu của trận chiến, những người khác lại liên kết nó với các cuộc tấn công từ một phần của lực lượng kị binh của đạo binh thứ ba. Nếu nó được lên kế hoạch trùng hợp với cuộc tấn công trực diện, thì sau đó nó đã sao chép chiến thuật của người Pháp một cách đầy đủ. Sau tất cả, ai là người xứng đáng hơn vị lãnh chúa ở địa phương trong việc chỉ huy một cuộc tấn công như vậy-những người rất tỏ tường cách để đi xuyên qua khu rừng? Nên nhớ rằng vào buổi tối trước đó, Henry đã được báo động bởi những ý tưởng bởi chỉ những cú tấn công bọc sườn từ đàng sau bìa của những khu rừng, không ở cạnh bên này thì cũng ở cạnh bên kia.

    Nếu giải thích này được chấp nhận và nó là một đề xuất của Chris Philpotts-một học giả trẻ tuổi người đã tìm thấy bản thảo có chứa các kế hoạch chiến đấu, sau đó chúng ta phải tín nhiệm những tài liệu của người Pháp tại Agincourt với nhiều ý nghĩa hơn nữa so với trước đây đã từng được hiểu. Ít nhất là nó cũng đúng một phần. Những người đương thời hoàn toàn đúng trong việc đổ lỗi cho sự bất cẩn đến mức vượt quá cả sự tự tin của người Pháp. Vẫn những người đàn ông này, những người đã vạch ra kế hoạch chiến đấu-mà kế hoạch này hoàn toàn có thể đánh bại người Anh lại tự chứng minh là nó vô hiệu lực khi đi vào thực thi. Lỗi lầm một lần nữa nằm ở việc thiếu một nhà lãnh đạo duy nhất trong doanh trại của quân Pháp.


    Mặc dù các viên Thống chế và Nguyên soái là những sỹ quan giàu kinh nghiệm và quan trọng của nhà vua, họ vẫn không quản chế nổi các Hoàng thân cùng huyết thống với Hoàng gia. Họ chỉ có quyền điều hành một đơn vị nhỏ của riêng mình và phải tuân theo những người đồng hành ( các vị Hoàng thân ), có thể họ đã có kế hoạch chu đáo. Nhưng một khi phải nhập vào với một lực lượng lớn hơn và những cạnh tranh và sự kiêu ngạo cộng với sự ích kỷ của các quý tộc Pháp có đẳng cấp cao hơn, họ đã không có cơ hội. D'Albret và Boucicault được trong xếp trong đội hình tiên phong cùng với tất cả các quý tộc, những người có tham vọng tìm kiếm một vinh quang về mặt quân sự mà họ phải chia sẻ. Trong khi đó kỷ luật lỏng lẻo đã cho phép người của họ đi lang thang ra khỏi các vị trí đóng quân và dẫn đến sự thiếu hụt quan trọng về lực lượng ở kỵ binh hai cánh; Hơn nữa, mọi người đều có thể nhìn thấy rằng chiến trường là quá chật hẹp cho một số lượng người quá lớn, nhưng liệu họ ( hai vị Nguyên soái và Thống chế ) có thể tái triển khai những lực lượng thừa này ở những nơi khác nào đó.


    Lại một lần nữa vấn đề là việc là
    ̀m cho quân đội bị cản trở đến mức họ khó có thể cơ động được. Nhưng khi quân đội tiến lên để chống lại kẻ thù của nhà vua trên một mặt đất đã được lựa chọn bởi các chỉ huy Pháp. Không thể rút lui khỏi một vị trí như vậy. Kết quả của sự kết hợp của chiến thuật và tâm lý thiếu linh hoạt, người Anh đã giành chiến thắng trong ngày hôm đó. Và họ đã thắng bằng cách cho thấy những đức tính hoàn toàn trái ngược với những tương ứng của người Pháp: khả năng gan góc và lì lợm cùng với việc chủ động đối mặt với nguy hiểm, cùng với những thiên bẩm về tài chỉ huy của nhà lãnh đạo.

    Sau khi dấu vết cuối cùng của bất kỳ mối đe dọa nào của người Pháp đã kết thúc, lúc này Henry đã làm chủ chiến trường cùng với tất cả các nguồn thực phẩm và trang thiết bị mà đối phương bỏ lại, ông ra lệnh rút lui một lần nữa và hạ trại tại Maisoncelle. Ngày hôm sau ông lại tiếp tục cho hành quân tới Calais


    KẾT QUẢ CỦA TRẬN CHIẾN


    Henry đã không làm và cũng không đủ lực để khai thác ngay lập tức chiến thắng của ông. Ông đã cùng quân đội vốn đã kiệt sức và rách rưới của mình, cùng với những tù binh hoành tráng của nó, hành quân rất chậm chạp trong ba ngày để tới Calais. Tại đây ông mất hai tuần để sắp xếp công việc và chờ một cơn gió thuận lợi để về Anh. Ông đã xuống tầu tại Dover vào ngày 16 tháng 11 và một tuần sau được chào đón tại London với một cuộc đón tiếp xa hoa. Một bài hát chiến thắng lặp đi lặp lại điệp khúc: “ Deo gratias Anglia redde pro victoria “-ý của Chúa là Henry và Anh phải giành chiến thắng.


    Tại sao Henry lại không hành quân thẳng đến Paris để thực thi tuyên bố của mình? lý do rất đơn giản, lúc đó cũng đã vào cuối mùa chiến dịch và quân đội của ông cũng đã bị đánh đập cho tơi tả và cạn kiệt hết lương thực. Đúng là người Pháp đã bị thất bại một cách thảm hại, nhưng các thành phố của Pháp không thể bị thất thủ chỉ trước vài ngàn người vốn không có các thiết bị bao vây. Trong thực tế, phải mất thêm 5 năm để đưa Charles VI đến Hiệp ước Troyes, và Henry được phép kết hôn với Katherine-con gái của Charles VI, người được công nhận là người thừa kế ngôi vua của Pháp. Các vùng lãnh thổ không phải giành được từ chiến thắng trong những trận chiến mở, mà là từ những cuộc vây hãm lâu dài, chẳng hạn như những thành phố Caen và Rouen. Gạt Agincourt sang một bên, kết quả chính của chiến dịch 1415 là việc chiếm được Harfleur và biến nó thành căn cứ mà từ đó có thể tấn công vào xứ Normandy, đây là nền tảng cần thiết cho một chiến lược chinh phục trong dài hạn. Thành phố này ( Harfleur ) đã bị tái bao vây bởi quân Pháp trong năm sau đó, nhưng rồi phần lớn quân đội của họ ( quân Pháp) đã bị đẩy lui sau một chiến thắng của hải quân Anh ở dưới các bức tường của thành phố.


    Chưa hết, Agincourt là một cú đánh trầm trọng vào nhuệ khí của người Pháp cũng như khả năng giáng trả của Charles VI. Đầu tiên là mọi người đều cho rằng công lý đang ở phía người Anh. Một sử gia đổ lỗi thất bại cho sự trả thù của thần thánh. Vì trận chiến nổ ra vào ngày của Thánh Saints Crispin và Crispinus, vốn có liên hệ mật thiết với thành phố Soissons ( thuộc phe Burgundy ), thành phố này vốn bị phe Armargnac triệt hạ một năm trước đó. Những thiệt hại về người là rất lớn, khoảng 600 người thuộc tầng lớp quý tộc và hiệp sỹ đã bị giết tại Agincourt. 5 vị Công tước, 12 Bá tước và hàng loạt những chỉ huy về mặt quân sự và chính trị bị bỏ tù. Một sử gia người Pháp-Francoise Autrand, đã tính toán rằng 1/3 trong tổng số 1.400 những ủng hộ viên hùng mạnh về mặt chính trị của nhà vau Pháp Charles VI đã bị xóa sổ sau thảm họa Agincourt.


    Họ đến từ những tỉnh miền Bắc nơi mà nhà vua tuyển dụng quân đội và những công chức trong chính phủ của ông ta. Nó đã chặt đứt cấu trúc quân sự của Hoàng gia và làm tan vỡ hệ thống tổ chức các nguồn lực kinh tế của nó ( HG Pháp) và là suy giảm một cách nghiêm trọng năng lực của Hoàng gia Pháp trong việc kháng cự lại tham vọng của người Anh. Chính vì những khía cạnh này mà nó làm cho Henry đạt được những chiến thắng dễ dàng hơn sau đó ( lưu ý là dễ dàng hơn chứ không phải là dễ dàng ).

    [​IMG]
    Hậu quả của trận Agincourt là cũng phải đến năm 1422 thì Henry V mới chiếm được một phần khá lớn lãnh thổ Pháp, nhưng phải nhờ chiến thuật bao vây là chính chứ không phải là những chiến thắng vang dội

    Điều trớ trêu là vị vua trẻ tuổi ( Henry V) lại chết trước ông bố vợ già cả của mình ( Charles VI ) những 7 tuần lễ. Ông ta-Henry, không bao giờ được nắm quyền cai trị cả hai vương quốc, và cái quyền này lại rơi vào tay người con trai sơ sinh của ông. Chiến tranh Trăm năm đến đây vẫn chưa kết thúc ( vì phe Armargnac đã tuyên bố chối bỏ quyền thừa kế của vua Henry VI-con trai của Henry V mà suy tôn Charles VII con trai của Charles VI lên làm vua nước Pháp), nhưng Henry V đã lại bắt đầu một thời kỳ mà người Anh chiếm ưu thế trước người Pháp và thời kỳ này kéo dài khoảng một thế hệ.
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Một số trận chiến giữa Anh và Pháp sau trận Agincourt

    Bao vây thành phố Rouen


    Cuộc bao vây Rouen
    được tiến hành bởi người Anh từ năm 1418-1419 trong cuộc Chiến tranh Trăm năm.

    Vào năm 1418 thành phố Rouen có khoảng 70.000 dân một trong những thành phố lớn nhất ở nước Pháp thời đó. Việc chiếm giữ thành phố là để có được chiếc chìa khóa rất quan trọng để xâm chiếmCông quốc Normandy-đỉnh điểm của cuộc chiến tranh trăm năm ( Công quốc Normandy thuộc lãnh thổ của Pháp nhưng lại là quê hương của Quận công William-người sau này trở thành vua nước Anh, nên con cháu của ông ta không ngừng tranh chấp với nước Pháp để đòi lại vùng đất này ).

    Kể từ
    sau cuộc tái chinh phục Công quốc Normandy trong năm 1204 ( Sau khi vua Anh-Risa Sư tử tâm chết trận, người em trai là Hoàng tử John lên nối ngôi-ông này là người bất tài và nhu nhược nên không được lòng các quý tộc người Normandy. Vua Pháp là Philip IV nhân cơ hội này kéo quân vào tái thu phục Công quốc Normandy-một vùng đất của Pháp phải cắt cho người Norman vào cuối thế kỷ thứ 10 ), thành phố được bảo vệ bởi tòa lâu đài Rouen, tòa lâu đài này được xây dựng bởi nhà vua Pháp-Philippe Auguste trong năm 1204->1210 đây cũng là trụ sở về hành chính và chính trị của vùng Normandy.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Vào năm 1415, năm vua Henry V của Anh đã xâm chiếm thành phố Harfleur ở cửa sông Seine, thành phố Rouen đã được tăng cường phòng thủ một cách đáng kể. Khi người Anh xuất ở Rouen, các bức tường hai bên sườn của thành phố đã được củng cố với những chiếc tháp canh được đặt những khẩu súng và một lực lượng cung thủ được chỉ huy bởi Alain Blanchard và bản thân ông này lại nằm dưới sự chỉ huy của Guy Le Bouteiller-một viên Đại úy được lựa chọn bởi thành phố Rouen và cũng là một người ủng hộ phe Burgundy trong cuộc nội chiến giữa hai phe Armagnacs và Burgundy, ông này cũng còn là cựu đội trưởng của thị trấn Dieppe.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sự xuống dốc của vương quốc Pháp, đặc biệt là ảnh hưởng của nó ở vùng Normandy, tiếp theo những sắc thuế mới càng làm tăng thêm lòng hận thù với phe Armagnac ( phe phái đang nắm quyền kiểm soát chính ở triều đình Pháp lúc đó ).

    Vì quân Anh không có đủ lực lượng về nguồn nhân lực nên họ đã không thể tiến hành các cuộc tổng tấn công vào thành phố. Ngoài ra, vua Henry V của Anh-người đã chiến thắng quân Pháp trong trận Agincourt vào năm 1415, đã quyết định khiến cho thành phố phải thất thủ bởi nạn đói.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Một cách cực kỳ khéo léo, người Anh đã bao vây xung quanh con đường thủy vào thành phố bằng tàu chiến của họ và cắt đứt nốt những con đường trên đất liềnnhững như phong tỏa tất cả các nguồn cung cấp thực phẩm từ sông Seine.

    Vì có nạn đói nên những người nghèo, người tị nạn ( khoảng 12.000 người) bị trục xuất khỏi thành phố vào mùa đông. Thật không may cho họ, họ không thểrời khỏi các chiến hào, họ đã bị cấm không được rời đi bởi người Anh.

    Quân đồn trú đã tổ chức những cuộc đột phá vòng vây rất dũng cảm nhưng đầy tuyệt vọng, trong một cuộc xuất kích những cây cầu của thành phố đã đổ sụp dưới chân của các binh sỹ đồn trú, các dầm cầu đã bị cưa bỏ. Theo quấn biên niên sử của Thánh Denis vốn được viết bởi các thầy tu đã phải chịu đựng những ngược đãi từ phe Burgundy, đã đưa ra một số thông tin rằng có những tin đồn về sự phá hoại ngầm và phản bội của viên quan trấn thủ Guy Le Bouteiller.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Triều đình Pháp lúc này đang càng lúc càng hỗn loạn vì vua Charles VI của Pháp ngày càng trở nên điên rồ phe đ.ảng Armagnac ngày càng can thiệp thọc sâu vào công việc của triều đình, nên không thể tiến hành bất kỳ sự trợ giúp nào cho Rouen.

    Khô
    ng có những trận chiến đổ máu, chỉ phải đối mặt với nghịch cảnh như nạn đói và bệnh dịch, dân số của Rouen ngày càng xuy giảm đến tận cùng, họ (cư dân của Rouen ) phải chọn phương án giải quyết bằng cách gửi viên quan tổng trấn Guy Le Bouteiller cùng với sáu thị dân khác làm đại diện và tiến hành thương lượng với người Anh.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sau tám ngày đàm phán, phái đoàn của Rouen không thể chấp nhận bất kỳ điều kiện nào của người Anh. Sau đó có vẻ như người dân Rouen đã quyết tâm phá hủy thành phố của họ và từ bỏ nó bằng cách thử tiến hành một cuộc phá vây tuyệt vọng.

    Được thông báo về nguy cơ không thu giữ được bất cứ một cái gì ngoài những đống tro tàn sau một cuộc bao vây kéo dài đến nửa năm, vua Henry V của Anh đã phải đưa ra những điều kiện thuận lợi để thành phố Rouen đầu hàngngười dân của Rouen đã phải trao chiếc chìa khóa của thành phố cho vị chủ nhân mới của nó vào ngày 19 tháng 1 năm 1419.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Henry V của Anh đã thành lập nơi cư trú chính thức như thủ đô của mình Pháp tại lâu đài Rouen và lâu đài Vincennes. Ông này cũng được bắt chước bởi vua Henry VI của Anh năm 1422, tiếp theo là Edward IV-người được sinh ra tại Rouen trong năm 1442 (vua của nước Anh và Vua danh nghĩa của nước Pháp).

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Thành phố Rouen đã không trở trở về tay của vua Pháp cho tới tận năm 1449 ( sau 30 năm nằm trong tay người Anh ) khi Charles VII xuất hiện trước khi thành phố cùng với viên chỉ huy pháo binh hiện đại- Jean Bureau, các khẩu pháo này được đúc bằng tiền tài trợ hoặc cho vay từ Jacques Cueur ( một thương gia người Pháp ).

    Khi nhận được thông tin rằng nhà vua Pháp vẫn cho phép Rouen được duy trì các đặc quyền của mình, cư dân của thành phố đã nổi dậy chống lại người Anh. Tuy nhiênRouen vẫn phải chờ đợi khá lâu mới có một nền hòa bình thực sự và những điều kiện thuận lợi cho thương mại.
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Baugé

    Trận Baugé là một trận chiến nổ ra giữa quân đội Anh và Liên quân Pháp-Scotland ( theo hiệp ước Đồng minh Auld Alliance-và vào lúc tưởng như nước Pháp đang nguy kịch đến nơi thì có một đội quân người Scotland đổ bộ lên lãnh thổ Pháp để giúp họ chiến đấu chống lại quân Anh) vào ngày 21 tháng 3 năm 1421 tại Baugé phía đông của vùng Angers thuộc nước Pháp. Đây là một thất bại lớn đối với quân Anh trong Chiến tranh Trăm năm. Quân đội Anh được chỉ huy bởi Thomas Lancaster, Công tước đầu tiên của Clarence-người anh em trai của nhà vua Anh, Henry V, trong khiLiên quân Pháp-Scotland được chỉ huy bởi John Stewart, Bá tước thứ 2 của Buchan, và Gilbert de Lafayette-quan Nguyên soái của nước Pháp. Lực lượng quân đội Anh có khoảng 10.000 người trong khi đó lực lượng Pháp-Scotland chỉ có khoảng 6.000. Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}

    T
    rận chiến chính


    Trong khi
    vua Henry đang lại Anh để tập trung một lực lượng lính nghĩa vụ mới trong 1421, Thomas Lancaster, Công tước của Clarence-người anh em trai của ông đã dẫn đầu một đội quân khoảng dưới 15.000 người tiến về phía sông Loire. Họ thiết lập một cuộc bao vây nhằm vào lâu đài Bauge trong khi một đội quân người Scotland khoảng 6.000 người dưới sự chỉ huy của Bá tước Buchan đang tìm cách để chặn đứng họ vào trước ngày Thứ SáuTốt lành ( em ko đi đạo nên cũng nỏ biết nó Tốt lành chỗ mô he he ). Một thỏa thuận ngừng bắn đã đạt được và nó kéo dài cho đến ngày Thứ hai, để các chiến binh của cả hai phe có thể tham gia lễ hội Tôn giáo Phục Sinh. Người Anh ngừng cuộc bao vây và rút lui đến Beaufort ở gần đó, trong khi người Scotland lại cắm trại ở Le Lude. Tuy nhiên, vào đầu buổi chiều thứ bảytrinh sát của quân Scotland báo cáo rằng người Anh đã bội ước, phá vỡ thỏa thuận ngừng bắn và tiến lên để tiến công vàoquân Scotland với hy vọng sẽ làm cho họ bị bất ngờ. Người Scotland vội vã tập hợp quân đội và tổ chức một trận chiến ngay tại một cây cầu mà vị Công tước của Clarence-chỉ huy của quân Anh với lá cờ của ông được giương cao, đang tìm cách vượt qua. Một nhóm tách rời gồm khoảng một vài trăm người thuộc quyền chỉ huy của Sir Robert Stewart của Ralston ( phe Scotland ), được tăng cường bằng đoàn tùy tùng của Hugh Kennedy, đã chiếm giữ cây cầu và chặn đứng nó trong một khoảng thời gian đủ lâu để chovịBá tước của Buchan có đủ thời gian tập phần còn lại của quân đội của mình, từ đó họ rút lui vào chiến đấu ở trongmột thị trấn nơi mà các cung thủ Anh sẽ không còn chiến đấu một cách hiệu quả.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Lúc này hai bên lao vào một trận cận chiến cực kỳ dữ dội kéo dài cho đến khi đêm xuống. Trong cận chiến Sir John Carmichael của Douglasdale đã làm gẫy ngọn thương của ông khi đánh ngã ngựa Công tước của Clarence, kể từ ngày đó trên gia huy của Carmichael hiển thị một bàn tay bọc thép giữ ở trên cao một ngọn thương bị gãy để kỷ niệm chiến thắng này. Khi đứng được dậy trên mặt đất, vị Công tước này đã bị giết chết bởi Sir Alexander Buchanan, hoặc Sir John Swinton. Những chỉ huy khác của quân Anhcũng tử trận trong ngày hôm đó bao gồm Lord Roos, Sir John Grey-Bá tước 1st của Tankerville và Gilbert de Umfraville, mà cái chết của họ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự tuyệt tự của dòng nam của gia đình lừng lẫy này-họ vốn nổi tiếngkể từ cuộc chiến tranh độc lập của người Scotland ( hơn 100 năm trước đó ). Bá tước Somerset và anh trai của ông đã bị bắt tù binh bởi Laurence Vernon ( ông này sau đó được tấn phong hiệp sĩ vì chiến công của mình), Bá tước Huntingdon bị bắt tù binh bởi Sir John Sibbald và Lord Fitz Walter bị bắt bởi Henry Cunningham.

    Hậu quả
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    Khi nghe tin về chiến thắng Scotland, Đức Giáo Hoàng Martin V đã nhắc đi nhắc lại một câu nhận xét ở thời trung cổ rằng " người Scotland nổi tiếng như là một loại thuốc giải độc cho người Anh." Mùa hè năm 1421 nhà Dauphin đã tiến hành một loạt các chiến dịch ở phía bắc của sông Loire và tái chiếm nhiều vùng lãnh thổ. Để tỏ lòng biết ơn người Scotland ông đã phong Archibald Douglas-Bá tước 4st của Douglas hàm Trung tướng của quân đội Pháp và tặng cho ông danh hiệu Công tước xứ Touraine. Sir John Stewart của Darnley nhận được các vùng đất ở Aubigny-sur-Nere và Concressault. Bá tước của Buchan được phong làm Nguyên soái của Pháp. Năm 1422 nhà Dauphin đã thành lập đội "một trăm vệ sĩ của nhà vua" hay còn được gọi là " Một trăm cây thương của nước Pháp", để bổ sung cho 24 cung thủ của đội Ecossaise Garde ( vệ binh người Ecot ). Đội một trăm cây thương cuối cùng đã trở thành một đại đội hiến binh Pháp ở Fontenoy trong năm 1745. John Carmichael được bầu làm giám mục của Orléans trong năm 1426 và là một trong 6 vị giám mục tham dự lễ đăng quang của nhà Dauphin để thành vua Charles VII tại Rheims trong năm 1429. Hugh Kennedy, được biết đến ở Pháp với cái tên Canede, và ông đã được cấp một chiếc gia huy của giới quý tộc với biểu tượng Fleur de lys của Pháp.
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Cravant

    Trận Cravant ở bên sông Yonne là một trong một loạt các trận chiến của thời kỳ Chiến tranh Trăm năm. Nó diễn ra vào ngày 31 tháng bảy năm 1423, kết thúc bằng một chiến thắng của quân đội Anh và Burgundy-đồng minh của họ trước quân đội Pháp.


    Sau Hiệp ước Troyes năm 1420 nước Anh chiếm đóng tất cả các vùng đất ở phía bắc của sông Loire. Năm 1422, bất chấp cái chết đột ngột của nhà vua Anh-Henry V, sự thù địch giữa hai vương quốc Anh và Pháp vẫn tiếp tục leo thang. Trận chiến này là một trong những sự kiện mở đầu, nối lại chiến sự giữa Anh và Pháp sau cái chết của Henry V.


    Tanneguy du Châtel, truy kích theo các Bá tước Salisbury và Suffolk của Anh, và ông này ( Tanneguy) đã ra lệnh cho quân Pháp dừng chân nghỉ ở bên cạnh Cravant, nơi mà Charles VII ( vua của Pháp nhưng chưa được đăng quang ) coi là một trong những chìa khóa đối với người Burgundy mà bastard của Baume ( thằng con hoang-một biệt hiệu phổ biến thời đó ) đã chiếm giữ gần đó.


    Tanneguy khá là ngạc nhiên khi thấy nơi này bị chiếm đóng bởi Claude de Chastellux và rõ ràng rằng nó đã bị khóa chặt bởi các Lord của Boligneu, Usselot của Digoine, Presles của Chandio và khoảng 400 binh sỹ.


    Do dó nhà vua Pháp đã ra lệnh cho John Stuart-Nguyên soái của Scotland, người vừa nhận được 3.000 viện binh tăng cường từ Baume và Duchatel, cùng với Thống chế Sévérac vượt sông Loire để gia nhập với họ.

    Vì vậy mà Cravant ( đang nằm trong tay người Burgundy ) đã bị bao vây bởi một đội quân Pháp lên đến khoảng 15.000 người. Trong vòng năm tuần lễ người Burgundy đã chiến đấu kiên cường một đáng ngưỡng mộ, bất chấp việc thiếu lương thực buộc họ phải mổ thịt cả những con ngựa của họ, và cuối cùng Chastellux-Lord của Presles đã tìm ra một cách để báo tới nữ công tước Dowager về tình hình nguy cập của họ. Nữ Công tước đã ra lệnh cho John Toulongeon-Nguyên soái của Burgundy tập hợp binh lính và họ đã sẵn sàng vào ngày 18 và 20 tháng Bảy năm 1423. Họ đã hội binh với các công tước Montbard và Avallon ở trung tâm quận hạt Châtillon Chaumont. Tám ngày sau đó họ cũng lại gặp một lực lượng quân đội Anh rất lớn gồm khoảng 6000 người nằm dưới sự chỉ huy của các Bá tước Salisbury và Suffolk tại Auxerre. Họ ( người Anh và Burgundy) đã được đồng ý rằng cả hai sẽ hộ binh với nhau và hành quân theo một đội hình hàng dọc duy nhất vào ngày 29 dưới sự giám sát của tướng lĩnh của cả hai bên, mà đội tiên phong bao gồm một số lượng tương đương binh sỹ Burgundy và Anh, trước khi đến chiến trường tất cả mọi người đều xuống ngựa, bầy ngựa ở lại cách xa một dặm và một nửa số chúng quay trở lại với những chiếc cọc được vót nhọn cả hai đầu đủ để cung cấp cho tất cả mọi người và mệnh lệnh được đưa ra là không bắt tù binh trong chiến đấu. Mệnh lệnh tiến công sẽ được báo hiệu bởi tiếng kèn và những người không tuân thủ theo những yêu cầu của mệnh lệnh sẽ phải chịu những hình phạt nặng nề nhất.


    [​IMG]
    Tranh vẽ quân Anh bất ngờ đột kích và thắng thế

    Ngày 30, liên quân Anh và Burgundy rời khỏi Vincelles và hành quân tấn công kẻ thù-quân Pháp lúc này đang ở trong một đội hình chiến đấu trên đỉnh núi nhìn ra sông Yonne, một vị trí dường như bất khả xâm phạm. Trong ba giờ lực lượng hai bên đối diện nhau, nhưng không có một nỗ lực nào được tiến hành để vượt qua dòng sông để tấn công đối phương. Cuối cùng Salisbury đã quyết định phát động cuộc tấn công
    ​​và quân đội của ông bắt đầu vượt qua con sông Yonne ở đoạn rộng khỏang 50 mét và sâu ngang thắt lưng, dưới sự yểm trợ của những trận mưa tên từ các cung thủ trường cung Anh. Trong khi đó, một lực lượng Anh dưới sự chỉ huy của Willoughby và Baron de Eresby đã đánh bạt người Scotland đi rồi vượt qua một cây cầu hẹp và chia cắt đội quân của nhà Dauphin ra làm đôi.

    Lúc này hàng ngũ quân Pháp trở nên rối loạn và bắt đầu rút lui, người Scotland từ chối bỏ chạy và hàng trăm người đã bị đốn gục. Hơn 3.000 người trong số họ đã bị giết ở đầu cầu hoặc dọc theo bờ sông và hơn 2.000 người đã bị bắt tù binh bao gồm cả Bá tước của Buchan và Comte de Vendôme-chỉ huy lực lượng của nhà Dauphin. Quân của nhà Dauphin rút lui đến Loire, để lại phía sau nhiều tù binh hơn 6.000 người bị giết chết, đổi lại phía liên quân Anh-Burgundy có khoảng 1.600 tổn thất.
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Verneuil

    Trận Verneuil (đôi khi còn được gọi là 'Vernuil') là một trận chiến trong chiến tranh Trăm năm, nó xảy ra vào ngày 17 tháng 8 năm 1424 ở gần Verneuil, vùng Normandy và là một thắng lợi đáng kể cho người Anh.


    Thời gian đen tối


    Những năm đầu của thập kỷ 1420 là một thời gian đặc biệt ảm đạm, trong lịch sử nước Pháp. Vương quốc này không thể phục hồi nổi từ thảm họa tại Agincourt ( sau thảm họa của trận Pointiers nước Pháp có nhà vua Charles V khôn ngoan và Nguyên soái
    du Guesclin nên nước Pháp nhanh chóng phục hồi, sau trận Agincourt vua Pháp vẫn bị điên và người Pháp tiếp tục thất bại ) và hầu hết các tỉnh phía Bắc đã nằm trong tay người Anh sau các cuộc chinh phục của Henry V nhằm vào vùng Normandy. Các cuộc nội chiến giữa hai phe phái Armagnac và Burgundy không cho thấy có dấu hiệu kết thúc. Lúc này Charles Dauphin được công nhận ở các tỉnh phía nam của đất nước như là vua Charles VII, sau cái chết của cha ông-Charles VI trong 1422, nhưng ông ta vẫn chưa được đăng quang ( sau này Charles VII được đăng quang bởi Jan d’Arc-một cô gái chăn cừu ). Cái chết của Henry V trong cùng một năm với Charles VI chỉ làm người Anh tạm dừng cuộc chiến trong một khoảng thời gian ngắn ngủi rồi các nỗ lực chiến tranh được tiếp tục một cách hiệu quả dưới sự điều hành của John-Công tước xứ Bedford, người làm nhiếp chính cho vị vua sơ sinh-Henry VI. Nước Pháp đang rất cần những người lính và nó đã phải gửi lời thỉnh cầu đến Scotland-đồng minh cũ của nó để xin được cung cấp những viện trợ quân sự cần thiết.

    Quân đội của Scotland


    Lớp đầu tiên của đội ngũ quân Scotland đến Pháp vào mùa thu 1419, một số lượng 6000 binh sỹ dưới sự chỉ huy của John Stewart, Bá tước 2rd của Buchan. Những người này được bổ sung qua thời gian với những lính tình nguyện người Scotland vượt biển đến sau đó, đã nhanh chóng trở thành một phần của nỗ lực chiến tranh của người Pháp, và vào mùa hè năm 1420 quân đội của người Scotland được coi là một lực lượng riêng biệt trong Quân đội hoàng gia Pháp. Họ đã chứng minh giá trị của họ vào năm sau, khi đóng phần lớn vai trò trong chiến thắng của Pháp tại trận Baugé, đây là lần đầu tiên người Anh phải nhận một thất bại cực kỳ nghiêm trọng ( em trai nhà vua Anh tử trận và hàng loạt quý tộc Anh bị bắt tù binh ). Tâm trạng lạc quan này của người Pháp đã bị sụp đổ một cách tệ hại vào năm 1423, khi nhiều binh sỹ người Scotland của Buchan đã tử trận trong trận chiến Cravant.


    Buchan quay trở lại


    Vào đầu năm 1424 Buchan đã trở lại mang theo ông một đội quân gồm hơn 6.500 binh sỹ người Scotland. Ông được đi kèm cùng với Archibald Douglas, Bá tước 4th của Douglas-ông này được cho là nhà quý tộc mạnh nhất ở Scotland. Vào ngày 24 tháng 4 năm 1424 quân đội Scotland hải ngoại bao gồm 2.500 kị sỹ và 4000 cung thủ đã tiến vào tổng hành dinh của nhà Dauphin ở Bourges để giúp nâng cao tinh thần cho Charles VII.


    Hành quân đến Verneuil


    Trong tháng tám quân đội Scotland đã sẵn sàng để hành quân tới giải vây cho tòa lâu đài Ivry ở gần Le Mans, vốn lúc này đang bị vây hãm bởi Công tước xứ Bedford. Douglas (Mới được tấn phong làm Công tước của Touraine) và Buchan rời Tours vào ngày 04 tháng tám để liên kết với các chỉ huy Pháp-Công tước Alençon và các Nam tước của Narbonne và Aumale. Nhưng trước khi quân đội Scotland có thể đến nơi thì lâu đài Ivry đã đầu hàng người Anh. Chúng ta không thể biết chắc chắn về những gì đã xảy ra trong cuộc hội nghị quân sự được tổ chức bởi các chỉ huy đồng minh. Người Scotland và một số các sĩ quan Pháp trẻ tuổi đã rất sẵn sàng cho một trận chiến với quân Anh, nhưng vị Nam tước Narbonne và giới quý tộc cao cấp lại chưa quên về trận Agincourt nên họ rất miễn cưỡng trong việc chấp nhận những rủi ro. Sau đó như một sự thỏa hiệp, họ đã nhất trí triển khai tấn công vào các đồn lũy của người Anh ở trên vùng biên giới với xứ Normandy, bắt đầu từ Verneuil ở phía tây. Thị trấn bị chiếm giữ bởi một thủ thuật rất đơn giản: một nhóm quân Scotland, dẫn theo một số đồng bào của họ đóng giả làm tù binh và đóng giả làm quân Anh rồi tuyên bố rằng Bedford đã đánh bại liên quân Pháp-Scotland trong một trận chiến, sau đó cổng thành đã được mở ra.


    Bedford xuất hiện


    Ngày 15 tháng 8 Bedford nhận được tin Verneuil đã thất thủ vào tay người Pháp và ông nay quyết tâm hành quân nhanh như ông có thể. Ông tới gần thị trấn chỉ hai ngày sau khi người Scotland đã thuyết phục được đồng minh người Pháp của họ đóng quân ở lại, dường như Douglas đã quên béng những bài học từ trận Homildon Hill ( một trận đánh trong một loạt các trận chiến ở vùng biên giới Anh-Scotland, quân Anh đã dùng chiến thuật tốc thắng để đánh bại quân Scotland ). Người ta cho là ông này đã nhận được một tin nhắn từ Bedford rằng ông hãy đến và uống rượi cùng ông kia và sau đó cùng cầu nguyện cho một cuộc họp vào đầu ngày, Douglas trả lời rằng vì không tìm thấy vị công tước ở Anh nên ông này đã đến Pháp để tìm kiếm ông kia.


    Sau đó liên quân được triển khai ở khoảng một dặm về phía bắc của Verneuil trên một đồng bằng mở chắn ngang con đường dẫn ra khỏi khu rừng Piseux. Nam tước Narbonne và binh đoàn người Pháp chiếm vị trí ở bên trái của con đường, họ được hỗ trợ ở một bên cánh bởi kỵ binh Pháp, trong khi Douglas và Buchan đóng ở phía bên phải và được hỗ trợ bởi ở một bên sườn tương tự bởi kỵ binh người Lombard được tuyển chọn từ miền bắc Italy. Aumale đã được phong làm tổng thể, nhưng quân đội Pháp lúc này lại trở nên không đồng nhất bất chấp tất cả các nỗ lực phối hợp chỉ huy chung. Lực lượng của Bedford tiến ra từ khu rừng và ông cũng cho bố trí người của mình thành hai thê đội để phù hợp với cách bố trí của đối phương với cách bố thông thường của người Anh là các kị sỹ được bố trí ở trung tâm và các cung thủ thì ở các bên cánh. Ông cũng đã để lại một lực luợng dự bị mạnh mẽ gồm khoảng 2000 cung thủ ở phía sau để bảo vệ đoàn hành lý. Bedford đích thân chỉ huy thê đội đối mặt với quân Pháp còn Thomas Montague-Bá tước Salisbury chỉ huy thê đội đối mặt với quân Scotland.


    Một ngày đẫm máu

    Vào khoảng 4 giờ chiều, như thể
    có những tín hiệu được sắp xếp trước, quân đội của hai bên cùng tiến lên một lúc. Khi Bedford cho quân của mình tiến đến phạm vi sát thương của cung tên, ông đã ra lệnh dừng lại và các cung thủ bắt đầu cố gắng để đóng những chiếc cọc của họ vào mặt đất, đây là một thiết bị đơn giản nhưng lại rất hiệu quả trong việc đánh bẫy các kỵ binh. Mặt đất lúc này đã trở nên khô cứng bởi mặt trời mùa hè và các cọc nhọn chỉ có thể được đóng xuống đất một cách cực kỳ khó khăn. Nhìn thấy cơ hội, người Pháp đã bắt đầu triển khai ngay lập tức một cuộc tấn công mà không chờ đợi sự phối hợp từ thê đội của người Scotland. Những cung thủ ở cực bên phải của Bedford đã bị mất cân bằng, điều này cho phép kỵ binh Pháp vượt qua hàng ngũ của họ, để lại mối nguy hiểm bên cánh cho chính đạo quân của mình. Cơ hội của người Pháp đã bị mất đi khi các kỵ binh đã không quay vòng trở lại. Họ ( kị binh Pháp ) tiếp tục phi ngựa về phía đoàn hành lý ở phía bắc ( mà quên béng mất nhiệm vụ của họ là yểm trợ cho đạo bộ binh Pháp), trong khi những kị sỹ trong thê đội của Bedford đã lấy lại được tinh thần bắt đầu mở một cuộc tấn công vào lực lượng bộ binh Pháp đang ở trước mặt họ. Không thể chịu được cuộc tấn công quá mãnh liệt của quân Anh, thê đội của Nam tước Narbonne đã bị vỡ trậnbỏ chạy quay trở lại Verneuil, nơi mà rất nhiều người bao gồm cả Aumale-viên tổng chỉ huy đã bị chết đuối trong một con hào.

    Sau khi đánh bại thê đội người Pháp, Bedford cho ngừng cuộc truy kích quay trở lại chiến trường, nơi Salisbury đang chiến đấu một cách dữ dội với người Scotland-lúc này họ chỉ còn lại một mình. Các kỵ binh Lombard lo lắng rằng các kị binh Pháp-đối táccủa họ sẽ chiếm sạch tất cả chiến lợi phẩm, liền phi ngựa vòng qua bên cánh trái của người Anh để tấn công vào đoàn hành lý. Vào thời gian họ đến nơi thì toán kị binh Pháp đã bị đẩy lùi bởi 2.000 cung thủ dự bị của Bedford và đám kị binh người Lombard cũng nhanh chóng phải tháo chạy. Lúc này lực lượng dự bị của Anh vốn đang say máu liền lao vào trận chiến chính và tấn công vào bên cánh phải vốn không được hỗ trợ của người Scotland. Trận Verneuil đi vào giai đoạn kết thúc của nó khi các kị sỹ Anh dưới sự chỉ huy của Bedford quay trở về từ phía Nam để tấn công Scotland từ phía sau. Lúc này gần như hoàn toàn bị vây kín, quân Scotland đã phải tử chiến đến người cuối cùng.

    Một cái giá phải trả quá cao
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    Verneuil là một trong những trận chiến đẫm máu nhất trong Chiến tranh Trăm năm, nó được mô tả như là một chiến thắng Agincourt thứ hai của người Anh. Tổng cộng có khoảng 6000 binh sỹ Liên quân Pháp-Scotland đã thiệt mạng, trong đó có khoảng 4000 người Scotland. Người Anh mất khoảng
    1600 người, đây là một con số cao bất thường đối với họ, lớn hơn nhiều so với thiệt hại của họ tại Agincourt, nó cũng cho thấy sự tàn bạo của trận chiến. Bá tước Douglas đã tham gia chiến đấu lần cuối cùng cho phe yếu thế, cùng tử trận với ông có Bá tước của Buchan. Quân đội Scotland hải ngoại đã gần như bị xóa sổ, nhưng nó vẫn chưa sẵn sàng để ra khỏi lịch sử. Rất buồn phiền vì thảm họa tại Verneuil, Charles tiếp tục tôn vinh những người sống sót, một trong số đó là John Carmichael của Douglasdale-vị giáo sĩ của Bá tước Douglas đã tử trận, được tấn phong làm Giám Mục Orléans.
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Giai đoạn cuối của chiến tranh Trăm năm: Cuộc chiến của nhà Valois 1429 -> 1453

    Nước Pháp đang cực kỳ nguy kịch, vua Charles VII bị truất ngôi, quân Anh kéo đến bao vây thành phố d'
    Orleans-một thành trì của phe đ.ảng Armagnac, nếu thành phố này thất thủ thì các tỉnh miền Nam nước Pháp sẽ rung chuyển và tình hình sẽ không biết đến đâu. Nhưng lúc này có một kì tích xuất hiện và nhờ đó quân Pháp liên tục phản công thắng lợi. Đến năm 1453 chỉ còn lại mỗi Calais vẫn nằm trong tay người Anh, còn lại tất cả các vùng lãnh thổ của Pháp đã thuộc về Hoàng gia nhà Valois. Chính vì nhà Valois đã hoàn toàn thắng lợi trong giai đoạn này mà người ta gọi đó là cuộc chiến của nhà Valois.

    Theo dòng lịch sử:

    Ngày 12 Tháng Hai năm 1429 trận the Herrings (ROUVRAY)- quân đội Pháp tấn công bất ngờ nhưng không thành công trong việc ngăn chặn một đoàn xe chở đồ tiếp tế cho quân Anh đang bao vây thành phố Orle'ans. ( trong trận này các binh sỹ người Scotland lại tử thương nhiều đến mức quân đội Scotland hải ngoại đã gần như không còn tồn tại ).

    Ngày 06 tháng 3 Joan Arc đến triều đình của nhà Dauphin tại Chinon

    Ngày 22 tháng 3 năm 1429 Joan Arc viết lá t' " mệnh lệnh gửi tới người Anh" yêu cầu quân Anh phải cút khỏi đất Pháp và trên đường đi phải ngỏ lời xin lỗi dân chúng những nơi họ đã cướp phá.

    Ngày
    29 tháng 4 năm 1429 Joan Arc tiến vào Orle'ans

    Ngày 08 tháng 5
    năm 1429 lực lượng Pháp, được chỉ huy bởi Joan Arc, tiến hành giải vây cho Orle'ans

    Ngày 10 tháng sáu ->
    18 tháng Sáu năm 1429 -chiến dịch sông Loire, quân đội Pháp được dẫn đầu bởi Joan Arc liên tục chiếm Jargeau, Beaugency, và Meung và xóa sổ các đơn vị đồn trú Anh đóng tại sông Loire

    Ngày 18 tháng 6 năm 1429 Chiến thắng Patay, quân đội Pháp kết thúc chiến dịch Loire một cách toàn thắng trước quân Anh dưới sự chỉ huy của Sir John Fastolf. ( lực lượng cung thủ trường cung Anh bị một đòn gẫy xương sống)

    Ngày 17 tháng 7 năm 1429 Charles Dauphin lên ngôi vua Pháp tại Rheims như Charles VII của nước Pháp

    Ngày 08 Tháng Chín năm 1429 Joan Arc dẫn đầu một cuộc tấn công không thành công vào Paris.

    Ngày 08 Tháng Chín năm 1429 Joan d’Arc dẫn đầu một cuộc tấn công không thành công vào Paris
    Tháng Mười Một
    năm 1429 người Anh làm lễ đăng quang cho Henry VI tại lâu đài Westminster

    Ngày 23 Tháng 5 năm 1430 Joan d’Arc bị bắt bởi người Burgundy ở Compiegne

    Tháng Mười Hai
    năm 1430 Joan d’Arc bị chuyển đến một nhà tù quân sự Anh trong thành phố Rouen

    Ngày 21 tháng Hai năm 1431 phiên tòa xét xử Joan d’Arc đượcbắt đầu ở Rouen

    Ngày 24 tháng 5 năm 1431 Joan d’Arc công khai chối bỏ lời kết tội rằng mình là một phù thủy

    Ngày 30 tháng 5 năm 1431 Joan d’Arc bị thiêu đến chết với dị giá bởi người Anh ở Rouen

    Ngày 11 Tháng Tám năm 1431 Trận Shepherd-lấy theo tên của một cậu bé chăn cừu người Pháp được dựng lên như là một kế thừa của Joan d’Arc

    Ngày 16 tháng 12 năm 1431 vua Henry VI của Anh lên ngôi vua Pháp tại Paris

    Ngày 14 tháng 11 năm 1432 Anne-Nữ công tước của Bedford, vợ của John, công tước xứ Bedford và em gái của Philip, công tước của Burgundy Tốt bụng đã qua đời ( mối liên hệ giữa người Anh và người Burgundy bắt đầu phai nhạt)

    Năm 1434 người Anh ra tay đàn áp một loạt các cuộc nổi dậy ở Normandy

    Tháng Chín năm 1435 Isabeau xứ Bavaria, nữ hoàng của Pháp và góa phụ của vua Charles VI qua đời.

    Ngày 01 Tháng 9 người Anh rút khỏi Nghị viện Arras

    Ngày 14 Tháng Chín John công tước của xứ Bedford qua đời
    Ngày 20 tháng 9 Hiệp ước Pháp-Burgundy được ký kết ở Arras, qua đó kết thúc liên minh Anglo-Burgundy

    Ngày 13 tháng 4 năm 1436 quân Pháp chiếm lại Paris

    Ngày 03 Tháng Một năm 1437 Catherine của Valois, vợ của Henry V và mẹ của Henry VI qua đời

    Ngày 13 tháng 2 năm 1437 John Talbot chiếm lại Pontoise cho người Anh

    Ngày 21 tháng 2 năm 1437 James I, vua của Scotland bị ám sát, James II lên ngôi vua

    Ngày 12 tháng 11
    năm 1437 Henry VI công bố đủ tuổi thành niên và đòi quyền kiểm soát Chính phủ Anh

    Ngày 30 Tháng Tư năm 1439 Richard Beauchamp, bá tước của Warwick, trung úy của Anh ở Pháp qua đời.

    Tháng Mười Một
    năm 1439 Charles VII tuyên bố tuyển dụng quân sự thuộc về độc quyền của Hoàng gia

    Tháng Bảy năm 1440 Richard, công tước của York được tái bổ nhiệm làm trung úy của nhà vua Anh tại Pháp

    Ngày 6 Tháng Sáu - 19 Tháng 9 năm 1441 quân đội Pháp tiến hành bao vây và công chiếm Pontoise

    Tháng Ba năm 1443 John Beaufort, công tước của Somerset, được phong làm trung tướng và đại tướng ( lieutenant-general và captain-general) của vùng Aquitaine để chuẩn bị chỉ huy một chính chiến dịch tấn công vào quân Pháp

    Tháng 7-> 8 chiến dịch của Somerset là một thất bại hoàn toàn, vị công tước này trở lại nước Anh trong nỗi ô nhục

    Tháng Hai năm 1444 William de la Pole, bá tước của Suffolk căng buồm sang Pháp để bắt đầu các cuộc đàm phán dẫn đến việc kí kết Hòa ước hòa bình Tours

    Ngày 27 tháng 5
    năm 1444 John công tước của Somerset qua đời-có thể do chính bàn tay của ông ta

    Ngày 28 Tháng 5 năm 1444 Anh-Pháp chính thức kí Hiệp ước Hòa bình Tour.

    Ngày 23 tháng 4 năm 1445 kết hôn giữa Henry VI với Margaret của Anjou-cháu gái của Charles VII

    Ngày 22 tháng 12 năm 1445 Henry VI bí mật đồng ý đầu hàng giao nộp Maine cho người Pháp

    Ngày 23 tháng 2 năm 1447 hoàng thân Humphrey, công tước của Gloucester-chú của Henry VI và thủ lãnh của phe chủ chiến ở triều đình Anh bị bắt giữ

    Ngày 11 tháng 4 năm 1447 Đức Hồng Y Henry Beaufort, giám mục của Winchester, thủ lãnh của phe chủ hòa tại triều đình Anh qua đời

    Tháng Mười Hai
    năm 1447 Edmund Beaufort, bá tước của Somerset, trở thành trung úy của nhà vua Anh ở Pháp

    Tháng Hai năm 1448 Charles VII tiến hành cuộc bao vây Le Mans ở vùng Maine

    Ngày 15 Tháng Ba năm 1448 thành phố Le Mans ở vùng Maine đầu hàng người Pháp

    Ngày 28 tháng 4 năm 1448 Charles VII đưa ra các điều luật để thành lập lực lượng cung thủ

    Ngày 24 tháng 3 năm 1449 Quân Pháp tấn công vào pháo đài Fougeres của người Anh ở Breton và phá vỡ Hiệp ước Hòa bình Tour và dẫn đến việc nối lại các hoạt động chiến tranh

    Ngày 31 tháng 7 năm 1449 Charles VII của Pháp ra lệnh tiến hành một cuộc xâm lược nhằm tái chiếm xứ Normandy

    Ngày 12 tháng 8 năm 1449 quân đội Pháp bắt đầu chiến dịch tái chiếm Normandy (1449-1450)

    Ngày 29 tháng 10 năm 1449 Quân Pháp chiếm lại Rouen, thủ phủ của Normandy

    Ngày 02 tháng 11
    năm 1449 Charles VII tiến vào Rouen

    Ngày 28 tháng Một năm 1450 Nghị viện Anh kết tội William de Pole, công tước của Suffolk, lãnh đạo của chính phủ của Henry VI

    Ngày 15 tháng 4
    năm 1450 Trận chiến Formigny-quân Pháp đánh bại quân Anh một trận lớn cuối cùng ở Normandy

    Tháng 5 -> 7
    năm 1450 cuộc nổi dậy của Jack Cade bùng nổ ở đông nam nước Anh

    Ngày 02 tháng 5
    năm 1450 William de la Pole, công tước của Suffolk bị bắt và bị chặt đầu bởi một toán người không rõ danh tính khi ông này cố gắng lên thuyền đi lưu vong

    Ngày 01 tháng 7 năm 1450 Edmund Beaufort, công tước của Somerset, đầu hàng trước người Pháp ở Caen trong vùng Normandy.

    Ngày 12 tháng 8 năm 1450 Thành phố Cherbourg thất thủ trước người Pháp qua đó kết thúc Chiến dịch Norman.

    Ngày 30 Tháng Sáu năm 1451 Bordeaux đầu hàng người Pháp

    Ngày 23 tháng 10 năm 1452 John Talbot, bá tước của Shrewsbury, tái chiếm Bordeaux

    Ngày 17 tháng 7 năm 1453 Trận Castillon-lực lượng Pháp dưới sự chỉ huy Jean Bureau đánh bại hoàn toàn quân đội Anh dưới sự chỉ huy của John Talbot, bá tước của Shrewsbury, trong vùng Gascony, báo hiệu Chiến tranh Trăm năm kết thúc với thắng lợi hoàn toàn thuộc về người Pháp.

    Ngày 19 tháng 10
    năm 1453 người Pháp lấy lại Bordeaux-sự sụp đổ tiếp theo của tất cả các vị trí của người Anh tại Aquitaine thường được coi là sự kết thúc của Chiến tranh Trăm năm

    Ngày 21 tháng năm 1455 Trận St Albans thường được coi như là bắt đầu của hàng loạt các cuộc nội chiến Anh còn được gọi là cuộc chiến Hoa Hồng

    Tháng Ba năm 1461 Henry VI bị lật đổ và sống lưu vong ở Scotland, Edward, công tước của York-anh em họ ông trở thành vua của nước Anh như là Edward IV

    Ngày 22 Tháng 7 năm 1461 Charles VII vua của nước Pháp qua đời; con trai ông nối ngôi làm vua Louis XI của nước Pháp

    Ngày 15 tháng 6 năm 1467 Philip tốt bụng, công tước của Burgundy qua đời

    Ngày 21 tháng năm 1471 Henry VI bị ám sát ở trong ngục tháp London

    Ngày 04 tháng Bảy năm 1475 Edward IV tiến hành cuộc xâm lược vào nước Pháp của Anh lần đầu tiên kể từ khi kết thúc Chiến tranh Trăm năm

    Ngày 29 tháng 8
    năm 1475 kí kết luận Hiệp ước Picquigny, nhờ đó mà Edward IV của Anh đồng ý rút khỏi Pháp để đổi lấy một khoản tiền hàng năm được trả từ từ Louis XI

    Tháng Một năm 1558 Calais, vị trí cuối cùng của người Anh ở Pháp đã rơi vào tay người Pháp.
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Giới thiệu một số nhân vật quan trọng trong thời kỳ này

    Charles VII of France

    Charles VII (22 tháng hai năm 1403 - 22 tháng 7 1461), còn được gọi là nhà vua Chiến Thắng hoặc Phục vụ tốt, là vua của nước Pháp từ năm 1422 đến khi ông qua đời, mặc dù ban đầu ông bị tranh giành bởi Henry VI của nước Anh, người có Công tước của Bedford làm nhiếp chính và cai trị rất nhiều vùng đất của nước Pháp bao gồm cả thủ đô Paris.

    Ông là thành viên của Nhà Valois, con trai của Charles VI, nhưng việc thừa kế ngai vàng nước Pháp của ông đã gặp khó khăn bởi sự chiếm đóng của người Anh ở miền bắc nước Pháp. Tuy nhiên, ông đã được đăng quang tại Reims năm 1429 nhờ những nỗ lực của Joan d’Arc để giải phóng nước Pháp khỏi người Anh. Cuối triều đại của Charles VII được đánh dấu bằng cuộc đấu tranh của ông với con trai mình-vua Louis XI trong tương lai.


    [​IMG]
    Tranh vẽ Charles VII

    Sinh ra tại Paris, Charles là con trai thứ năm của Charles VI của Pháp và Isabella của Bayern-Ingolstadt. Bốn người anh của ông, Charles (1386), Charles (1392-1401), Louis (1397-1415) và John (1398-1417) đã từng nắm giữ danh hiệu Dauphin của Pháp, người thừa kế ngôi vua của Pháp, lần lượt từng người một chết mà không có con, làm cho Charles được thừa kế hàng loạt các chức danh.


    Hầu như ngay sau khi nhận danh hiệu Dauphin ( một danh hiệu dành cho Thái tử Pháp, tựa như danh hiệu Hoàng tử xứ Wales của Anh ), Charles đã bị buộc phải đối mặt với những mối đe dọa cho quyền thừa kế của mình và buộc phải chạy trốn khỏi Paris vào tháng 5 năm 1418 sau khi binh sĩ của John the Fearless, Công tước xứ Burgundy cố gắng để chiếm thành phố. Trong năm sau, Charles đã cố gắng để tiến hành một cuộc hòa giải giữa ông và vị Công tước này ( chú họ của ông ), hai người đã gặp nhau trên một cây cầu ở Pouilly, gần Melun, trong tháng 7 năm 1419. Sự kiện này được chứng minh là chưa đủ để xóa hiềm khích, hai người lại tổ chức gặp mặt vào ngày 10 tháng chín năm 1419, trên cây cầu tại Montereau. Vị công tước bất chấp những vấn đề trước đây, đã tỏ ra quá tin tưởng vào người cháu họ trẻ tuổi của mình, đã cho rằng cuộc họp là hoàn toàn hòa bình và ngoại giao và ông này chỉ mang theo một hộ tống nhỏ; người của Dauphin đã ra tay hạ sát vị Công tước xứ Burgundy. Mức độ tham gia của Charles vẫn là câu hỏi không bao giờ có lời giải: mặc dù ông đã tuyên bố là không hề biết gì về ý định của người của mình, nó đã bị coi là một lời chối tội không hợp lý về vụ giết người này và đẩy mạnh mối hận thù giữa gia đình của Charles VI và Công tước xứ Burgundy ( đều cùng thuộc nhà Valois ). Bản thân Charles sau đó đã được yêu cầu kí hiệp ước với Philip Tốt bụng-con trai của John, để trả tiền đền tội cho tội giết người, nhưng ông không bao giờ chịu làm như vậy;. Dù sao, đó là tuyên bố, sự kiện này đã làm cho ông ta luôn phải sống với một nỗi ám ảnh suốt đời vềụ việc trên cây cầu.


    [​IMG]
    Tranh vẽ Charles VII đến thăm một gia đình nông dân Pháp, bên cạnh là đội cung thủ vệ binh người Scotland nổi tiếng của ông.

    Trong những năm vị thành niên của mình, Charles đã được ghi nhận là một người dũng cảm và có phong cách của một nhà lãnh đạo: tại một thời điểm sau khi trở thành nhà Dauphin, ông đã dẫn một đội quân để chống lại người Anh, trong bộ trang phục màu đỏ, trắng và xanh như một đại diện cho nước Pháp. Tuy nhiên, hai sự kiện trong 1421 đã phá vỡ sự tự tin của ông: ông đã bị buộc phải rút
    ​​lui khỏi cuộc chiến chống lại Henry V của nước Anh một cách cực kỳ nhục nhã và sau đó cha mẹ ông bác bỏ ông như là người thừa kế hợp pháp ngôi vua nước Pháp và tuyên bố rằng ông là sản phẩm của một trong những cuộc ngoại tình của mẹ mình ( mà bà này lại rất nổi tiếng về mấy vụ này). Bị làm nhục, và sống trong nỗi sợ hãi, Charles Dauphin chạy trốn để cầu xin sự bảo vệ của Yolande của Aragon-người được gọi là Nữ hoàng của Bốn Vương quốc ở miền nam nước Pháp, nơi ông được bảo vệ bởi Nữ Hoàng Yolande hùng mạnh và kiêu hãnh và kết hôn với con gái bà ta-Marie.

    Sau cái chết của người cha mất trí Charles VI của Charles, vấn đề thừa kế đã tạo ra những nghi ngờ: nếu Dauphin là người con hợp pháp thì sau đó ông là người thừa kế hợp pháp ngai vàng. Nếu không, người thừa kế sẽ là Công tước xứ Orléans, người đang bị giam giữ bởi người Anh sau trận Agincourt. Ngoài ra, Hiệp ước Troyes được ký bởi Charles VI năm 1420, đã bắt buộc rằng ngai vàng phải được trao cho Henry VI của nước Anh, con trai của Henry V vừa mới qua đời và Catherine của Valois, con gái của Charles VI. Không ai trong số ba ứng cử viên có một tuyên bố không thể nghi ngờ về ngôi vua; tuy nhiên người Anh đang kiểm soát miền Bắc nước Pháp, trong đó có Paris, đã có thể thực thi tuyên bố ngai vị của họ trong những phần lãnh thổ của Pháp mà họ chiếm đóng. Do đó miền Bắc nước Pháp được cai trị bởi một nhiếp chính người Anh ở Normandy, thay mặt cho Henry VI.


    Charles, không đáng ngạc nhiên khi tuyên bố danh hiệu Vua Pháp cho mình, tuy nhiên do dự và cảm giác thất vọng, ông đã không thực hiện bất kỳ nỗ lực nào để đuổi người Anh đi. Thay vào đó, ông vẫn ở phía nam sông Loire, nơi ông vẫn có thể tạo được một số quyền lực nhỏ và duy trì triều đình lưu động ở thung lũng Loire tại những lâu đài như Chinon, theo phong tục ông vẫn được gọi là "Dauphin", nhưng cũng thường bị chế giễu là " Vua của Bourges "(đặt theo tên thị trấn nơi ông thường sống-vua của đúng 1 thị trấn), người ta còn cho rằng có thể ông sẽ lại tới bán đảo Iberia để tị nạn và cho phép người Anh thẳng tiến bằng sức mạnh.


    Tuy nhiên trong năm 1429 đã có một sự thay đổi lớn lao. Orléans đã bị vây hãm từ tháng 10 năm 1428. Vị quan nhiếp chính Anh-Công tước xứ Bedford (chú của Henry VI) đã tiến vào lãnh thổ công quốc Bar, được cai trị bởi René-anh rể của Charles,. Các lãnh chúa và chiến binh trung thành với Charles đã ngày càng trở nên tuyệt vọng.


    Trong khi đó, trong ngôi làng nhỏ của Domrémy, trên biên giới giữa Lorraine và Champagne, một cô gái vị thành niên có tên là Jeanne d'Arc ( tiếng Anh: Joan of Arc), tin rằng cô đã được trao một nhiệm vụ thiêng liêng sau khi dường như nghe tiếng nói của thiên thần, yêu cầu Công tước xứ Lorraine, những người lính và những thứ cần thiết để đưa cô đến Chinon và nhà Dauphin. Được cấp đội hộ tống gồm năm binh sĩ kỳ cựu và một lá thư giới thiệu của viên thống đốc Vaucouleurs-Robert Baudricourt tới Charles, Jeanne cưỡi ngựa đến Chinon, nơi Charles đang cư trú trong ngày 10 tháng 3 năm 1429.


    Những gì xảy ra tiếp theo sau này sẽ đi vào huyền thoại. Khi Jeanne đến Chinon, Charles-thử thách Jeanne để xem liệu cô có nhận ra ông ta mặc dù đã bao giờ gặp mặt-bằng cách đóng giả như là một trong những triều thần của mình và đứng ở giữa họ khi Jeanne ( bản thân nàng cũng mặc quần áo của đàn ông) bước vào buồng. Jeanne, ngay lập tức nhận ra ông ta, cô cúi thấp và ôm đầu gối của ông, tuyên bố "Thiên Chúa trao cho ngài một cuộc sống hạnh phúc, ngọt ngào thưa nhà vua!" Mặc dù đã cố gắng chối rằng một người đàn ông khác mới thực sự là nhà vua, cuối cùng Charles cũng buộc phải thừa nhận rằng đó chính là ông ta. Sau đó Jeanne gọi ông là "Dauphin" hoặc "Dauphin Gentle" cho đến khi ông lên ngôi ở Reims bốn tháng sau đó. Sau khi trò chuyện riêng giữa hai người (trong đó, Charles nói sau Jeanne biết bí mật về ông rằng ông đã lên tiếng chỉ khi im lặng trong khi cầu nguyện Thiên Chúa) Charles đã trở nên dũng cảm và đầy tự tin. Sau đó, ông hoàn toàn quyết tâm đòi quyền thừa kế của mình bằng cách hành quân đến Reims.


    Một trong những yếu tố quan trọng cho sự thành công cuối cùng của Charles VII là sự hỗ trợ của gia đình của Marie d'Anjou-nhà vợ của ông, vốn là một gia đình hùng mạnh và giàu có (1404-1463), đặc biệt là bà mẹ vợ-Nữ hoàng Yolande xứ Aragon. Bất chấp mọi thứ ông dành cho vợ mình, thì tình yêu lớn của cuộc sống của Charles VII được dành cho người tình của ông-Agnès Sorel.


    Sau đó Jeanne d'Arc dẫn đầu quân Pháp tiến về Orléans, buộc người Anh phải hủy bỏ cuộc bao vây và do đó xoay chuyển cục diện của cuộc chiến. Sau khi Pháp thắng trận Patay, Charles lên ngôi vua Charles VII của Pháp ngày 17 Tháng Bảy 1429, tại Nhà thờ Reims như là một nhà vua đích thực.


    Sau đó Jeanne đã bị bắt bởi người Burgundy và chuyển giao cho quân Anh. Bị kết tội Dị giáo cô đã bị thiêu sống vào ngày 30 tháng 5 năm 1431. Charles VII đã không làm gì để cứu một trong những người mà ông mang nợ ngai vàng của mình, mặc dù ông có thể chuộc được cô.


    Sau đó Charles và Philip tốt bụng-Công tước xứ Burgundy đã ký Hiệp ước Arras, do đó cho phép người Burgundy để trở về bên người Pháp cũng giống như mọi thứ đều đang xấu đi đối với đồng minh người Anh của họ ( người Burgundy). Với sự kiện này, Charles đạt được mục tiêu đó là cần thiết, đó là không một hoàng tử cùng dòng máu nào lại công nhận Vua Henry VI là vua của Pháp.


    Trong hai thập kỷ sau đó, người Pháp chiếm lại Paris từ tay người Anh và cuối cùng đã phục hồi tất cả các vùng lãnh thổ của nước Pháp với ngoại lệ là cảng Calais và phía bắc của quần đảo Channel.



    Cuối triều đại của ông


    Những năm sau đó của Charles được đánh dấu bởi sự thù địch ngày càng tăng giữa ông và người thừa kế của ông, Louis. Louis yêu cầu có quyền lực thực sự đi cùng với vị thế của mình như là nhà Dauphin; Charles đã từ chối. Sau đó, Louis đã khuấy động những bất đồng chính kiến
    ​​và nỗ lực thực hiện những âm mưu làm cha mình mất ổn định. Ông ta cãi nhau với người tình của cha mình, Agnès Sorel, theo một nguồn tài liệu một lần ông đẩy bà này vào giường của Charles với một thanh kiếm trần. Cuối cùng, vào năm 1446, sau khi người con trai cuối cùng của Charles, cũng được đặt tên là Charles, được sinh ra, nhà vua đã trục xuất nhà Dauphin tới Dauphiny này. Hai cha con không bao giờ gặp lại nhau; sau đó Louis từ chối yêu cầu của nhà vua rằng ông ta phải trở lại triều đình, cuối cùng Louis Dauphin đã bỏ chạy đến chỗ Philip tốt bụng-Công tước xứ Burgundy để được bảo vệ, trong 1456.

    Năm 1458, Charles đã đổ bệnh: ông luôn bị đau nhức chân (có lẽ là một triệu chứng của bệnh tiểu đường) và không thể được chữa lành và việc nó lây nhiễm gây ra một cơn sốt nghiêm trọng. Nhà vua đã cho triệu tập Louis vốn sống tại nơi lưu vong của ông ở Burgundy, nhưng nhà Dauphin đã từ chối và dùng một nhà chiêm tinh để báo trước chính xác giờ chết của cha mình. Nhà vua tục sống thêm trong hai năm rưỡi sau đó: ngày càng bệnh nặng nhưng không chết. Trong thời gian này ông cũng vẫn phải đối phó với các trường hợp chư hầu của ông nổi loạn như John V của Armagnac.


    Cuối cùng, tuy nhiên đến một thời điểm trong tháng 7 năm 1461 khi bác sĩ của vua Charles kết luận rằng ông không thể sống qua tháng Tám. Bị bệnh và mệt mỏi, nhà vua đã trở nên mê sảng, và bị thuyết phục rằng ông được bao quanh bởi những kẻ phản bội chỉ trung thành với con trai mình. Dưới áp lực của bệnh tật và sốt, nhà vua đã phát điên. Vào lúc này những lây nhiễm đã lan đến hàm răng của ông và gây ra một khối u hoặc áp xe trong miệng; chỗ sưng này đã trở nên quá lớn, cho tuần cuối cùng của cuộc đời mình, Charles đã không thể nuốt được thức ăn hoặc nước. Mặc dù ông tiếp tục cho gọi nhà Dauphin đến bên giường bệnh của ông, Louis vẫn từ chối và tiếp tục chờ đợi cha mình chết tại Avesnes ở Burgundy. Như vậy, tại Mehun-sur-Yèvre chỉ có sự có mặt của người con trai trẻ tuổi của ông-Charles và biết được sự phản bội cuối cùng người con trai cả của mình, nhà vua bị chết đói. Ông mất ngày 22 Tháng Bảy năm1461 và được chôn cất, theo yêu cầu của mình, bên cạnh cha mẹ của ông ở Saint-Denis.
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Jeanne d'Arc

    [​IMG]
    Tranh vẽ Jeanne d'Arc dẫn đầu quân Pháp đi giải vây cho thành phố Orléans

    Jeanne d'Arc (tiếng Việt: Gian-đa, 6 tháng 1 năm 1412 – 30 tháng 5 năm 1431) là một nữ anh hùng người Pháp trong cuộc Chiến tranh Trăm năm giữa Pháp và Anh. Ngày 16 tháng 5 năm 1920, Jeanne d'Arc được chính thức phong thánh và là một trong những vị thánh chính của Giáo hội nước Pháp.

    Sinh ra trong một gia đình nông dân ở phía đông nước Pháp, cô chỉ huy quân Pháp giành được một số chiến thắng quan trọng trong cuộc Chiến tranh trăm năm. Cô cho biết mình được Thiên chúa dẫn dắt giúp giải phóng nước Pháp đánh bại quân Anh, và như vậy gián tiếp đưa Charles VII lên ngôi. Cô bị người Anh bắt giữ, bị tòa án giáo hội xét xử, bị kết tội là phù thủy và bị hỏa thiêu khi chỉ 19 tuổi. Sự nghiệp của cô như vậy chỉ gói gọn trong hai năm cuối đời, một năm chiến đấu và một năm bị cầm tù. Hai mươi bốn năm sau, Giáo hoàng Callixtus III cho tra xét lại vụ án, và tuyên bố cô vô tội, rồi phong cô là một người tử vì đạo. Cô được ban phúc lành năm 1909, rồi đến năm 1920 được phong thánh.


    [​IMG]

    Jeanne chứng thực là cô nhận được mặc khải từ Chúa muốn cô giải phóng quê hương mình từ ách thống trị của người Anh trong cuộc Chiến tranh trăm năm. Vua Charles VII của Pháp, khi đó còn chưa lên ngôi, gửi cô cùng một đoàn quân đến đánh giải vây cho thành Orléans. Cô trở nên nổi bật sau khi vượt qua được thái độ coi thường của các chỉ huy dày dặn kinh nghiệm, và phá vây chỉ trong vòng chín ngày. Một loạt chiến thắng chóng vánh khác mở đường cho việc Charles VII đăng quang tại Reims.


    Jeanne d'Arc tiếp tục là một hình tượng quan trọng trong nền văn minh phương Tây. Kể từ thời Napoléon cho tới thời hiện đại, các nhà chính trị Pháp thuộc tất cả các nhóm chính kiến tiếp tục gợi đến hình ảnh cô. Trong số các nhà văn và nhà soạn nhạc viết các tác phẩm về cô có thể kể đến Shakespeare, Voltaire, Schiller, Verdi, Tchaikovsky, Twain, và Shaw. Hình tượng cô tiếp tục được sử dụng trong phim ảnh, truyền thông, ca nhạc, múa hát...


    Nước Pháp trong cuộc Chiến tranh Trăm năm


    Vào thời Jeanne d'Arc, nước Pháp đang trong tình trạng thê thảm. Cuộc chiến tranh trăm năm bắt đầu từ năm 1337 khi cuộc tranh cãi về quyền thừa kế ngai vàng nước Pháp nổ ra, xen lẫn với các giai đoạn tương đối yên bình. Gần như tất cả các cuộc giao tranh đều diễn ra trên nước Pháp. Người Anh sử dụng chiến thuật chevauchée, tức chiến thuật dùng các cánh quân kỵ binh nhỏ đột kích, đốt phá, tàn sát để tàn phá nước Pháp. Dân số Pháp chưa kịp hồi phục sau nạn Đại dịch hạch từ thế kỷ trước, thương mại bị cắt đứt khỏi thị trường nước ngoài. Người Anh lúc đó đã gần như đạt được mục tiêu của mình nhằm thiết lập một hệ thống lưỡng đầu chế, dưới quyền điều khiển của người Anh, ngược lại quân Pháp chưa bao giờ giành được một chiến thắng đáng kể nào trong suốt cả một thế hệ. Theo lời sử gia DeVries, "vương quốc Pháp không còn đáng là cái bóng của chính nó ở thế kỷ mười ba."


    Vị vua trị vì nước Pháp khi Joan ra đời là Charles VI, thỉnh thoảng lại lên cơn điên, nên không thể trị vì được. Em trai nhà vua, Công tước Louis xứ Orléans và em họ vua Jean sans Peur, Công tước xứ Burgundy, tranh giành ngôi nhiếp chính nước Pháp và quyền bảo trợ cho con cái nhà vua. Cuộc tranh giành này dẫn tới việc họ buộc tội Hoàng hậu Isabeau xứ Bavaria ngoại tình, và bắt cóc con cái nhà vua. Đỉnh điểm của cuộc xung đột diễn ra khi Công tước xứ Burgundy hạ lệnh cho người ám sát Công tước xứ Orléans năm 1407.


    Những người ủng hộ hai phe này được gọi là phe Armagnac và phe Burgundy. Lợi dụng tình hình rối ren, vua Anh là Henry V xâm lược Pháp rồi chiến thắng oanh liệt trong trận Agincourt năm 1415, đánh chiếm các thành phố ở miền bắc nước Pháp. Vị vua tương lai của nước Pháp, Charles VII, thụ phong danh hiệu Dauphin ( thái tử Pháp) khi mới 14 tuổi, vì cả bốn anh trai của ông đều đã qua đời trước đó. Hành động quan trọng đầu tiên của ông là ký hiệp ước hòa bình với phe Burgundy năm 1419. Nhưng nỗ lực này thất bại khi những người ủng hộ phe Armagnac đã chà trộn vào người của ông và ám sát John Dũng cảm trong buổi họp mặt ( thực ra thì ông đâu có lợi lộc gì khi ám sát chú mình ), dù Charles đã hứa bảo đảm an toàn cho ông. Vị công tước mới xứ Burgundy, Philippe le Bon, buộc Charles phải chịu trách nhiệm cho sự phản trắc này và liên minh với người Anh, với kết quả là một phần lớn lãnh thổ của Pháp bị người Anh chiếm mất.


    Năm 1420, Hoàng hậu Isabeau xứ Bavaria ký Hiệp ước Troyes, theo đó vua Henry V nước Anh và con cháu của ông được kế vị ngai vàng nước Pháp, thay cho con trai bà là Charles. Thỏa thuận này làm sống lại lời đồn đại là bà có quan hệ tình ái với vị Công tước xứ Orléans đã mất, và khiến người ta nghi ngờ vị Thái tử "Dauphin" là con hoang, chứ không phải con nhà vua. Henry V và Charles VI chết chỉ cách nhau hai tháng năm 1422, để lại một đứa con nhỏ, Henry VI của Anh, vua trên danh nghĩa của cả hai vương quốc. Em trai Henry V, John xứ Lancaster, Quận công Bedford đệ nhất làm nhiếp chính.


    Kể từ năm 1429, gần như toàn bộ miền bắc nước Pháp và một số vùng ở vùng tây nam bị ngoại bang chiếm đóng. Người Anh cai quản Paris, trong khi người Burgundy giữ Reims. Thành phố này rất quan trọng, vì nó theo truyền thống là nơi đăng quang của các nhà vua Pháp, đặc biệt khi cả hai nhân vật tranh giành ngai vàng nước Pháp đều chưa được đăng quang làm vua. Người Anh lúc đó đang tiến hành cuộc vây hãm Orléans, thành phố duy nhất ở phía bắc sông Loire còn trung thành với triều đình Pháp. Nó có vị trí chiến lược án ngữ dòng sông, là lá chắn cho trung tâm của nước Pháp. Theo lời các sử gia hiện đại, "số mệnh vương quốc treo trên đầu thành phố Orléans." Không ai tin tưởng thành phố có thể kháng cự được trong một thời gian dài nữa.


    Cuộc đời và sự nghiệp


    Joan là con ông Jacques d'Arc và bà Isabelle Romée tại Domrémy, một làng khi đó thuộc lãnh địa quận công xứ Bar (về sau nhập vào tỉnh Lorraine và đổi thành Domrémy-la-Pucelle). Cha mẹ cô sở hữu 50 mẫu đất (0.2 km2) và để thêm thu nhập cha cô còn làm viên chức thu thuế trong làng, cũng như chỉ huy đội dân quân của làng mình. Họ sống tại một vùng đất hẻo lánh thuộc vùng đông bắc còn trung thành với triều đình Pháp, dù nằm lọt thỏm trong lãnh địa của phe Burgundy. Khi cô còn nhỏ, thỉnh thoảng làng của cô bị đột kích và đốt phá.


    Joan cho biết cô 19 tuổi khi phiên tòa xử cô diễn ra, như vậy cô sinh năm 1412; cô sau này cho biết cô nhận được thiên khải đầu tiên vào khoảng năm 1424 lúc 12 tuổi, khi đó cô đang ở ngoài đồng một mình thì nghe thấy tiếng nói (của thiên sứ). Cô thuật lại là đã òa lên khóc khi họ biến mất vì họ quá sức đẹp đẽ. Cô cho biết Tổng thiên sứ Michael, nữ Thánh Catherine xứ Alexandria, và nữ Thánh Đồng trinh Margaret truyền cho cô đánh đuổi người Anh và đưa nhà Dauphin đến Reims để lên ngôi vua.


    Khi 16 tuổi, cô nhờ một người họ hàng, Durand Lassois, đưa cô đến Vaucouleurs để thỉnh cầu viên chỉ huy quân Pháp đồn trú tại đó là Bá tước Robert de Baudricourt cho phép tiếp kiến triều đình Pháp tại Chinon. Bá tước Baudricourt chế giễu cô, nhưng không làm cô nhụt chí. Tới tháng 1, cô lại quay trở lại và lần này được hai nhân vật quan trọng ủng hộ là Jean de Metz và Bertrand de Poulengy. Nhờ được họ bảo trợ, cô được gặp Bá tước lần thứ hai và tiên đoán hết sức chính xác về việc quân Pháp thất trận Herrings ở gần Orléans.


    Thành công


    Robert de Baudricourt cấp một toán quân bảo vệ để đưa cô đến Chinon, sau khi nhận được tin tức từ mặt trận xác nhận lời tiên đoán của cô trước đó. Cô băng qua lãnh địa của phe đối nghịch Burgundy bằng cách ăn mặc giả trai. Tới triều đình, cô gây ấn tượng trong buổi hội đàm kín đến mức Charles VII phải hết sức kinh ngạc. Ông sau đó cho người thẩm tra lý lịch và giáo lý cô tại Poitiers. Cùng lúc đó, mẹ vợ Charles là Yolande xứ Aragon bỏ tiền ra để tài trợ cho một đạo quân đi cứu viện Orléans. Joan thỉnh cầu được gia nhập đoàn quân và vũ trang như một hiệp sỹ, với áo giáp trắng, ngựa, cờ, thị đồng đều do người ta quyên góp. Sử gia Stephen W. Richey cho biết cô là niềm hy vọng duy nhất của cả một vương triều sắp sụp đổ:


    “ Sau bao năm thua hết trận này đến trận khác, các lãnh đạo quân sự và dân sự của Pháp đã mất hết tinh thần và uy tín. Lúc mà Dauphin Charles chấp thuận đề nghị khẩn thiết của Joan được phép vũ trang và chỉ huy quân đội, ông hẳn hiểu rằng tất cả mọi phương sách thông thường và hợp lý khác đều đã thất bại. Chỉ có một vương triều ở thế tuyệt vọng cùng cực mới lắng nghe một cô thôn nữ thất học tự xưng mình là sứ giả của Thượng Đế truyền cho mình lãnh đạo quân đội để giành chiến thắng.”


    "Hỡi Nhà vua nước Anh, và ngươi, Quận công Bedford, người tự xưng là nhiếp chính nước Pháp... hãy trả món nợ của các người cho Thượng Đế; trả lại cho người Thiếu nữ, chìa khóa tất cả các thành phố Pháp tươi đẹp mà các người đã xâm phạm."

    Thư gửi cho người Anh, tháng3-4 năm 1429;

    Cô đến Orléans ngày 29 tháng 4 năm 1429, nhưng Jean de Dunois (tức Jean d'Orléans), trưởng dòng công tước xứ Orléans, ban đầu không để cô tham gia họp trong hội đồng quân sự, và cũng không thông báo cho cô biết khi quân Pháp giao chiến với địch quân. Tuy nhiên việc này không ngăn cản được cô có mặt tại hầu hết các cuộc họp và các trận giao tranh. Người ta vẫn còn tranh cãi về ảnh hưởng và quyền chỉ huy trên thực tế của cô, với các sử gia truyền thống như Édouard Perroy cho rằng cô chỉ có ý nghĩa tượng trưng, mang lại hiệu quả tinh thần là chính. Tuy nhiên sự phân tích này dựa trên bản chép phiên toà xét xử cô, khi cô tuyên bố ưa cầm cờ hơn là cầm kiếm. Các học giả hiện đại tập trung vào phiên toà phục hồi danh dự của cô, nhấn mạnh là các sỹ quan tùy tùng rất khâm phục cô như một chiến thuật gia cừ khôi và là một nhà chiến lược giỏi. Ví dụ như Stephen W. Richey cho biết: "Cô dẫn quân đội đến một loạt chiến thắng ngoạn mục, xoay chiều cuộc chiến." Dù thế nào đi chăng nữa, các sử gia cũng đồng ý là quân Pháp giành được nhiều thắng lợi vang dội trong thời kỳ sự nghiệp ngắn ngủi của cô.


    Chiến tranh xoay chiều


    Cô không lặp lại chiến thuật khi đó của các chỉ huy Pháp vốn tỏ ra quá thận trọng. Trong vòng 5 tháng bị vây hãm, quân Pháp chỉ đột kích có đúng một lần, và thất bại thảm hại. Tới ngày 4 tháng 5, quân Pháp công kích và đánh chiếm được tòa thành ngoại vi Saint Loup. Thừa thắng, cô cho quân tiến đánh pháo đài thứ hai, gọi là Saint Jean le Blanc. Pháo đài này hóa ra bị bỏ trống, nên quân Pháp giành được thắng lợi mà chẳng bị tổn thất gì. Ngày tiếp theo, trong cuộc họp hội đồng quân sự, cô bác lại kế hoạch của Jean d'Orleans và đòi tiến hành một cuộc đột kích nữa vào địch quân. Jean D'Orleans hạ lệnh khóa cửa thành lại để ngăn không cho cô giao chiến với quân địch, nhưng cô triệu tập dân chúng và binh sỹ lại và đòi thị trưởng phải mở cửa thành. Chỉ có một viên đại úy ( La Hire) hỗ trợ, cô dẫn quân tiến ra và đánh chiếm pháo đài Saint Augustins. Trong tối đó, cô được tin mình đã bị loại ra khỏi hội đồng quân sự, và các chỉ huy hội đồng đã quyết định chờ viện quân trước khi tiếp tục giao tranh. Bất chấp quyết định đó, cô vẫn cương quyết đòi tấn công cứ điểm chính của quân Anh là "les Tourelles" ngày 7 tháng 5. Người đương thời ghi nhận sự anh hùng của cô trong trận chiến, dù trúng một mũi tên vào cổ, cô vẫn quay trở lại chiến trường để dẫn quân xông lên trong đợt xung phong cuối cùng và hạ được công sự này.


    [​IMG]
    Joan of d'Arc đốc thúc quân Pháp tấn công cứ điểm les Tourelles của Anh

    "...hỡi dân chúng, trong tám ngày, người Thiếu nữ đã đánh đuổi quân Anh khỏi tất cả các đồn lũy của chúng bên bờ sông Loire bằng cách này hay cách khác: chúng hoặc chết hoặc bị bắt, hoặc phải tháo lui trên chiến trường. Những gì các bạn được nghe về bá tước Suffolk, huân tước la Pole cùng em trai, huân tước Talbot, huân tước Scales, và hiệp sỹ Fastolf đều là sự thật; chúng ta đã đánh bại còn nhiều hiệp sỹ và chỉ huy hơn thế nữa."

    Thư gửi dân chúng Tournai, 25 tháng 6 năm 1429;

    Chiến thắng bất ngờ tại Orléans làm quân Pháp phấn chấn, rất nhiều người muốn tiến hành chiến dịch phản công quân Anh. Quân Anh dự tính quân Pháp có lẽ sẽ tìm cách đánh chiếm Paris hoặc mở cuộc tấn công vào Normandy. Sau chiến thắng tại Orleans, cô thuyết phục Charles VII giao quyền đồng chỉ huy quân đội cho cô và Công tước John II xứ Alençon và được nhà vua chấp thuận cho phép cô đánh chiếm các cây cầu bắc qua sông Loire để chuẩn bị tiến đánh Reims. Đây là một kế hoạch táo bạo, vì Reims nằm cách xa gấp đôi Paris, sâu trong lãnh thổ đối phương.


    [​IMG]

    Quân Pháp tái chiếm Jargeau ngày 12 tháng 6, đánh thắng trận Meung-sur-Loire ngày 15, rồi trận Beaugency ngày 17. Công tước Alençon chấp thuận tất cả các đề xuất của Joan. Các chỉ huy khác, bao gồm cả Jean d'Orléans vốn đã hết sức khâm phục cô kể từ trận Orléans, nay trở thành những người nhiệt thành ủng hộ cô. Alençon ghi công cô cứu mạng tại Jargeau, khi cô cảnh báo ông về một cuộc pháo kích bằng súng đại bác. Cũng trong trận này, cô trúng một phát đạn súng tay bằng đá vào mũ sắt khi đang leo lên thang công thành. Một đạo quân Anh cứu viện bất ngờ xuất hiện ngày 18 tháng 6 dưới quyền chỉ huy của Hầu tước John Fastolf. Trận Patay diễn ra và quân Pháp đại thắng, chiến thắng này có thể coi là bản sao ngược của trận Agincourt. Tiền quân Pháp xung trận trước khi xạ thủ Anh dùng trường cung kịp chuẩn bị trận địa phòng ngự, kết quả là quân Anh bị đánh tơi bời, rút chạy toán loạn. Quân Pháp truy kích và tiêu diệt phần lớn đạo quân này, phần lớn sỹ quan chỉ huy quân Anh bị bắt sống. Hầu tước Fastolf chạy thoát với một dúm quân và trở thành một con dê tế thần cho người Anh trút mối nhục chiến bại. Quân Pháp thắng trận với chỉ tổn thất chỉ 100 kị binh.


    Quân Pháp xuất phát từ Gien-sur-Loire, hướng về Reims ngày 29 tháng 6, chấp nhận đầu hàng từ thành phố Auxerre do phe Burgundy giữ ngày 3 tháng 7. Tất cả các thị trấn nằm trên đường tiến quân của họ đều hạ vũ khí quay về với vua Pháp. Thành Troyes, nơi ký kết hiệp định tước quyền thừa kế của Charles VII, qui hàng sau khi bị vây hãm có bốn ngày mà không cần giao chiến. Quân Pháp lúc tiến tới Troyes thì thiếu lương thực trầm trọng. Edward Lucie-Smith dùng việc này như một ví dụ rằng Joan may hơn khôn: trước đó một vị thày tu lang thang tên là Tu sỹ Richard thuyết giáo về sự tận thế tại Troyes và thuyết phục dân chúng trồng đậu là một thứ cây lương thực ngắn ngày. Đạo quân đói khát đến nơi khi đậu vừa kịp thu hoạch.


    "Hoàng thân xứ Burgundy, tôi cầu nguyện ngài — tôi khẩn khoản cầu xin ngày - ngừng chiến với vương quốc Pháp thiêng liêng. Xin hãy nhanh chóng rút binh lính của ngài tại một số đất đai và pháo đài trong vương quốc, và nhân danh nhà vua nhân từ của Pháp, tôi thông báo nhà vua đã sẵn sàng lấy danh dự ra để đảm bảo hòa bình với ngài."

    "Thư gửi cho Philip Tốt bụng, Công tước Burgundy

    [​IMG]
    Tranh vẽ Jeanne d'Arc khi làm lễ đăng quang cho Charles VII tại Reims

    Thành Reims mở cổng đầu hàng ngày 6 tháng 7. Sáng hôm sau, buổi lễ lên ngôi vua bắt đầu. Dù cả Joan và công tước Alençon thúc giục nhà vua cho tiến đánh Paris gấp, nhưng triều đình lại muốn đàm phán ngưng chiến với công tước Burgundy. Công tước Philip Tốt bụng vi phạm thỏa thuận giữa hai bên, dùng nó để kéo dài thời gian và tăng viện cho Paris. Quân Pháp trong lúc đó hành binh và tiếp tục nhận thêm các thành phố gần Paris đầu hàng. Quận công Bedford tập hợp một đạo quân Anh tiến ra chặn giữ quân Pháp ngày 15 tháng 8. Tới ngày 8 tháng 9, quân Pháp bắt đầu công phá Paris. Dù bị trúng một mũi tên vào chân, nhưng Joan tiếp tục chỉ huy binh sỹ cho tới khi giao tranh kết thúc khi trời tối. Ngày hôm sau, cô nhận được lệnh từ triều đình hạ lệnh ngưng chiến và rút quân. Phần lớn sử gia đổ lỗi cho tể tướng Pháp là Georges de la Trémoille đã phạm phải nhiều sai lầm chính trị tai hại kể từ sau lễ đăng quang của nhà vua Pháp.


    Bị cầm tù


    [​IMG]
    Tranh vẽ Joan of d'Arc bị bắt tù binh bởi người Burgundy

    Sau một trận giao chiến nhỏ tại La-Charité-sur-Loire trong tháng 11 và 12, Joan đến Compiègne trong tháng 4 để bảo vệ thành phố chống lại quân Anh và Burgundy vây hãm. Cô bị bắt sống trong một trận chạm trán ngày 23 tháng 5 năm 1430. Khi hạ lệnh rút lui, cô là người rút cuối cùng để đoạn hậu, quân Burgundy vây bọc toán quân đoạn hậu của cô.


    "Sự thật là nhà vua đã hưu chiến với công tước xứ Burgundy trong 15 ngày, và công tước phải giao lại Paris sau khi hạn 15 ngày chấm dứt. Nhưng các bạn chớ có ngạc nhiên nếu như tôi không nhanh chóng tiến quân vào thành phố đó. Tôi chưa hài lòng với các cuộc hưu chiến, và không chắc rằng tôi sẽ chấp nhận chúng, nhưng nếu tôi chấp thuận hưu chiến, thì đó chỉ là để bảo toàn danh dự cho nhà vua: dù họ có xâm phạm hoàng gia như thế nào đi chăng nữa, thì tôi cũng sẽ duy trì quân đội đề phòng trường hợp họ không tôn trọng hòa bình sau 15 ngày."

    "Thư gửi nhân dân Reims, 5 tháng 8 năm 1429"

    Sau k
    hi Joan d'Arc bị bắt, các tướng lĩnh và sỹ quan của cô như đại úy la Hire, Công tước Alencon, Jean de Rais... đã tổ chức một đội giải cứu đông đến 4.000 tình nguyện viên ( lúc này chỉ có Hoàng gia mới có tiền để mộ quân) để tấn công vào Vermandois và giải cứu cho cô nhưng trận chiến đã thất bại. Ấm ức vì thái độ vô ơn của Charles với Joan d'Arc, một loạt các tướng lĩnh đã tỏ ra bất phục nhà vua, ví dụ Jean de Rais đang là một Nguyên soái đã bỏ về nhà mình ( Ông này sau bị kết tội là yêu râu xanh), Công tước Alencon-em họ của vua Pháp, sau cũng liên tục chống đối lại nhà vua và 2 lần bị kết tội tử hình nhưng được giảm án phải chết trong tù...

    Theo lệ thường thì thân nhân có thể dùng tiền để chuộc lại tù binh. Không may là gia đình cô không có tiền. Nhiều sử gia lên tiếng chỉ trích vua Charles VII không làm gì cả để can thiệp. Cô mấy lần định vượt ngục, có lần nhảy từ tòa tháp cao 70 bộ (21 m) ở Vermandois xuống một cái hào khô, rồi sau đó bị chuyển đến thị trân Arras do quân Burgundy kiểm soát. Người Anh mua lại cô từ tay của Công tước Philip xứ Burgundy. Giám mục Pierre Cauchon xứ Beauvais, một người thân Anh, đóng vai trò chính trong việc đàm phán mua lại cô và trong phiên tòa xét xử cô sau này.


    Phiên tòa xét xử


    Tòa án dị giáo này được thúc đẩy bởi lý do chính trị. Công tước Bedford thay mặt cho cháu trai của mình là Henry VI tranh giành ngai vàng của nước Pháp. Joan là người đã trợ giúp cho việc đăng quang của vị vua đối nghịch, do đó việc kết tội cô là một nỗ lực nhằm hạ bệ tính hợp pháp của lễ đăng quang của vua Charles VII. Các thủ tục pháp lý đã được tiền hành từ ngày 9 tháng 1 năm 1431 tại Rouen, thuộc khu vực kiểm soát của chính quyền Anh. Vụ xét xử này có một số điểm bất thường.


    Tóm tắt một vài vấn đề chính như sau:


    Theo luật của Giáo hội, Giám mục Cauchon thiếu thẩm quyền xét xử trường hợp này. Ngài được bổ nhiệm xét xử nhờ sự chống đỡ thiên vị của chính quyền Anh, và chính quyền Anh đã tài trợ cho cuộc xét xử này. Giáo sĩ công chứng viên Nicolas Bailly được bổ nhiệm đi thu thập lời chứng chống lại Joan nhưng đã không thể tìm thấy bất kỳ chứng cứ chống đối nào. Tòa án đã mở cuộc xét xử mà không hề có chứng cứ nào như thế. Tòa án cũng vi phạm luật của Giáo hội khi từ chối quyền được có cố vấn pháp lý của Joan. Trong cuộc thẩm tra công khai đầu tiên, Joan tố cáo rằng tất cả những người hiện diện lúc đó đều là những người theo phe Anh chống lại cô, và yêu cầu phải có những giáo sĩ của phía Pháp được mời.


    Nhiều viên chức tòa án sau này đã làm chứng rằng những phần quan trọng của bản ghi chép đã được sửa đổi nhằm chống lại cô. Nhiều giáo sĩ đã bị cưỡng bức tham gia, trong đó có cả quan tòa Jean Le Maitre, thậm chí một số người còn bị chính quyền Anh đe dọa giết. Theo những hướng dẫn dành cho tòa án dị giáo thì Joan phải được nhốt trong một nơi giam giữ thuộc Giáo hội dưới sự trông nom của những người canh gác thuộc nữ giới, nghĩa là các nữ tu. Nhưng không, chính quyền Anh đã giữ cô trong một nhà tù thế tục được canh gác bởi những người lính của họ. Giám mục Cauchon đã từ chối đơn kháng án của Joan lên Hội đồng Basel và Giáo hoàng vì điều này có thể ngừng việc xét xử của ông.


    Mười hai lời buộc tội tóm tắt bản tuyên án của tòa mâu thuẫn với hồ sơ tòa án đã bị sửa đổi. Bị cáo mù chữ dưới áp lực bị đe dọa tử hình ngay lập tức đã ký vào một văn kiện tuyên bố bội giáo mà cô không hiểu. Tòa án đã thay thế một lời tuyên bố bội giáo khác trong hồ sơ chính thức.


    Bị hành quyết


    Tội dị giáo chỉ bị kết án tử hình nếu đương sự liên tục phạm tội. Thoạt đầu Joan chấp nhận mặc quần áo phụ nữ, nhưng trong khi bị giam cầm, cô đã bị quấy rối ********. Vì thế nên cô mặc lại quần áo đàn ông để tự vệ khỏi bị quấy nhiễu, hoặc là theo lời chứng của Jean Massieu, vì quần áo của cô bị lấy trộm và cô không có đồ gì khác để mặc.


    Các nhân chứng kể lại cuộc hành quyết bằng cách thiêu sống trên dàn thiêu ngày 30 tháng 5 năm 1431. Bị trói trên một cây cọc cao tại Vieux-Marche ở Rouen, cô xin hai vị giáo sỹ, linh mục Martin Ladvenu và linh mục Isambart de la Pierre, nâng cây thánh giá trước mặt mình. Một người nông dân cũng làm một cây thập tự nhỏ mà cô dùng để gài trước áo. Sau khi cô chết, người Anh gạt đống tro ra, để lộ thân xác cháy thiêu của cô, để không ai có thể cho là cô đã trốn thoát, rồi lại đốt thi thể cô hai lần nữa để biến nó thành tro bụi, sao cho không ai có thể thu thập được mảnh thân xác nào làm thánh tích. Họ ném tro bụi xác cô xuống sông Seine. Viên đao phủ, Geoffroy Therage, về sau nói là ông ta "...khiếp sợ sẽ bị đày xuống địa ngục."


    Phục hồi danh dự


    Philippe-Alexandre Le Brun de Charmettes là sử gia đầu tiên viết một cuốn sách hoàn chỉnh về Joan d'Arc năm 1817, trong nỗ lực nhằm khôi phục danh tiếng của gia đình cô. Ông trở nên quan tâm về Joan khi nước Pháp vẫn còn phải nỗ lực tìm bản sắc của mình sau cuộc Cách mạng Pháp chiến tranh Napoleon. Đặc trưng quốc gia của Pháp khi ấy là tìm kiếm một anh hùng chân chính, không có tai tiếng. Với tư cách một người ủng hộ nhiệt thành nhà vua và đất nước, Joan d'Arc là một hình mẫu có thể chấp nhận được với những người theo đường lối bảo hoàng. Là một người yêu nước và là con gái của một gia đình bình dân, cô được xem như hình tượng ban đầu của những chiến sỹ tình nguyện thuộc tầng lớp dưới đáy của xã hội, (the soldats de l'an II), những người đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng cho cuộc cách mạng Pháp năm 1802, và như vậy có thể được xem như hình tượng của một người Cộng hòa. Là một người tử vì đạo, cô rất được lòng giới giáo dân Công giáo mộ đạo. Cô được phong Thánh năm 1920 bởi Đức giáo hoàng Bênêdictô XV. Cuốn Orleanide của De Charmette, ngày nay đã bị quên lãng, là một ví dụ về việc người ta tạo ra một "đặc trưng quốc gia", giống như các nhà văn Virgil (với cuốn Aeneid), hay Camoens (cuốn Lusiad) đã làm cho La Mã và Bồ Đào Nha.


    Đoạn kết cuộc chiến


    Cuộc chiến tranh trăm năm còn tiếp tục kéo dài thêm 22 năm kể từ ngày cô mất. Charles VII giữ được địa vị vua chính thống của Pháp, dù phe đối địch với ông làm lễ đăng quang cho Henry VI tháng 12 năm 1431, khi cậu bé tròn 10 tuổi. Trước khi nước Anh kịp tái tổ chức lực lượng chỉ huy và đạo quân cung thủ dùng trường cung, bị tiêu diệt năm 1429, họ mất đi đồng minh Burgundy sau Hòa ước Arras năm 1435. Quận công Bedford cũng qua đời cùng năm đó, và Henry VI trở thành vị vua thiếu niên trẻ nhất của Anh cai trị không có nhiếp chính, và sự non yếu của ông có lẽ là lý do quan trọng nhất khiến cuộc chiến chấm dứt. Sử gia Kelly DeVries cho rằng chiến thuật tấn công bằng đại bác và tập kích vỗ mặt mà Joan d'Arc sử dụng có ảnh hưởng đến chiến thuật mà quân Pháp sử dụng cho tới hết chiến tranh.


    Minh oan và vinh danh


    Joan d'Arc trở thành một nhân vật gần như huyền thoại trong suốt bốn thế kỷ tiếp theo. Nguồn thông tin chính về cô đến từ các bản kỷ yếu, năm bản chép tay về phiên tòa xét xử cô được tìm thấy trong đống tư liệu cổ vào thế kỷ 19. Không lâu sau đó, các sử gia tìm được toàn bộ bản ghi về phiên tòa minh oan cho cô, trong đó bao gồm lời chứng từ 115 nhân chứng, và nguyên bản tiếng Pháp của bản thảo tiếng Latin của phiên tòa xét xử cô. Nhiều bức thư đương thời cũng được tìm thấy, ba trong số đó mang chữ ký "Jehanne", với nét chữ run run của một người đang tập viết. Nguồn tư liệu phong phú bất ngờ này là lý do để DeVries phải thốt lên, "Không có nhân vật nào từ thời Trung Cổ, đàn ông hay phụ nữ, lại được quan tâm nghiên cứu đến như thế".


    Joan d'Arc xuất thân từ một làng quê hẻo lánh, chỉ là một cô thôn nữ thất học mà nổi lên như một nhân vật xuất chúng khi còn chưa quá tuổi thiếu niên. Cuộc chiến tranh giành ngôi giữa vua Anh và vua Pháp dựa trên bộ luật Salic cổ kéo dài đằng đẳng, sự xuất hiện của cô mang lại ý nghĩa cho câu hỏi "Liệu có nên đuổi nhà vua khỏi vương quốc; và liệu chúng ta có trở thành người Anh?" Theo Stephen Richey, "Cô biến một cuộc chiến giành ngai vàng giữa hai triều đại, khiến nhân dân trở nên vô cảm vì mất mát, thành một cuộc chiến tranh ái quốc được nhân dân ủng hộ." Theo Richey:


    "Những người quan tâm đến cô trong suốt năm thế kỷ sau đó tìm cách gán cho cô đủ loại phẩm chất: cuồng tín ma quỉ, tâm linh huyền bí, ngây thơ và bị sử dụng một cách bi thảm bởi những kẻ có thế lực, người sáng lập và biểu tượng của chủ nghĩa ái quốc hiện đại, nữ anh hùng được yêu quí, nữ thánh. Cô kiên định, dù bị đe dọa tra tấn và chết trên giàn hỏa, rằng mình được dẫn dắt bởi giọng nói của Thượng Đế. Dù có thế nào đi chăng nữa, thành quả mà cô gặt hái được khiến người nghe không khỏi lắc đầu kinh ngạc."


    Năm 1452, trong một cuộc điều tra, Nhà Thờ tuyên bố một vở kịch tôn giáo để tưởng niệm cô tại Orléans có giá trị như một đặc ân hành hương tới đất thánh. Cô trở thành biểu tượng cho Liên minh Công giáo (Pháp) thời thế kỷ 16. Ngài Félix Dupanloup, Giám mục xứ Orléans từ 1849 tới 1878 là người đi đầu trong nỗ lực phong thánh cho cô, nhưng ông không còn sống để thấy điều đó trở thành hiện thực.


    Lá cờ của chính phủ lưu vong của Charles de Gaulle thời Đệ nhị thế chiến. Phong trào kháng chiến Pháp sử dụng cây Thập tự Lorraine như biểu tượng gợi nhớ đến Joan of Arc.


    Người Công giáo truyền thống tại Pháp và các nơi khác xem cô như biểu hiện của nguồn cảm hứng, và so sánh việc rút phép thông công ****************** Marcel Lefebvre năm 1988 (người sáng lập ra Hội thánh Pius X và người bất đồng với các cải cách Vatican II) với việc cô bị rút phép thông công. Ba con tàu của Hải quân Pháp được đặt theo tên cô, gồm cả hàng không mẫu hạm cho máy bay trực thăng Jeanne d'Arc (R 97) nay vẫn còn hoạt động.
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Jean II, Duke of Alençon

    John II của Alençon (2 tháng Ba năm 1409, Château d'Argentan - 08 tháng 9 năm 1476, Paris) Con của John I của Alençon và Marie của Brittany. Ông đã thừa kế cha mình làm Công tước của Alençon và Bá tước của Perche vào năm 1415 khi còn là một cậu bé 6 tuổi, sau cái chết của cha mình trong trận Agincourt.


    Ông được trông thấy đã từng tham gia chiến đấu như một chiến binh trẻ tuổi trong trận Verneuil trong ngày 17 tháng Tám năm 1424 và bị bắt tù binh bởi người Anh. Ông bị giam giữ trong tù cho đến năm 1429, khi ông được phóng thích sau khi phải nộp một khoản tiền chuộc lớn, khoản tiền chuộc này đã làm cho ông chở nên nghèo khó và vùng đất công tước của ông nằm trong sự kiểm soát của người Anh. Trước khi ông bị bắt tại tù binh tại Verneuil, ông đã kết hôn với Jeanne của Valois, con gái của Charles, Công tước xứ Orleans và Isabella của Valois tại Blois, năm 1424, bà này qua đời năm 1432.


    Ngay sau khi được thả tự do, ông trở thành người ủng hộ cô nổi bật nhất trong số các hoàng thân cùng huyết thống với Hoàng gia Pháp. Ông trở thành một người bạn thân của Thánh nữ-người có biệt danh là "Công tước cao quý." Ông đi cùng cô trên các chiến dịch của mình, bao gồm cả cuộc bao vây của Orleans. Sau đó ông được bổ nhiệm làm trung tướng của nhà vua và chiến đấu trên Loire cùng với Jeanne. Ngày 12 tháng 6 năm 1429, ông đã giành chiến thắng của Jargeau và chiếm được thành phố, và đã làm cho Bá tước Suffolk phải bỏ chạy khỏi. chiến thắng của ông cũng góp phần vào sự thành công của trận Patay. Ông tham gia vào cuộc hành quân đến Reims tháng Bảy, sau đó ngày 17 tháng 7 ông là một trong những hiệp sỹ của Charles VII trước khi ông này tham dự lễ đăng quang của mình.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Bất chấp thỏa thuận ngừng bắn ký kết tại Compiegne với người Burgundy Alençon cho dựng trại vào mùa đông 1429-1430 để tiến hành các cuộc chinh phục tới Normandy, nhưng không thu được thành công, cũng như Jeanne đang bị bế tắc bởi sự trì hoãn của viên Tể tướng La Trémoille. Cay đắng, ông hiểu rằng ông không có gì để mong đợi từ La Trémoille và rời triều đình, và nhận làm Trung úy của Bá tước Vendome. Trong những tháng sau đó ông tham gia một cuộc chiến riêng rẽ chống lại Công quốc của Brittany. Ngày 30 tháng 4 năm 1437, tại Chateau L'Isle-Jourdain, Ông kết hôn với Marie của Armagnac (c. 1420-1425 tháng 7 năm 1473, Cloister Mortagne-au-Perche), con gái của Jean IV của Armagnac.

    John đã tỏ ra bất mãn với Hiệp ước Arras, vì đã từng hy vọng làm giảm cái nghèo của mình qua việc bắt ép người Burgundy ( kẻ thù của ông trong nội chiến Pháp ) phải nộp tiền. Ông đã có nhiều mâu thuẫn với Charles VII và tham gia vào một cuộc nổi dậy từ năm 1439-40, ( cuộc nổi dậy Praguerie) nhưng được nhà vua Pháp tha thứ. Ông tham gia vào cuộc tái chiếm Normandy trong năm 1449, ông cũng đã có những trao đổi liên lạc một cách hạn chế với người Anh 1440. (Ông đã chấp nhận danh hiệu Golden Fleece của người Anh vào lúc này.) Ngay sau khi đứng ra làm chứng tại cuộc " phúc thẩm phục hồi danh dự" cho Joan của Arc trong 1456, ông đã bị bắt bởi Jean Dunois và bị giam cầm tại Aigues-Mortes. Năm 1458, ông bị kết án tội phản bội tổ quốc và bị kết án tử hình, bản án đã được giảm nhẹ và ông bị giam giữ tại Loches. Ông được phóng thích bởi Louis XI vào năm 1461 nhân dịp ông này mới đăng quang nhưng John từ chối công nhận nhà vua và vẫn tiếp tục bị cầm tù một lần nữa. Ông bị xử án lần thứ hai trước Nghị viện Paris và bị kết án tử hình một lần nữa vào ngày 18 tháng bảy năm 1474 và Công quốc của ông bị tịch thu. Tuy nhiên, bản án đã không được thực hiện, và ông đã chết trong tù tại cung điện Louvre năm 1476.

Chia sẻ trang này