1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    Attila the Hun và trận Chalon

    [​IMG]

    Không có sự cuồng nộ khủng khiếp và hung bạo nào có thể sánh với Attila the Hun. Ngay tại thế kỉ 20 này thì đối với người Đức cái tên Attila là cái tên ghê sợ nhất. Attila thủ lĩnh vĩ đại của người Huns là hình ảnh của kẻ cướp phá các thành phố và tàn sát trẻ em. Trong thời của mình, Attila dc gọi là "thiên tai của chúa " , việc tàn phá sứ Gaul trước trận đánh Chalons năm 451 đã trở thành một phần trong các truyền thuyết lưu truyền thời trung cổ.

    Trận Chalons là một trong những trận hiếm hoi chứng kiến sự đối đầu giữa hai kì nhân ,một bên là Attila hung tơn và cuồng bạo và một bên là Aetius cao quý, dc xem như " người cuối cùng của La Mã". Vào năm 451 ,Aetius đã là vị tướng lừng danh nhiều năm và là cố vấn chính trị của hoàng đế Đông La Mã ,Valentinian III. Suốt 40 năm qua ,La mã thoái trào mạnh mẽ nhất là ở phía Đông và hơn ai hết Aetius đã làm tất cả để suy trì sự hùng mạnh và thịnh vượng của đế chế.

    [​IMG]

    Attila

    [​IMG]

    Aetius

    Mặc cho các nỗ lực của Aetius ,khi Attila vượt sông Rhine ông ta đe dọa nghiêm trọng sự tồn vong của đế chế. Đông La mã đang chịu sự cướp phá của người Visigoths, Vandals, Suebi, Alamanni, Burgundians và các rợ khác. Visigoths đã có một vương quốc độc lập tại Aquitaine, và Vandals chiếm Bắc Châu Phi với thủ phủ tại Carthage. Roman cai trị tại nhiều phần của Gaul và Tây Ban Nha đã chỉ còn phụ thuộc trên danh nghĩa. Mặc dù Aetius đã chiến đấu chống lại các đợt sóng tấn công, ông đã không giữ nỗi trước các đợt sóng xâm lấn mạnh hơn bao giờ hết từ phía Tây Alaric và Visigoths đã cướp phá thành phố Rome trong năm 410 .

    Phần hấp dẫn nhất của trận Chalons chính là khung cảnh cuộc xâm lấn mạnh bạo của Attla vào xứ Gaul , mà mỗi phần nhỏ trong đó bản thân nó đã là một phần của trận đánh. Mặc dù nhiều dữ kiện thật khó tin nhưng các kết quả thật sự thuyết phục ,nhất là trong bối cảnh thế kỉ thứ 5.

    Người Huns vốn là một giống dân bí hiểm và khủng khiếp . Họ xâm nhập biên giới La Mã vào thế kỷ thứ 4 , cỡi trên những chiến mã, họ đến từ những thảo nguyên châu Á , gieo rắc nỗi kinh hoàng lên cả các rợ Gecman và người La Mã. Một số học giả tin rằng ban đầu họ định thâm nhập Trung Hoa nhưng sau đó chuyển hương tấn công vào La mã. Khi họ đến biển Đen và chinh phạt người Ostrogoth ,dồn người Visigoth từ sông Danube vào đế chế La mã gây nên cuộc khủng hoảng dẫn đến thất bại khó tin của Hoàng Đế Valens tại trận Adrianople trong năm 378 .

    Những người Hun ban đầu sử dụng chiến thuật truyền thống của các kị sĩ bắn cung, giống như những quái thú đến từ bóng đêm xuất hiện trên thế giới. Sử gia La Mã Ammianus Marcellinus, viết vào cuối thế kỷ thứ tư, mô tả tỉ mĩ về trang bị và chiến thuật của họ như sau :

    "Quốc gia của người Hun hoang dã khác thường so với các rợ khác...Và dù (người Hun) cũng trang bị như các chiến binh khác nhưng họ thật sự hoang dã vì họ ko nấu nướng và ko cần gia vị trong các bữa ăn, họ ăn các loại củ trên mặt đất vầ gần như ăn sống các loại thịt động vật mềm. Tôi nói gần như sống vì họ nấu nướng trong các dụng cụ ngay trên lưng ngựa. ...Khi tấn công ,họ tham gia rất bài bản , họ tiến vào trận đánh bằng đội hình hàng dọc sau đó làm tràn ngập không khí với những tiếng la hét hỗn loạn. Thường thấy hơn là họ chiến đấu ko theo thứ tự nào cả nhưng chuyển động của họ nhanh và bất ngờ cực kì .Họ tản ra rồi sau đó nhập lại theo các nhóm nhỏ , họ gieo rắc sự cướp phá trên các vùng rộng lớn , lướt như bay qua các thành luỹ của kẻ thù và cướp phá nhanh tới mức kẻ thù chưa nhận biết dc sự xuất hiện của bọn họ.Phải thú nhận rằng họ là những chiến binh khủng khiếp nhất ,họ chiến đấu ở cự li xa với cung tên có thể bắn thủng tới tận xương nhanh như chớp. Khi cận chiến bằng gươm ,họ chiến đấu không màng đến sự an toàn của bản thân, khi kẻ thù phải chú ý từng đường gươm để đỡ gạt , họ sẽ quăng lưới vào đối phương , trói chặt ,khiến cho họ ko thể đứng vững hay cỡi ngựa dc. "

    Rõ ràng, lúc ban đầu xuất hiện tại biên giới La mã, họ đã gây nên một ấn tượng mạnh mẽ, nhưng mối đe dọa đầu tiên xuất hiện sau khi họ định cư dọc sông Danube, đặc biệt tại khu vực thảo nguyên bao la vùng Hungary, nhưng suốt năm mươi năm sau đó họ đối với Romans như là đồng minh hơn là kẻ thù của đế chế. Đổi lại, Đông Hoàng Đế, bắt đầu từ năm 420 , trả tiền trợ cấp hàng năm cho họ. Mối giao hảo bất thường này diễn ra khá êm đẹp ngoại trừ một vài lần người Huns đe dọa hoạt động giao thương của đế quốc.

    Bước ngoặt của sự kiện khi Attila trở thành vua của người Huns, kẻ thống trị mới hung hãn bội phần và có tham vọng lớn lao hơn các người tiền nhiệm, và tính kiêu ngạo làm cho ông ta trở nên không thể lường trước được. Có câu chuyện kể rằng có lần ông ta tuyên bố mình sở hữu thanh gươm của thần chiến tranh, và các thủ lĩnh của tất cả các rợ không dám ngước mắt nhìn ông ta trực tiếp. Attila là một nhân vật nổi bật, sử gia Edward Gibbon trong cuốn The History of the Decline and Fall of the Roman Empire đã có những dòng miêu tả nổi tiến về tính cách và sự xuất hiện của người Hun này như sau :

    " Đặc điểm của ông ta, theo miêu tả của các sử gia Gothic , thể hiện nguồn gốc xuất xứ của ông ta ,...cái đầu quá khổ, làn da ngăm đen, mắt trũng sâu và bé tí ,mũi to, râu mọc lỏm chởm trên cằm , đôi vai rộng , dáng người thấp bè, toát vẻ từ hình thể không cân xứng đó là một trí lực mạnh mẽ. Các bước đi kiêu căng và thái độ của vua người Huns bày tỏ sự ưu việt của mình trên phần còn lại của nhân loại .Ông ta có cái nhìn kinh khiếp khủng bố người khác. Ông ta yêu thích chiến tranh, nhưng khi đạt dc ngôi vị vào độ tuổi sung mãn, ông ta dùng đầu óc hơn là đôi tay để thực hiện các cuộc chinh phạt lên phía Bắc. Khi đó tiếng tăm của một chiến binh phiêu lưu đã được thay bằng hình ảnh một vị tướng quân đầy cẩn trọng và khôn ngoan."

    Trong thời kì trị vì của mình , Attila đòi thêm nhiều tiền, và Đông Hoàng Đế, Theodosius II , phải trả gấp đôi tiền trợ cấp hàng năm. Vì nhiều lí do khác nhau, bắt đầu từ năm 440 , vị vua mới bắt đầu nhìn sang phía tây như là cơ hội mới của người Huns. Trong thập kỉ tiếp theo và hơn một nửa thời gian tại vị của mình, Attila là kẻ thống trị ngoại quốc có quyền lực bậc nhất đối với đế quốc Đông La mã. Những người Huns dưới trướng ông ta đã trở thành một quốc gia cố định , không còn là những người du mục trên lưng ngựa như trước đó. Vùng đồng cỏ Hungrary không cung cấp nhiều chổ chăn thả ngựa như vùng thảo nguyên châu Á. Người Huns buộc phải phát triển lực lượng bộ binh để bổ sung cho số lượng kị binh sụt giảm. Một học giả hàng đầu gần đây phát biểu : " Khi người Huns lần đầu tiên xuất hiện ở thảo nguyên Biển Đen, họ là những người du mục và chủ yếu là những kị sĩ trên lưng ngựa. Ở Châu Âu, họ sụt giảm số lượng kị binh và các thủ lãnh của họ đã tăng cường thêm lực lượng bằng cách sử dụng các lực lượng tại chỗ trong đế quốc La Mã. " Trong thời Attila , người Huns hầu như đã trở thành một quốc gia trong số các rợ Châu Âu. Quốc gia ấy rất lớn, dù sao, chúng ta sẽ thấy, nó có khả năng thực hiện các chiến dịch khổng lồ mà hầu hết các các đạo quân rợ khác ko thể sánh kịp. Trong bất kì trường hợp nào thì đợt xâm lấn của người Huns vào xứ Gaul là chiến dịch quân sự khổng lồ. Người Huns nổi tiếng về sự tàn ác cũng là lẽ công bằng . Trong thập niên 440 ,một đạo quân của Attila tấn công vào phía Đông Balkans , nhắm vào một thành phố trong tỉnh Danube, là Naissus (441-42). Nó cách một trăm dặm về phía nam của Danube trên sông Nischava.Họ đã tàn phá nơi mà vài năm sau đó các phái bộ ngoại giao của Roman dc cử đến để gặp Attila, họ hạ trại bên ngoài thành phố trên bờ sông. Trên bờ sông ngập tràn xương người, mùi tử khí bốc lên khủng khiếp đến nỗi ko ai dám vào thành phố. Nhiều thành phố của Gaul sẽ sớm chịu cùng một số phận đau khổ như vậy.

    Sau khi thiết lập căn cứ vững chắc trong lòng đế quốc La Mã tại vùng Danube, người Hun bị chặn đứng bởi vị tướng nổi tiếng nhất của Đông đế quốc khi họ cướp phá xứ Thrace (442). Sau đó vào năm 447, Attila tràn vào Balkan trong cuộc chinh Đông vĩ đại của mình. Người Hun đã tiến xa đến tận vùng Thermopylae, và chỉ chịu dừng lại khi Đông hoàng đế Thodosius II nài nỉ thương lượng. Attila chấp nhận với việc phải trả hết số nợ trước đó công thêm một khoảng trợ cấp hằng niên là 2100 cân vàng (pound). Người Hun cũng gieo rắc sự kinh hoàng khắp miền nam Danube. Một nguồn sử chép rằng : " Việc giết chóc và thảm sát kinh hoàng đến nổi ko thể đếm dc số lượng người chết , người Hun đốt phá cả nhà thờ và tu viện ,họ tàn sát cả Cha xứ và các trinh nữ , ... họ cũng tàn phá xứ Thace đến nỗi nó ko bao giờ có thể khôi phục nguyên trạng như xưa" . Chiến thắng mạnh mẽ này khiến Attila rảnh tay quay sang tấn công phía Tây , bắt đầu cuộc xâm lăng xứ Gaul.

    Một thủ lĩnh rợ vĩ đại cùng thời là Gaiseric ,vua của ngừơi Vandal , đóng vai trò quan trọng trong việc khởi đầu trận Chalons. Ông ta khuyến khích Attila tấn công người Visigoth ở miền Tây bởi mối thâm thù giữa người Vandal và người Visigoth. Lúc trước vốn là con trai của Gaiseric đã cưới con gái của Theodoric I ,vua của người Visigoth. Nhưng vào năm 442 , khi Đông hoàng đế Valentinian III cho con gái của mình hứa hôn với con trai của Gaiseric ,ông ta đã trả công chúa của người Visigoth trở về với dân tộc của mình trong bộ dạng tai và mũi bị cắt xẻo rất dã man. Từ đó mối thâm thù giữa Visigoth và Vandal lên tới đỉnh điểm , và khi Attila vượt sông Rhine trong khi người Visigoth gia nhập với Aetius chống lại Attila thì người Vandal vẫn ở ngoài cuộc chiến.

    [​IMG]

    Có hai yếu tố quan trọng cần dc xem xét đặc biệt .Một là cái chết của Đông hòang đế Theodosius II , chết vì bị ngã ngựa năm 450. Người kế vị của ông ta Marcian (450-7), theo đuổi đường lối cứng rắn chống lại sự xâm lấn của các rợ vào vùng Balkan, ông ta từ chối trả tiền trợ cấp thường niên cho Attila . Cơn thịnh nộ của người Hun là cực kì khủng khiếp , nhưng ông ta quyết định trút sự giận dữ của mình về phía Tây , vì nó yếu hơn phía Đông. Và vì một câu chuyện kì lạ nổi tiếng nhất trong lịch sử xảy đến với Attila, cho ông ta cái cớ hợp pháp để tiến hành chiến tranh chống lại Tây hoàng đế. Honoria, em gái của hoàng đế Valentinian , vào năm 449 bị phát hiện dan díu với người quản gia, kết quả của mối tình lén lút này là Honoria có thai và bị biệt giam. Trong cơn tức giận cô ta lén lút gửi cho Attila chiếc nhẫn của mình và yêu cầu dc cứu giúp . Attila xử lí việc này bằng cách đưa ra đề nghị cầu hôn và yêu cầu một nửa đế quốc như là của hồi môn. Vì vậy khi vượt qua sông Rhine ông ta tuyên bố chỉ tìm kiếm những gì thuộc về mình bằng vũ lực.

    Sau khi chuẩn bị chu đáo, Attila vượt sông Rhine với đội quân lớn người Hun và các rợ đồng minh khác. Trong đội quân của ông ta có một bộ phận lớn người Ostrogoth và các chiến binh người Germanic bao gồm cả người Burgundians và người Alans sống gần biên giới đế quốc La Mã. Người Frank chia làm hai bộ phận , một ủng hộ Roman và một chống lại. Vào đầu tháng tư ,Attila tiến vào Metz và nỗi sợ hãi bao trùm xứ Gaul. Các sử gia đương thời ước tính quân số của Attila vào khoảng từ 300.000 đến 700.000. Dù con số như thế nào nhưng nó thật sự là đạo quân khổng lồ vào thế kỉ thứ 5. Hàng loạt thành phố lớn ở Châu Âu bị cướp phá và thiêu trụi : Rheims, Mainz, Strasbourg, Cologne, Worms và Trier. Paris may mắn thay, có sự hiện diện của một thánh trong thành phố và do đó dc dung tha nhờ sự cứu giúp của thánh Genvieve .

    [​IMG]


    Vượt qua sông Rhine, Attila tiến vào trung tâm xứ Gaul và bao vây Orleans. Nếu đạt dc mục tiêu của mình Attila sẽ có vị trí thuận lợi để tấn công người Visigoth ở Aquitaine, nhưng Aetius đã thành lập một liên minh ghê gớm để chống lại người Hun. Nỗ lực hết sức mình , lãnh đạo Roman đã xây dựng một liên minh mạnh mẽ gồm người Visigoths, Alans và Burgundians, kết nối họ bên cạnh kẻ thù truyền thống Roman của mình để cùng nhau phòng thủ xứ Gaul. Mặc dù tất cả các bên tham gia bảo vệ Đông La mã đều căm thù người Huns, đó vẫn là một thành tích đáng kể của Aetius khi tạo ra một mối liên minh quân sự có hiệu quả.

    Attila không chờ đợi nỗ lực mạnh mẽ như vậy ở phần này của đế quốc. và ông ta quá khôn ngoan để cho đội quân của mình có thể bị sa lầy xung quanh các bức tường của Orleans, do đó, ông ta hủy bỏ việc bao vây, theo các sử liệu, vào ngày 14 tháng sáu. Điều này tạo lợi thế tinh thần rất lớn cho Roman và quân đồng minh khi Attila rút lui về khu vực tỉnh Champagne của nước Pháp ngày nay. Trên khu vực đồng bằng Catalaunian , (một số người tin rằng gần Troyes hơn là Chalons) một trận đánh lớn đã xảy ra vào ngày 20 tháng 4. Triển vọng của Attila dường như đã lung lay. Chiến thắng có vẻ bấp bênh và bối rối trong việc rút lui, vào ngày diễn ra trận đánh ,ông ta ở trong trại đến tận buổi chiều. Có vẻ như ông ta lên kế hoạch tham chiến muộn , để có thể rút đi khi màn đêm buông xuống. Cuối cùng ông ta quyết định cho quân của mình bước vào trận đánh.

    Bên cánh phải của quân Hun là một số lượng lớn đồng minh rợ Gecmanic , bên trái là người Ostrogoth và Attila thống lĩnh trung quân với đội quân người Hun tinh nhuệ của mình. Ở phía đối diện ,Aetius quyết định đưa đội quân ít tin cậy nhất của mình là người Alan vào trung tâm để hứng chịu mũi đột kích của Attila. Người Visigoth bố trí bên phải và người Roman trấn giữ bên trái. Aetius hy vọng thực hiện thế gọng kìm, tấn công mạnh vào hai bên cánh yếu của Attila trong khi phòng thủ ,cố giữ vững khu trung tâm. Khi người Roman bên cánh trái chiếm được một số khu đất cao bằng cuộc tấn công ban đầu, họ đã nắm được một phần lợi thế.

    [​IMG]

    Và như vậy trận đánh vĩ đại nhất và mang tính quyết định của lịch sử thế giới phương Tây đã bắt đầu. Tất cả các sữ liệu đều đồng ý rằng nó có giá của vô số mạng sống , "cadavera vero innumera" (thực sự không thể đếm dc số xác chết ) câu nói của một sử gia thời xưa đã miêu tả. Attila tấn công mạnh mẽ vào người Alan ở trung tâm. Ông ta dồn người Alan dạt sang bên mé phải chỗ của quân Roman . Trong khi đội hình của quân Hun đang chuyển hướng sang bên cánh phải họ đã để lộ sườn và bị Theodoric , vua của người Visigoth đột kích , và khi màn đêm buông xuống , người Hun bị tổn thất nặng nề ở cả hai bên cánh. Bản thân Theodoric cũng mất mạng trong trận đánh này.

    [​IMG]

    Thorismund nhận vương miệng vua của Visigoth ngay trong trận Chalon khi cha là Theodorius bị chết.(ông này sau đó bị sát hại vào
    năm 453 và người kế vị là em trai tức Theodorius II)


    Trên thực tế , vào thời điểm đó, trận đánh đã kết thúc. Một bộ phận quân Roman muốn Aetius chiến tiếp vào ngày hôm sau nhưng Aetius quyết định dừng lại. Có lẽ ông ta muốn để cho Attila rút đi cùng lực lượng của mình, mặc dầu bầm dập nhưng vẫn còn nguyên vẹn , để giữ cho các rợ ở xứ Gaul liên hiệp lại dưới trướng Roman. Trong bất cứ trường hợp nào, ông ta khuyến khích vị vua mới của Visigoth nhanh chóng quay về Aquitaine để bảo đảm cho ngôi vị của mình. Phần Attila thì rút lui về bên kia sông Rhine một cách thuận lợi. Nhiều người đã chỉ trích Aetius đã quá dễ dàng đối với người Hun mà không tiêu diệt quân đội của họ. Nhưng cũng ko cần thiết để bàn về các động cơ chính trị ảnh hưởng đến quyết định của Aetius ở đây. Về mặt quân sự, quyết định của Aetius là đúng đắn. Theo một số sử liệu , thì bản thân Liên quân Roman cũng tổng thất nặng nề và Atitila chỉ là mãnh hổ bị trọng thương mà thôi. Ông ta tiếp tục được xem như là một lực lượng quân sự đáng gờm. Dù người Hun vừa trải qua một trận đánh đẫm máu, có lẽ đó là quyết định khôn ngoan của Aetius khi để cho kẻ thù man rợ của mình một đường thối lui, khiến cho Attila hài lòng khi rút quân ra khỏi đế quốc . Và đúng là những năm tiếp theo, mặc dù Attila xâm lấn Italia và gây ra nhiều tổn thất nhưng nếu cuộc tấn công của ông ta vào xứ Gaul thành công thì toàn bộ lịch sử phương Tây đã thay đổi. Không giống như các rợ khác trong thời đó, người Hun ko theo Ki tô giáo, và họ chẳng mấy tôn trọng nền văn minh La mã -Ki tô vào thời cuối của đế quốc , ít hơn nhiều thậm chí so với người Visigoth và Vandal.

    Vì nhiều lí do khác nhau, vào thế kỉ 20 này , một số sử gia theo trường phái "khoa học " đã làm giảm vai trò hết mức và thậm chí cười nhạo ý niệm về "trận đánh quyết định" này. Có một ý niệm phổ biến rộng rãi rằng lịch sử nhân loại hiếm khi dc quyết định trên chiến trường. Vào thế kỉ 19, cuốn sách của Edward Creasy ," mười lăm trận đánh quyết định của thế giới " (xuất bản lần đầu năm 1851) , đã trở thành best seller và có ảnh hưởng mạnh mẽ .(Một cách bất ngờ Creasy đề cập tới trận Chalon trong danh sách kể trên ). Nhưng vào đầu thế kỉ 20 đã có sự xét lại. Hans Delbruck hoàn toàn bỏ qua trận Chalons trong tác phẩm " Lịch sử nghệ thuật Chiến tranh trong bối cảnh chính trị, Lịch sử (1920-21)" . Và một trong những học giả lỗi lạc nhất về thời kì Hậu đế quốc đã từ chối , như một vài người khác , thậm chí gọi nó bằng cái tên truyền thống vốn có :

    Trận Maurica [Chalons] là một trận chiến của các quốc gia, nhưng tầm quan trọng của nó đã bị phóng đại quá mức. Thật không hợp lí khi xem nó là một trong những trận đánh quyết định của thế giới. Mối đe dọa thật sự không quá to lớn như người ta lầm tưởng. Nếu Attila giành chiến thắng... Không có lí do chính đáng để cho rằng lịch sử thế giới sẽ thay đổi nghiêm trọng.

    Để làm rõ , vị trí chính xác diễn ra trận đánh đang dc tranh cãi và nghi ngờ . Trên khu vực rộng lớn của nước Pháp ngày nay, vẫn có một số người đành thời gian cuối tuần rãnh rỗi để tìm kiếm bằng chứng về trận đánh. Nhưng cũng có nhiều trận đánh cực kì quan trong trong lịch sử cũng ko xác định dc địa điểm, chẳng hạn như : Plataea, Issus, Cannae, Zama, và Pharsalus. Việc xem xét các bằng chứng xa xưa ít ỏi như vậy là không như mong đợi ,song cũng ko thể cho rằng kết quả của trận đánh là không quan trọng. Nếu sự nguy hiểm của Attila và người Hun bị thổi phồng thì tại sao họ có thể kém nguy hiểm hơn Hannibal và người Carthage hoặc là Alaric với người Visigoths ?

    Sự thật thì mối đe dọa từ người Hun đối với Roman ko dc dỡ bỏ hoàn toàn bằng chiến thắng của Aetius trong trận Chalon. Dù bị tập kích và phải rút lui qua sông Rhine nhưng Attila vẫn còn lực lượng rất mạnh và ông ta cũng chẳng học dc bài học nào. Trong năm tiếp theo (452), ông ta vượt qua dãy Alps và di chuyển xuống Ý, thực hiện đợt xâm lăng lớn khác gây kinh hoàng cho các cư dân của Tây đế quốc. Trong một vài mặt thì đợt xâm lăng này còn tàn bạo hơn đợt xâm lăng đầu tiên. Thành phố Aquileia tại rìa của vùng Adriatic đã bị xóa sổ khỏi mặt đất. Những cư dân trốn thoát của thành phố tội nghiệp này đến dc vùng ngập nước của Adriatic và thành lập nên thành phố Venice. Nhiều thành phố ở vực bình nguyên Po Valley - Milan, Verona, và Padua -bị phá hủy và sụt giàm dân số. Attila the Hun đã cướp bóc và tiêu hủy cả một vùng miền bắc nước Ý ! Aetius gặp nhiều khó khăn để thuyết phục người Visigoth và người Alan để bảo vệ nước Ý, không giống như một năm trước đó họ liên minh để phòng thủ xứ Gaul.

    Có lúc Italia hoàn toàn bị xâm chiếm song thật sự cái thế của Attila yếu hơn là Roman nhận biết. Chắc chắn là bởi hàng loạt các tổn thất ông ta đã trải qua trong trận Chalon một năm trước đó. Có một câu chuyện nổi tiếng dc lưu truyền rằng , Giáo hoàng Leo đã đến gặp Attila tại Bắc ý chỗ ngã ba hai con sông Po và Minicio, thuyết phục ông ta rời Italia bằng tài hùng biện và trao tặng những chiếc áo choàng quyền quí của giới tăng lữ. Theo một trong những truyền thuyết mầu nhiệm nhất trong lịch sử Cơ đốc giáo, thì thánh Peter và Paul đã hiện ra trước mặt Attila và đe dọa sẽ cho ông ta cái chết ngay lập tức nếu từ chối lời thỉnh cầu của Giáo hoàng Leo.

    Chịu sự thuyết phục của vị tân giáo hoàng, Attila cho rút quân đội của mình khỏi Italia. Có lẽ chẳng có ảnh hưởng gì từ Giáo hoàng leo mà chủ yếu là vì đội quân của Attia đã cạn nguồn cung cấp, việc đó ảnh hưởng đến quyết định của thủ lãnh người Hun. Đã có nạn đói xảy ra ở Italia vào năm 450-51, và việc cung cấp hậu cần ko phải thế mạnh của các đội quân rợ . Ngoài ra , bệnh dịch hạch đã quét qua đội quân của Attila trong khi Đông hoàng đế Marcian cho một đạo quân vượt sông Danube tấn công vào đầu não lãnh thổ người Hun. Tất cả các yếu tố này cộng thêm trận thua tai hại tại Chalon một năm trước đó lí giải tại sao mà Attila có thể lắng nghe dc những lí lẽ hùng biện mang đầy tính nhân đạo của Giáo hoàng Leo.

    Trong một diễn biến, Attila bỏ qua cho Rome và rút lui khỏi Italia . Hai lần liên tiếp trong vài năm, mối đe dọa từ người Huns đã buộc Đông đế quốc phải quì gối. Có lẽ Rome là bữa buffer thịnh soạn giành cho những người Hun gốc á và các rợ Gecman , những người quyết định vận mệnh của lịch sử phương Tây thời trung cổ. Aetius đã bị nhiều người Italia đổ lổi vì ko tiêu diệt Attila và người Hun ở xứ Gaul, tuy nhiên "người Roman cuối cùng" thực chất đã góp phần đáng kể vào sự lụi tàn của quốc gia người Hun. Việc đó đó đã diễn ra theo lịch sử.

    Trong những năm tiếp theo sau khi lui từ Ý, Attila chết một cách đúng kiểu dân rợ. Ông ta cưới một cô vợ mới, trẻ đẹp, một thiếu nữ tên là Ildico mặc dù ông ta đã có một số bà vợ. Đám cưới diễn ra với tiệc tùng và rượu chè be bét. Vị vua của người Hun dẫn cô dâu mới lên giường trong cơn say mèm. Sáng hôm sau người ta phát hiện ông ta đã chết ngập trong cơn say, chảy cả máu mũi. Còn cô dâu mới thì sợ run cả người bên cạnh giường.

    Đế chế của người Hun tiêu tan nhanh chóng theo cái chết của vị thủ lĩnh. Trong năm 454 , người Ostrogoth và các giống rợ Gecman khác nổi loạn chống lại người Hun, và con trai của Attila, người vốn hay gây sự với bọn họ, ko chống đỡ nổi cuộc khủng hoảng. Như lời cáo phó, người Hun đã bị "cuốn theo chiều gió".

    Ngay cả trong những ngày cuối cùng của đế quốc La mã ở phía tây, vị tướng quyền uy Aetius vẫn kiến tạo dc một đạo quân lớn phòng thủ xứ Gaul. Trong thời gian cầm quyền của ông ta ở thập niên 430 ,40 và 50 , Rome đã đánh mất rất nhiều, đặc biệt là với người Vandal ở Bắc Phi, tuy nhiên nó vẫn còn đủ mạnh để ngăn cản tham vọng của Attila. Đương nhiên , đã có sự ghen ghét và đối kị giữa ông ta và hoàng đế Valentinian III.

    Thành công của ông ta trong việc chống lại người Hun và đối xử với người Visigoth ở xứ Gaul đã khiến ông ta ko còn cần thiết . Vào năm 454 , Hoàng đế Valentinian III tự tay giết chết ông ta bằng chính thanh gươm của mình. Một trong những cố vấn của Hoàng Đế cho biết: "Bạn đã cắt rời tay phải của bạn với tay trái ." Năm sau, hai người của Aetius giết chết vị hoàng đế, và như vậy vào năm 476, ko còn hoàng đế nào nữa ở phương Tây. Aetius thật sự là " Người cuối cùng của La mã " .
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Đế quốc Byzantine thời đầu Trung cổ
    ( Quá trình hình thành, phát triển và xuy vong, các cuộc chiến tranh, các trận đánh lớn ... cho đến hết thế kỷ thứ 10)



    Thủ đô: TP
    Constantinople, những vùng đất đã thuộc về Đế chế ( toàn bộ hoặc một phần) nay là các quốc gia Albania Algeria Armenia Bosnia Herzegovina Bulgaria Croatia Cyprus Egypt France Georgia Greece Gibraltar Israel Italy Jordan Kosovo Lebanon Libya Macedonia Malta Montenegro Morocco Palestine Romania San Marino Serbia Slovenia Spain Syria Tunisia Turkey Ukraine Vatican City.



    [​IMG]
    Cờ hiệu của đế chế Byzantine - con đại bàng hai đầu, sau biểu tượng này được truyền lại cho nước Nga - Quốc gia kế thừa của Đế quốc Byzantine



    [​IMG]
    Bản đồ lãnh thổ của Đế chế Byzantine sau công cuộc cải cách của Hoàng Đế
    Diocletian



    Đế quốc Byzantine là phần phía đông của Đế quốc La Mã – vùng chủ yếu nói tiếng Hy Lạp trong suốt thời Trung và Hậu Trung cổ. Được biết đến như là Đế quốc Đông La Mã, Byzantine được gọi một cách đơn giản là Đế quốc La Mã hay Đông Romania bởi cư dân và các nước láng giềng của nó. Tập trung xung quanh thủ đô Constantinople, nó được cai trị bởi tiếp trực tiếp bởi các Hoàng đế, những người kế tục các hoàng đế La Mã cổ đại sau sự sụp đổ của Đế quốc La Mã phương Tây. Sự phân biệt giữa " đế chế Roman" và "đế chế Byzantine" phần lớn chỉ là một quy ước của thời hiện đại và không thể chỉ ngày mà Đế quốc chia lìa Đông - Tây, nhưng một thời điểm quan trọng là năm 324 khi Hoàng đế Constantine I chuyển thủ đô của Đế Chế từ Nicomedia (tại vùng Anatolia) để đến một thành phố Hy Lạp trên Bosphorus mà sau đó nó đã trở thành Constantinople (hoặc "New Rome").


    [​IMG]
    Ảnh chụp nhà thờ đức bà Sofia ở thành phố Constantinople


    Đế chế Byzantine tồn tại hơn một nghìn năm (từ khoảng 306 AD đến năm 1453 AD). Trong thời gian tồn tại của nó, Đế chế luôn là một trong những cường quốc về kinh tế, văn hóa và quân sự ở châu Âu, bất chấp những thất bại và thiệt hại về lãnh thổ của nó, đặc biệt là trong các cuộc chiến tranh Byzantine -Ba Tư và Byzantine-Arab. Đế chế đã được phục hồi trong triều đại Macedonia và một lần nữa đứng dậy để trở thành một quyền lực vượt trội trong vùng Đông Địa Trung Hải vào cuối thế kỷ thứ mười, sánh ngang với triều Fatimid của vương quốc Hồi giáo. Tuy nhiên sau năn 1071, phần lớn vùng Tiểu Á - trung tâm của Đế chế đã bị mất vào tay của người Turk Seljuk ( Thổ nhĩ kỳ ngày nay). Vào thời kỳ phục hồi Komnenian Đế quốc đã lấy lại được một số đất đai và tái lập sự thống trị của nó trong một thời gian ngắn vào thế kỷ thứ 12, nhưng sau cái chết của Andronikos I Komnenos và cuối triều đại Komnenos trong thế kỷ thứ 12 Đế quốc lại lâm vào cảnh xuy thoái. Đế chế đã phải nhận một cú đánh nặng nề trong năm 1204 do quân Thập tự chinh lần thứ tư, lúc này nó bị tan rã và chia thành hai quốc gia đối nghịch Byzantine và Latinh. Mặc dù cuối cùng Constantinople cũng được phục hồi và đế chế được tái lập vào năm 1261 bơ Hoàng đế Palaiologan, các cuộc nội chiến tiếp diễn trong thế kỷ thứ 14 làm suy sụp hơn nữa sức mạnh của Đế chế. Hầu hết các lãnh thổ còn lại của nó đã bị mất trong cuộc chiến Byzantine-Ottoman mà đỉnh cao là sự sụp đổ của Constantinople và vùng lãnh thổ còn lại của nó trước Đế quốc Hồi giáo Ottoman trong thế kỷ thứ 15.

    Tên gọi


    Việc định nghĩa tên gọi của Đế quốc là "Byzantine" được bắt đầu ở Tây Âu năm 1557, khi sử gia người Đức Hieronymus Wolf xuất bản tác phẩm Corpus Historiæ Byzantinæ, đây là một tập hợp thông tin từ các nguồn của Byzantine. Thuật ngữ "Byzantine" tự nó xuất phát từ "Hy Lạp"(Một thành phố Hy Lạp, được thành lập bởi người định cư từ Megara năm 667 trước Công nguyên), thành phố được đặt tên là Constantinople trước khi nó trở thành thủ đô của Hoàng Đế Constantine. Tên cũ của thành phố rất hiếm khi được sử dụng từ thời điểm này trở về sau, ngoại trừ trong những hoàn cảnh lịch sử hoặc trong thơ ca lãng mạn. Theo Montesquieu thì khi xuất bản quấn Byzantine du Louvre (Corpus Scriptorum Historiæ Byzantinæ) vào năm 1648 và quấn Historia Byzantina của Du Cange vào năm 1680, các tác giả vẫn tiếp tục sử dụng rộng rãi thuật ngữ tên gọi Byzantine. Thuật ngữ này sau đó biến mất cho đến thế kỷ XIX, khi nó được sử dụng một cách chung chung trong thế giới phương Tây. Trước thời gian này, Đế quốc Ottoman dung thuật ngữ Hy Lạp để ám chỉ đế quốc Byzantine và các thừa kế của nó.

    Đế chế Byzantine được biết đến như là Đế quốc La Mã bởi các cư dân của nó, mặc dù đế quốc gia đa sắc tộc trong phần lớn lịch sử của nó và vẫn bảo vệ các truyền thống Romano-Hy Lạp, nó thường được biết đến bởi những người đương thời của phương Tây và phương Bắc như là Đế chế của người Hy Lạp do sự chiếm ưu thế ngày càng tăng của các thành phần người Hy Lạp. Việc sử dụng thuật ngữ Đế chế của người Hy Lạp (tiếng Latin: Imperium Graecorum) ở phương Tây để ám chỉ Đế quốc Đông La Mã cũng có ngụ ý như một sự từ chối công nhận đế chế là kế thừa của Đế quốc La Mã. Những tuyên bố của Đông La Mã rằng họ là thừa kế ( chính thống) của Đế chế La Mã đã gây ra nhiều tranh cãi ở phương Tây vào thời của Hoàng hậu Đông La Mã Irene của Athens, do sự đăng quang của Charlemagne như là Hoàng đế La Mã Thần thánh trong năm 800 khi thấy ngôi vị Hoàng đế của Đế chế La Mã bị bỏ trống (vì không có người thừa kế là nam giới – lúc này Đông Đế chế đang được quản lý bởi Hoàng hậu Irene) với sự trợ giúp của Giáo hoàng Leo III, người cần giúp đỡ (của Charlemagne) để chống lại kẻ thù của mình ở Rome. Bất cứ lúc nào Đức Giáo Hoàng hoặc những người cai trị ở phương Tây khi cần sử dụng tên La Mã để chỉ phía Đông La Mã, họ ưa thích dùng thuật ngữ Imperator RomaniæImperator Romanorum - một danh hiệu mà người phương Tây chỉ sử dụng để gọi Charlemagne và những người kế nhiệm ông. ( Qua đây ta có thể thấy được bản chất loanh quanh, tự tư tự lợi cùa Giáo hoàng Leo III khi ông ta phong Charlemagne – một người gốc rợ Frank lên làm Hoàng đế La Mã Thần thánh vì cần sự trợ giúp của ông này trong việc đối đầu với các quận công người Lombardy, trong khi lờ đi truyền nhân đích thức của Đế quốc La Mã – đó chính là Đế quốc Byzantine lúc này đã tồn tại hàng thế kỷ. Và một sự loanh quanh nữa là Giáo hoàng sắc phong Hoàng Đế, như vậy Giáo Hoàng to hơn Hoàng Đế? -> một ngược đời chưa từng xảy ra trước đó). Ban đầu thì người ta cứ nghĩ rằng cái danh hiệu này chỉ là một cái tên hão nhưng thực chất hậu quả của nó là cực kỳ khủng khiếp, vì nó tạo ra sự tranh chấp và bất hợp tác giữa thế giới phương Tây và phương Đông của châu Âu, thậm chí nó là một trong những nguyên nhân của sự chia lìa giữa Giáo Hội La Mã và Giáo Hội trưởng lão chính thống, và khi người Byzantine lâm vào tuyệt vọng thì người Tây Âu lại tỏ ra dửng dưng và họ còn sẵn sàng xông vào đánh hôi như trong cuộc thập tự chinh lần thứ 4, nhưng như người ta đã nói “ môi hở thì răng lạnh “ trước sự xuống dốc của Đế chế Byzantine thì chỉ có người Thổ nhĩ kỳ là được hưởng lợi nhiều nhất và kể từ thế kỷ 16 thì thế giới phương Tây phải trực tiếp đối đầu với các cuộc xâm-lược của người Thổ ( trong lần người Thổ bao vây thành Viena nếu không có sự xuất sắc đột xuất của Vua Jan Sobiesky cùng hàng vạn kỵ binh Hussa của Ba Lan thì có lẽ ngày nay cả Tây Âu đã dùng tiếng Thổ làm ngôn ngữ chung rồi). Đến tận ngày nay thì Giáo Hội La Mã mới ngỏ ý muốn xin lỗi vì đã đâm vào lưng người anh em của họ.Ngược lại, ở trong thế giới của người Ba Tư, người Hồi giáo và người Slavic thì đế chế Byzantine được hoàn toàn thừa nhận kế thừa của Đế chế La Mã.

    Trong các tập bản đồ lịch sử hiện đại, Đế quốc Byzantine thường được gọi là Đế quốc Đông La Mã để mô tả về đế quốc trong thời gian từ năm 395-> 610, sau khi hoàng đế mới lên ngôi Heraclius chuyển đổi ngôn ngữ chính thức từ tiếng Latin sang tiếng Hy Lạp (ngôn ngữ vốn được sử dụng rộng rãi trong đại đa số dân cư của Đế chế), trong bản đồ mô tả về đế chế kể từ sau năm 610 người ta mới bắt đầu sử dụng thông dụng cái tên Đế quốc Byzantine.


    [​IMG]
    Một phần của bức
    tường phòng thủ của thành phố Constantinople ( có 3 yếu tố chính để làm cho Đế quốc Byzantine có thể tồn tại được hơn 1000 năm, đó là: Đội quân tinh nhuệ, chuyên nghiệp được coi là tài sản của Đế quốc, chính sách ngoại giao mềm dẻo và khôn khéo - đánh không được dùng tiền để hoãn binh - đủ mạnh đánh tiếp, và cuối cùng là hệ thống tường thành phòng thủ của thành phố Constantinople )



    [​IMG]
    Một đoạn tường thành đã đổ nát cuả thành phố Constantinople - Istambul ngày nay



    [​IMG]
    Một đoạn tường thành đã đổ nát cuả thành phố Constantinople - Istambul ngày nay


    [​IMG]
    Hệ thống tường thành - pháo đài phòng thủ từ phía biển cuả
    thành phố Constantinople


    [​IMG]
    Ảnh chụp ngày nay của một pháo đài cuả
    thành phố Constantinople


    [​IMG]
    Ảnh chụp ngày nay của một pháo đài cuả thành phố Constantinople


    [​IMG]
    Sơ đồ bề dầy của hệ thống phòng thủ
    cuả thành phố Constantinople


    Lịch sử buổi đầu của Đế chế Đông La Mã

    Quân đội La Mã đã thành công trong việc chinh phục một phần rất lớn các vùng lãnh thổ bao gồm toàn bộ Khu vực Địa Trung Hải và nhiều lãnh thổ ở Tây Âu. Những vùng lãnh thổ bao gồm nhiều nhóm khác nhau về văn hóa, từ sơ khai đến cực kỳ văn minh. Nói chung thì các tỉnh ở phía đông Địa Trung Hải có nhiều vùng đã được đô thị hoá và cực kỳ phát triển, trước đó đã được thống nhất bởi Đế quốc Macedonia và người Hy Lạp và chúng cũng nhận được nhiều ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp. Ngược lại, các vùng phía tây chủ yếu vẫn chịu tiếp nhận bất kỳ nền văn minh, chính trị tiến bộ nào và phần lớn vẫn còn là một xã hội nông thôn và kém phát triển. Đây là sự khác biệt giữa các đô thị Hy Lạp được thành lập lâu đời ở Đông và vùng phía Tây non trẻ mới được La Tinh hóa và sự khác biệt này trở nên ngày càng trầm trọng trong các thế kỷ sau đó.

    Bộ phận của Đế chế La Mã

    Năm 293, Diocletian tạo ra một hệ thống hành chính mới (tetrarchy). Ông lập ra chế độ đồng hoàng đế - hay còn gọi là Augustus. Sau đó mỗi Augustus được giúp việc bởi một trợ lý trẻ tuổi - Caesar sẽ giúp các hoàng đế trong mảng luật pháp và cuối cùng sẽ kế thừa các đối tác cao tuổi của mình ( có lẽ giống cơ chế vua và thái thượng hoàng ). Tuy nhiên, sau sự thoái vị của Diocletian và Maximian hệ thống tetrarchy sụp đổ và Hoàng đế Constantine I thay thế nó với nguyên tắc thừa kế cha truyền con nối.


    [​IMG]
    Tranh vẽ Hoàng Đế
    Constantine I ngồi trên xe chiến

    Hoàng Đế Constantine xây dựng đế chế dựa trên những cải cách hành chính được đưa vào ứng dụng bởi Diocletian. Ông làm ổn định hệ thống tiền kim loại ( đồng tiền vàng solidus mà ông đưa vào lưu hành đã trở thành một loại tiền tệ được đánh giá rất cao và ổn định) và thay đổi cấu trúc của quân đội. Theo Constantine, Đế quốc đã phục hồi lại được phần lớn sức mạnh quân sự của mình và được hưởng một thời kỳ ổn định và thịnh vượng.


    [​IMG]
    Lễ rửa tội của Hoàng Đế Constantine


    Dưới sự cai trị của Constantine, Kitô giáo không trở thành một tôn giáo độc quyền của nhà nước, mà chỉ được hưởng sự ưu đãi của đế quốc kể từ khi Hoàng đế trao cho nó các đặc quyền rộng rãi. Constantine tạo lập một nguyên tắc là hoàng đế không giải quyết các vấn đề về tôn giáo mà triệu tập Hội đồng giáo hội để giải quyết việc này. Hội Đồng Cao cấp Arles được triệu tập bởi Constantine và Hội đồng Nicaea lần Thứ nhất theo yêu cầu của ông để đứng đầu Giáo Hội.

    Các tỉnh của Đế quốc trong năm 395 có thể được mô tả như là kết quả làm việc của Constantine. Các nguyên tắc của Đế chế được thiết lập một cách chắc chắn mặc dù vị hoàng đế đã qua đời trong năm đó, Theodosius I, truyền lại Đế chế cho các con trai của ông: Arcadius ở phía Đông và Honorius ở phía Tây. Theodosius là hoàng đế cuối cùng cai trị trên toàn bộ đế chế ở cả hai nửa Đông và Tây.

    Phần lớn Đế quốc La Mã phương Đông không phải đối mặt với những khó khăn với của Đế Quốc phương Tây vào thế kỷ thứ ba và thứ tư, một phần do họ có một nền văn minh đô thị được thành lập lâu hơn và có các nguồn lực tài chính lớn hơn, cho phép nó xoa dịu những kẻ xâm lược bằng những khoản tiền cống nạp và trả tiền để thuê lính đánh thuê người nước ngoài. Theodosius II tăng cường củng cố các bức tường của Constantinople, làm cho thành phố không thể bị tràn ngập bởi hầu hết các cuộc tấn công, các bức tường không thể bị chiếm cho đến năm 1204. Để đẩy lui sự xâm lược của Attila, Theodosius đã ban cho họ các khoản tiền cống nộp ( tự cho là 300 kg vàng (700 lb)). Hơn nữa, ông ủng hộ việc các thương gia sống ở Constantinople giao dịch với người Hung và các nhóm nước ngoài khác.
    Người kế nhiệm ông, Marcian, từ chối tiếp tục trả số tiền quá cao này. Tuy nhiên, Attila đã chuyển hướng chú ý của mình vào đế chế La Mã phương Tây. Sau khi ông qua đời năm 453, đế chế của ông ta sụp đổ và Constantinople bắt đầu một mối quan hệ bằng lợi nhuận với những người Hung còn lại, những người cuối cùng lại chiến đấu như là lính đánh thuê trong quân đội Byzantine.

    Sau sự sụp đổ của Attila, Đế quốc La Mã phương Đông có được một giai đoạn hòa bình, trong khi đế quốc phương Tây lại sụp đổ (ngày kết thúc của nó thường được coi là vào năm 476 khi vị tướng La Mã – Germanic, Odoacer lật đổ Hoàng đế trên danh nghĩa Romulus Augustulus, nhưng lại từ chối thay thế ông bằng một con rối khác).

    Để khôi phục lại đất Ý, hoàng đế Zeno chỉ có thể thương lượng với vua Theodoric của người Ostrogoth, người đang định cư tại Moesia. Ông ủyquyền cho vua Goth đến Ý như là Magister militum Italiam ("Chỉ huy trưởng của Italy"). Sau sự sụp đổ của Odoacer tại 493, Theodoric, người đã sống ở Constantinople trong suốt thời trai trẻ của mình, chiếm được quyền cai trị nước Ý. Như vậy bằng cách gợi ý cho Theodoric chinh phục nước Ý, Zeno đã duy trì ít nhất là một ưu thế trên danh nghĩa tại vùng đất phía Tây qua một chư hầu ngang bướng.

    Năm 491, Anastasius I - một người có nguồn gốc La Mã trở thành hoàng đế, nhưng phải đến năm 498 thì lực lượng của hoàng đế mới mới dập tắt được sự kháng cự của người Isaurian. Anastasius tỏ mình là một nhà cải cách năng động và một nhà quản lý tài năng. Ông hoàn thiện hệ thống đúc tiền của Constantine I bằng cách lập trọng lượng cố định cho các đồng follis, các đồng tiền được sử dụng trong hầu hết các giao dịch hàng ngày. Ông cũng cải cách hệ thống thuế, và vĩnh viễn xóa bỏ loại thuế chrysargyron đáng ghét. Ngân khố quốc gia đã có số tiền rất lớn tương đương với £ 320.000 (145.150 kg) vàng khi Anastasius chết trong năm 518.

    Cuộc tái chiếm các tỉnh Tây

    Justinian I, người đảm nhận ngai vàng vào năm 527, đã quyết tâm phục hồi các vùng lãnh thổ trước đây của Đế chế. Justinian, con trai của một nông dân Illyrian đã có thể tạo ra sự kiểm soát có hiệu quả trong thời cai trị của người chú, Justin I (518–527). Năm 532, trong lúc cố gắng bảo đảm biên giới phía đông của mình, Justinian đã ký một hiệp ước hòa bình với vua Khosrau I của Ba Tư và đồng ý trả một khoản cống nộp lớn hàng năm cho Sassanids. Trong cùng năm đó, Justinian sống sót qua một cuộc nổi dậy ở Constantinople, cuộc bạo loạn Nika đã kết thúc với cái chết của khoảng ba mươi nghìn kẻ nổi loạn. Chiến thắng này đã củng cố quyền lực của Justinian. Đức Giáo Hoàng Agapetus I được gửi đến Constantinople bởi vua Theodahad của Ostrogoth, nhưng ông này không thành công trong sứ mệnh ký một hiệp ước hòa bình với Justinian. Tuy nhiên, ông đã thành công trong việc lên án Monophysite Anthimus I của Constantinople, bất chấp sự hỗ trợ Hoàng hậu Theodora.

    Các cuộc chinh phục vùng đất phương Tây bắt đầu vào năm 533, khi Justinian gửi vị tướng Belisarius của mình để thu hồi các tỉnh cũ ở Châu Phi từ người Vandal với một đội quân khoảng 15.000 người. Thành ửcông đến dễ dàng một cách đáng ngạc nhiên, nhưng chiến sự chỉ kết thúc vào năm 548 khi các bộ lạc độc lập chính ở địa phương bị chinh phục. Trong vương quốc Ostrogoth ở Italy, sau cái chết của Theodoric the Great, Athalaric - cháu trai và là người thừa kế của ông, và con gái của ông – Amalasuntha đã giết vua Theodahad bất chấp việc ông này có rất ít quyền lực. Năm 535 một đoàn quân viễn chinh nhỏ của Byzantine được gửi tới Sicily và thu được thành công dễ dàng, nhưng những người Goth nhanh chóng tỏ rõ sự kháng cự mãnh liệt của họ và chiến thắng đã không đến cho đến tận năm 540 khi Belisarius chiếm được Ravenna và sau khi bao vây thành công các thành phố Naples và Rome.

    [FONT=&quot]Tuy nhiên, người Ostrogoth đã nhanh chóng tập hợp dưới sự chỉ huy của Totila và tái chiếm Rome vào ngày 17 tháng 12 năm 546; Belisarius cuối cùng đã bị triệu hồi bởi Justinian vào đầu năm 549. Sự xuất hiện của viên quan hoạn – Narses, người Armenia ở Ý (cuối 551) với một đội quân của khoảng 35.000 người đã đánh dấu một sự chấm hết cho người Goth. Totila đã bị đánh bại và chết tại Trận Gallorum Busta. Teia - người kế nhiệm ông cũng bị đánh bại tại Trận Lactarius Mons (October 552). Mặc dù có sự tiếp tục kháng cự từ một vài đơn vị đồn trú người Goth và hai cuộc xâm lược tiếp theo của người Frank và người Alamanni, Cuộc chiến trên bán đảo Ý đã chấm dứt. Năm 551 Athanagild - một quý tộc người Visigothic Hispania, tìm sự giúp đỡ của Justinian để nổi loạn chống lại nhà vua của mình và hoàng đế phái một lực lượng quân sự dưới sự chỉ huy của Liberius, một người mặc dù đã lớn tuổi vẫn chứng tỏ mình là một viên chỉ huy quân đội thành công. Đế chế Byzantine đã chiếm được một phần nhỏ bờ biển Spania cho đến tận triều đại Heraclius.
    [/FONT]
    Ở phía đông, chiến tranh La Mã-Ba Tư tiếp tục cho đến năm 561 khi Justinian và phái viên của Khosrau nhất trí về một nền hòa bình 50 năm. Đến giữa những năm 550, Justinian đã giành được chiến thắng trong hầu hết các hoạt động tại chiến trường, với ngoại lệ đáng chú ý từ Balkan, đó là sự xâm nhập lặp đi lặp lại của người Slav. Năm 559 Đế quốc phải đối mặt với một cuộc xâm lược lớn của người Kutrigur và Sclaveni. Justinian gọi lại Belisarius lúc này đã về nghỉ hưu, nhưng khi sự nguy hiểm đã qua đi ngay lập tức vị Hoàng đế lại tự mình nắm lấy quyền lực. Tin rằng Justinian đã tiến hành củng cố hạm đội Danube của mình, người Kutrigurs cảm thấy lo lắng và họ đã đồng ý ký một hiệp ước trong đó cho phép họ vượt sông quay trở lại một cách an toàn.

    Justinian trở thành nổi tiếng một cách rộng rãi bởi công cuộc cải tiến hệ thống pháp luật của mình, đáng chú ý là độ sâu rộng của các điều luật của nó. Năm 529, một ủy ban gồm mười người dưới sự chủ trì của John the Cappadocian đã tiến hành sửa đổi các điều luật Roman cổ, và tạo ra bộ luật mới Corpus Juris Civilis, một bộ sưu tập các điều luật mà ngày nay người ta gọi là " Điều luật Justinian".

    Sau khi Justinian chết trong năm 565, người thừa kế - Justin II đã từ chối trả cống nạp lớn cho người Ba Tư. Trong khi đó, người Germanic – Lombard bắt đầu xâm chiếm Ý vào cuối thế kỷ và chỉ còn có một phần ba nước Ý nằm trong tay người Byzantine. Tiberius II là người kế nhiệm của Justin đã lựa chọn giữa những kẻ thù của mình và chi tiền trợ cấp cho người Avar trong khi tiến hành các hoạt động quân sự chống lại người Ba Tư. Mặc dù Maurice - viên tướng của Tiberius đã thành công trong một chiến dịch đầy hiệu quả ở các vùng biên giới phía đông, tiền trợ cấp đã không chặn nổi người Avar. Họ đã chiếm pháo đài Balkan của Sirmium năm 582, trong khi người Slav bắt đầu tìm đường vượt sông Danube. Maurice lúc này đã kế nhiệm Tiberius, đã can thiệp vào một cuộc nội chiến của người Ba Tư, và đưa nhà vua Khosrau II trở lại ngôi vua rồi gả con gái của mình cho ông ta. Maurice ký một hiệp ước mới với người anh rể của mình và đem lại một status-quo mới ở vùng lãnh thổ phía đông, và mở rộng vùng lãnh thổ của Đế chế đến một mức độ mà nó chưa bao giờ đạt được trong lịch sử 6 thế kỷ tồn tại của đế quốc, và rẻ hơn rất nhiều trong việc bảo vệ Đế chế trong thời gian này bằng một nền hòa bình mới và vĩnh viễn - hàng triệu solidi được tiết kiệm bởi việc chấm dứt cống nạp cho người Ba Tư. Sau chiến thắng của mình ở biên giới phía đông, Maurice được rảnh tay để tập trung vào khu vực Balkan và vào năm 602 sau một loạt chiến dịch thành công ông đã đẩy người Avar và Slav trở lại bên kia bờ sông Danube.

    Việc thu hẹp biên giới

    Triều đại Heraclian

    Sau khi Hoàng Đế Maurice bị ám sát bởi Phocas, vua Ba tư Khosrau ( con rể của Maurice ) lợi dụng với lý do này để chiếm lại tỉnh Lưỡng Hà của La Mã. Phocas, một nhà cai trị không được lòng dân lúc nào cũng được mô tả trong các tài liệu của người Byzantine như là một "bạo chúa", là mục tiêu công kích của do một nhóm thành viên viện nguyên lão dẫn đầu. Cuối cùng ông ta bị lật đổ vào năm 610 bởi Heraclius, người dẫn đầu một đội tầu đến Constantinople từ Carthage với một biểu tượng gắn trên mũi của các con tàu của mình. Sau khi Heraclius lên ngôi, quân đội của người Sassanid đã tiến sâu vào vùng Tiểu Á và chiếm Damascus, Jerusalem rồi bỏ qua True Cross đến Ctesiphon. Chiến dịch phản công của Heraclius mang tính chất một cuộc thánh chiến và hình tượng Chúa Kitô mang đi như là một tiêu chuẩn quân sự. (Tương tự như vậy khi Constantinople được giải vây từ một cuộc bao vây cuả người Avar trong năm 626, chiến thắng này được quy cho là từ biểu tượng của Đức mẹ đồng trinh được rước bởi Patriarch Sergius về các bức tường của thành phố). Lực lượng chính của Sassanid bị phá hủy tại Nineveh vào năm 627 và năm 629 Heraclius phục hồi thánh giá chữ thập ở Jerusalem trong một buổi lễ hoành tráng. Cuộc chiến đã vắt kiệt sức cả Byzantine và Đế quốc Sassanid và làm cho họ chở nên rất dễ bị tổn thương trước Lực lượng Hồi giáo Ả Rập, những người nổi lên trong những năm tiếp theo. Người La Mã bị thất bại tan nát trước người Ả Rập tại Trận Yarmuk vào năm 636, và Ctesiphon thất thủ vào năm 634.

    Người Ả Rập, lúc này kiểm soát một cách vững chắc Syria và vùng Cận Đông, họ thường gửi các toán đột kích thường xuyên vào sâu trong vùng Tiểu Á và giữa vào giữa năm 674 và 678 họ đã kéo đến và bao vây chính Constantinople. Các hạm đội Ả Rập cuối cùng đã bị đẩy lùi bởi việc sử dụng lửa Hy Lạp, và một thỏa thuận ngừng bắn ba mươi năm đã được ký kết giữa Đế quốc và Quốc vương Hồi giáo Ummayyad. Các cuộc tấn công vào vùng Anatolia diễn ra tiếp tục mà không hề suy giảm và đẩy nhanh sự sụp đổ của nền văn hóa đô thị cổ điển và làm cho các cư dân của nhiều thành phố hoặc là phải chú ẩn ở những nơi nhỏ hơn nhiều trong các bức tường thành phố cổ, hoặc di chuyển hoàn toàn sang các pháo đài ở gần đó. Chính bản thân Constantinople đã bị giảm đáng kể về số lượng dân cư của nó từ 500.000 người xuống chỉ còn 40,000-70,000 người và thành phố bị mất hang loạt những chuyến tầu chở ngũ cốc vào năm 618 sau khi họ bị mất vùng Ai Cập vào tay người Ba Tư ( lấy lại được vào năm 629, nhưng lại bị mất trước cuộc xâm lược của người Ả Rập năm 642).
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Đế quốc Bzantine ( tiêp theo)

    Việc rút một số lượng lớn binh sĩ từ vùng Balkan về để chống lại người Ba Tư và sau đó là người Ả Rập ở phía đông đã tạo điều kiện cho người Slav mở rộng dần về phía nam và tiến vào abán đảo Balkan và ở Tiểu Á nhiều thành phố co lại để củng cố và tạo thành các khu định cư nhỏ. Trong những năm 670, người Bulgaria bị đẩy về phía nam của sông Danube bởi sự xuất hiện của người Khazar và trong năm 680 việc Byzantine gửi quân đội đến để giải tán các khu định cư mới (của người Bulgaria ) đã bị đánh bại. Trong năm sau, Constantine IV ký một hiệp ước với khan Asparukh của người Bungari, và một vương quốc Bungari có quyền kiểm soát một số bộ lạc người Slav định cư trước đó - ít nhất là trên danh nghĩa và điều này được công nhận bởi Byzantine. Trong 687-688, hoàng đế Justinian II dẫn đầu một đoàn quân viễn chinh để chống lại người Slav và Bulgaria và đã thu được những thắng lơij đáng kể, mặc dù trên thực tế ông đã phải chiến đấu từ Thrace đến Macedonia, điều này chứng minh mức độ quyền lực của Byzantine tại khu vực phía bắc Balkan đã bị xuy giảm đáng kể.

    Vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại Heraclian - Justinian II, đã cố gắng để phá vỡ quyền lực của tầng lớp quý tộc đô thị bằng cách đánh thuế nặng và bổ nhiệm "người ngoài" vào quản lý bộ máy hành chính. Ông bị đẩy khỏi quyền lực vào năm 695 và phải lưu vong đầu tiên là với người Khazar và sau đó là với người Bulgaria. Năm 705 ông trở về Constantinople với sự trợ giúp của đội quân của hãn Bungari - Tervel, chiếm lại ngôi vị và ông tiến hành khủng-bố chống lại kẻ thù của mình. Cuối cùng ông lại bị lật đổ trong năm 711 một lần nữa bởi các tầng lớp quý tộc đô thị, đến đây nhà Heraclian đã kết thúc.

    Nhà Isaurian và Basil I

    Leo III nhà Isaurian khởi động trở lại các cuộc tấn công vào người Hồi giáo ở năm 718, và thu được chiến thắng với sự trợ giúp lớn của hãn Tervel Bungari, người đã giết 32.000 lính Ả Rập bằng quân đội của mình. Ông cũng cáng đáng việc tổ chức lại và củng cố lại các hệ thống phòng thủ ở Tiểu Á. Người kế nhiệm ông - Constantine V đã giành chiến thắng đáng kể ở miền bắc Syria và làm suy yếu triệt để sức mạnh của người Bulgar.

    Năm 826, người Ả Rập chiếm được Crete và công phá thành công Sicily, nhưng ngày 03 tháng 9 năm 863, tướng Petronas ( chú của Constantine V ) giành được một chiến thắng lớn chống lại Umar al-Aqta - Đô đốc Ả rập ở Melitene. Dưới sự lãnh đạo của Hoàng đế Bungari Krum, mối đe dọa từ người Bungari cũng tái xuất hiện nhưng năm 814 ngươi con trai của Krum - Omortag, đã ký một hiệp ước hòa bình với đế quốc Byzantine.


    Các thế kỷ thứ 8 và thứ 9 cũng bị chi phối bởi các tranh cãi, chia rẽ tôn giáo về vấn đề Iconoclasm ( các biểu tượng). Các biểu tượng đã bị cấm bởi Leo và Constantine, dẫn đến cuộc nổi dậy của iconodules (người ủng hộ các biểu tượng) trên toàn đế chế. Sau những nỗ lực của Hoàng hậu Irene, Hội đồng Nicaea lần thứ hai được tổ chức tại năm 787 và khẳng định rằng các biểu tượng có thể được tôn kính nhưng không được tôn thờ. Irene được cho là đã cố gắng thương lượng để tổ chức một cuộc hôn nhân giữa bà ta và Charlemagne (một cuộc hôn nhân chính trị để tạo liên kết giữa Đông và Tây Âu ), Nhưng theo Theophanes the Confessor, đề xuất đã bị phá hoại bởi Aetios, một trong những tình nhân được sủng ái của bà ta. Năm 813, Leo V của nhà Armenia đã cho phục hồi chính sách iconoclasm, nhưng trong năm 843 Hoàng hậu Theodora lại cho phục hồi sự tôn kính với các biểu tượng bởi sự giúp đỡ của Patriarch Methodios.

    Sự phục hồi dưới triều đại Macedonia


    Cuộc chiến tranh chống lại người Hồi giáo

    Vào năm 867 đế quốc đã ổn định lại vị thế của mình ở cả hai phía đông và phía tây, và hiệu quả của cơ cấu phòng thủ quân sự đã cho phép Hoàng đế bắt đầu lập kế hoạch cho các cuộc chiến tranh để tái chiếm các lãnh thổ phía đông.

    Quá trình này bắt đầu với cuộc tái chiếm các vùng lãnh thổ trên biển. Cuộc tái chiếm tạm thời Crete ( năm 843) đã gây ra một hậu quả là quân đội Byzantine bị bại trận ở Bosporus, Trong khi hoàng đế đã không thể ngăn chặn được các cuộc chinh phục của người Hồi giáo tại Sicily (827-902). Sử dụng vùng Tunisia ngày nay như là một căn cứ xuất quân của họ, người Hồi giáo chinh phục thành phố Palermo vào năm 831, thành phố Messina vào năm 842, thành phố Enna vào năm 859, Syracuse vào năm 878, Catania vào năm 900 và thành lũy cuối cùng của Byzantine - pháo đài Taormina vào năm 902.


    Những thua thiệt này sau đó được cân bằng bởi chiến thắng của một đoàn quân viễn chinh chống lại triều đình Damietta ở Ai Cập (856), thất bại của Tiểu vương Melitene (năm 863) và sự tái chiếm vùng Dalmatia (năm 867) và cuộc tấn công thành công của Basil I về phía Euphrates ( những năm 870). Không giống như tình hình đang xấu đi ở Sicily, Hoàng Đế Basil I vẫn xử lý yên ổn tình hình ở miền Nam Italy và các tỉnh ở đây vẫn còn nằm trong tay Đế chế Byzantine trong 200 năm tiếp theo.


    Năm 904, tai họa xảy ra với đế chế khi thành phố thứ hai của họ - thành phố Thessaloniki ( nay là thành phố Salonika), bị chiếm bởi một hạm đội Ả rập do sự phản bội của một người Byzantine - Leo xứ Tripoli. Quân đội Byzantine trả lời bằng cách tiêu diệt một hạm đội Ả Rập vào năm 908 và chiếm thành phố Laodicea ở Syria hai năm sau đó. Bất chấp sự trả thù thành công này, người Byzantine vẫn không thể tung ra một đòn đánh quyết định để hạ gục người Hồi giáo và chính người Hồi giáo lại gây ra một thất bại tan nát cho lực lượng của Đế chế khi họ cố gắng để chiếm lại Crete trong năm 911.
    [FONT=&quot]
    Tình hình vùng biên giới với lãnh thổ Ả Rập vẫn còn chưa quá nguy ngập, người Byzantine băn khoăn không biết chọn phương án tấn công hay phòng thủ?.
    [/FONT]Người Varangian ( người Viking ) lần đầu tiên tấn công thành phố Constantinople trong năm 860 và tạo thành một thách thức mới. Năm 941 họ lại xuất hiện trên bờ biển thuộc châu Á của eo biển Bosporus, nhưng lần này họ bị đánh cho tơi bời, điều này cho thấy những cải thiện đáng kể về quân sự của Byzantine kể từ năm 907, khi họ thiên về chỉ sử dụng các biện pháp ngoại giao để có thể đẩy lùi những kẻ xâm lược. Người chiến thắng trong trận đánh với người Varangian là danh tướng John Kourkouas, và vị tướng này lại tiếp tục các cuộc tấn công với những chiến thắng đáng chú ý khác ở vùng Lưỡng Hà (năm 943): lên đến đỉnh điểm là cuộc tái chiếm thành phố Edessa (944).

    Vị Hoàng đế kiêm chiến binh - Nikephoros II Phokas (Trị vì từ 963-969) và John I Tzimiskes (từ 969-976) mở rộng đế quốc ra tận Syria, họ đánh bại các tiểu vương Hồi giáo ở phía Tây bắc Iraq và tái chiếm các đảo Crete cùng với Cyprus. Xa hơn nữa về phía nam, tại một thời điểm dưới sự chỉ huy của John, đội quân của đế quốc thậm chí đã còn đe dọa tái chiếm Jerusalem. Tiểu vương quốc Aleppo và các hàng xóm của nó đã quy thuận và trở thành chư hầu của đế quốc ở phía đông, nơi mà mối đe dọa lớn nhất đối với đế quốc chính là triều đình Hồi giáo Fatimid. Sau rất nhiều chiến dịch, cuối cùng mối đe dọa từ người Ả Rập đã bị đánh bại khi Basil II nhanh chóng tập hợp được 40.000 binh sĩ và tái chiếm Roman Syria. Với một sự dồi dào các nguồn lực và nhờ chiến thắng trước người Bulgar và chiến dịch Syria, Basil II lên một kế hoạch cho cuộc viễn chinh để chiếm lại Sicily từ tay người Ả Rập. Sau khi Hoàng Đế qua đời vào năm 1025, đoàn viễn chinh lên đường vào thập kỷ 1040 và thu được những gặt hái ban đầu nhưng thành công cuối cùng lại quá nhỏ bé.

    Cuộc chiến tranh chống lại Đế quốc Bungarin

    ( Chi tiết về các cuộc chiến Byzantine - Batư, Byzantine - A rap, Byzantine - Bungary, Byzantine - Rus ... sẽ được giới thiệu ở phần sau)

    Các cuộc chiến truyền thống với See of Rome vẫn tiếp tục, nó được thúc đẩy bởi những câu hỏi về uy quyền tôn giáo của vương quốc Bulgaria vừa được Kitô hóa. Điều này đã thúc đẩy một cuộc xâm lược của Tsa Simeon I ( vua Bungary) trong năm 894, nhưng cuộc xâm lược này đã bị đẩy lùi bởi các nỗ lực ngoại giao của Byzantine – để kêu gọi sự giúp đỡ của người Hungary. Tuy nhiên rồi cũng đến lượt người Byzantine bị đánh bại tại Trận Bulgarophygon (năm 896) và Byzantine có nghĩa vụ phải trả tiền cống nộp hàng năm cho Bulgari. Sau đó (năm 912), Simeon thậm chí còn ép Byzantine phải trao cho ông danh hiệu tối cao basileus (Hoàng đế) của Bulgaria và vị hoàng đế trẻ tuổi Constantine VII của Byzantine đã kết hôn với cô con gái của ông ta. Khi một cuộc nổi loạn xảy ra ở Constantinople làm chấm dứt mưu đồ nghiệp bá của mình, ông ta lại một lần nữa tiến hành xâm lược và chinh phục Thrace Adrianople.( nực cười là người Bun và Byzantine ra sức vật nhau xong rồi thằng chết, thằng ngắc ngoải -> cả hai đều chết về tay người Thổ)

    Một đoàn quân viễn chinh to lớn nữa của Byzantine được tập hợp bởi Leo Phocas và Romanos Lekapenos lại kết thúc một lần nữa với một thất bại hoàn toàn của người Byzantine tại Trận Acheloos (năm 917) và năm sau người Bulgaria tự do tàn phá miền bắc Hy Lạp đến tận Corinth. Thành phố Adrianople bị chiếm một lần nữa vào năm 923 và vào năm 924 quân đội Bulgari bao vây thành phố Constantinople. Tình hình tại khu vực Balkan chỉ được cải thiện sau cái chết của Hoàng Đế Simeon trong năm 927. Năm 968 Vương quốc Bulgaria bị tràn ngập bởi người Rus dưới sự thống lãnh của Sviatoslav I của Kiev, nhưng ba năm sau đó Hoàng đế John I Tzimiskes đã đánh bại người Rus và tái sát nhập đông Bulgaria vào đế quốc.

    Sự kháng cự của người Bungari lại hồi sinh dưới sự cai trị của triều đại Cometopuli, Nhưng vị hoàng đế mới Basil II (Trị vì từ năm 976->1025) quyết tâm lấy việc đánh bại người Bulgaria làm mục tiêu chính của mình. Tuy nhiên chuyến viễn chinh đầu tiên của Basil vào Bulgaria lại có kết quả là một thất bại nhục nhã ở Gates of Trajan. Trong một vài năm sau đó Hoàng đế phải bận tâm với cuộc nổi dậy bên trong vùng Anatolia, trong khi người Bulgaria lại tái mở rộng lãnh địa của họ tại khu vực Balkan. Chiến tranh kéo dài gần hai mươi năm. Các chiến thắng quyết định của Byzantine ở các trận Spercheios và Skopje làm suy yếu quân đội Bungari và trong các chiến dịch hàng năm, Basil đã có biện pháp để làm suy yếu các cứ điểm của người Bungari. Cuối cùng tại Trận Kleidion trong năm 1014 người Bulgaria đã hoàn toàn bị đánh bại. Gần như toàn bộ quân đội Bungari bị bắt làm tù binh và người ta nói rằng 99/ 100 tù binh người Bungari bị chọc mù mắt, những người còn lại được để lại cho một con mắt để dẫn đường cho đồng bào của họ về nhà. Khi Tsar Samuil ( Hoàng đế của người Bungari) thấy phần còn lại của quân đội của mình, ông đã chết vì sốc. Vào năm 1018, pháo Bungari cuối cùng đã đầu hàng và toàn bộ vương quốc Bungary trở thành một phần của đế quốc Byzantine. Chiến thắng này đã phục hồi biên giới sông Danube vốn đã bị mất đi kể từ thời của hoàng đế Heraclius.

    Mối quan hệ với Kievan Rus

    Giữa các năm 850 và 1100, Đế quốc Byzantine đã phát triển một mối quan hệ phức tạp với một vương quốc mới nổi lên ở phía bắc Biển Đen – đó là Kievan Rus. Mối quan hệ này có tác động lâu dài trong lịch sử của nhánh Đông Slav. Byzantine nhanh chóng trở thành đối tác kinh doanh và văn hoá chính của Kiev, nhưng quan hệ không phải luôn luôn là thân thiện. Cuộc xung đột nghiêm trọng nhất xảy ra giữa hai cường quốc là cuộc chiến năm 968 - 971 ở Bulgaria, đồng thời một số cuộc viễn chinh đột kích của người Rus nhằm vào các thành phố của Byzantine ở bờ Biển Đen và vào chính thành phố Constantinople cũng được ghi lại. Mặc dù vậy, hầu hết các cuộc tấn công này đã bị đẩy lùi và họ đã ký kết một Hiệp ước Thương mại Quốc tế, đây là Hiệp ước nói chung là thuận lợi cho người Rus.

    Quan hệ Rus -Byzantine trở nên nồng ấm hơn sau cuộc hôn nhân của porphyrogenita Anna với quận vương Vladimir Vĩ đại, và tiếp theo là quá trình Kitô hóa của người Rus: Các linh mục Byzantine, kiến trúc sư và các nghệ sĩ được mời để làm việc trên rất nhiều nhà thờ của người Rus, làm mở rộng ảnh hưởng văn hóa Byzantine ra xa hơn nữa. Nhiều người Rus phục vụ trong quân đội Byzantine như là lính đánh thuê, đáng chú ý nhất là đội vệ binh nổi tiếng Varangian Guard ( đội vệ binh này ban đầu tuyển toàn người Viking, nhưng đến giai đoạn này tuyển cả người Rus ).

    Phát triển đến mức đỉnh cao

    Đế chế Byzantine sau đó trải dài từ Armenia ở phía đông đến phía tây là thành phố Calabria ở Miền Nam nước Ý. Nhiều thành công đã đạt được từ những cuộc chinh phục vương quốc Bulgaria cũng như việc sát nhập Georgia và Armenia thành các bộ phận của Đế chế đồng thời với việc tổng hủy diệt một lực lượng xâm lược lớn của người Ai Cập ở bên ngoài thàn phố Antioch. Tuy nhiên, ngay cả những chiến thắng đó vẫn là không đủ; Hoàng Đế Basil vẫn coi việc người Ả Rập tiếp tục chiếm đóng Sicily là một sự phẫn nộ. Vì lý do đó, ông dự định chiếm lại các hòn đảo vốn đã thuộc về đế chế La Mã kể từ Chiến tranh Punic lần đầu tiên. Tuy nhiên Hoàng đế qua đời vào năm 1025 và dự định của ông cũng chấm dứt.

    Thế kỷ thứ 11 cũng là trọng tâm của các sự kiện tôn giáo. Năm 1054, quan hệ xấu giữa Giáo Hội Kitô giáo phương Đông và phương Tây đã trở thành một cuộc khủng hoảng cuối cùng. Và đã có một tuyên bố ly khai chính thức được tiến hành vào ngày 16 tháng 7 năm 1054, khi ba phái viên của giáo hoàng bước vào nhà thờ Hagia Sophia vào một buổi chiều thứ bảy và đặt một bức thư tuyệt giao của Giáo hoàng lên trên bàn thờ, sự kiện này được gọi là Sự ly khai Vĩ đại, thực sự là đỉnh cao của thế kỷ ly khai.

    Khủng hoảng và tan rã

    Đế chế Byzantine nhanh chóng rơi vào một giai đoạn khó khăn, được tạo ra do sự phá hoại ở mức độ lớn trong hệ thống thuộc địa của đế quốc và sự trễ nải của quân đội. Các Hoàng đế Nikephoros II (963–969), John Tzimiskes và Basil II thay đổi các đơn vị quân đội nhằm tạo một lực lượng phản ứng nhanh, chủ yếu là để phòng thủ, quân đội với nòng cốt là các công dân được chuyển thành một quân đội chuyên nghiệp, ngày càng có nhiều chiến dịch được tiến hành bởi lính đánh thuê. Tuy nhiên, Lính đánh thuê chở nên tốn kém khi mối đe dọa từ các cuộc xâm lược giảm dần vào thế kỷ thứ 10, do đó liệu có cần thiết để phải duy trì các đơn vị đồn trú và các công sự lớn đắt tiền. Hoàng đế Basil II để lại một kho bạc đang thặng dư khi ông qua đời, nhưng kế hoạch của ông bị bỏ qua bởi người thừa kế. Ông không có người thừa kế có bất cứ tài năng quân sự hay chính trị nào đặc biệt và việc quản lý chính quyền của đế quốc ngày càng rơi vào tay của các quan liêu dân sự. Những nỗ lực nhằm hồi sinh nền kinh tế Byzantine chỉ dẫn đến lạm phát và tiền vàng được đúc ngày càng xa rời giá trị thật. Quân đội lúc này được xem như là một chi phí vừa không cần thiết lại vừa là mối đe dọa chính trị. Do đó, quân đội thành lập từ những công dân bị giải tán và thay thế bằng lính đánh thuê nước ngoài với những hợp đồng cụ thể.

    Đồng thời, đế chế phải đối mặt với những kẻ thù mới đầy tham vọng. Các tỉnh của Byzantine ở miền nam Italy phải đối mặt với người Norman đến ở Ý vào đầu thế kỷ 11 ( được gọi là người Norman - Ytalia ). Trong một khoảng thời gian xung đột giữa Constantinople và Rome kết thúc sau sự ly khai Đông - Tây ở năm 1054, người Norman bắt đầu tiến bước, chậm nhưng đều đặn, vào các tỉnh của Byzantine ở miền nam Italy. người Byzantine cũng bị mất ảnh hưởng của họ ở thành phố ven biển Dalmatian vào tay Peter Krešimir IV của Croatia vào năm 1069.

    Tuy nhiên, thảm họa lớn nhất lại diễn ra ở Tiểu Á. Người Turk Seljuk lần đầu tiên vượt biên giới của họ với Byzantine và tiến vào Armenia trong năm 1065 và năm 1067. Việc cho điều khẩn cấp khối lượng các tầng lớp quý tộc quân đội ở Anatolia, những người trong năm 1068 đã bảo đảm sự thắng lợi trong một cuộc bầu chọn một trong những người của họ - Romanos Diogenes thành hoàng đế. Vào mùa hè năm 1071, Romanos đã tiến hành một chiến dịch lớn phía Đông để thu hút người Seljuks vào một trận chiến quyết định với quân đội Byzantine. Tại Manzikert, Romanosf không chỉ chịu một thất bại bất ngờ bởi quân đội của Sultan Alp Arslan mà còn bị bắt sống. Nhưng Sultan Alp Arslan đã đối xử với ông bằng sự tôn trọng và không đề ra điều kiện khắc nghiệt nào để áp đặt lên Byzantine. Tuy nhiên, tại Constantinople một cuộc đảo chính đã diễn ra có lợi cho Michael Doukas, người đã sớm phải đối mặt với sự chống đối của Nikephoros Bryennios và Nikephoros Botaneiates. Vao năm 1081, người Seljuks mở rộng vùng ảnh hưởng của họ trên hầu như toàn bộ cao nguyên Anatolia từ Armenia ở phía đông đến Bithynia ở phía tây và thành lập thủ đô của họ tại Nicaea, chỉ cách 55 dặm (88 km) kể từ Constantinople.

    Đến đây có thể coi là kết thúc lược sử của Đế chế Byzantine từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ 11, mời các bác đón xem các trận đánh, các chiến dịch quân sự ở bài sau.
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Những khác biệt về binh bị giữa thời Đế chế La Mã và Đế Chế Byzantine


    Bộ binh

    Bộ binh thời đế quốc La Mã là loại bộ binh mạnh nhất thế giới thời Cổ vì họ chuẩn bị chu đáo về các mặt:


    Trang bị và đào tạo của một chiến binh chiến đoàn La Mã


    Theo thời gian hệ thống trang bị quân sự và vai trò của nó cũng thay đổi, nhưng trong suốt quá trình lịch sử tồn tại trong lịch sử của quân đội La Mã, nó luôn luôn vẫn là một cỗ máy chiến tranh xử lý kỷ luật và chuyên nghiệp. Các chiến binh được (thường được tuyển dụng ban đầu là từ các trại chủ - người La Mã tự do, về sau là lính chuyên nghiệp) đào tạo một cách đa dạng trong mọi đội quân, từ vũ khí đến đội hình diễu hành và các bài tập chiến thuật. Chế độ đào tạo điển hình bao gồm thể dục và bơi lội, để tạo nên một nền tàng sức mạnh thể chất và thể hình, chiến đấu với armatura (với các vũ khí bằng gỗ) để tìm hiểu và làm chủ các kỹ năng chiến đấu và hành quân đường dài với đầy đủ đồ đánh trận và các thiết bị khác để tạo khả năng chịu đựng và để quen với sự gian khổ của các chiến dịch.


    Việc đào tạo bao gồm các bài tập đâm chém với một thanh đoản kiếm bằng gỗ ( gladius ) vào một chiếc quintain ( người gỗ ) trong khi phải mặc đầy đủ áo giáp và giao đấu với nhau. Lính Lê dương chiến đoàn thường được được đào tạo đào tạo kỹ năng đánh kiếm với các kiếm thủ của họ, vì họ có thể bảo vệ mình ở phía sau một tấm lá chắn lớn của họ (scutums) Trong khi đâm kẻ thù. Người La Mã cũng đã nhận thức được rằng một vết thương chỉ rộng 3 cm hoặc 4 cm cũng có thể gây tử vong, do đó họ nhấn mạnh đến tốc độ và kỹ thuật đâm các bộ phận quan trọng của cơ thể hoặc giữa những khoảng trống trong áo giáp (người La mã không dùng đòn chém mà thường chỉ dùng đòn đâm sau khi họ dấu mình trong chiếc lá chắn, đòn đâm vừa đỡ mất sức mà không để hở sườn cho đối phương phản công, điểm ưa thích mà các chiến binh La Mã thường thọc vào chính là chỗ thắt lưng của đối phương). miêu tả nghệ thuật chiến đấu thời đó của các binh sĩ La Mã chiến đấu được khắc trên Trajans Column tại Rome, miêu tả là họ đứng bằng chân trái của mình giương lá chắn về phía trước với chân phải của họ quay ra phía ngoài khoảng chín mươi độ. Một số tin rằng đây chỉ là một thế đứng chiến đấu giống như của trò chơi boxing và chiếc lá chắn ở bên trái được sử dụng để thọc và quấy rối đối phương trong khi thanh kiếm ở bên phải được sử dụng để tạo ra những đòn cuối cùng. Theo một số khả năng thì dường như là phương pháp tấn công cũng tương tự như nghệ thuật chiến đấu của châu Âu thời Trung cổ sau này khi họ sử dụng một bãi đấu tương tự cho các chiến binh được bọc thép. Các bài đào tạo dạy lính chiến đoàn phải tuân theo mệnh lệnh và những tình huống chiến đấu giả định.

    Một binh sỹ chiến đoàn thường phải mang 27 kg ( £ 60 ) gồm thiết giáp và vũ khí trang bị, chúng bao gồm áo giáp, môt thanh đoản kiếm, lá chắn hình chữ nhật được uấn cong, hai chiếc lao (pilum) và một khẩu phần thức ăn cho 15 ngày. Đổng thời họ cũng còn phải mang theo các công cụ để đào bới, xây dựng các công sự - Castra, củng cố nơi đóng trại của chiến đoàn.

    Khi kết thúc quá trình đào tạo người lính chiến đoàn phải thề trung thành với SPQR (Senatus Populusque Romanus – Viện nguyên lão và Công dân của Roman) sau này là với Hoàng đế. sau đó người lính được cấp một giấy tốt nghiệp - Diploma và gửi vào các chiến đoàn để chiến đấu cho vinh quang và danh dự của Rome cũng như cho cuộc sống của mình.



    Chỉ huy , kiểm soát và cấu trúc

    Một khi các người lính đã kết thúc khóa đào tạo, anh ta thường được gửi đến một chiến đoàn, khối lượng cơ bản của lực lượng chiến đấu. Một chiến đoàn (Legion) thường được chia thành mười đơn vị nhỏ được gọi là cohort, một cohort gần tương đương với một tiểu đoàn bộ binh hiện đại. Các cohort được tiếp tục chia thành ba maniple (bán tiểu đoàn), mỗi maniple lại lần lượt được chia thành hai century (bách đội), mỗi centry có khoảng 60->100 chiến binh. Tổng biên chế đầy đủ của một chiến đoàn đứng ở mức khoảng 60 bách đội hoặc 6.000 lính. Cohort đầu tiên trong chiến đoàn thường là một tiểu đoàn mạnh nhất, với số lượng binh sỹ tối đa và là những người có kinh nghiệm chiến đấu cũng như kỹ năng cao nhất Một số chiến đoàn nhóm lại với nhau tạo thành một lực lượng dã chiến đặc biệt được gọi là quân đoàn "Army".


    Chỉ huy tối cao của hoặc là chiến đoàn hoặc quân đoàn thường là các chức danh consul hoặc proconsul hoặc praetor. Hoặc trong trường hợp khẩn cấp trong thời Cộng hòa La Mã thì đó phải là một chức danh dictator. Một chức danh praetor hoặc một propraetor chỉ có thể chỉ huy một chiến đoàn duy nhất chứ không phải là một quân đoàn – vốn được hợp thành từ hai chiến đoàn cộng với các lực lượng đồng minh. Trong giai đoạn đầu của thời Cộng hòa đã tồn tại một thể chế là một đội đoàn phải có lệnh chỉ huy kép của các consul khác nhau ở các văn phòng vào những ngày khác nhau. Vào những thế kỷ sau đó thể chế này bị loại bỏ để tập hợp vào cho một chỉ huy quân đội để quản lý chung. Chức danh legati là những sỹ quan có nhiệm vụ tham mưu, phụ tá trợ giúp cho viên chỉ huy tối cao. Chức danh Tribune được dành cho những quý tộc trẻ tuổi, những người thường xuyên giám sát các nhiệm vụ hành chính cũng như xây dựng trại. Chức danh Centurion – bách trưởng ( gần tương đương với cấp bậc hạ sĩ quan hay sĩ quan cấp thấp, nhưng làm việc như cấp đại úy ngày này trong môi trường dã chiến ) điều hành các cohort, maniple và century (tiểu đoàn, bán tiểu đoàn và bách đội). Một sự phân loại của nhóm các chuyên viên như kỹ sư và artificer đôi khi cũng được sử dụng cho những người gián tiếp phục vụ chiến đấu.

    Triển khai chiến đấu

    Những cơ động trước khi chiến đấu đòi hỏi các chỉ huy phải có một cảm giác về các cuộc đụng độ sắp xảy ra , nhưng kết quả cuối cùng có thể là không thể đoán trước kể cả sau khi chiến sự bắt đầu. Lực lượng khinh binh bắt đầu ra tay, đôi bên cùng tung ra các lực lượng chính để xung đột với nhau. Những vấn đề về chính trị, sự cạn kiệt nguồn cung cấp, hoặc thậm chí sự tranh giành giữa các chỉ huy để chiếm lấy vinh quang cũng có thể châm ngòi cho một thất bại, giống như tại Trận sông Trebia.


    Thiết lập một đội hình ba tuyến


    Một khi các bộ máy đã chuyển động thì tất nhiên bộ binh La Mã thường được triển khai như là lực lượng chính để đối mặt với kẻ thù. Trong quá trình triển khai trong thời Cộng hòa La Mã, các maniple thường được sắp xếp theo đội hình triplex acies (triple battle order – thứ tự trận đánh ba tuyến) : có nghĩa là chia thành ba tuyến với tuyến hastati là tuyến đầu tiên (ở gần kẻ thù nhất ), tuyến principe là tuyến thứ hai, và các cựu binh thì ở tuyến triarii là tuyến thứ ba và là lớp hàng rào binh lính cuối cùng, nhưng đôi khi thậm chí tuyến này lại trở thành như là một dự trữ chiến lược. Khi có nguy cơ thất bại sắp xảy ra, những tuyến đầu tiên và thứ hai - Hastati và Principe, thường bỏ chạy ngược trở lại vào tuyến Triarii và sau đó được tổ chức lại để cho phép hoặc là tiến hành một cuộc phản công, truy kích, hoặc rút lui trong trật tự. Bởi vì chạy ngược trở lại tuyến Triarii được coi là một hành động tuyệt vọng, và câu nói " falling on the Triarii - ad triarios rediisse" trở thành một thành ngữ của người La Mã để chỉ một tình huống tuyệt vọng.

    Trong hệ thống triển khai ba tuyến - triplex acies system, các nhà sử học La Mã đã viết rằng các maniple – bán tiểu đoàn đã tạo lập một đội hình đã được kiểm tra kỹ lượng được gọi là quincunx khi triển khai chiến đấu nhưng chưa bắt đầu trận đánh. Trong tuyến đầu tiên, các hastati tạo ra những khoảng trống bằng chính kích thước diện tích của các bán tiểu đoàn - maniple của họ. Tuyến thứ hai gồm các Principes đi theo sau cũng được sắp xếp một cách tương tự, họ đứng so le vào phía sau những khoảng trống bên trái của tuyến đầu tiên. Tuyến thứ ba cũng làm như vậy, đứng đằng sau những khoảng trống của tuyến thứ hai. Các đơn vị khinh binh (như quân ném đá, phóng lao …) được triển khai ở phía trước của tuyến đầu tiên trong một dòng đội hình liên tục.

    Các cơ động của La Mã là rất phức tạp, hàng ngàn chiến binh đầy bụi xoay xung quanh các vị trí, và các sĩ quan liên tục la hét khi họ cố gắng để duy trì trật tự. Vài ngàn người lính phải thay đổi vị trí từ cột thành dòng, với mỗi đơn vị phải đóng ở vị trí mà nó được chỉ định, cùng với các đội kinh binh và kỵ binh. Các trại binh có hệ thống đồn lũy được thiết lập và tổ chức để tạo điều kiện triển khai. Việc này có thể lấy mất đi một khoảng thời gian, nhưng khi công việc hoàn thành một quân đoàn được hợp nhất bởi các chiến đoàn sẽ đại diện cho một lực lượng có đội hình chiến đấu, thường bố trí thành ba tuyến với một mặt trận dài khoảng một dặm ( 1,6 km).

    Một đội hình ba tuyến nói chung được triển khai và duy trì qua nhiều thế kỷ, mặc dù cải cách của Marius đã loại bỏ hầu hết các đơn vị dựa vào tuổi tác và giai cấp, vũ khí được chuẩn hóa và tổ chức lại các chiến đoàn thành các đơn vị có sức cơ động lớn hơn như cohort. Kích thước tổng thể của chiến đoàn và thời gian phục vụ của người lính cũng tăng trên cơ sở lâu dài hơn.



    [​IMG]
    Đội hình một century ( đội bách quân) La Mã, gọi là bách quân nhưng họ có khỏang độ 60 -> 80 lính, đội hình này có thể thu lại và dãn ra một cách dễ dàng.



    [​IMG]
    Chiến thuật bộ binh La Mã, tấn công gây sốc bằng phóng lao


    [​IMG]
    Lại chiến thuật bộ binh La Mã, tấn công gây sốc bằng phóng lao - hàng đầuónh phóng lao rồi rút kiếm, hàng thứ 2 chẩn bị phóng tiếp


    [​IMG]
    Đội hình ba tuyến của quân La Mã, ở giữa là các cohort bộ binh hạng nặng, hai bên cánh là bộ binh và kỵ binh phụ trợ



    [​IMG]
    Đội hình ba tuyến của quân La Mã, ở giữa là các cohort bộ binh hạng nặng, hai bên cánh là bộ binh và kỵ binh phụ trợ



    [​IMG]
    Đội hình ba tuyến của quân La Mã của người La mã lại biến thành đội hình cột, hoặc hình con ếch ( với các bách binh ở giữa tiến vượt hẳn lên) để công phá đội hình đối phương.



    [​IMG]
    Đội hình ba tuyến của quân La Mã khi chống lại kỵ binh đối phương, các bách quân La Mã tạo lên những bức tường bằng lá chắn, các lính khinh binh di chuyển qua các kẽ hở của các bách quân, tấn công vào kỵ binh đối phương -> khi hết lao lại chạy về nấp sau sự vững trãi như thành đồng của các bách quân Lê dương



    [​IMG]
    Công thành, chỉ cần đeo chiếc lá chắn hình nhật uấn cong vào lưng và vài chiếc thang thì khó mà có thành trì nào trụ được trước họ.


    Còn trong trường hợp người người La Mã đấu với người La Mã, đội hình 3 tuyến đấu với đội hình 3 tuyến thì bên nào có nhiều cựu chiến binh hơn, người cầm quân tài giỏi hơn ... thì người đó sẽ chiến thắng, một số ví dụ:



    [​IMG]
    Nội chiến La Mã - Trận Pharsalus giữa Caesar và Pompey - hai bên cùng bầy trận theo đội hình ba tuyến,
    Caesar có 8 chiến đoàn Lê Dương và Pompey có 12, Pompey có đông lính yểm trợ và cung thủ hơn nhưng vẫn thua vì binh sỹ của Caesar là cựu binh



    [​IMG]
    Nội chiến La Mã - Trận Thapsus giữa Caesar và Scipio ( phó tướng của Pompey ) hai bên đều cùng có 10 chiến đoàn Lê Dương nhưng chỉ có Caesar bầy trận theo đội hình ba tuyến, Scipio cũng bầy trận theo đội hình ba tuyến và có 60 thớt voi cùng quân hỗ trợ của vua Juba-numidi. Kết quả của trận đánh Scipio thua thảm bại và toàn quân bị tiêu diệt, có người nói Caesar đã ra lệnh xử tử toàn bộ 10 nghìn hàng binh - điều này là khôngc cần thiết vì họ đều là ngươi Roma - có người lại cho rằng ông ta ra lệnh này vì bị lên cơn động kinh.



    Mời các bác xem trận chiến kinh điển của đội hình 3 tuyến, clip trận đánh Philippini giữa Mark Anthony ( phe pro độc tài
    Caesar ) và Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Brutus và Cassius ( phe pro nền Cộng hòa La Mã - mặc dù [/FONT][FONT=&quot]Brutus là con ngoài giá thú của [/FONT]Caesar nhưng ông vẫn ra tay giết Caesar để bảo vệ nền cộng hòa [FONT=&quot]) trong trận này [/FONT][FONT=&quot]Brutus và Cassius bại trận -> nền cộng hòa La Mã kết thúc[/FONT].


    Tuy vậy không thể nói là người La Mã không có điểm yếu, đây là một vài ví dụ: khi họ đang trong đội hình hành quân -> không kịp lập đội hình 3 tuyến như trân Teutobeurg Forest - 4 chiến đoàn La mã đã bị người Germani thịt sạch. Hoặc chiến đấu ở sa mạc với quân Batư, khi đối phương không ngu ngốc xông vào đội hình ba tuyến của người La Mã mà quay ra đánh tỉa, tiêu diệt hết các đoàn quân lương thì ngừơi La Mã chỉ có con đường đầu hàng hay là chết;



    Clip trân Teutobeurg Forest, quân La Mã đang hành quân bị người rợ nhảy ra thịt sạch, 1 chọi 1 thì người La Mã dù được trang bị tốt hơn vẫn không là đối thủ.



    [​IMG]
    Ở sa mạc người châu Á rất giỏi cưỡi ngựa bắn cung, chỉ phạch một cái là rồi đời


    Bộ binh thời Đế chế Byzantine


    Từ thế kỷ thứ 1 sau công nguyên Đế chế La Mã không còn phải đối đầu với những quốc gia đối thủ hùng mạnh ( trừ Đế quốc Batư trên sa mạc ) - hoặc những đối thủ ngang cơ trong các cuộc nội chiến nữa ( vì những mưu mô thay đổi ngay vàng của Đế quốc nằm ngay trong chốn cung đình) mà họ lại phải đương đầu với những người rợ, một phần vì Đế quốc đã được mở ra quá rộng - phía Bắc đến tận nước Anh, phía Tây qua cả bán đảo Iberia sang tận Bắc Phi, phía Đông đến đến bờ sông Rhine, phía Nam sang tận bán đảo Tiểu Á).

    Để đối đầu với người rợ như người Pictisc, người Germanic, Goths ... thì đội hình ba tuyến trở nên ít hiệu quả vì người La Mã phải
    chiến đấu ở những địa hình cực kỳ hiểm trở - không có chỗ để bày trận tuyến và các binh sỹ chiến đoàn phải mang một lượng áo giáp quá nặng nề không cần thiết - so với người rợ chẳng được mặc giáp trụ gì cả. Lúc này lực lượng để đối phó với người rợ lại chính là những bộ binh hạng nhẹ - phần lớn được tuyển dụng từ những tộc rợ đã La Mã hóa, và trong đội hình ba tuyến họ vốn chỉ được xếp ở các cánh ( tronng các bức tranh Trên thì đó là lực lượng - Auxiliary Infantry ). Lấy ví dụ trận đánh Mons Graupius năm 83 AD, giữa La Mã và người bản địa ở xứ Caledonia - Scotland ngày nay.

    Trận đánh Mons Graupius năm 83 AD, giữa La Mã và người bản địa ở xứ Caledoni
    a - Scotland, người ta không còn thấy bóng dáng những binh sỹ chiến đoàn Lê dương trang bị áo giáp bằng đồng lá, lá chắn vuông bằng kim loại ... mà chỉ còn thấy những bộ binh La Mã hạng nhẹ, mặc áo giáp lưới ( ring mail) và mang khiên tròn


    [​IMG]
    Ảnh một binh sỹ chiến đoàn Lê Dương tiêu biểu với áo giáp bằng đồng lá, mũ sắt, khiên hình vuông uấn cong, lao, đoản kiếm ... tất cả các trang bị này nặng gần 30 kg


    [​IMG]
    Tuy chỉ là những bộ binh hạng nhẹ nhưng quân La Mã nếu so sánh với người bản địa thì chẳng khác nào gã trọc phú so với người ở t.r.u.ồ.n.g, ngoài một ngọn lao, một cái khiên bé tẹo thì họ chỉ còn có một cái quần kẻ carô và lòng nhiệt tình hê hê


    [​IMG]
    Chính lòng nhiệt tình đã dẫn họ lao vào đối mặt với những đạo binh La Mã trang bị đến tận răng.


    [​IMG]
    Mà ai cũng biết được kết quả cuối cùng là như thế nào khi những tay nghiệp dư này chọc giận cỗ máy chiến tranh La Mã


    [​IMG]
    Nhưng được cái là vì nhẹ người nên họ chạy trốn rõ nhanh, chỉ có kỵ binh mới có thể truy kích được một phần trong số họ.





    Nhưng rồi thời thế đã thay đổi tại trận Adrianople năm 378 AD ( trận này đã được tả chi tiết trước đó), người La Mã đã bị mất sạch những đội bộ binh tốt nhất của họ( khoảng 30 -> 40.000 người) và cả vị Hoàng đế của họ nữa. Sau trận này cỗ máy chiến tranh đã ngủm và cánh cửa của Đế Chế mở toang cho người rợ vào ăn cướp.


    [​IMG]
    Cảnh bộ binh La Mã bị kỵ binh người Visigoth tàn sát ( những
    kỵ binh người Visigoth vốn phục vụ trong quân đội La Mã nên trang bị cũng không khác biệt mấy)


    [​IMG]
    Những người lính La Mã cuối cùng trong trận Adrianople năm 378, khi họ ngã xuống là cánh cửa đến Rome đã rộng mở




    [​IMG]
    Sau trận Adrianople quân đội La Mã không còn đủ lực để bảo vệ các gia đình quý tộc, các gia đình này phải tự tổ chức lấy các đội dân binh để bảo vệ tài sản của họ, trong ảnh là hai lính tư nhân đang giấu đồ cho chủ và một lính thiết kỵ




    [​IMG]
    Quân đội Byzantine thời Hoàng Đế Justinian thế kỷ thứ 6 - kh. Kỵ binh Thracian, giáo binh cận vệ của hoàng đế và lính không chính quy




    [​IMG]
    Vùng Syria và Ghassanid thế kỷ thứ 6, đây là vùng Arap nhưng vào thế kỷ thứ 6 vùng này thộc về Byzantine và dân ở đây cũng đi lính cho họ
    1) Quý tộc Ghassanid, anh này trang bị áo giáp lưới sắt và mũ sắt lấy từ trong kho vũ khí của người Byzantine
    2) Cung thủ người Ghassanid, nhìn anh này chỉ có mỗi chiếc mũ là thuộc về La Mã
    3) Cung kỵ quý tộc người Syria, những cây cung Syria có sức chiến đấu cực kỳ ghê gớm, nó uy lực hơn hẳn các cây cung composite. khi Đế chế mất đi vùng Syria họ cũng mất đi những tay cung thủ lợi hại.


    [​IMG]
    Quân đội Byzantine thế kỷ thứ 7
    1) Lính bộ binh thiết giáp, người lính này có một chiếc mũ sắt có xuất xứ ở Trung Âu chứ không phải ở Byzantine
    2) Lính thiết kỵ, người lính này không có phần giáp chân và không chịu quấn xà cạp
    3) Quý tộc chỉ huy của Byzantine, bác này tay trái thì xiên một bàn tay và tay phải thì bêu đầu đối thủ.




    [​IMG]
    Tranh vẽ Byzantine ở kỷ đen tối ( khoảng thế kỷ 7 -> 8)
    1) Một người nông dân ở vùng đông Anatoli ( Thổ nhĩ kỳ ngày nay ) đang dắt lừa
    2) Một giáo sỹ dòng Jacobit
    3) Một quý tộc người Armeni đang cố bảo vệ hai người kia


    [​IMG]
    Tranh vẽ binh lính Byzantine bầu một vị chỉ huy của họ lên làm hoàng đế ( sự kiện này chỉ xảy ra ở ta 1 lần nhưng ở Byzantine thì khá thường xuyên) và trong số những vị Hoàng đế - chiến binh có không ít vị là những vua sáng



    [​IMG]
    Quân đội Byzantine
    1) Lính bộ binh stukatos ở thế kỷ thứ 11->12
    2) Lính bộ binh stukatos ở những năm 950
    3) Lính phóng lao peltatos ở năm 975
    4) Lính bộ binh stukatos ở thế kỷ thứ 10

    [​IMG]
    1) Người phục vụ chiến đấu ( dân công) thế kỷ 10-11
    2) Lính vận tải thế kỷ thứ 10
    3) Lính bộ binh hạng nhẹ tại
    thế kỷ 11-12
    4) Cung thủ
    tại thế kỷ 10


    [​IMG]
    1, 2) Lính bộ binh chính quy Byzantine ở thế kỷ 10 -> 11
    3) Trang phục tiêu chuẩn của lính kỵ binh Byzantine ở thế kỷ 11-> 12

    [​IMG]
    1) Sỹ quan cận vệ của nhà vua ở thế kỷ thứ 9
    2) Hoàng đế Byzantine - Basil I, biệt danh kẻ sát nhân vì chọc mù mắt 15.000 tù binh người Bungar, trong trang phục diễu binh
    3) Thành viên của Hội đồng Basilikoi

    [​IMG]
    1) Một lính đánh thuê người Nga năm 950 với các trang bị cá nhân
    2) Một vệ binh Varangian năm 1000
    với các trang bị cá nhân
    3) Đồng phục cuả vệ binh Varangian năm 1000


    [​IMG]
    Trang bị của một lính bộ binh Byzantine vào giữa thời Trung cổ. Người lính này mặc ít nhất là hai lớp áo giáp, một lớp giáp vảy cá ở bên ngoài và một áo giáp bằng lưới sắt ở bên trong. Bác này đảm bảo ngã xuống ao là được phong liệt sỹ luôn he he

    [​IMG]
    Vệ binh Varangian của Hoàng đế Byzantine


    [​IMG]
    Tranh cổ vẽ một bộ binh Byzantine với giáo dài và áo giáp kiểu vảy cá



    [​IMG]
    Một lính bộ binh hạng nặng Byzantine, không rõ thời nào


    Có cái clip trận chiến giữa bộ binh Nga và quân Teutonic tại trận Lake Peipus ở thế kỷ 13. Binh giáp của người Nga trông gần giống với của bộ binh
    Byzantine, còn binh giáp của quân Teutonic thì theo kiểu phương Tây
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Kỵ binh

    Khác với thời Đế chế La Mã cổ đại - quần đội La Mã lúc đó cực mạnh về bộ binh còn kỵ binh chỉ có tính chất trinh sát, yểm trợ. Quân đội Byzantine có một lực lượng kỵ binh đông đảo và mạnh mẽ, có lẽ là vì họ thường phải đối đầu với những đối thủ đến từ châu Á, những người thường là những kỵ sỹ rât cừ khôi

    Lúc suy tàn của đế chế La Mã người ta lại thấy xuất hiện một cuộc cách mạng trong đường lối chiến tranh, những người lính được huấn luyện tốt - lực lượng chính của các đạo binh vùng Địa Trung Hải kể từ thời của những người lính Hoplite Hy Lạp ( Lính xọc xiên), đã được thay thế một cách tổng thể bằng các chiến binh cưỡi ngựa. Những thay đổi này không thể diễn ra trong một đêm, và trong thế kỷ thứ 3, 4 vai trò ưu tiên của kỵ binh vẫn là hỗ trợ bộ binh. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian Hoàng Đế Justinian tái chinh phục phương Tây trong thế kỷ thứ 6 thì tình huống đã hoàn toàn thay đổi và lúc này thì người lính bộ binh lại thấy mình chỉ có vai trò hỗ trợ.

    Một người lính kỵ binh có nhiều điểm tương tự như người lính bộ binh đối tác của anh ta. Anh ta có thể là một người Germanic, người Sarmatia, người Hun hơn là một người Ytalia, và có thể anh ta chưa bao giờ được chiêm ngưỡng Rome. Anh ta chiến đấu vì tiền hoặc chiến lợi phẩm và không có một cảm nghĩ đặc biệt về bất cứ sự trung thành và bổn phận đối với đế chế mà anh ta đang bảo vệ (phần lớn lính của Đế chế Byzantine là lính đánh thuê). Tuy nhiên, không giống như người lính bộ binh, anh ta tạo lên bộ phận ưu tú nhất của quân đội, và qua thời gian khi mà các trang bị chiến đấu được cải thiện thì vị thế của anh ta ( người lính kỵ binh) được nâng lên trong khi đó tầm quan trọng của người lính bộ binh lại giảm xuống. Anh ta là tiền thân của những kỵ sỹ trung cổ, những người quyết định phần thắng ở chiến trường trong những thế kỷ sắp tới.

    Lực lượng kỵ binh dự bị tại thế kỷ thứ 3


    Thế kỷ thứ 3 là một thế kỷ hỗn loạn. Nội chiến và kinh tế suy giảm đã làm suy yếu trầm trọng Đế chế ( La Mã cũ), tại một điểm thời gian mà sức ép từ các vùng chiến trường tăng lên. Trước mắt Đế chế vẫn phải sử hệ thống bộ binh đồn trú để bảo vệ vùng biên giới. Vấn đề với hệ thống này là khi hệ thống bảo vệ biên giới bị chọc thủng, như đã từng xảy ra một cách thường xuyên trong thế kỷ thứ 3. Một vấn đề nữa là những lực lượng chọc thủng những phòng tuyến này lại thường chỉ là những toán kỵ binh nhỏ nhưng di chuyển rất nhanh nhẹn ( đặc biệt là người Goth ở dọc sông Danube và người Frank, người Alamani ở dọc sông Rhine) vào lúc này mới tập hợp một lực lượng phản ứng tạm thời – vốn được rút ra từ hệ thống phòng thủ biên giới và đến vùng bị cướp phá thì đã quá muộn, đối thủ của họ đã chuồn mất từ lâu.

    Một trong những kết quả từ sức ép này vào hệ thống phòng thủ của Đế chế là sự tăng trưởng của lực lượng kỵ binh. Không phải bởi vì kỵ binh chứng minh được rằng họ mạnh mẽ hơn bộ binh, mà là họ có thể di chuyển nhanh và có nhiều cơ hội để kịp thời tiếp ứng cho những vùng bị đánh phá hơn. Hoàng đế Gallienus ( năm 235 -> 268) tiến một bước xa hơn nữa bằng việc tạo ra các lực lượng dự bị - toàn kỵ binh, những đơn vị đóng ở toàn những vị trí chiến lược ở Bắc Ý, Hy lạp và vùng Balkan.

    Lực lượng dự bị được tập hợp từ việc rút ra khoảng 120 kỵ binh từ mỗi chiến đoàn Lê Dương và tập hợp họ lại thành các đơn vị mới được gọi là equites promoti. Những đơn vị kỵ binh được hỗ trợ bởi các đơn vị khinh kỵ được tuyển ở Illyricum (equites dalmatae ) và Bắc Phi (equites mauri ), để cùng chiến đấu với các đơn vị hạng nặng hơn như equites scutarii. Thậm chí các đơn vị mới còn tạo thành các lực lượng như equites illyriciani hoặc như là vexillatio,

    [​IMG]
    Tượng các lực lượng kỵ binh La Mã ở Rome


    [​IMG]Hình ảnh này đã được thu nhỏ lại. Hãy click vào đây để xem hình gốc. Kích thước gốc là 1023x771.[​IMG]
    Trang bị của một lính khinh kỵ Illyrian, anh ta thường được vũ trang bằng giáo, lao, mũ sắt, áo giáp nhẹ.


    [​IMG]
    Còn đây là những kỵ binh trinh sát của quân đội La Mã, họ thậm chí còn không mặc giáp.


    [​IMG]
    Còn đây là ngựa và trang bị của ngựa, hàm thiếc ( ẻm nào mà đang phải chỉnh hình răng nghe cái này cứ gọi là ... he he), dây cương, móng ngựa ... nhưng đặc biệt thời này chưa thấy bàn đạp, bác nào xem phim đóng về thời La Mã mà thấy kỵ binh có bàn đạp là đạo diễn phim có vấn đề.




    [​IMG]
    Cataphract - lính thiết kỵ hạng nặng La Mã đang chiến đấu trong trận Strabourg năm 357 AD



    [​IMG]
    Cảnh một trận tấn công của hỗn hợp kỵ binh mang thương và cung kỵ La Mã



    [​IMG]
    Trang bị của một kỵ binh La Mã vào thế kỷ thứ 4 AD



    [​IMG]
    Diễu binh của các đơn vị kỵ binh hạng nặng La Mã trước cổng Khải hoàn ( ở Ciputra - Nam Thăng Long hê hê), chú ý là 3 bác kỵ binh hạng nặng thì có 3 kiểu trang bị khác nhau


    [​IMG]Hình ảnh này đã được thu nhỏ lại. Hãy click vào đây để xem hình gốc. Kích thước gốc là 817x876.[​IMG]
    Cảnh sinh hoạt ở gia đinh lính kỵ binh La Mã



    [​IMG]
    Cảnh luyện tập của các kỵ binh La Mã (đương nhiên là Đông La Mã ) ở thế kỷ thứ 5-> 6 AD, vì thời này Byzantine chưa có bàn đạp nên bác kỵ binh kia phải chổng cả mông mới lên được yên ngựa.



    [​IMG]
    Cảnh lính kỵ binh La Mã sinh hoạt trong doanh trại



    [​IMG]
    Lính cung kỵ La Mã - Byzantine thế kỷ thứ 6



    [​IMG]
    Cảnh chăm sóc y tế của quân đội La Mã - Byzantine ở thế kỷ thứ 6,
    quân đội La thời Mã - Byzantine là lực lượng có chuẩn bị về quân y mẫu mực nhất ở thời đó.




    Clip một cảnh kỵ binh La Mã tấn công vào Dacia - vùng Rumania ngày nay ( trận chiến xảy ra ở tầm thế kỷ thứ 3 AD) và bị quây đánh cho tơi bời.

    [​IMG]
  6. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    ko có sách nào phân tích sự biến thể của giáp nhỉ?

    giáp ngày càng nhẹ đi, giáp tấm hoặc nguyên khối che ngực (plate) -->giáp lưới, giáp phiến (scale)
    khiên to chữ nhật -->khiên tròn nhỏ
    kiếm ngắn để đâm -->kiếm dài để chém ( giáp lưới chống chém đi theo), và đòn chém cũng là đòn chủ yếu của lính kị.
  7. home124

    home124 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/05/2009
    Bài viết:
    4.208
    Đã được thích:
    2.411
    Suốt trong 2 TK (700 - 500 BC) cách thức tiến hành chiến tranh vẫn mang tính không thay đổi, nghĩa là sự chiến đấu của người lính bộ binh có khiên giáo vẫn tuân theo phong tục nông nghiệp và các quy tắc được định truớc về chiến tranh, vì thế chỉ giới hạn toàn bộ một cuộc xung đột vào một trận đụng độ ngắn ngủi giữa những đạo quân được trang bị bằng giáo và được bảo vệ bằng những lá chắn đồng. Khi xảy ra xung đột, và khi các quốc gia đô thị quyết định giải quyết bằng đường lối chiến tranh thì mỗi trại chủ - chiến binh quyết định sắm cho mình binh khí gồm: giáp bảo vệ ống chân, mũ bảo vệ, giáp che ngực, giáo hai đầu nhọn và kiếm ngắn.

    Trong giai đoạn này người Corinthe đã nhanh chóng thay thế cái mũ bảo vệ không có lớp che mặt bằng cái mũ bảo vệ có một miếng đồng che kín gò má và mũi. Cái mũ bảo vệ này là mũ chuẩn mực của lính bộ bnh có vũ trang khiên giáo từ thế kỷ 7 đến giữa thế kỷ 5 trước công nguyên.

    Ps: thế này có được không?
  8. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Cảm ơn 2 bác nhé:D
    các bác nhiệt tình mà bài viết hay quá!
    Em đang chơi Mount & Blade cũng kiểu như thế này, khổ nhất là đánh nhau với tụi Mông Cổ, toàn chạy vòng vèo bắn tỉa, đuổi muốn hụt hơi à :(
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến tranh La Mã-Ba Tư



    Tóm tắt sự kiện


    Chiến tranh La Mã-Ba Tư
    69 BC. Cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa người Roman và người Parthia khi Lucullus xâm lược miền Nam Armenia.
    66-65 BC. Tranh chấp giữa Pompey và Phraates III ở vùng ranh giới Euphrates
    53 BC. Người La Mã bị đánh bại tại Trận Carrhae
    42-37 BC. Một cuộc xâm lược lớn của người Parthia vào Syria và các vùng lãnh thổ La Mã đã bị đánh bại bởi Mark Antony và Ventidius
    36-33 BC. Chiến dịch chống lại người Parthia không thành công của. Chiến dịch của Mark Antony ở Armenia đã thành công, nhưng sau đó phải rút khỏi toàn khu vực này và trao quyền kiểm soát cho người Parthia.
    20 AD. Người Parthia ký kết hiệp ước với Augustus và Tiberius – Cờ hiệu của của các binh đoàn La Mã bị bắt tại Carrhae được trả về.
    36 AD. Bị đánh bại bởi người La Mã, Artabanus II từ bỏ tuyên bố tham vọng của ông với Armenia.
    58-63 AD. Người La Mã xâm lược Armenia - người Parthia sắp đặt về vương quyền của Armenia.
    114-117 AD . Chiến dịch chính của Hoàng Đế Trajan chống lại người Parthia, cuộc chinh phục này sau đó bị chấm dứt bởi Hoàng Đế Hadrian
    Chiến tranh tranh giành quyền kiểm soát Armenia (161-163) kết thúc bằng một chiến thắng của La Mã sau những thành công ban đầu của Parthia
    161-165 AD. Avidius Cassius cướp phá thành phố Ctesiphon năm 165 AD.
    195-197 AD. Một cuộc tấn công dưới sự chỉ huy của hoàng đế Septimius Severus dẫn đến việc chiếm lại các vùng đất của La Mã ở miền bắc Lưỡng Hà.
    216-217 AD. Hoàng đế Caracalla phát động một cuộc chiến mới chống lại người Parthia - Người kế nhiệm ông, Hoàng Đế Macrinus đã bị đánh bại bởi người Parthia ở gần Nisibis.

    Chiến tranh La Mã – Sassanid ( vương quốc kế thừa người Batư)
    230-232 AD. Ardashir I đột kích vào vùng Mesopotamia và Syria, nhưng cuối cùng đã bị đẩy lùi bởi Alexander Severus.
    238-244 AD. Ardashir lại tiến hành 1 cuộc xâm lược nữa vào vùng Mesopotamia, nhưng người Ba Tư bị đánh bại tại Trận Resaena. Hoàng đế Gordian III phát động một cuộc tấn công về phía Euphrates nhưng đã bị đẩy lùi ở gần Ctesiphon tại Trận Misiche trong năm 244.
    253 AD. Người La Mã bị đánh bại tại Trận Barbalissos.
    258-260 AD.Vua Shapur I đánh bại và bắt sống Hoàng Đế La Mã - Valerian I tại trận Edessa.
    283 AD. Hoàng Đế Carus bao vây Ctesiphon.
    296-298 AD. Người La Mã lại bị đánh bại tại trận Carrhae trong năm 296 hoặc 297.Trong năm 298 Galerius đánh bại người Ba Tư.
    363 AD. Sau một chiến thắng đầu tiên tại Ctesiphon, Hoàng Đế Julian đã bị giết tại Trận Samarra.
    384 AD. Shapur III và Theodosius I chia quyền kiểm soát Armenia giữa hai nước.
    421-422 AD. Người La Mã phản ứng trước cuộc đàn áp người Ba Tư theo Christian của Bahram.
    440 AD. Yazdegerd II đột kích vùng đất Armenia thuộc quyền kiểm soát của Roman.
    502-506 AD. Chiến tranh Anastasian: xảy ra khi Hoàng đế Anastasius I từ chối hỗ trợ tài chính cho người Ba Tư và kết thúc bằng một hiệp ước hòa bình 7 năm.
    526-532 AD. Chiến tranh Iberia: La Mã chiến thắng tại Dara và Satala và thất bại tại Callinicum - Kết thúc cuộc chiến tranh với "Hiệp ước hòa bình vĩnh cửu".
    540-561 AD. Chiến tranh Lazic: xảy ra khi người Ba Tư phá vỡ "Hiệp ước hòa bình vĩnh cửu" và xâm lược Syria - cuộc chiến kết thúc ở năm 561 với việc ký kết một nền hòa bình 50-năm và La Mã mua lại Lazica.
    572-591 AD. Chiến tranh Caucasus: xảy ra khi người Armenia nổi loạn chống lại sự thống trị của người Sassanid.Trong năm 589 một vị tướng Ba Tư Bahram Chobin phát động một cuộc nổi dậy chống lại Hormizd IV. Khosrau II - Con trai của Hormizd phục hồi ngai vàng dưới sức mạnh của quân đội La Mã và Ba Tư, Phục hồi sự cai trị của La Mã ở miền bắc Lưỡng Hà (Dara, Martyropolis) và mở rộng vào Xứ Iberia và Armenia.
    602 AD.Sau khi Hoàng Đế Maurice bị ám sát, Khosrau II chinh phục Lưỡng Hà.
    611-623 AD. Người Ba Tư chinh phục Syria, Palestine, Ai Cập, Rhodes và sát nhập Anatolia vào Đế quốc của họ.
    626 AD. Cuộc bao vây không thành công thành phố Constantinople bởi liên quân Avar-Ba Tư.
    627 AD. Người Ba Tư bị đánh bại tại Nineveh.
    629 AD. Heraclius phục hồi True Cross ở Jerusalem sau khi người Ba Tư đồng ý rút khỏi tất cả các vùng lãnh thổ chiếm đóng.




    Chiến tranh La Mã-Ba Tư là một trong loạt các cuộc xung đột giữa quốc gia La Mã- Byzantine và hai Đế quốc Ba Tư liên tiếp. Tiếp xúc giữa Đế quốc Parthia và Cộng hòa La Mã bắt đầu từ năm 92 trước Công nguyên, các cuộc chiến tranh bắt đầu vào cuối thời Cộng hòa và tiếp tục kéo sang đến thời kỳ Đế quốc La Mã và Sassanid. Cuộc chiến kết thúc vào thời kỳ bắt đầu các cuộc xâm lược của người Hồi giáo Ả Rập, và chính các cuộc tấn công này mới có hiệu lực làm rung chuyển các đế chế Sassanid và Đông La Mã ngay sau khi các cuộc chiến tranh cuối cùng giữa bọn họ kết thúc.


    Mặc dù chiến tranh giữa người La Mã và người Parthia/ Sassanid kéo dài trong bảy thế kỷ, các vùng biên giới vẫn chủ yếu là ổn định. Một trò chơi kéo co đã xảy ra sau đó: các thị xã, thành lũy và các tỉnh đã liên tục bị bao vây, chiếm giữ, tiêu hủy và trao đổi. Không bên nào có sức mạnh nhân lực - hậu cần để duy trì các chiến dịch quân sự kéo dài quá xa biên giới của họ và do đó không thể tiến quá xa mà không dám mạo hiểm để vùng biên giới bị kéo dài của họ trở nên quá mỏng. Cả hai bên đều đã tiến hành các cuộc chinh phạt ở ngoài biên giới của họ, nhưng tình trạng cân bằng gần như luôn luôn được phục hồi trong thời gian sau đó. Tình trạng bế tắc xảy ra trong thế kỷ thứ 2, ở đường biên giới chạy dọc theo phía Bắc Euphrates; đường mới chạy về phía đông, hoặc sau đó về phía đông bắc, vượt qua Lưỡng Hà đến phía Bắc Tigris. Cũng có một số thay đổi đáng kể về phía bắc, trong vùng lãnh thổ của Armenia và Caucasus.

    Chi phí cho các nguồn lực trong cuộc chiến tranh La Mã-Ba Tư cuối cùng đã chứng tỏ chúng chính là thảm họa cho cả hai đế chế. Cuộc chiến tranh kéo dài và leo thang vào thế kỷ thứ 6 và thứ 7 làm cho họ kiệt sức và dễ bị tổn thương khi phải đối mặt với sự xuất hiện và mở rộng đột ngột Vương quốc Hồi giáo Arập, chính lực lượng này đã xâm chiếm cả hai đế chế chỉ một vài năm sau khi kết thúc cuộc chiến tranh La Mã-Ba Tư. Hưởng lợi từ tình trạng suy yếu của các đối thủ của mình, quân đội của người Hồi giáo Ả Rập nhanh chóng chinh phục toàn bộ Đế chế Sassanid và tước đi của Đế quốc Đông La Mã các vùng lãnh thổ ở Cận Đông, Caucasus, Ai Cập và phần còn lại của Bắc Phi. Trong những thế kỷ sau, hầu hết các vùng lãnh thổ của Đế quốc Đông La Mã đã nằm dưới sự cai trị của Hồi giáo. ( theo em hiêủ thì ngày người Iran và một phần lớn dân số Iraq gốc gác là người Batư, họ theo Hồi giáo – Shiai, các quốc gia Arap Hồi giáo theo chi nhánh Sunny, chính vì vấn đề lịch sử mà người Hồi giáo Shiai và Sunny gét nhau như mẻ, thậm chí họ còn thù nhau hơn cả người Mỹ - kẻ thù chung của thế giới Hồi giáo. Có một số ngoại lệ đó là các nước Arap Hôì giáo thấp cổ bé họng, hay bị bạn bè phản bội – như Xiry, Palestine… mới sẵn sàng nhận sự giúp đỡ của người Batư – Iran)

    Bối cảnh lịch sử




    [​IMG]
    Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã ( màu tím) và Parthia ( màu vàng) cùng nhau chia xẻ Đế quốc Seleucid ( màu xanh ở giữa)


    Theo James Howard-Johnston, "Từ thế kỷ thứ 3 TCN đến đầu thế kỷ thứ 7 SCN, các đối thủ [ở phía Đông] là những chính thể lớn với tham vọng của những đế quốc, là thiết lập và bảo đảm sự ổn định trong vùng lãnh thổ của họ". Người La Mã và Parthia đã chạm trán qua các cuộc chinh phục của họ vào các phần lãnh thổ của Đế quốc Seleucid. Trong thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, người Parthia di cư từ thảo nguyên Trung Á tới phía Bắc Iran. Mặc dù phải chịu khuất phục trong một thời gian trước các vương quốc Seleukos, trong thế kỷ thứ 2 họ đã tách ra và thành lập một vương quốc độc lập và vương quốc này liên tục mở rộng lãnh thổ, chinh phục Ba Tư và Lưỡng Hà. Dưới sự cai trị của Triều đại Arsacid, Người Parthia dập tắt nhiều nỗ lực của người Seleucid nhằm lấy lại lãnh thổ đã mất của họ và mở rộng và mở rông quyền kiểm soát của họ ( người Batư ) sang tận Ấn Độ (Xem Vương quốc Ấn độ - Batư ). Trong khi đó người La Mã trục xuất vương quốc Seleukos khỏi vùng lãnh thổ Anatolia của họ trong thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, sau khi đánh bại Antiochus III Đại đế tại các trận Thermopylae và Magnesia. Cuối cùng, trong 64 BC Pompey chinh phục Syria - vùng lãnh thổ còn lại của người Seleucid, tiêu diệt hoàn toàn vương quốc của họ và mở rộng biên giới phía đông của La Mã đến Euphrates, Nơi mà nó gặp vùng lãnh thổ của người Parthia.


    [​IMG]



    [​IMG]




    [​IMG]





    [​IMG]



    [​IMG]
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Các cuộc chiến của nền Cộng hòa La Mã với người Parthia

    Người Parthia bắt đầu tiến về phía Tây vào thời vua Mithridates I và lại được tiếp tục trong thời vua Mithridates II, người không thành công trong việc đàm phán về một liên minh Roman-Parthia với Lucius Cornelius Sulla (c. 105 BC). Khi Lucullus (tướng La Mã ) xâm lược phía Nam Armenia và chỉ huy một cuộc tấn công chống lại Tigranes trong năm 69 TCN, ông đã có thư từ qua lại với nhà vua Phraates III để ngăn cản ông này can thiệp. Mặc dù người Parthia vẫn giữ thái độ trung lập, Lucullus tính toán để tấn công họ. Trong năm 66-65 TCN, Pompey đã đạt được thỏa thuận với vua Phraates và một liên quân La Mã – Parthia đã cùng xâm lược xứ Armenia, Nhưng đã có tranh chấp phát sinh ngay trên đường ranh giới ở Euphrates. Cuối cùng vua Phraates đã khẳng định quyền kiểm soát vùng Lưỡng Hà ngoại trừ các quận ở phía tây của Osroene, vùng đất vốn đã trở thành một thuộc địa của La Mã.


    [​IMG]
    Bản đồ Đế quốc Batư ở thế kỷ thứ 1 SCN với các chư hầu của nó

    Tướng La Mã Marcus Licinius Crassus dẫn đầu một cuộc xâm lược vào vùng Lưỡng Hà trong năm 53 trước Công nguyên với một kết quả thảm khốc, ông và con trai - Publius đã bị giết tại Trận Carrhae bởi người Parthia dưới sự chỉ huy của tướng Surena, Đây là một thất bại tồi tệ nhất của người La Mã kể từ sau Trận Cannae. Người Parthia đột kích vào Syria trong năm sau và huy động một cuộc tấn công lớn ở năm 51 trước Công nguyên, nhưng quân đội của họ đã bị chặn lại và đẩy lui trong một cuộc phục kích ở gần Antigonea bởi những người La Mã.

    Người Parthia chủ yếu vẫn giữ sự trung lập trong cuộc nội chiến của Caesar, cuộc chiến giữa những lực lượng pro ****** Caesar và các lực lượng pro Pompey và các phe phái truyền thống trong Thượng viện La Mã. Tuy nhiên, họ vẫn duy trì mối quan hệ với Pompey và sau khi Pompey thất bại và chết, một đội quân dưới sự chỉ huy của Pacorus I ủng hộ tướng phe Pompey - Caecilius Bassus, người đã bị bao vây tại Thung lũng Apamea bởi lực lượng củá Caesar. Sau khi cuộc nội chiến kết thúc, ****** Caesar đã chuẩn bị một chiến dịch để chống lại người Parthia, nhưng việc ông bị ám sát đã ngăn chặn được cuộc chiến. Người Parthia đã hỗ trợ cho Brutus và Cassius trong thời gian của cuộc nội chiến tiếp theo - “ Liberators' civil war “ và gửi một đội quân đến để chiến đấu cùng với họ ( Brutus và Cassius, những người pro nền cộng hòa ) tại trận Philippi trong năm 42 trước Công nguyên. Sau thất bại của những Liberator, người Parthia đã xâm chiếm lãnh thổ La Mã trong năm 40 trước Công nguyên cùng với một viên tướng La Mã Quintus Labienus - Một người ủng hộ Brutus và Cassius. Họ nhanh chóng tràn vào tỉnh Syria của La Mã và tiến vào Judaea, Lật đổ nhà vua Hyrcanus II – chư hầu của La Mã và đặt cháu trai của ông – Antigonus lên làm bù nhìn. Trong nháy mắt, toàn bộ phía Đông La Mã dường như đã mất hoặc sắp rơi vào tay người Parthia. Tuy nhiên, sự kết thúc của cuộc nội chiến lần thứ hai của Roman đã sớm khôi phục lại sức mạnh của La Mã ở Châu Á. Mark Antony đã gửi Ventidius để đánh chặn Labienus - người đã xâm chiếm bán đảo Tiểu Á. Ngay Labienus bị đẩy trở lại Syria bởi lực lượng La Mã và mặc dù đã được tiếp viện bởi người Parthia, Labienus đã bị đánh bại, bị bắt làm tù binh và giết chết. Sau khi phải chịu thêm một thất bại ở gần Syria Gates, người Parthia rút khỏi Syria. Họ quay trở lại trong năm 38 trước Công nguyên nhưng đã bị đánh bại bởi Ventidius và Pacorus đã bị giết. Ở vương quốc Judaea, vua Antigonus đã bị lật đổ bởi Herod với sự giúp đỡ của Roman trong năm 37 TCN. Sau khi phục hồi quyền kiểm soát của La Mã tới Syria và Judaea, Mark Antony cầm đầu một đội quân rất lớn và tiến vào Atropatene (Azerbaijan ngày nay), Nhưng các xe công thành và quân hộ tống của ông ta đã bị cô lập và bị tiêu diệt trong khi người Armenia đồng minh của ông đã bỏ chạy. Thất bại trong việc chiếm các cứ điểm của người Parthia, người La Mã đã phải rút lui với những tổn thất nặng nề. Antony lại một lần nữa quay lại Armenia vào năm 33 trước Công nguyên để cùng với vua Median chống lại Octavian và người Parthia. Những mối bận tâm khác buộc ông ta phải rút lui và toàn bộ khu vực này đã nằm trong sự kiểm soát của người Parthia.

    Cuộc chiến của Đế quốc La Mã với người Parthia


    Những căng thẳng giữa hai cường quốc đe dọa nổ ra một cuộc chiến tranh mới, Gaius Caesar ( Hoàng đế La Mã ) và Phraataces ( vua Batư ) cùng họp mặt để ký kết một thỏa thuận hòa bình trong thế kỷ 1 AD. Theo thỏa thuận, người Parthia phải rút quân ra khỏi Armenia và công nhận quyền bảo hộ của người Roman ở đó. Tuy nhiên, người La Mã và người Ba Tư liên tục cạnh tranh quyền kiểm soát và ảnh hưởng với nhau tại Armenia vài thập kỷ sau đó. Quyết định của Vua Parthia Artabanus II đặt con trai của ông lên ngôi vua Armenia đang bị bỏ trống đã gây ra một cuộc chiến tranh với La Mã trong năm 36 AD, cuộc chiến chỉ kết thúc khi Artabanus tuyên bố từ bỏ ảnh hưởng của Parthian tới Armenia. Chiến tranh nổ ra trong năm 58 AD, sau khi vua Parthia Vologases I ra sức ép để đặt anh trai của vua Tiridates lên ngai vàng Armenia. Quân Roman dưới sự chỉ huy của Tiridates đã lật đổ và thay thế ông ta bằng một hoàng tử Cappadocian và tạo ra một cuộc chiến bất phân thắng bại. Cuộc chiến này chỉ kết thúc trong năm 63 AD sau khi người La Mã đã đồng ý cho phép Tiridates và con cháu của ông cai trị Armenia với điều kiện họ phải chấp nhận vương quyền của hoàng đế La Mã.

    Một loạt các cuộc xung đột mới bắt đầu vào thế kỷ thứ 2, trong các cuộc xung đột đó người La Mã luôn giữ thế thượng phong đối với người Parthia. Hoàng đế Trajan xâm chiếm Armenia và Lưỡng Hà trong thời gian từ năm 114 và 115 và sáp nhập chúng như là các tỉnh của La Mã. Ông chiếm Ctesiphon – thủ đô của người Parthia, Trước khi bơi thuyền đến Vịnh Ba Tư. Tuy nhiên, cuộc nổi dậy nổ ra ở các lãnh thổ bị chiếm đóng của Parthia vào năm 115 AD, trong khi một cuộc nổi dậy chính của người Do Thái đã nổ ra trong lãnh thổ La Mã làm kéo căng nguồn lực quân sự của La Mã. Lực lượng chính của người Parthia đã tấn công các vị trí của người Roman và các đơn vị La Mã đồn trú tại Seleucia, Nisibis và Edessa đã bị trục xuất bởi cư dân địa phương. Trajan chinh phạt quân nổi loạn ở vùng Lưỡng Hà, đưa vị hoàng tử Parthamaspates lên ngai vàng như là một nhà vua chư hầu, ông rút quân đội của mình và quay trở lại Syria. Trajan chết vào năm 117, trước khi ông có thể tổ chức lại và củng cố các tỉnh Parthia nằm dướiquyền La Mã kiểm soát.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cuộc chiến Parthia của Trajan bắt đầu một "sự thay đổi trong trọng tâm " chiến lược lớn của đế chế La Mã ", nhưng người kế nhiệm ông – Hadrian quyết định rằng vì lợi ích của Rome phải thiết lập lại Euphrates làm giới hạn của sự kiểm soát trực tiếp của nó. Hadrian trở lại hiện trạng status quo ante, và từ bỏ các vùng lãnh thổ Armenia, Mesopotamia và Adiabene.

    Chiến tranh Armenia lại nổ ra vào năm 161, khi Hoàng đế Batư Vologases IV đánh bại người La Mã ở đó chiếm Edessa và tàn phá Syria. Trong năm 163 người La Mã dưới sự chỉ huy của Statius Priscus phản công và đánh bại người Parthia ở Armenia và đưa lên ngai vàng của Armenia một ứng cử viên ưa thích của họ. Năm sau Avidius Cassius xâm chiếm Lưỡng Hà, ông ta thắng trận tại Dura-Europos cùng với Seleucia và thành phố Ctesiphon bị năm 165. Một dịch bệnh đã tràn vào Parthia vào thời điểm đó, có thể của bệnh đậu mùa, và lây lan sang cả quân đội La Mã và buộc thu hồi họ phải thu hồi quân đội của mình về nước; đây là nguồn gốc của căn bệnh truyền nhiễm Antonine Plague mà nó vẫn tiếp diễn trong một thế hệ tiếp theo trên khắp đế chế La Mã. Trong 195-197, một cuộc tấn công của người La Mã dưới triều đại Hoàng Đế Septimius Severus dẫn đến việc chiếm lại các vùng đất của Rome ở miền bắc Lưỡng Hà như xa như các khu vực xung quanh Nisibis, Singara và công phá thành phố Ctesiphon lần thứ 2 ( thủ đô của người Ba tư ). Một cuộc chiến cuối cùng chống lại người Parthia đã được phát động bởi Hoàng đế Caracalla, người đã chiếm đóng thành phố Arbela trong năm 216. Sau khi ông này bị ám sát, người thừa kế ông – Hoàng Đế Macrinus, đã bị đánh bại bởi người Parthia ở gần Nisibis. Để đổi lấy một nền hòa bình, ông này phải chịu trách nhiệm thanh toán cho những thiệt hại được gây ra bởi Hoàng Đế Caracalla.

    Xung đột Roman-Sassanid


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Xung đột tiếp tục ngay sau sự sụp đổ của người Parthia và vua Ardashir I là trụ cột của đế quốc Sassanid. Vua Ardashir tiến hành đột kích vào Mesopotamia và Syria năm 230 và yêu cầu người La Mã phải trả lại tất cả các lãnh thổ cũ của Đế quốc Achaemenid. Sau khi các cuộc đàm phán có không kết quả, Hoàng Đế Alexander Severus phát động các cuộc tấn công vào Ardashir trong năm 232 và cuối cùng đẩy lui ông. Trong năm 238-240, vào cuối triều đại của ông, Ardashir tấn công một lần nữa và thu hồi được một số thành phố ở Syria và Lưỡng Hà, bao gồm cả Carrhae và Nisibis. Cuộc chiến vẫn tiếp tục với mực độ ngày càng dữ dội ở đời vua Shapur I – đời sau của Ardashir, nhưng lực lượng xâm lược Lưỡng Hà của ông bị đánh bại ở trận chiến gần Resaena trong năm 243 và người La Mã lấy lại được Carrhae và Nisibis. Được khuyến khích bằng các chiến thắng này, Hoàng đế La Mã Gordian III phát động một cuộc tấn công vào Euphrates ( Iraq ngày nay) nhưng đã bị đẩy lùi ở gần Ctesiphon tại trận Misiche trong năm 244.


    [​IMG]
    Cảnh Hoàng đế La Mã - Valerian I không thể chống trả một cuộc tấn công của người Batư, Lính Lê dương La Mã mang những thanh đoản kiếm ngắn tủn không thể đọ được với các thiết kỵ Batư mang trường thương.


    [​IMG]
    Cảnh vua Batư
    Shapur bắt sống Hoàng đế La Mã - Valerian I sau khi đánh bại quân đội của ông này tại Trận Edessa

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trong những năm đầu của những năm 250, hoàng đế Philip người Ả Rập ( đương nhiên là biệt danh của ông ta thôi, chứ ông ta là người La Mã ) đã tham gia vào một cuộc chiến tranh để tranh dành sự kiểm soát vùng Armenia. Shapur đã sát hại vua Armenia và phát động lại các cuộc chiến chống lại người La Mã và đánh bại họ ở Trận Barbalissos và sau đó ông này chiếm và cướp bóc thành phố Antioch (thủ đô của Syria cổ). Giữa các năm 258 và 260, Shapur đã bắt sống Hoàng đế Valerian I ( Hoàng Đế La Mã ) sau khi đánh bại quân đội của ông này tại Trận Edessa và tiến vào Tiểu Á. Tuy nhiên, quân đội của người Sassanid lại thất bại trước lực lượng La Mã ở đó và các cuộc tấn công từ Odaenathus của người Palmyral ( vào hậu phương ) buộc người Ba Tư phải rút khỏi lãnh thổ La Mã.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Hoàng đế Carus phát động một cuộc xâm lược thành công vào người Ba Tư ở năm 283, và chiếm thành phố Ctesiphon, lúc đó vốn là thủ đô của vương quốc Sassanid, đây là lần thứ 3 thành phố này bị chiếm. Người La Mã có lẽ đã mở rộng cuộc chinh phục của mình nếu Carus đã không qua đời trong tháng 12 năm đó. Sau khoảng thời gian hòa bình ngắn ngủi ở đầu triều đại của Hoàng Đế Diocletian, người Ba Tư lại phát động chiến sự khi họ xâm chiếm Armenia và đánh bại người La Mã ở trận Carrhae ( lại một lần nữa người La Mã bị đánh bại ở đây) trong năm 296 hoặc 297. Tuy nhiên, tướng Galerius lại nghiền người Ba Tư trong Trận Satala ở năm 298, và chiếm giữ được kho bạc và Hậu cung của vua Hồi giáo ( nơi chứa các bà vợ của nhà vua – thế này thì quân La Mã còng lưng hết hê hê), đây là một điều xỉ nhục với quốc vương Ba Tư. Kết quả của chiến thắng này là người La Mã đã kiểm soát vùng đất giữa Tigris và Greater Zab. Đây là chiến thắng quyết định nhất của người La Mã trong nhiều thập kỷ, tất cả các vùng lãnh thổ đã từng bị mất, tất cả các vùng đất gây tranh chấp và quyền kiểm soát Armenia đã nằm trong tay người La Mã.


    [​IMG]
    Bản đồ đường biên giới La Mã - Batư từ thế kỷ thứ 4 -> 7 sau CN



    [​IMG]
    Bản đồ cho thấy các chiến dịch không thành công của Hoàng Đế Julian năm 363 có hậu quả là La Mã mất đi các vùng lãnh thổ dành được trong hiệp định hòa bình năm 299.


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Hòa bình lại kéo dài từ năm 299 cho đến giữa những năm 330, đến khi Shapur II bắt đầu một loạt các cuộc tấn công chống lại người La Mã. Mặc dù thu được một chuỗi các chiến thắng trong các trận chiến, các chiến dịch của ông đạt được rất ít các kết quả lâu dài: ba cuộc bao vây của người Ba Tư vào Nisibis bị đẩy lùi, và mặc dù Shapur thành công trong việc chiếm Amida và Singara, nhưng cả hai thành phố đã nhanh chóng bị tái chiếm bởi người La Mã. Sau một thời gian tạm lắng trong những năm 350 sau khi Shapur không còn bận tay để chống trả các cuộc tấn công của người du mục ở vùng biên giới phía bắc của Ba Tư, ông ta đã phát động một chiến dịch mới trong năm 359 và lại một lần nữa chiếm đóng Amida. Sự kiện này đã kích hoạt một cuộc tấn công lớn do Hoàng đế La Mã Julian chỉ huy vào năm 363, Đoàn quân tiến xuống phía Euphrates để chiếm thành phố Ctesiphon. Hoàng đế Julian chiến thắng trong trận Ctesiphon nhưng không thể chiếm được thủ đô của Ba Tư và rút lui dọc theo sông Tigris. Bị vây khốn bởi người Ba Tư, Hoàng đế Julian đã bị giết trong một cuộc đụng độ. Với việc quân đội La Mã bị mắc kẹt trên bờ phía đông của sông Euphrates, Hoàng Đế Jovian – người thừa kế của Julian đã chấp nhận ký kết hòa bình, đồng ý với những nhượng bộ lớn để đổi lấy sự rút quân La Mã an toàn ra khỏi lãnh thổ của người Sassanid. Người La Mã lại mất các vùng đất sở hữu cũ của họ ở phía đông của sông Tigris, cũng như các thành phố Nisibis và Singara, và Shapur đã sớm tái chiếm Armenia. Trong năm 384 hoặc 387, một hiệp ước hòa bình được ký kết giữa Shapur III và Theodosius I, hiệp ước này chia Armenia thành hai nước. Trong khi đó, các vùng lãnh thổ phía bắc của Đế chế La Mã đã bị xâm lược bởi các dân tộc Germanic, Alanic và Hunnic, trong khi biên giới phía Bắc của Ba Tư cũng đầu tiên bị đe dọa bởi một số dân tộc Hunnic và sau đó là Hephthalites. Bởi vì cả hai đế chế đều bận tâm bởi những mối đe dọa của riêng mình, họ cùng có một khoảng thời gian hòa bình kéo dài và chỉ bị gián đoạn bởi hai cuộc chiến tranh ngắn, đầu tiên trong năm 421-422 và lần thứ hai trong năm 440.


    [​IMG]
    Bản đồ biên giới La Mã - Batư trong năm 384, đường biên giới này được giữ nguyên cho đến hết TK thứ 5


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Chiến tranh Byzantine-Sassanid



    [​IMG]
    Bản đồ Đế quốc Byzantine và các hàng xóm của nó trong thế kỷ thứ 4



    Chiến tranh Anastasian

    Cuộc chiến nổ ra khi vua Ba Tư Kavadh I cố gắng để có được sự hỗ trợ bằng tài chính từ lực lượng của Hoàng đế Byzantine - Anastasius I. Năm 502 AD, ông đã nhanh chóng chiếm được thành phố Theodosiopolis vốn chưa sẵn sàng chuẩn bị cho chiến đấu và bao vây Amida. Cuộc bao vây pháo đài của thành phố đã chứng minh là khó hơn rất nhiều so với Kavadh nghĩ, những người bảo vệ thành phố đã đẩy lùi các cuộc tấn công của Ba Tư trong ba tháng trước khi họ bị đánh tan. Năm 503, người La Mã cũng đã cố gắng tiến hành một cuộc bao vây cuối cùng không thành công vào Amida lúc này do người Ba Tư nắm giữ, trong khi Kavadh tiến hành xâm lược Osroene và bao vây Edessa nhưng cũng chỉ thu được kết quả tương tự. Cuối cùng, 504, người La Mã đã chiếm được ưu thế qua việc tái bao vây Amida, dẫn tới sự sụp đổ của thành phố. Năm đó một hiệp ước đình chiến được ký do kết quả từ một cuộc xâm lược vào Armenia do người Hung từ Caucasus. Mặc dù cả hai Đế chế đã ngồi vào bàn đàm phán, phải đến tháng 11 năm 506 hiệp ước này mới được ký kết. Năm 505, Hoàng đế Anastasius cho xây dựng tăng cường một thành phố với chất tuyệt vời ở Dara. Đồng thời, các công sự đổ nát cũng được nâng cấp tại các thành phố Edessa, Batnae và Amids. Mặc dù không có những cuộc xung đột với quy mô lớn hơn nữa xảy ra trong suốt triều đại Anastasius, căng thẳng vẫn tiếp tục, đặc biệt là khi công việc xây dựng được tiến hành tại Dara. Có sự căng thẳng này là bởi vì việc xây dựng các công sự mới tại khu vực biên giới của đế chế đã bị cấm bởi một hiệp ước được ký kết ở một số thập kỷ trước đó. Hoàng đế Anastasius theo đuổi các kế hoạch của mình bất chấp sự phản đối của người Ba Tư và các bức tường đã được hoàn thành vào năm 507-508.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Chiến tranh Iberia

    Trong 524-525 AD, Kavadh đề xuất một nền hòa bình với Justin I thông qua con trai ông - Khosrau, nhưng các cuộc đàm phán đã sớm bị phá vỡ. Căng thẳng giữa hai cường quốc đã biến thành các cuộc xung đột khi những người Caucasian Iberia dưới sự chỉ huy của Gourgen đào tẩu đến với người La Mã vào năm 524-525. Các cuộc chiến công khai giữa La Mã-Ba Tư đã nổ ra trong khu vực Transcaucasus và thượng Mesopotamia vào các năm 526-527. Những năm đầu của cuộc chiến người Ba Tư chiếm ưu thế bởi vào năm 527, các cuộc nổi dậy ở Iberia bị nghiền nát, một cuộc tấn công vào các thành phố Nisibis và Thebetha của người La Mã trong năm đó cũng đã không thành công và các nỗ lực để củng cố Thannuris và Melabasa bị ngăn cản bởi các cuộc tấn công của Ba Tư. Cố gắng để khắc phục các thiếu sót đã được lộ ra bởi những thành công của người Ba Tư, hoàng đế mới của La Mã - Justinian I, tiến hành tổ chức lại quân đội phía đông.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Năm 530 một cuộc tấn công lớn của người Ba Tư ở vùng Lưỡng Hà đã bị đánh bại bởi lực lượng La Mã dưới sự chỉ huy của danh tướng Belisarius tại Dara, trong khi một lực Ba Tư thứ hai ở vùng Caucasus đã bị đánh bại bởi Sittas tại Satala. Belisarius đã đánh bại lực lượng của Ba Tư và Lakhmid ( người Hindu) tại trận Callinicum trong năm 531. Trong cùng năm người La Mã đã chiếm được một số pháo đài ở Armenia, trong khi người Ba Tư lại chiếm được hai pháo đài ở phía đông Lazica. Ngay sau khi bị thất bại tại trận Callinicum người Ba Tư đã có các cuộc đàm phán không thành công với người La Mã. Hai bên mở lại các cuộc đàm phán vào mùa xuân năm 532 và cuối cùng ký kết hiệp ước hòa bình vĩnh cửu trong tháng 9 năm 532, hòa ước này kéo dài được ít hơn tám năm. Cả hai cường quốc đều đồng ý trả lại tất cả các lãnh thổ bị chiếm đóng và người La Mã đồng ý trả một lần một khoản tiền 110 centenaria (£ 11.000 vàng). Vùng Iberia vẫn nằm trong tay người Ba Tư và những người Iberia đã rời khỏi đất nước của họ có sự lựa chọn là ở lại trong lãnh thổ La Mã hoặc trở về quê hương của họ.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Justinian đấu với Khosrau I


    [​IMG]
    Bản đồ La Mã - Batư trong thời gian trị vì của Hoàng Đế Justinian


    Người Ba Tư đã phá vỡ "Hiệp ước hòa bình vĩnh cửu" trong 540 AD, có lẽ để trả lời cuộc tái chiếm lại lãnh thổ của đế quốc La Mã phương Tây trước đây, vốn được hỗ trợ bởi sự chấm dứt các cuộc chiến tranh ở phía Đông. Khosrau I xâm chiếm và tàn phá Syria, bắt các thành phố của Syria và Lưỡng Hà phải trả một số tiền lớn và cướp bóc có hệ thống các thành phố khác bao gồm cả Antioch. Belisarius chất dứt các chiến dịch ở phương Tây để đối phó với các mối đe dọa của người Ba Tư, và tiến hành một chiến dịch không thu đươc kết quả rõ ràng tại Nisibis trong năm 541. Vua Batư – Khosrau cũng tung ra một cuộc tấn công vào Lưỡng Hà ở năm 542 khi ông này cố gắng chiếm Sergiopolis. Ông phải sớm rút lui khi đối mặt với quân đội của tướng Belisarius, nhưng vẫn cố tấn công thành phố Callinicum trên đường rút quân. Các cuộc tấn công vào một số thành phố của La Mã đã bị đẩy lùi và các lực lượng Ba Tư bị đánh bại tại Dara. Năm 543, người La Mã lại phát động một cuộc tấn công vào Dvin nhưng bị đánh bại bởi một lực lượng nhỏ của Ba Tư ở Anglon. Cuộc vây hãm Edessa của Khosrau ở năm 544 đã không thành công thậm chí ông đã tìm cách mua chuộc quân phòng thủ. Sau sự rút lui của người Ba Tư, người La Mã phái sứ giả đến tiến hành đàm phán ở Ctesiphon. Một thỏa thuận ngừng bắn 5 năm đã được ký kết vào năm 545, được bảo đảm bằng các khoản trả tiền của người La Mã cho người Ba Tư.


    [​IMG]
    Bản đồ biên giới La Mã - Batư sau cái chết của Hoàng Đế Justinian năm 565 và vương quốc Lazic lúc này đã nằm trong tay người Byzantine


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Đầu năm 548, vua Gubazes của Lazica, trước sự áp bức của người Ba Tư, đã kêu gọi Hoàng Đế Justinian khôi phục lại quyền bảo hộ La Mã. Vị Hoàng đế liền nắm lấy cơ hội này và trong năm 548-549 các lực lượng liên quân La Mã và Lazic giành được một loạt các chiến thắng trước quân đội của Ba Tư, mặc dù họ đã không thành công để tiêu diệt những đơn vị đồn trú chính tại Petra. Thành phố này cuối cùng cũng bị chinh phục vào năm 551, nhưng trong cùng năm đó một cuộc tấn công của người Ba Tư do tướng Mihr-Mihroe chỉ huy đã chiếm được miền đông Lazica. Các thỏa thuận ngừng chiến đã được thành lập vào năm 545 và ra hạn ngừng bắn một kỳ 5 năm nữa với điều kiện là người La Mã phải trả £ 2.000 vàng mỗi năm. Tại Lazica cuộc chiến bất phân thắng bại kéo dài nhiều năm và không bên nào có thể chiếm được ưu thế một cách hoàn toàn. Vua Batư - Khosrau, người giờ đây phải đối phó với Người Hung trắng, đã gia hạn ngưng bắn vào năm 557, và lần ngưng chiến này đã không còn loại trừ vùng Lazica; các cuộc đàm phán vẫn tiếp tục cho một hiệp ước hòa bình cuối cùng. Cuối cùng, vào năm 561, các phái viên của Justinian và Khosrau đã nhất trí về một nền hòa bình 50 năm. Người Ba Tư đồng ý di tản khỏi Lazica và nhận được khoản trợ cấp hàng năm là 30.000 nomismata (solidi). Cả hai bên cùng đồng ý không xây dựng thêm các công sự mới ở gần biên giới và giảm bớt các hạn chế về ngoại giao và thương mại.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    Chiến tranh vì Caucasus


    Chiến tranh nổ ra một lần nữa khi các vùng Armenia và Iberia nổi dậy chống lại sự thống trị của người Sassanid trong năm 571 AD, sau cuộc đụng độ có liên quan đến La Mã và Ba Tư proxy ở Yemen và sa mạc Syria, Roman đã đàm phán về một liên minh với người Turks - Thổ Nhĩ Kỳ để chống lại người Ba Tư. Justin II đưa Armenia vào sự bảo hộ của mình, trong khi quân đội La Mã dưới sự chỉ huy của cháu trai của Justin - Marcianus đột kích vào Arzanene và xâm lược vùng Lưỡng Hà thuộc Ba Tư, nơi họ đánh bại các lực lượng địa phương. Sự bãi nhiệm bất ngờ vào Marcian và sự xuất hiện của quân đội Batư dưới sự thống lĩnh của vua Khosrau đã dẫn đến sự tàn phá của vùng Syria, sự thất bại của các cuộc bao vây của người La Mã vào Nisibis và sự sụp đổ của thành phố Dara. Với một khoản tiền nộp phạt 45.000 solidi, một thỏa thuận ngừng bắn một năm ở vùng Lưỡng Hà (cuối cùng kéo dài đến năm năm) đã được ký kết, nhưng ở vùng Caucasus và trên vùng biên giới sa mạc cuộc chiến vẫn tiếp tục. Năm 575, Khosrau I đã cố gắng kết hợp cuộc xâm lược ở Armenia vào cuộc thảo luận về một nền hòa bình vĩnh viễn. Ông đã tiến hành xâm lược vùng Anatolia và chiếm thành phố Sebasteia, nhưng sau một trận chiến ở gần Melitene quân đội Ba Tư đã bị thiệt hại nặng nề trong khi phải rút lui qua vùng Euphrates dưới những cuộc đột kích của quân La Mã.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Người La Mã khai thác tình trạng lộn xộn của ngươì Ba Tư, và tướng Justinian xâm chiếm sâu vào lãnh thổ Ba Tư và tập kích vào thành phố Atropatene. Vua Khosrau tìm kiếm hòa bình, nhưng ý tưởng này bị loại bỏ sau khi Tamkhusro ( tướng Batư ) giành được một chiến thắng ở Armenia, nơi mà các chiến dịch của La Mã bị xa lánh bởi cư dân địa phương. Mùa xuân năm 578 cuộc chiến tranh ở Lưỡng Hà lại tiếp tục với các cuộc tấn công của người Ba Tư vào lãnh thổ cuả La Mã. Tướng La Mã - Maurice trả đũa bằng cách đột kích vào vùng Lưỡng Hà của Ba Tư, chiếm thành lũy Aphumon và bao vây Singara. Khosrau lại một lần nữa phải mở các cuộc đàm phán hòa bình, nhưng ông qua đời vào vào đầu năm 579 và người kế nhiệm ông Hormizd IV lại muốn tiếp tục chiến tranh.


    [​IMG]
    Bản đồ vương quốc Sassanid và các hàng xóm của nó tại thế kỷ thứ 6 ( kể cả Đế quốc Byzantine)


    Trong những năm 580, cuộc chiến vẫn tiếp tục bất phân thắng bại với chiến thắng ở cả hai phía. Năm 582, Maurice thắng một trận chiến ở Constantia trước Adarmahan và Tamkhusro, những người đã bị giết chết trong trận đánh, nhưng vị tướng La Mã đã không khuếch trương chiến thắng của mình mà ông vội vã quay về Constantinople để theo đuổi tham vọng lên ngôi báu của mình. Cũng vậy một chiến thắng nữa của La Mã tại Solachon năm 586 đã không thành công trong việc phá vỡ bế tắc.

    Người Ba Tư chiếm được Martyropolis bơỉ sự phản bội trong năm 589, nhưng năm đó lại là năm bế tắc bị phá vỡ khi viên tướng Ba Tư - Bahram Chobin, bị sa thải và làm nhục bởi vua Hormizd IV, đã phát động một cuộc nổi loạn. Hormizd bị lật đổ trong một cuộc đảo chính cung đình vào năm 590 và được thay thế bởi con trai ông - Khosrau II, nhưng Bahram vẫn tiến quân và đánh bại Khosrau II, buộc ông này phải chạy trốn sang lãnh thổ La Mã, trong khi Bahram lên ngôi như là Bahram VI. Với sự hỗ trợ từ Maurice, Khosrau đã tạo nên một cuộc chiến chống lại Bahram và trong 591 kết hợp của các lực lượng ủng hộ ông này với người La Mã đã phục hồi ngai vị cho Khosrau II. Để đổi lấy sự giúp đỡ của người La Mã, Khosrau không chỉ trả lại Dara và Martyropolis mà cũng đồng ý nhượng lại nửa phía tây của Iberia và hơn một nửa vùng Armenia dưới sự kiểm soát của Ba Tư cho người La Mã.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Điểm cực đỉnh

    Năm 602 quân đội La Mã trong các chiến dịch tại khu vực Balkan nằm dưới sự chỉ huy của Phocas, người đã thành công trong việc soán ngôi và sau đó giết chết Hoàng Đế Maurice cùng gia đình của ông ta. Khosrau II sử dụng cái chết của ân nhân của mình như là một cái cớ để gây chiến. Trong những năm đầu của cuộc chiến người Ba Tư giành được các thành công áp đảo chưa từng thấy. Họ đã được hỗ trợ bằng cách sử dụng hình ảnh của Khosrau như là con rể của Maurice và cuộc nổi dậy chống lại Phocas của Narses – tướng La Mã. Trong năm 603 Khosrau đã đánh bại và giết chết tướng La Mã Germanus ở vùng Lưỡng Hà và bao vây Dara. Thành phố Dara thất thủ sau 9 tháng bị bao vây. Trong những năm sau đó người Ba Tư dần dần vượt qua các thành phố pháo đài ở Mesopotamia bằng các cuộc vây hãm. Đồng thời họ đã giành một loạt chiến thắng tại Armenia trước sự thờ ơ của hệ thống các đơn vị đồn trú La Mã ở vùng Caucasus. Phocas bị lật đổ vào năm 610 bởi Heraclius, người đi thuyền đến Constantinople từ Carthage. Khoảng thời gian đó người Ba Tư đã hoàn thành cuộc chinh phục của họ ở vùng Lưỡng Hà và vùng Caucasus và trong năm 611 họ đã tràn vào Syria và Tiểu Á, chiếm Caesarea. Trục xuất được người Ba Tư khỏi Tiểu Á năm 612, Heraclius lại tiếp tục phát động một cuộc tấn công lớn vào Syria trong năm 613. Ông lạị bị đánh bại bên ngoài Antioch bởi Shahrbaraz và Shahin và các vị trí của La Mã lại sụp đổ. Trong thập kỷ sau người Ba Tư đã có thể chinh phục Palestine và Ai Cập và tàn phá Anatolia. Trong khi đó, người Avar và Slavs đã lợi dụng tình hình này để tràn ngập vùng Balkan, đưa đế chế La Mã đến bờ vực của sự hủy diệt

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trong những năm này, Heraclius ra sức xây dựng lại quân đội của mình, cắt giảm những chi phí phi quân sự, in thêm tiền tìm kiếm sự tài trợ của Giáo Hội cùng với sự ủng hộ của Patriarch Sergius, để tạo được các nguồn kinh phí cần thiết để tiếp tục chiến tranh. Năm 622, Heraclius rời thành phố Constantinople sau khi uỷ thác thành phố cho Sergius và tướng Bonus – người cũng là quan nhiếp chính của con trai ông ta. Ông tập hợp lực lượng của mình ở Tiểu Á và sau khi tiến hành hàng loạt các hoạt động để làm sống lại tinh thần của binh sỹ, ông đã phát động một cuộc tấn công mới mang tính chất của một cuộc thánh chiến. Tại Caucasus ông giáng đòn và đánh bại một đội quân Ả Rập đồng minh của người Ba Tư và sau đó giành được một chiến thắng trước người Ba Tư dưới sự chỉ huy của Shahrbaraz. Sau một thời gian tạm lắng tới năm 623, trong khi Heraclius đàm phán thỏa thuận ngừng chiến với người Avar, ông lại tiếp tục chiến dịch của mình ở phía Đông vào năm 624 và đánh bại một đội quân dẫn đầu bởi Khosrau tại Ganzak ở vùng Atropatene. Năm 625 ông đánh bại các tướng Batư - Shahrbaraz, Shahin và Shahraplakan ở Armenia và trong một cuộc tấn công bất ngờ cũng mùa đông đó ông đã đột kích vào sở chỉ huy của Shahrbaraz và tấn công vào quân đội của ông này tại nơi trú đông của họ. Được hỗ trợ bởi một đội quân Ba Tư dưới sự chỉ huy của Shahrbaraz, người Avar và Slavs tiến hành bao vây Constantinople nhưng không thành công trong năm 626, trong khi lần thứ hai quân đội Ba Tư dưới sự chỉ huy của tướng Shahin lại phải chịu một thất bại tan nát trước quân đội của Theodore - anh trai của Heraclius.


    [​IMG]
    Bản đồ Đế quốc Byzantine năm 626 dưới thời của Hoàng Đế
    Heraclius, vùng kẻ sọc là những lãnh thổ bị đe dọa bởi người Batư

    Trong khi đó, Heraclius thành lập một liên minh với nguời Thổ Nhĩ Kỳ, những người đã lợi dụng sự suy giảm sức mạnh của người Ba Tư để tàn phá lãnh thổ của họ ở vùng Caucasus. Cuối năm 627, Heraclius đã phát động một cuộc tấn công trong mùa đông vào Lưỡng Hà, tại đây bất chấp việc quân Thổ Nhĩ Kỳ đi theo ông đào ngũ cả loạt, ông đánh bại người Ba Tư tại Trận Nineveh. Tiếp tục tiến về phía nam dọc theo sông Tigris, ông đánh chiếm một cung điện lớn của vua Khosrau tại Dastagird và ông chỉ bị cản trở không tấn công được thành phố Ctesiphon bởi các cầu trên con kênh Nahrawan bị phá hủy. Mất uy tín bởi hàng loạt những thất bại của mình, Khosrau bị lật đổ và giết chết trong một cuộc đảo chính do chính con trai của ông - Kavadh II tiến hành, người cùng một lúc chấp nhận các điều kiện hòa bình và đồng ý rút ra khỏi tất cả các vùng lãnh thổ chiếm đóng. Heraclius đã phục hồi True Cross ( thánh giá có biểu tượng Chúa Kitô bị đóng đinh ) ở Jerusalem trong một buổi lễ hoành tráng vào năm 629. Đến đây thì cuộc chiến tranh La Mã – Ba tư kéo dài hơn 700 về cơ bản đã kết thúc.

    [​IMG]
    Bản đồ Đế quốc Byzantine năm 650, tại thời điểm này Đế quốc Sassanid đã hoàn toàn sụp đổ, và các vùng đất của Byzantine như Xyria, Palestine, Ai cập cũng rơi vào tay người Hồi giáo A rập

Chia sẻ trang này