1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Hiệp sỹ và tinh thần mã thượng

    Hiệp sỹ ( Knight )

    Hiệp sĩ là một thành viên của tầng lớp quân nhân thời Trung cổ ở Châu Âu, những người sống và chiến đấu theo điều luật "Chivalry". Theo cách gọi phổ biến khác của ngôn ngữ Ấn-Âu, hiệp sỹ ( knight) có thể còn được gọi là cavalier hoặc rider (ví dụ trong tiếng Pháp là chevalier và tiếng Đức là Ritter), Cho thấy một sự liên kết giữa một hiệp sĩ và phương tiện của ông ta ( ngựa). Từ thời cổ một vị trí danh dự và uy tín đã được gắn kết với những chiến binh hippeus của Hy Lạp và eques của La Mã, và việc phong tước hiệp sĩ vào thời Trung cổ cũng gắn bó chặt chẽ với tài nghệ cưỡi và điều khiển ngựa.

    Truyền thuyết về King Arthur của người Anh được phổ biến rộng rãi khắp châu Âu vào thời Trung cổ bởi giáo sĩ người xứ Wales Geoffrey vùng Monmouth trong quấn Historia Regum Britanniae ("Lịch sử các vị vua của nước Anh"), Được viết trong những năm 1130. Quấn Le Morte d'Arthur ("Cái chết của vua Arthur") của Sir Thomas Malory, được viết trong năm 1485 là những cẩm nang quan trọng trong việc xác định lý tưởng của Chivalry-tinh thần mã thượng, Chivalry hiểu theo khái niệm hiện đại thì các hiệp sĩ là những chiến binh tinh nhuệ tuyên thệ nhậm chức để phát huy các giá trị của đức tin, lòng trung thành, can đảm và danh dự. Trong thời kỳ Phục hưng, các thể loại tiểu thuyết hào hiệp lãng mạn trở nên phổ biến trong văn học, chúng được phát triển và lý tưởng hóa hơn bao giờ hết và cuối cùng dẫn đến một hình thức mới được gọi là văn học hiện thực bắt đầu phổ biến từ quấn Don Quixote của đại văn hào Miguel de Cervantes. Cuốn tiểu thuyết này khám phá những lý tưởng của hiệp sĩ và sự khác biệt giữa lý tưởng của họ với thực tế phũ phàng trong thế giới của Cervantes. Trong giai đoạn cuối thời Trung cổ, các chiến thuật mới của chiến tranh bắt đầu làm cho các hiệp sĩ trong các bộ giáp cổ điển trở thành lỗi thời, nhưng chức danh Hiệp sỹ vẫn còn tồn tại ở nhiều quốc gia.

    Một danh hiệu hiệp sĩ, chẳng hạn như Hiệp sĩ dòng đền, đã tự trở thành đối tượng của rất nhiều truyền thuyết, một số khác đã biến mất vào quên lãng. Ngày hôm nay, một số danh hiệu hiệp sĩ vẫn tiếp tục tồn tại ở một số nước, chẳng hạn như Order of the Garter của nước Anh, Royal Order of the Seraphim của Thụy điển, và the Royal Norwegian Order of St. Olav của Na uy. Mỗi danh hiệu có tiêu chí riêng của mình, nhưng nói chung là nó do người đứng đầu nhà nước trao cho người được lựa chọn vì một số thành tích đáng khen ngợi.


    [​IMG]
    Tranh vẽ một thanh niên thời Trung cổ đang luyện tập để chở thành một hiệp sỹ

    Nguyên gốc từ hiệp sỹ

    Từ hiệp sĩ, bắt nguồn từ từ cniht trong tiếng Anh cổ là ("cậu bé" hay "người hầu"), nó cũng có cùng nghĩa với từ Knecht (" người hầu") trong tiếng Đức. Ý nghĩa của nó là không rõ nguồn gốc, được phổ biến trong ngôn ngữ của người Tây Germany ( như tiếng Frisian cổ là kniucht, tiếng Hà Lan knecht, tiếng Đan Mạch knægt, tiếng Thụy Điển knekt, tiếng vùng thượng-trung nước Đức kneht, tất cả đều có nghĩa là "cậu bé, thanh niên", cũng như tiếng Đức là Knecht " người hầu, chư hầu"). Từ cniht trong tiếng Anh không có liên quan gì đến các kỵ sỹ hoặc các chức vụ tương tự. Từ rādcniht (Có nghĩa là "người hầu cưỡi ngựa") có nghĩa là một người hầu có nhiệm vụ mang thư tín hoặc tuần tra bờ biển bằng ngựa. Trong tiếng Anh cổ năm 1300 cnihthād còn có ý nghĩa tuổi vị thành niên (tức là khoảng thời gian từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành).

    Một nghĩa hẹp của từ "servant-người hầu" có nghĩa là "đi theo quân đội của một vị vua hay vị chỉ huy cấp trên" được sử dụng vào năm 1100. Ý nghĩa cụ thể về mặt quân của từ hiệp sĩ –knight là một chiến binh cưỡi ngựa và thường là kỵ binh hạng nặng chỉ xuất hiện trong chiến tranh Trăm năm. Động từ "tấn phong hiệp sĩ" tức là làm cho ai đó thành một hiệp sĩ xuất hiện khoảng năm 1300 và từ đó từ "knighthood" bắt đầu chuyển từ việc nói về "tuổi vị thành niên" sang mô tả "xếp hạng, nhân phẩm của một hiệp sĩ".

    Trong điểm khác biệt của tiếng Anh với hầu hết các ngôn ngữ khác ở châu Âu, thì từ “ knight” còn tương đương với sự nhấn mạnh đến tình trạng và sự giàu có của người sở hữu một con ngựa chiến. Về mặt ngôn ngữ mà nói, những người sở hữu ngựa có vị trí xã hội cao hơn ít nhất là từ thời Hy Lạp cổ đại, thời mà tên của nhiều nhà quý tộc có gắn kết từ ngựa trong tiếng Hy Lạp, giống như từ Hipparchus và Xanthippe; nhân vật Pheidippides trong quấn Clouds của Aristophanes có tên ông nội với âm- Hipp chèn vào để tăng độ quyền quý. Tương tự như vậy, ππεύς (hippeus) trong tiếng Hy Lạp thường được dịch là "hiệp sĩ", ít nhất ý nghĩa phổ thông nhất của nó là trong bốn tầng lớp của xã hội Athen, "hiệp sĩ" là những người có thể đủ khả năng để duy trì một chú ngựa chiến trong khi phục vụ nghĩa vụ quân sự cho nhà nước. Cả hai từ hippos của Hy Lạp và Equus của Latin có nguồn gốc từ từ gốc ekwo trong ngôn ngữ Proto Âu Ấn có nghĩa là "ngựa".

    Từ Equestrian ( tiếng Latin bắt nguồn từ eques có nghĩa là" horseman ", từ Equus " horse -ngựa") là thành viên cao cấp thứ hai trong các tầng lớp xã hội của thời Cộng hòa La Mã và vào đầu Đế quốc La Mã. Tầng lớp này thường được dịch là "hiệp sĩ", tuy nhiên, hiệp sĩ thời trung cổ lại được gọi là miles trong tiếng Latin, (mà trong tiếng cổ Latin " soldier " thường có nghĩa là bộ binh). Trong đế quốc La Mã sau này Equus- tiếng cổ Latin để tả ngựa thường được thay thế bằng từ Latin-caballus, nó xuất phát từ tiếng Gaul cổ-caballos. Từ caballus tạo ra tiếng Ý cổ Cavaliere, Cavallo, tiếng Pháp cheval, và tiếng Anh cavalier (vay mượn từ tiếng Pháp). Dạng từ này tiếp tục phát triển thành knight- hiệp sĩ trong ngôn ngữ Romance: tiếng Tây Ban Nha Caballero, tiếng Pháp chevalier, tiếng Bồ Đào Nha cavaleiro vv Trong tiếng Đức, ý nghĩa của từ Ritter chính là rider ( kỵ sỹ) và tương tự như là Ridder trong tiếng Hà Lan và Scandinavia. Những từ này bắt nguồn từ Đức rīdan "Rider-kỵ sỹ" từ reidh trong ngôn ngữ Proto Âu-Ấu.

    Nguồn gốc của việc phong tước hiệp sĩ thời trung cổ

    Từ thời thượng cổ, lực lượng kỵ binh hạng nặng được gọi là Cataphract đã tham gia vào nhiều cuộc chiến tranh khác nhau với vũ khí và vai trò trong các cuộc chiến tương tự như của các hiệp sĩ thời trung cổ. Tuy nhiên, một cataphract không có vị trí chính trị, vai trò xã hội cố định khác với chức năng quân sự của mình.

    Hiệp sĩ được biết đến ở châu Âu bởi đặc trưng của sự kết hợp của hai yếu tố, chế độ phong kiến và phục vụ như là một chiến binh trung thành. Cả hai yếu tố đều bắt nguồn dưới triều đại Hoàng đế Charlemagne của vương quốc Frank, Từ đó các hiệp sĩ thời Trung Cổ có thể được xem là có nguồn gốc thời này.

    [​IMG]
    Ảnh kỵ binh hạng nặng
    của Pháp


    [​IMG]
    Ảnh kỵ binh hạng nặng của Kievan Rus


    [​IMG]
    Ảnh minh họa các Hiệp sỹ thời Trung-trung cổ, họ được trang bị áo giáp còn nặng hơn các kỵ binh hạng nặng và vũ trang bằng thương ( Lance ) chứ không phải là giáo ( Spear)

    Một phần của quân đội của dân tộc German, những người chiếm đóng châu Âu từ thế kỷ thứ 3, luôn luôn là kỵ binh và một số quân đội của những người như người Ostrogoth bao gồm chủ yếu là kỵ binh. Tuy nhiên người Frank lại là người thống trị phương Tây và Trung Âu sau sự sụp đổ của Rome, và chiến thuật chính của họ lại là các đợt xung phong của các khối lớn bộ binh. Như là một loại bộ binh tinh nhuệ, các comitatus thường cưỡi ngựa để đến chiến trường chứ không phải hành quân bộ ( nhưng xuống ngựa chiến đấu như bộ binh ). Cưỡi ngựa để đến chiến trường có hai ưu điểm chính: nó làm giảm mệt mỏi, đặc biệt là khi các binh sĩ tinh nhuê mặc áo giáp dày (trường hợp này ngày càng trong các thế kỷ sau sự sụp đổ của đế chế Tây La Mã) và nó làm cho binh sĩ trở nên cơ động hơn nhiều để phản ứng với các cuộc đột kích của kẻ thù, đặc biệt là các cuộc xâm -lược €của người Hồi giáo vào châu Âu trong năm 711. Quân đội của vua Frank và tể tướng Charles Martel, lực lượng đã đánh bại cuộc xâm lược của vương quốc Ả Rập Umayyad tại trận Tours trong năm 732, vẫn còn phần lớn là bộ binh, còn tầng lớp bộ binh tinh nhuệ thì đến chiến trường bằng ngựa nhưng lại xuống ngựa để chiến đấu và tạo ra một cốt lõi vững chắc cho các hàng bộ binh ở tuyến đầu.

    Vào thế kỷ thứ 8 trong thời Carolingian, nói chung là người Frank liên tục tấn công và một số lượng lớn các chiến binh đã cưỡi ngựa đi theo hoàng đế của họ trong các chiến dịch của người Frank trên phạm vi của các cuộc chinh phục rộng khắp Tây-Trung Âu. Vào thời gian này ngày càng có nhiều người Frank chiến đấu mà vẫn ngồi trên lưng ngựa ở trên chiến trường như các kỵ binh chứ không phải là bộ binh cưỡi ngựa và họ tiếp tục làm như vậy trong nhiều thế kỷ sau đó. Mặc dù tại một số quốc gia các hiệp sĩ quay trở lại chiến đấu trên bộ vào thế kỷ 14, sự kết hợp của các hiệp sĩ chiến đấu trên lưng ngựa với một ngọn giáo và sau đó là một ngọn thương vẫn được duy trì rất cao.


    [​IMG]
    Trong trận chiến Lake Peipus năm 1242 các hiệp sỹ Teutonic đã xuống ngựa để chiến đấu với người Nga, họ đã tạo nên một bức tường bằng lá chắn và giáo dài để đẩy lui các cuộc tấn công của quân Nga và đồng thời làm lá chắn che chở cho lính cung thủ mặc giáp nhẹ phía đằng sau.


    [​IMG]
    Trong trận chiến Lake Peipus năm 1242 các hiệp sỹ Teutonic đã xuống ngựa để chiến đấu với người Nga, họ đã tạo nên một bức tường bằng lá chắn và các ngọn thương cực dài để đẩy lui các cuộc tấn công của quân Nga và đồng thời làm lá chắn che chở cho lính cung thủ mặc giáp nhẹ phía đằng sau.

    Những chiến binh cơ động cưỡi ngựa đã làm cho các cuộc chinh phục của Charlemagne được triển khai ở những vùng rất rộng lớn và để bảo đảm về sự phục vụ của họ nhà vua đã ân thưởng cho họ một khoảnh đất được gọi là benefices ( đất phong – thái ấp ). Phần thưởng được trao trực tiếp cho các đội trưởng bởi hoàng đế để tưởng thưởng cho những nỗ lực của họ trong các cuộc chinh phục và họ lại tiếp tục cấp các benefices cho đội ngũ chiến binh của họ ( đương nhiên là một mảnh đất lớn được chia ô thành nhiều mảnh nhỏ )-một tập hợp của những người đàn ông tự do và không tự do. Trong thế kỷ này hoặc sau cái chết của Charlemagne, tầng lớp chiến binh được phong đất của ông đã tăng lên nhiều hơn và Charles the Bald ( Sác lơ Hói) tuyên bố thái ấp của họ được cha truyền con nối. Các giai đoạn của sự hỗn loạn trong các thế kỷ thứ 9 và thứ 10, giữa sự sụp đổ của chính quyền trung ương Carolingian và sự nổi lên của các vương quốc Frank phía Tây và phía Đông (sau này trở thành nước Pháp và Đức tương ứng), tầng lớp chiến binh mới được phân phong này bắt đầu đào hào đắp lũy và xây dựng các công trình phòng thủ. Nguyên nhân bắt nguồn từ quyền điều hành và chống lại các cuộc tấn công của người Viking, Magyar và Saracen, và rồi cũng để phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của chính các lãnh chúa địa phương và các chư hầu của họ.

    Kết quả của việc cha truyền con nối của tầng lớp những chiến binh tinh nhuệ cưỡi ngựa được phong đất tạo ra các hiệp sĩ, và họ ngày càng được xem như là những chiến binh thực sự duy nhất ở châu Âu do đó họ có đặc quyền của họ.

    Các tổ chức quân sự đầu tiên của các hiệp sĩ là Knights Hospitaller ( Hiệp sỹ Bệnh viện) được thành lập tại cuộc Thập tự chinh đầu tiên trong năm 1099, tiếp theo là Knights Templar ( Hiệp sỹ dòng Đền) năm (1119). Vào thời điểm mà họ được thành lập, họ chỉ đơn giản là những tổ chức của tu sĩ, mà các thành viên sẽ hành động như người lính để bảo vệ những người hành hương đến vùng Đất thánh. Chỉ trong thế kỷ sau, với các cuộc chinh phục thành công vào vùng Đất Thánh và sự gia tăng của các thành bang của Thập tự quân, các thành bang này ngày càng trở thành mạnh mẽ và uy tín.

    Ý tưởng về tinh thần mã thượng cũng như các đặc tính của các chiến binh Thiên chúa giáo và sự biến đổi của thời gian đã tạo ra các hiệp sĩ từ các "người hầu, người lính" và hiệp si "người lính cưỡi ngựa", để chỉ một thành viên của tầng lớp có lý tưởng này, họ có ảnh hưởng đáng kể từ các cuộc Thập tự chinh, được lấy cảm hứng từ các tổ chức quân sự của các chiến binh tu viện cũng như những hoài niệm của thời đầu Hậu Trung Cổ và mặt khác chịu ảnh hưởng của Lý tưởng furusiyya của người Hồi giáo Saracen.

    Maximilian I-Hoàng đế La Mã Thần thánh (1459-1519) thường coi là người hiệp sĩ thật sự cuối cùng. Ông cũng là vị hoàng đế cuối cùng dẫn đầu quân đội của mình lao vào chiến trường.

    [​IMG]
    Tranh vẽ Maximilian I-Hoàng đế La Mã Thần thánh, người hiệp sĩ thật sự cuối cùng


    [​IMG]
    Jan D'arc-Hiệp sỹ duy nhất là phụ nữ thời Trung-trung cổ, tranh vẽ bà đang chỉ huy quân Pháp tấn công vào pháo đài của quân Anh ở D'orleans và trận này đã làm thay đổi hoàn toàn cục diện của chiến tranh trăm năm giữa Anh quốc và Pháp quốc

    Huy hiệu của các Hiệp sỹ

    Hiệp sĩ thường mang armigerous (Huy hiệu), và quả thật họ đã đóng một vai trò thiết yếu trong việc phát triển môn khoa học nghiên cứu về huy chương. Áo giáp trở nên nặng hơn, bao gồm cả lá chắn cũng rộng hơn và mũ sắt che kín mặt được phát triển trong thời Trung cổ, tạo sự cần thiết phải đánh dấu nhận sự nhận dạng ( địch ta) qua màu của lá chắn và áo khoác. Các Huy hiệu được tạo ra để chỉ ra rằng các hiệp sĩ đến từ vùng nào hoặc các chiến binh đến từ vùng nào trong các buổi tỷ thí.

    Ngoài ra, các hiệp sĩ cũng sử dụng những hình thức nhất định của y phục để thể hiện thân thế của mình. Ở Trận Crécy (năm 1346), Edward III của Anh cử con trai của ông-Edward, Hoàng tử đen, chỉ huy cuộc tấn công vào nước Pháp và khi bị ép phải gửi quân tiếp viện ( cho Hoàng tử đen), nhà vua ( lúc này đang tham gia chiến dịch ở Scotland ) trả lời, "nói với họ rằng ngày hôm nay họ phải chịu đựng để giành chiến thắng và sẽ giành được chiếc đinh thúc ngựa của ông ta." Rõ ràng, vào thời gian đó chiếc spur- chiếc đinh thúc ngựa đã trở thành biểu tượng của hiệp sĩ. Chiếc livery collar-Dây chuyền cực to cũng gắn liền với Huy hiệu của các Hiệp sỹ.

    [​IMG]
    Một số dạng tấm lá chắn cơ bản của các Hiệp sỹ thời Trung cổ


    [​IMG]
    Một số dạng huy hiệu trên tấm lá chắn của các Hiệp sỹ thời Trung cổ


    [​IMG]
    Một số dạng huy hiệu trên tấm lá chắn của các Hiệp sỹ thời Trung cổ

    [​IMG]
    Một số dạng huy hiệu trên tấm lá chắn của các Hiệp sỹ thời Trung cổ


    [​IMG]
    Một số dạng áo khoác của các Hiệp sỹ thời Trung cổ

    [​IMG]
    Một số dạng Huy hiệu thêu trên áo khoác của các Hiệp sỹ thời Trung cổ


    [​IMG]
    Một số dạng Huy hiệu thêu trên áo khoác của các Hiệp sỹ thời Trung cổ


    [​IMG]
    Một số dạng Huy hiệu thêu trên áo khoác của các Hiệp sỹ thời Trung cổ


    [​IMG]
    Một số dạng trang trí trên mũ sắt của các Hiệp sỹ thời Trung cổ


    [​IMG]
    Một số dạng trang trí trên mũ sắt của các Hiệp sỹ thời Trung cổ


    [​IMG]
    Một số dạng trang trí trên mũ sắt của các Hiệp sỹ thời Trung cổ


    [​IMG]
    Tranh vẽ các Hiệp sỹ thời Trung cổ, bác này là hiệp sỹ Đức, bác ta có trang trí kiểu cái đầu mọc sừng hê hê-loại này có vẻ rất mốt với các hiệp sỹ Teuton


    [​IMG]
    Tranh vẽ các Hiệp sỹ thời Trung cổ:
    1. Hiệp sỹ Ulrich von Lichenstain
    , ông này đội mũ sắt có hình một nàng công chúa ở trên đầu
    2. Trang phục của Hiệp sỹ vùng Bohem ở thế kỷ 14
    3. Trang phục của Bá tước Frederick von Cilli năm 1415

    [​IMG]
    Tranh vẽ các Hiệp sỹ thời Trung cổ
    1. Trang phục của Hiệp sỹ Mathieu de Montmorency năm 1360
    2.
    Trang phục của Hiệp sỹ Bertrand du Guesclin chết năm 1380, bác này rất nổi tiếng trong giai đoạn giữa của chiến tranh trăm năm và là hộ quốc công của nước Pháp. ( em sẽ có phần nói về bác ta ở đoạn sau)
    3.
    Trang phục của Hiệp sỹ Jean de Créquy năm 1440


    [​IMG]
    Tranh vẽ các Hiệp sỹ thời Trung cổ


    [​IMG]
    Tranh vẽ các Hiệp sỹ thời Trung cổ


    [​IMG]
    Tranh vẽ các Hiệp sỹ thời Trung cổ

    [​IMG]
    Tranh vẽ các Hiệp sỹ thời Trung cổ


    [​IMG]
    Tranh vẽ các Hiệp sỹ thời Trung cổ
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Điều luật tinh thần mã thượng ( Chivalry Code)


    Điều luật tinh thần mã thượng là một thuật ngữ liên quan đến thể chế của giai cấp Hiệp sỹ thời Trung-trung cổ, nó thể hiện nguồn gốc đào tạo quân sự của cá nhân các quý tộc và sự phục vụ của họ cho người khác. Nó thường được kết hợp với lý tưởng đạo đức, danh dự, lịch sự và tình yêu của các hiệp sĩ: đây là "Nguồn của ý tưởng nghĩa hiệp," theo nhận xét Johan Huizinga, người đã viết một số chương The Waning of the Middle Ages về tinh thần thượng võ và các hiệu ứng của nó vào các nhân vật thời Trung cổ ", là niềm tự hào và tham vọng về cái đẹp, và chính thức hóa quan niệm về danh dự, đó là cực đỉnh của cuộc sống cao quý."

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Nguồn gốc từ chevalry

    Trong tiếng Anh, từ này lần đầu tiên được xác nhận trong năm 1292, như là một thuật ngữ vay mượn từ Pháp cổ-chevalerie "tầng lớp hiệp sỹ", Một danh từ trừu tượng được sáng tạo ra trong thế kỷ 11 dựa trên từ chevalier "Knight-Hiệp sĩ", xuất phát từ Latin Trung Cổ caballarius "Kỵ sĩ"; cavalry là từ nghĩa cùng trong tiếng Ý, và người Anh đã vay mượn từ này qua miền Trung nước Pháp trong khoảng năm 1540.

    Giữa thế kỷ 11 và thế kỷ 15 các nhà văn thời trung cổ thường được sử dụng từ chivalry, ý nghĩa của từ này thay đổi theo thời gian, thường chuyển từ ý nghĩa cụ thể của "tình trạng hoặc phí liên quan đến các hiệp sỹ những người sở hữu một con ngựa chiến" có lý tưởng đạo đức của các chiến binh Kitô giáo được tuyên truyền trong thể loại văn học Romance loại trở nên phổ biến trong thế kỷ 12, và lý tưởng về tình yêu được tuyên truyền trong các áng văn thơ Minnesang đương đại và các thể loại có liên quan. Đến thế kỷ 15, thuật ngữ này chủ yếu là đã bị tách ra khỏi nguồn gốc quân sự của mình, nhất là vì số lượng ngày càng tăng của lực lượng bộ binh trong thế kỷ 14 về cơ bản đã hạn chế các cuộc tranh tài của các hiệp sĩ và nó cũng thể hiện một lý tưởng nhân văn của hành vi đạo đức và phép lịch sự.

    Nguồn gốc theo đặc tính quân sự

    Bất kể định nghĩa bằng văn bản khác nhau của tinh thần mã thượng, các hiệp sĩ thời trung cổ được huấn luyện một cách chuyên nghiệp trong nghệ thuật chiến đấu, họ được đào tạo trong chiến đấu với áo giáp, với ngựa, giáo, kiếm và lá chắn. Hiệp sĩ được dạy là phải xuất sắc vượt trội trong việc sử dụng vũ khí, thể hiện sự can đảm, lòng hào hiệp, đức tính trung thành và thề coi khinh sự hèn nhát và ti
    ́nh đê tiện.
    Liên quan tới tinh thần mã thượng là hệ thống huy hiệu và các quy tắc của nó được hiển thị trên mặt của chiếc khiên. Khi không phải chiến đấu, các hiệp sĩ hào hiệp thường cư trú trong một lâu đài hoặc trong một ngôi nhà có củng cố phòng thủ, trong khi một số hiệp sĩ khác lại sống trong cung đình của các vị vua, công tước và lãnh chúa lớn khác. Các kỹ năng của các hiệp sĩ được chuyển sang hoạt động thời bình như đi săn và các đấu giải.

    Sự phát triển của khái niệm chivalry-tinh thần mã thượng thời Trung-trung cổ một phần có liên quan với quan niệm furusiyya của người Hồi giáo trong cuộc thánh chiến. Charles Reginald Haines lưu ý những đặc điểm chính "Như lòng trung thành, phép lịch sự, lòng rộng lượng ... được tìm thấy ở mức độ cao trong số các người Ả Rập." Tây Ban Nha thời trung cổ, mà ông gọi "Cái nôi của tinh thần mã thượng", có thể mang danh hiệu tiền hiện đại này, do sự ảnh hưởng trực tiếp của nền văn minh Ả Rập trong Al-Andalus ( xứ Aldalucia của TBN ngày nay). "Lòng mộ đạo, phép lịch sự, năng lực trong chiến tranh, những món quà của tài hùng biện, nghệ thuật của thơ ca, kỹ năng trên lưng ngựa, kỹ năng khéo léo với thanh kiếm, giáo, và cây cung" được dự kiến là của các tầng lớp hiệp sĩ người Moor ( người Mauritany sống ở TBN ) được cho là nguồn gốc của tinh thần mã thượng, Richard Francis Burton.".

    Kitô giáo đã có ảnh hưởng đến sự thay đổi của quan niệm cổ điển về chủ nghĩa anh hùng và đức hạnh, lúc này chúng được xác định với các ưu điểm của tinh thần mã thượng. Các quan niệm Hòa bình và quan niệm của Thiên Chúa trong thế kỷ 10 là một ví dụ, với giới hạn được đặt ra ở phần trên, các hiệp sĩ phải bảo vệ và tôn vinh những người yếu đuối trong xã hội và giúp các nhà thờ duy trì hòa bình. Đồng thời nhà thờ cũng phải trở nên bao dung hơn trong cuộc chiến tranh để bảo vệ đức tin, việc tán thành các lý thuyết chỉ chiến đấu; và phụng vụ đã được áp dụng và chúc phúc cho thanh kiếm của một hiệp sĩ, và tắm để lọc lấy sự dũng cảm và lòng hào hiệp. Trong thế kỷ 11 khái niệm về một "hiệp sĩ của Chúa Kitô" (Miles Christi) rất được phổ biến ở Pháp, Tây Ban Nha và Italy. Những khái niệm về "tinh thần mã thượng tôn giáo" đã được tiếp tục xây dựng trong thời gian của các cuộc Thập tự chinh, và bản thân những cuộc thập tự chinh thường được xem như là một sự nghiệp nghĩa hiệp. Ý tưởng của họ về tinh thần mã thượng cũng tiếp tục chịu ảnh hưởng của Saladin, người đã được xem như là một hiệp sĩ nghĩa hiệp thời trung cổ bởi các nhà văn Kitô giáo.

    Văn học thời trung cổ


    Từ thế kỷ thứ 12 trở đi tinh thần mã thượng đã được hiểu như là một điều luật về đạo đức, tôn giáo và xã hội của các hiệp sĩ. Các đặc điểm của điều luật là rất đa dạng, nhưng nó nhấn mạnh các ưu điểm của lòng can đảm, danh dự, và sự phục vụ. Tinh thần mã thượng cũng là một chỉ tiêu để lý tưởng hoá cuộc đời và cách cư xử của các hiệp sĩ ở tại lâu đài của họ hoặc ở triều đình của nhà.

    Văn học thời Trung Cổ vinh danh lòng dũng cảm, phép lịch sự và lý tưởng của người La Mã cổ đại.Ví dụ như cuốn sách cổ về chiến tranh được viết bởi Vegetius được đặt tên là De Re Militari và được dịch sang tiếng Pháp vào thế kỷ 13 như là L'art de chevalerie bởi Jean de Meun. Các dịch giả sau này cũng đã trích dẫn từ Vegetius như Honore Bonet người đã viết quấn L'arbes des batailles ở thế kỷ 14, quấn sách này bàn bạc về đạo đức và luật của chiến tranh. Trong thế kỷ 15 Christine de Pizan đã kết hợp các ý tưởng từ Vegetius, Bonet và Frontinus để cho ra quấn Livre des faits d'Armes et de chevalerie.

    Cuối thời Trung cổ, các thương gia giàu có ra sức tỏ thái độ hào hiệp – những người con trai của tầng lớp tư sản được đào tạo tại triều đình của các nhà quý tộc, nơi họ được đào tạo theo cách cư xử của tầng lớp hiệp sĩ. Đây là sự dân chủ hóa của tinh thần mã thượng, dẫn đến sự ra đời một quấn sách mới được gọi là cuốn courtesy book, quấn sách hướng dẫn hành vi của các "quý ông". Như vậy, sau thời trung cổ điều luật giá trị danh dự của một con người lịch lãm mã là tôn trọng phụ nữ và quan tâm đến những người kém may mắn, được khởi điểm trực tiếp từ những lý tưởng trước đó của tinh thần mã thượng và những đặc điểm lịch sử đã tạo ra nó.

    Sự phát triển của tinh thần mã thượng thời trung cổ, với các khái niệm về danh dự của một phụ nữ và sự tận tâm phục vụ của các hiệp sĩ đến họ, không chỉ xuất phát từ Đức mẹ Virgin Mary, mà còn góp phần tôn kính nó. Sự tôn kính Đức Trinh Nữ Maria thời trung cổ tương phản bởi thực tế là phụ nữ bình thường, đặc biệt là những người không phải gia đình quý tộc luôn bị khinh rẻ. Mặc dù người phụ nữ vào thời điểm này được xem như là nguồn gốc của cái ác, nhưng người ta cho rằng Đức mẹ Mary là người dàn xếp để Thiên Chúa chở thành nơi nương tựa của con người. Sự phát triển của Mariology thời trunng cổ và sự thay đổi thái độ cách suy nghĩ về người phụ nữ cùng song hành với nhau và và đây là cách hiểu tốt nhất trong bối cảnh này.

    Theo nền văn học thời trung cổ, tinh thần mã thượng có thể được phân thành ba lĩnh vực cơ bản nhưng bị chồng chéo:

    1. Trách nhiệm với những người đồng hương và các Kitô hữu: điều này có ý nghĩa về mặt đạo đức như lòng thương xót, lòng can đảm, dũng cảm, sự công bằng, bảo vệ kẻ yếu và người nghèo, và sự phục vụ của các hiệp sĩ với chúa tể của mình. Điều này cũng có ý nghĩa như là sẵn sàng hy sinh cuộc sống của mình cho người khác; liệu bạn có thể hy sinh cuộc sống của mình cho một người đàn ông nghèo hoặc chúa tể của bạn.
    2. Trách nhiệm đối với Thiên Chúa: điều này có nghĩa là phải trung thành với Thiên Chúa, bảo vệ các tín hữu, bảo vệ người vô tội, tin cẩn nhà thờ, luôn luôn bảo vệ cái thiện chống lại cái ác, và luôn tuân theo ý Chúa để phục vụ các lãnh chúa phong kiến.
    3. Trách nhiệm vụ đối với phụ nữ: điều này có lẽ là khía cạnh quen thuộc nhất của tinh thần mã thượng. Điều này chứa đựng những gì thường được gọi là sự yêu thương, Ý tưởng này cho rằng một người hiệp sĩ phải phục vụ một người phụ nữ và tất cả các phụ nữ khác ngoài người phụ nữ này. Đặc biệt điều này nhấn mạnh phải dịu dàng, rộng lượng và thanh lịch với tất cả những người phụ nữ.
    Ba lĩnh vực này của tinh thần mã thượng rõ ràng là khá thường xuyên chồng chéo lên nhau và thường xuyên là không thể phân biệt được nên người ta thường chốt thành ba ý chính:

    1. Tinh thần mã thượng của chiến binh, trong đó nhiệm vụ chính của một hiệp sĩ là phục vụ chúa tể của mình, như đã được minh chứng bởi Sir Gawain trong quấn Sir Gawain và Hiệp sĩ xanhĐám cưới của Sir Gawain và Dame Ragnelle
    2. Tinh thần mã thượng về tôn giáo, trong đó nhiệm vụ chính của một hiệp sĩ là bảo vệ người vô tội và phục vụ Chúa, như được minh chứng bởi Sir Galahad hoặc Sir Percival trong Chiếc chén huyền thoại.
    3. Tinh thần mã thượng và tình yêu, trong đó nhiệm vụ chính của một hiệp sĩ là phải phục vụ người phụ nữ của riêng mình và sau cô ta là phục vụ tất cả những người phụ nữ, như được minh chứng bởi tình yêu của Sir Lancelot cho nữ hoàng Guinevere hoặc tình yêu của Sir Tristan cho Iseult.


    [​IMG]
    Tranh vẽ người phụ nữ thời Trung cổ, ngồi may áo cho chàng hiệp sỹ của mình đi chiến trận




    [​IMG]
    Các hiệp sỹ là những chiến binh chuyên nghiệp, vào thời hòa bình thì môn thể thao ưa thích của họ là Đấu giải ( Tournament)



    [​IMG]
    Sức nặng của người, ngựa, giáp trụ... có lẽ lên đến hàng trăm kg lao vào nhau, rờ...ầm thế là ngọn thương gẫy tan tành, Hiệp sỹ còn trên ngồi vững lưng ngựa là người chiến thắng


    Trang bị vũ khí của các Hiệp sỹ


    [​IMG]
    Một số loại binh khí của các hiệp sỹ


    [​IMG]
    Một số loại binh khí của các hiệp sỹ


    [​IMG]
    Một số loại binh khí của các hiệp sỹ

    [​IMG]
    Một số loại binh khí của các hiệp sỹ


    [​IMG]
    Tranh vẽ một hiệp sỹ đội mũ sắt đang vung quả truỳ gai


    IMG]http://i902.photobucket.com/albums/ac227/hongsonvh02/6-21.jpg[/IMG]



    [​IMG]
    Tranh vẽ một hiệp sỹ được trang bị búa trận và áo giáp vòng


    [​IMG]
    Một loại mũ sắt của các hiệp sỹ
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Các cuộc Thập tự chinh từ thế kỷ 11 đến hết thế kỷ 13

    Thập tự chinh là một loạt các chiến dịch quân sự được tiến hành vì lý do tôn giáo bởi nhiều quốc gia Công giáo La Mã ở Châu Âu, đặc biệt là nước Pháp và Đế quốc La Mã Thần thánh. Các cuộc thập tự chinh cụ thể để khôi phục lại kiểm soát của người Kitô giáo tới vùng Đất Thánh là các cuộc chiến tranh kéo dài trong thời gian gần 200 năm, từ năm 1095 đến năm 1291. Các chiến dịch ở Tây Ban Nha và Đông Âu được tiếp tục vào thế kỷ 15. Các cuộc thánh chiến chủ yếu của lực lượng Công giáo La Mã (diễn ra sau khi Sự ly khai Đông Tây và hầu hết xẩy ra trước Cải cách Tin lành) nhằm vào người Hồi giáo, những người đã chiếm đóng vùng Cận đông kể từ thời vương quốc Hồi giáo Rashidun, Mặc dù các chiến dịch này cũng được tiến hành để chống lại người Slav, người Balt ngoại đạo, người Do Thái, người Nga và Kitô hữu Chính Thống, người Mông Cổ, người Cathar, người Hussite, người Waldensian, nước Phổ cổ, và kẻ thù chính trị của các giáo hoàng. Phe Chính Thống giáo cũng tham gia chiến đấu chống lại lực lượng Hồi giáo trong một số cuộc thập tự chinh. Những người tham gia Thập tự chinh thường là tự nguyện và đã được cấp một lễ rửa tội tập thể.

    Các cuộc thập tự chinh ban đầu có mục tiêu là chiếm lại Jerusalem và Đất Thánh từ tay người Hồi giáo và các chiến dịch của họ được tiến hành để trả lời lời kêu gọi từ những người Kitô giáo của Đế quốc Byzantine để giúp họ chống lại sự bành trướng của người Seljuk Turk Hồi giáo vào vùng Anatolia. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để mô tả các chiến dịch tiếp theo được tiến hành tới tận thế kỷ 16 ở vùng lãnh thổ bên ngoài Levant, các chiến dịch này thường nhằm vào dân ngoại đạo, dị giáo và những người bị rút phép thông công bởi một tập hợp các lý do tôn giáo, kinh tế và chính trị. Sự ganh đua giữa hai quyền lực Thiên chúa giáo và Hồi giáo cũng đã dẫn đến các liên minh giữa các phe phái tôn giáo chống lại đối thủ của họ, chẳng hạn như liên minh của người Thiên chúa giáo với Vương quốc Hồi giáo Rum trong cuộc Thập tự chinh lần thứ năm.

    Các cuộc thập tự chinh đã tác động sâu rộng đến chính trị, kinh tế và xã hội, một số ảnh hưởng số trong đó kéo dài tới tận thời nay. Vì các cuộc xung đột nội bộ giữa các vương quốc Thiên chúa giáo và quyền lực chính trị, một số trong những cuộc thập tự chinh đã bị lệch khỏi mục tiêu ban đầu của họ, chẳng hạn như cuộc Thập tự chinh lần thứ tư, Kết quả là một cuộc bao vây được nhắm vào thành phố Constantinople và các thuộc địa của đế chế Byzantine bởi người Venice và quân Thập tự chinh. Cuộc Thập tự chinh thứ sáu là cuộc thập tự chinh đầu tiên được khởi hành mà không cần sự cho phép chính thức của Giáo hoàng. Các cuộc Thập tự chinh lần thứ bảy, thứ tám và thứ chín kết quả là người Mamluk và Hafsid đã chiến thắng, cuộc Thập tự chinh lần thứ chín đánh dấu sự kết thúc của các cuộc thập tự chinh trong vùng Trung Đông.

    Tình hình Trung Đông


    Đất Thánh là nơi cực kỳ quan trọng đối với người Kitô giáo, vì nơi đây là nơi sinh ra, giảng đạo, bị đo
    ́ng đinh và phục sinh của Chúa Giêsu thành Nazareth, Người Kitô luôn coi Chúa Giêsu như là Đấng Cứu thế hay Messiah. Đến cuối thế kỷ thứ 4, sau khi Hoàng đế La Mã Constantine chuyển đổi sang Thiên chúa giáo (năm 313) và sau đó thành lập đế quốc Byzantine sau sự phân rẽ của Đế quốc La Mã, Đất Thánh đã trở thành một khu vực chủ yếu là của người Kitô giáo. Các lễ hội tôn giáo được tiến hành cho nhiều lễ kỷ niệm và cho những sự kiện trong cuộc đời của Chúa Giê-xu tại các địa điểm quan trọng.

    Jerusalem nói riêng giữ một ý nghĩa quan trọng trong đạo Hồi vì nó là địa điểm để lên thiên đường của tiên tri Muhammad người mà người Hồi giáo tin là vị tiên tri quan trọng nhất của Allah và Jerusalem được xem là địa điểm thiêng liêng thứ ba trong số những địa điểm thiêng liêng nhất của người đạo Hồi. Sự hiện diện của người Hồi giáo tại Đất Thánh bắt đầu với việc người Hồi giáo xâm chiếm Syria trong thế kỷ thứ 7 dưới sự lãnh đạo của Rashidun Khalip. Chiến thắng của các đội quân Hồi giáo ngày càng tăng áp lực vào Đế quốc Byzantine Chính thống giáo Đông, người ban đầu đã tuyên bố khu vực là lãnh thổ của họ (một phần của Đế quốc Đông La Mã mà Byzantine được thừa kế) – sự kiện này cũng bao gồm cuộc tấn công cuối cùng của người Seljuk Thổ Nhĩ Kỳ. Jerusalem cũng có tầm quan trọng lịch sử với tôn giáo của người Do Thái vì nó là địa điểm của Western Wall-Bức tường phía Đông- phần cuối cùng còn lại của Đền thờ thứ hai. Người Do Thái coi Israel như là quê hương của tổ tiên của họ và đã đi thăm thành phố kể từ khi nó bị chiếm đóng bởi người La Mã và bị từ bỏ bởi người Do Thái sau cuộc nổi loạn của họ vào năm 66-73 AD.

    Một yếu tố khác góp phần vào sự thay đổi thái độ của phương Tây về phía phương Đông vào năm 1009, khi Quô
    ́c vương Hồi giáo al-Hakim bi-Amr Allah triều Fatimid đã ra lệnh phá hủy Nhà thờ Thánh Sepulchre. Trong năm 1039 người thừa kế ông ta sau khi yêu cầu thanh toán một khoản tiền lớn đã cho phép đế quốc Byzantine xây dựng lại nó. Người hành hương đã được phép đến vùng đất Thánh trước và sau khi Nhà thờ Sepulchre được xây dựng lại. Người Hồi giáo đã nhận ra rằng có rất nhiều của cải đến Jerusalem từ những người hành hương, vì lý do này và cả những lý do khác, sự khủng-bố nhắm vào người hành hương cuối cùng cũng dừng lại. Tuy nhiên, thiệt hại vẫn xẩy ra và bạo lực của người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk đã trở thành một phần của mối quan tâm mà lan rộng hỗ trợ cho các cuộc thập tự chinh Thiên chúa giáo trên toàn thế giới.

    Tình hình Tây Âu


    Nguồn gốc của các cuộc thập tự chinh nằm trong sự phát triển của các nước Tây Âu trước đó trong thời Trung cổ, cũng như tình hình đang ngày một xấu đi của Đế quốc Byzantine ở phía đông gây ra bởi các làn sóng tấn công mới của người Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ. Các phân tích về Đế quốc Carolingian vào những năm cuối thế kỷ 9, kết hợp với sự ổn định tương đối của các địa phương biên giới châu Âu sau sự kiện những người Viking, Slavs và Magyar được Kitô giáo hóa, đã xảy ra việc một số lượng lớn các chiến binh có vũ trang và đầy nhiệt tình đã chiến đấu với nhau một cách không đúng chỗ ( các chiến binh dù đã được Kitô giáo hóa nhưng họ vẫn là những chiến binh và nghề nghiệp của họ chỉ là đánh giết ) và thường tiến hành
    khủng-bố dân chúng địa phương. Giáo Hội đã cố gắng để ngăn chặn nạn bạo lực này với các phong trào Thỏa thuận ngừng bắn và Hòa bình của Thiên Chúa, tuy đã thu được phần nào thành công nhưng các chiến binh được đào tạo luôn luôn tìm kiếm một lối thoát để phát huy các kỹ năng của họ và cơ hội để mở rộng lãnh thổ đang ngày càng trở nên kém hấp dẫn trước giới đại quý tộc.

    Năm 1063, Giáo hoàng Alexander II đã ban phước lành của mình để giáo dân ở Iberia tiến hành cuộc chiến tranh của họ chống lại người Hồi giáo, ông đã cấp cả một tiêu chuẩn của giáo hoàng (vexillum Sancti Petri) và một lễ rửa tội cho những người đã thiệt mạng trong trận chiến. Lời cầu khẩn của Hoàng đế Byzantine, người lúc này đang bị đe dọa bởi người Seljuk đã được lọt vào những đôi tai sẵn sàng lắng nghe. Những gì xảy ra từ năm 1074, giữa Hoàng đế Michael VII với Đức Giáo Hoàng Gregory VII và từ năm 1095 giữa Hoàng đế Alexios I Komnenos với Giáo hoàng Urban II. Một nguồn xác định trong hồ sơ của Trung Quốc Michael VII như là một người cai trị của Hy Lạp (Fulin), đã gửi một phái đoàn tới nhà Tống-Trung Quốc năm 1081. Một học giả Trung Quốc cho rằng đặc sứ này và thậm chí cả Byzantine nữa trong năm 1091 yêu cầu Trung Quốc hỗ trợ trong cuộc chiến chống lại người Thổ.

    Các cuộc thánh chiến là một phần lối thoát cho một niềm đạo đức tôn giáo mãnh liệt lúc này càng ngày càng tăng lên vào cuối thế kỷ 11 trong số các công dân là giáo dân ở châu Âu. Một người thập tự quân sau khi đã thề một lời thề trang trọng và nhận được một cây thánh giá từ tay của Đức Giáo Hoàng hay legate-đại diện của ông ta và được tư
    ̀ đó người này được coi là một "người lính của Giáo Hội". Đây là một phần của Investiture Controversy ( sự trao quyền đầy Tranh cãi ), vốn bắt đầu khoảng năm 1075 và vẫn còn tiếp diễn đến cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Khi hai phe thuộc Investiture Controversy cố gắng để thu hút ý kiến ủng hộ của công chúng cho họ, làm cho mọi người trở nên tham gia vào một cuộc tranh cãi tôn giáo mạnh mẽ một cách cá nhân. Kết quả là họ đã đánh thức đạo đức Kitô giáo một cách mạnh mẽ và vì lợi ích cộng đồng trong các vấn đề tôn giáo, và ý thức này lại được tăng cường hơn nữa bằng các tuyên truyền về tôn giáo, mà chủ trương là Just Wa-Chỉ bằng chiến tranh ( ý nói không có thương lượng) để chiếm lại Thánh Địa từ tay người Hồi giáo. Đất Thánh bao gồm Jerusalem (nơi theo thần học Kitô giáo đã xảy ra cái chết, phục sinh và bay vào thiên đường của Chúa Giê-xu) và Antioch (thành phố đầu tiên của Giáo dân Kitô giáo). Hơn nữa, sự tha tội ( rửa tội? em ko rành lắm) là một nhân tố thúc đẩy bất kỳ người nào còn biết kính Chúa, những người đã phạm tội ác mà muốn thoát khỏi sự trừng phạt muôn đời không thể cưỡng lại của Địa ngục. Đây là một vấn đề tranh cãi nóng bỏng trong các cuộc Thánh chiến là liệu những gì được gọi là "tha tội-rửa tội" có ý nghĩa thật sự hay không ( hay bị lợi dụng). Hầu hết những người tham gia Thập tự chinh đều tin rằng bằng cách tái chiếm Jerusalem họ sẽ đi thẳng lên thiên đàng sau khi họ chết trận. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề tranh cãi xung quanh chính xác những gì các giáo hoàng đã hứa trong thời gian này. Một giả thuyết là nếu một người đã chết trong chiến đấu để lấy lại Jerusalem trong thời gian "tha tội-rửa tội" được áp dụng-> sẽ được lên thiên đàng, đây là chính xác những gì Giáo hoàng Urban II nói trong bài phát biểu của mình. Điều này có nghĩa rằng nếu quân viễn chinh đã thành công và trong trường hợp tái chiếm được Jerusalem thì những người sống sót sẽ không được xoá tội và không được lên thiên đàng ( Hoàn toàn hợp lý, Giáo hoàng ban sự xóa tội cho những người hy sinh khi tái chiếm Jerusalem-họ là người tử vì đạo và được lên thiên đàng, vậy những người không tử trận thì không được xoá tội, vậy muốn lên đó thì họ phải tự tử khi vừa mới thu được thắng lợi để được lên thiên đàng?)

    Phản ứng tức thì


    Nguyên nhân trực tiếp của cuộc Thập tự chinh đầu tiên là hoàng đế Byzantine Alexios I đề nghị Giáo hoàng Urban II cử lính đánh thuê đến để giúp ông chống lại người Hồi giáo lúc này đang ồ vào lãnh thổ của đế quốc Byzantine. Năm 1071, tại Trận Manzikert ( sẽ có một bài riêng về trận này) Đế chế Byzantine bị đánh bại, dẫn đến sự mất mát phần lớn vùng Tiểu Á (hiện nay là Thổ Nhĩ Kỳ) và họ chỉ còn giữ được vùng duyên hải. Mặc dù cố gắng hòa giải sau Sự ly khai Đông Tây giữa Catholic Church ( Công giaó La Mã ) ở phía tây châu Âu và Giáo hội Chính Thống phương Đông đã không thành công, hoàng đế Alexius I hy vọng cho một phản ứng tích cực từ phía Giáo hoàng Urban II và đã có nó.

    Khi những cuộc Thập tự chinh đầu tiên được truyền bá trong năm 1095, các hoàng tử Kitô giáo ở miền Bắc xứ Iberia đang chiến đấu ở vùng núi Galicia và Asturias, các xứ Basque và Navarre ( Basque thuộc nay TBN và Navarre nay thuộc Pháp ), đã có các thành công liên tục trong khoảng một trăm năm. Sự sụp đổ của vùng Toledo và Vương quốc León của người Moor trong năm 1085 là một chiến thắng lớn, nhưng điểm nóng chảy ( điểm thay đổi mang tính bản lề ) của phong trào Reconquista vẫn còn nằm trong tương lai. Sự mất đoàn kết của các tiểu vương Hồi giáo là một yếu tố tối cần thiết.

    Trong khi phong trào Reconquista ( tái chiếm các vùng đất thuộc TBN ngày nay khỏi tay người Hồi giáo) là ví dụ nổi bật nhất về phản ứng của châu Âu để chống lại các Cuộc chinh phục của người Hồi giáo, nhưng đây không phải là ví dụ duy nhất. Robert Guiscard-tay phiêu lưu người Norman đã chinh phục xứ Calabria năm 1057 và giữ được Sicily-vùng lãnh thổ truyền thống của Đế quốc Byzantine trước sự xâm lược của người Hồi giáo. Các thành bang có hải quân phát triển như Pisa, Genoa và Catalonia tất cả đều tích cực chiến đấu chống lại vương quốc Majorca của người Hồi giáo, và giải phóng được vùng bờ biển nước Ý và Catalonia khỏi các cuộc tấn công của người Hồi giáo. Trước đó rất lâu Syria, Lebanon, Palestine, Ai Cập… quê hương của Kitô giáo đã bị chinh phục bởi đội quân của người Hồi giáo. Những đêm trường lịch sử của việc mất mát những lãnh thổ nhạy cảm này vào tay một kẻ thù tôn giáo đã tạo ra một động lực mạnh mẽ để đáp ứng lời kêu gọi của hoàng đế Byzantine Alexius I về một cuộc thánh chiến để bảo vệ Thiên Chúa giáo và để tái chiếm các vùng đất bị mất bắt đầu từ Jerusalem.

    Đức Giáo Hoàng Gregory VII đã có những tranh cãi về các giá trị giáo lý của một cuộc thánh chiến và đổ máu nhân danh Chúa với những khó khăn trong việc giải quyết các câu hỏi phán xét việc bạo lực mang lại lợi lộc cho ai. Quan trọng hơn nữa là Đức Giáo Hoàng quan tâm đến việc các Kitô hữu hành hương đến Đất Thánh bị bức hại. Thánh Saint Augustine xứ Hippo-bản sao về mặt trí tuệ của Giáo hoàng Gregory, đã biện minh cho việc sử dụng vũ lực trong việc phục vụ Chúa Kitô trong The City of God-Thành phố của Thiên Chúa, và chỉ bằng chiến tranh của Kitô giáo mới có thể nâng cao vị thế của một nhà lãnh đạo mạnh mẽ đầy tham vọng của châu Âu, như Gregory đã nhìn nhận về chính mình. Những người miền Bắc sẽ tăng cường củng cố xung quanh Rome, và các hiệp sĩ chuyên gây rắc rối của họ có thể sẽ thấy được nghề nghiệp phù hợp với họ ( tiếp tục nghề đâm chém ở phương Đông ). Những nỗ lực trước đây của nhà thờ để ngăn chặn bạo lực, chẳng hạn như khái niệm "Hòa bình của Thiên Chúa" đã không thu được thành công như mong đợi. Về phía nam của Rome, người Norman đã cho thấy họ đáng sợ như thế nào đối với cả hai người Ả Rập (ở Sicily) và Byzantine (trên đất liền). Một quyền bá chủ của người La tinh ( phương Tây) ở các quốc gia Trung cận động sẽ cung cấp đòn bẩy trong việc giải quyết tranh chấp giữa Giáo hoàng trước uy quyền tối cao của Giáo trưởng Constantinople, việc này đã dẫn đến việc Sự ly khai lớn trong năm 1054, một rạn nứt không thể giải quyết bằng sức mạnh của người Frank.

    Tại Đế quốc Byzantine, điểm yếu của Hoàng đế phía Đông đã bị bộc lộ bởi sự thất bại thảm hại trong Trận Manzikert trong năm 1071, lãnh thổ châu Á của đế chế ở khu vực phía tây Anatolia và vùng xung quanh Constantinople đã thất thủ. Một dấu hiệu chắc chắn cho thấy sự tuyệt vọng của Byzantine chính là lời kêu gọi của Alexios I tới Đức Giáo Hoàng-kẻ thù của mình để xin viện trợ. Nhưng Giáo Hoàng Gregory lúc này đang bận về vấn đề Investiture Controversy ( sự trao quyền đầy Tranh cãi ) và không thể kêu gọi hoàng đế Đức ( lực lượng chính của Thập tự quân), do đó một cuộc thánh chiến đã không bao giờ được hình thành ( vào thời của Giáo Hoàng Gregory).


    Vào thời của Giáo hoàng Urban II-người kế nhiệm ôn hoà hơn của Gregory, một cuộc thánh chiến sẽ làm cho người Thiên Chúa giáo đoàn tụ lại, củng cố địa vị của Giáo hoàng và có thể mang lại phía Đông dưới sự kiểm soát của ông. Những người Đức và người Norman bất mãn đã không được tính đến, và trái tim và xương sống của một cuộc thánh chiến có thể được tìm thấy ở quê hương của chính Giáo hoàng Urban ở phía Bắc của nước Pháp.

    Sau cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất

    Ở mức độ đại chúng, cuộc thánh chiến đầu tiên đã tạo ra một làn sóng say mê, một cách cá nhân các con chiên ngoan đạo của Thiên chúa giáo đã thể hiện sự giận dữ trong các cuộc tàn sát nhằm vào người Do Thái ( bọn bán Chúa) đi kèm với sự di chuyển của các đám đông qua châu Âu, cũng như bạo lực nhằm vào Chính thống giáo ở phía Đông vì tội "ly giáo". Trong rất nhiều các cuộc tấn công vào người Do Thái, các Giám mục và một số Kitô hữu địa phương đã cố gắng bảo vệ những người Do Thái từ các đám đông thập tự chinh ( Khoảng mười vạn dân Pháp + Đức chia thành hai đoàn Thập tự chinh, họ hoàn toàn vô tổ chức vừa đi vừa cướp phá, khi chưa đến được Đất thánh họ đã bị tiêu diệt bởi người Thổ nhĩ kỳ và chết đói khát dọc đường-Đây không phải là lực lượng chính của quân Thập tự chinh lần thứ nhất).

    Trong thế kỷ 13, các lần Thập tự chinh không bao giờ còn được thể hiện như là một cơn sốt của nhân dân và sau khi pháo đài Acre thất thủ ở cuối năm 1291 và Occitan Cathars bị tiêu diệt trong cuộc thập tự chinh Albegensian, Lý tưởng về các cuộc thập tự chinh của Đức Giáo hoàng đã bị biến chất-giảm giá trị đến mức trở thành các cuộc lấn chiếm lãnh thổ giữa các vương quốc Công giáo châu Âu với nhau.

    Cuộc thập tự chinh cuối cùng của các Tổ chức hiệp sĩ được tiến hành là để giữ lãnh thổ Knights Hospitaller ( Hiệp sỹ cứu tế-bệnh viện ). Sau sự sụp đổ của Acre cứ điểm cuối cùng của người Thiên chúa giáo, họ nắm quyền kiểm soát đảo Rhodes, và trong thế kỷ 16 họ phải chuyển tới Malta trước khi cuối cùng Napoleon Bonaparte lại xua họ đi vào năm 1798.
  4. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    hình game total war là bác tự chơi tự chụp hả?
    với lại clip về mấy trận đánh là tụi tây tự đóng lại dượt chơi chứ ko phải trich1 từ phim ra phải hem ábc hong son ?
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7



    Hình game total war em lấy từ youtube, có cả tụi Tây dượt chơi + cả phim bác ạ, nói chung là em cố gắng đưa minh họa vào để nói ít hiểu nhiều bác ạ hi hi
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc Thập tự chinh đầu tiên


    [​IMG]
    Bản đồ châu Âu và vùng biển Địa trung hải ở năm 1097

    Thời gian: từ năm 1096–> năm 1099
    Địa điểm: Vùng Cận Đông (vùng Anatolia, các quốc gia Trung cận động, Palestine)
    Kết quả: Thập tự quân chiến thắng quyết định và thành lập Lãnh thổ của Vương quốc Jerusalem và các thành bang thập tự chinh khác

    Thành phần tham chiến

    Tín đồ Cơ đốc giáo:
    Đế chế La Mã Thần thánh

    • Genoa
    • Vùng hạ Lorraine
    • Quận quốc Toulouse
    • Marquisate của Provence
    Vương quốc Pháp

    • Blois
    • Boulogne
    • Flanders
    • Le Puy-en-Velay
    • Vermandois
    • Normandy
    Vương quốc Anh
    Công quốc Apulia

    • Taranto
    Đế quốc Byzantine
    Vương quốc Cilicia Armenia


    Chỉ huy

    Godfrey của Bouillon
    Raymond IV
    Stephen II
    Baldwin của Boulogne
    Eustace III của Boulogne
    Robert II của Flanders
    Adhemar của Le Puy
    Hugh của Vermandois
    Robert II của Normandy
    Bohemond của Taranto
    Tancred của Taranto
    Alexios I Komnenos
    Tatikios
    Manuel Boutoumites
    Guglielmo Embriaco
    Constantine I


    Lực lượng

    Quân Thập tự chinh:
    ~ 35.000 người

    • 30.000 bộ binh
    • 5.000 kỵ binh
    Byzantine:
    ~ 2.000 người


    Nông dân Pháp+Đức+Ý
    ~ 100.000 người

    Tín đồ Hồi giáo:
    Đế quốc Đại Seljuk
    Vương quốc Hồi giáo Danishmend
    Vương quốc Hồi giáo Fatimid
    Vương quốc Hồi giáo Almoravid
    Vương quốc Hồi giáo Abbasid


    Chỉ huy
    Kilij Arslan I
    Yaghi-Siyan
    Kerbogha
    Duqaq
    Fakhr al-Mulk Radwan
    Ghazi ibn Danishmend
    Iftikhar Ad-Daula
    Al-Afdal Shahanshah


    Lực lượng
    Không rõ nhưng đông hơn lực lượng chính quy của Thập tự quân


    Cuộc Thập tự chinh đầu tiên là một cuộc viễn chinh quân sự 1096-1099 do người Kitô giáo phương Tây tiến hành để lấy lại Đất Thánh vốn đã bị lấy mất trong các cuộc chinh phục của người Hồi giáo Các nước Trung cận động, cuối cùng họ (người Kitô giáo phương Tây ) cũng tái chiếm được Jerusalem. Nó (Cuộc Thập tự chinh đầu tiên ) được bắt đầu vào năm 1095 bởi Giáo hoàng Urban II với mục tiêu chính là đáp ứng kháng thư của Hoàng đế Byzantine Alexios I Komnenos, người đã yêu cầu những người tình nguyện phương Tây đến để viện trợ và giúp đỡ mình đẩy lùi các cuộc xâm-lược của người Turks Seljuk từ Anatolia. Một mục tiêu bổ sung nhanh chóng trở thành mục tiêu chính-cuộc tái chiếm Jerusalem - thành phố thiêng liêng của người Kitô giáo cùng với vùng Đất Thánh và giải phóng người Kitô giáo phương Đông từ sự cai trị của người Hồi giáo.

    Trong suốt cuộc thập tự chinh, các hiệp sĩ và những người nông dân từ nhiều quốc gia của Tây Âu hành quân trên đất liền và bằng đường biển, đầu tiên là họ đến Constantinople và sau đó là về hướng Jerusalem, như là các đạo quân viễn chinh, những người nông dân đông hơn rất nhiều so với các hiệp sĩ. Nông dân và các hiệp sĩ được chia thành các đội quân riêng, tuy nhiên vì người nông dân đã không được đào tạo trong chiến đấu như các hiệp sĩ, quân đội của họ đã không đạt được Jerusalem. Khi các hiệp sĩ đến được Jerusalem, họ đã phát động một cuộc tấn công vào thành phố và chiếm giữ nó trong tháng 7 năm 1099 và thành lập các thành bang thập tự quân bao gồm Vương quốc Jerusalem, Công quốc Tripoli, Công quốc Antioch và Công quốc Edessa.

    Vì cuộc Thập tự chinh đầu tiên chủ yếu liên quan đến Jerusalem, một thành phố mà đã không nằm trong ảnh hưởng của người Thiên chúa giáo trong 461 năm và quân đội thập tự chinh đã từ chối trả lại đất cho Đế quốc Byzantine, bản chất của cuộc Thập tự chinh đầu tiên là phòng thủ hay tấn công vẫn còn gây tranh cãi.


    Cuộc Thập tự chinh đầu tiên là một phần của phản ứng của Kitô giáo với các cuộc chinh phục của người Hồi giáo, tiếp theo cuộc Thập tự chinh thứ hai … cho đến cuộc Thập tự chinh lần thứ IX, nhưng các cuộc Thập tự chinh khác vẫn nổ ra trong ít nhất hơn 200 năm sau. Nó cũng là bước tiến lớn đầu tiên để mở cửa trở lại thương mại quốc tế ở phương Tây kể từ sự sụp đổ của Đế quốc La Mã phương Tây.


    Bối cảnh


    Nguồn gốc của các cuộc thập tự chinh nói chung, và đặc biệt là của cuộc Thập tự chinh đầu tiên vẫn còn đang được tranh cãi giữa các sử gia. Phần lớn các cuộc thập tự chinh có liên quan đến tình hình chính trị và xã hội của châu Âu trong thế kỷ thứ 11, sự nổi lên của một phong trào cải cách trong chức vị giáo hoàng, và cuộc đối đầu về chính trị và tôn giáo giữa Kitô giáo và Hồi giáo ở châu Âu và Trung Đông. Kitô giáo đã lan khắp châu Âu, châu Phi và Trung Đông vào thời Cổ đại, nhưng vào đầu thế kỷ 8 nó đã bị giới hạn ở châu Âu và vùng Anatolia sau những cuộc chinh phục Hồi giáo. Vương quốc Hồi giáo Umayyad đã chinh phục Syria, Ai Cập và Bắc Phi chủ yếu là từ Đế quốc Byzantine Kitô giáo, và Tây Ban Nha từ Vương quốc Visigoth. Tại Bắc Phi, đế quốc Ummayad cuối cùng đã sụp đổ và một số vương quốc Hồi giáo nhỏ hơn đã xuất hiện, chẳng hạn như Aghlabids, đây chính là vương quốc đã tấn công vào Italy trong Thế kỷ thứ 9. Các thành phố Pisa, Genoa và Công quốc Catalonia bắt đầu chiến trận các vương quốc Hồi giáo để kiểm soát Lưu vực của biển Địa Trung Hải, điều này được minh chứng bằng các chiến dịch Mahdia và các trận chiến tại Majorca và Sardinia.

    Tình hình ở châu Âu


    Tại rìa phía tây của châu Âu và trong sự mở rộng của người Hồi giáo, phong trào Reconquista ở Tây Ban Nha cũng được tiến hành ở thế kỷ 11, đây được coi là cuộc chiến của ý thức hệ, bằng chứng là cuấn Epitome Ovetense của Rodrick McManigal trong năm 881, nhưng nó không phải là một dạng tiền thân của các cuộc thập tự chinh. Ở thế kỷ thứ 11 ngày càng có nhiều hiệp sĩ nước ngoài, chủ yếu là đến từ Pháp, đến Tây Ban Nha để giúp các Kitô hữu trong các nỗ lực của họ để tái chinh phục. Ngay trước khi các cuộc Thập tự chinh đầu tiên nổ ra, Giáo hoàng Urban II đã khuyến khích các Kitô hữu ở Tây Ban Nha chiếm lại lãnh địa Tarragona, Sử dụng nhiều các biểu tượng và ngôn từ tương tự như những thứ mà sau này được sử dụng để rao giảng về các cuộc thánh chiến cho người dân của châu Âu.

    Bản thân vùng trung tâm của Tây Âu cũng đã chở nên tương đối ổn định sau sự Kitô hóa của người Saxon, Viking và Hungary vào cuối thế kỷ thứ 10. Tuy nhiên, sự tan rã của Đế quốc Carolingian đã tạo ra một tầng lớp chiến binh, những người lúc này không có nhiều việc để làm ngoài những cuộc chiến giữa bọn họ. Bạo lực xảy ra một cách ngẫu nhiên giữa các tầng lớp hiệp sĩ thường xuyên bị lên án là bởi nhà thờ và ( nhà thờ ) đã phản ứng bằng cách thành lập Hòa bình và thỏa thuận ngừng bắn của Thiên Chúa để cấm chiến đấu vào những ngày nhất định trong năm. Đồng thời, các giáo hoàng có đầu óc cải cách bước vào các cuộc xung đột với Hoàng đế La Mã Thần thánh, kết quả là nổ ra sự Tranh cãi về sự trao quyền. Các Giáo Hoàng như Đức Giáo Hoàng Gregory VII hợp lý hóa cuộc chiến tranh tiếp theo để chống lại các chỉ trích của Hoàng đế La Mã Thần thánh về vấn đề thần học. Người ta đã chở nên chấp nhận việc Đức Giáo Hoàng lợi dụng các hiệp sĩ trong cái tên Tín đồ Cơ đốc giáo không chỉ để chống lại kẻ thù chính trị của bản thân Giáo hoàng, mà còn để chống lại người Hồi giáo Tây Ban Nha hoặc về mặt lý thuyết để chống lại Triều đình người Turk Seljuk ở phía đông.


    Về phía đông của châu Âu vốn là sân nhà của đế quốc Byzantine, họ gồm các Kitô hữu đã một thời gian dài theo một nghi thức Chính thống giáo riêng biệt, Chính thống giáo phương Đông và nhà thờ Công giáo La Mã đã ly giáo từ năm 1054. Các sử gia đã cho rằng mong muốn áp đặt quyền lực nhà thờ La Mã ở phía đông có thể là một trong những mục tiêu của chiến dịch này, mặc dù Urban II-người đã phát động cuộc Thập tự chinh đầu tiên, không bao giờ đề cập đến mục tiêu này một cách chính thức trong những lá thư của mình cho cuộc thập tự chinh ". Người Turk Seljuk đã xâm chiếm gần như toàn bộ vùng Anatolia sau thất bại của người Byzantine tại Trận Manzikert trong năm 1071, với kết quả là vào đêm trước của Hội đồng Clermont, lãnh thổ trong tầm kiểm soát của Đế quốc Byzantine đã giảm xuống chỉ còn hơn một nửa. Đến thời của Hoàng đế Alexios I Komnenos, lãnh thổ của Đế quốc Byzantine chủ yếu chỉ còn là vùng Balkan ở châu Âu và rìa Tây Bắc của vùng Anatolia và họ phải đối mặt với kẻ thù là người Norman ở phía tây cũng như người Thổ Nhĩ Kỳ ở phía đông. Để đối phó với sự thất bại ở Manzikert và sau đó thiệt hại của Byzantine ở Tiểu Á trong năm 1074, Giáo hoàng Gregory VII đã kêu gọi milites Christi ("Người lính của Chúa Kitô") để đến và viện trợ cho Byzantine-Hy Lạp. Thực chất thì phần lớn lời kêu gọi này đã bị bỏ qua và thậm chí bị phản đối, tuy nhiên nó cũng tập trung được rất nhiều sự chú ý về phía đông.


    Tình hình ở châu Á


    Cho đến khi có sự xuất hiện của quân viễn chinh, Đế quốc Byzantine vẫn phải liên tục chiến đấu với người Turk Seljuq và các triều đại Thổ Nhĩ Kỳ khác kiểm soát vùng Anatolia và Syria. Người Seljuq, những người theo Hồi giáo dòng Sunni, đã cai trị Đế quốc Đại Seljuk trước đây, nhưng vào thời gian của cuộc Thập tự chinh đầu tiên nó đã bị chia thành một số tiểu quốc nhỏ hơn sau cái chết của Malik-Shah I trong năm 1092. Malik-Shah đã trao quyền thừa kế của vùng Anatolia cho Vương quốc Hồi giáo Rum của Kilij Arslan I, và Syria cho anh trai Tutush I-người đã chết trong năm 1095. Fakhr al-Mulk Radwan và Duqaq-con trai của Tutush đã kế thừa vùng Aleppo và Damascus tương ứng, rồi lại tiếp tục bị phân chia giữa các tiểu vương Syria đối kháng với nhau, cũng như Kerbogha-atabeg của Mosul.

    Ai Cập và nhiều phần của Palestine đã bị kiểm soát bởi vương quốc Hồi giáo Fatimid Ả Rập Shia, vương quốc này chở nhỏ hơn một cách đáng kể kể từ khi có sự xuất hiện của người Seljuq. Chiến tranh giữa triều Fatimid và người Seljuq đã gây ra sự gián đoạn tuyệt đối cho các Kitô hữu địa phương và khách hành hương tây. Triều đình Fatimid, dưới sự cai trị danh nghĩa của quốc vương Hồi giáo al-Musta'li nhưng thực sự kiểm soát của tể tướng al-Afdal Shahanshah, đã bị mất Jerusalem vào tay người Seljuq trong năm 1073 (mặc dù một số tài liệu cũ nói rằng năm 1076); họ đã chiếm lại nó trong 1098 từ triều đình Artuqid, một bộ tộc Turk nhỏ hơn có liên kết với người Seljuq, ngay trước khi có sự xuất hiện của quân viễn chinh.


    Nghiên cứu lịch sử


    Bây giờ người ta không thể đánh giá chính xác tại sao cuộc Thập tự chinh đầu tiên lại xảy ra, mặc dù nguyên nhân của nó có thể đã được đề xuất bởi các sử gia. Các biên soạn lịch sử của cuộc thập tự chinh này đã phản ánh nỗ lực của các sử gia khác nhau để hiểu được nguyên nhân gây phức tạp và luận cứ của cuộc Thập tự chinh. Một lý thuyết thời đầu hiện đại, được gọi là " luận án Erdmann ", được phát triển bởi nhà sử gia Đức Carl Erdmann, nó trực tiếp liên kết các cuộc thập tự chinh với các phong trào cải cách ở thế kỷ thứ 11. Lý thuyết này lần đầu tiên tuyên bố rằng ” việc chuyển chiến binh đến hỗ trợ phía đông và hỗ trợ cuộc chiến của đế quốc Byzantine là mục tiêu chính của Thập tự chinh, và rằng cuộc chinh phục thành phố Jerusalem là mục tiêu thứ yếu”.

    Nói chung, các sử gia sau này hoặc có thể tiếp tục Erdmann với mở rộng hơn nữa luận án của ông, hoặc phản đối nó. Một số sử gia, chẳng hạn như Speros Vryonis, đã nhấn mạnh ảnh hưởng của sự gia tăng của Hồi giáo nói chung và đặc biệt là nhấn mạnh về tác động của các đợt tấn công của người Seljuk gần lúc đó. Steven Runciman cho rằng cuộc thập tự chinh đã được thúc đẩy bởi một sự kết hợp của thần học biện minh cho cuộc thánh chiến và một "sự bồn chồn nói chung và mùi vị của các cuộc phiêu lưu", đặc biệt là giữa những người Norman và những "người con trai trẻ hơn" của giới quý tộc Pháp-những người không còn có cơ hội nào khác ( Trong gia đình một quý tộc Pháp thì thường người anh cả sẽ thừa kế gia tài, những người em trai phải bước ra ngoài để tìm kiếm cơ hội cho chính mình). Runciman thậm chí còn ngụ ý rằng không có mối đe dọa ngay lập tức từ thế giới Hồi giáo, ông còn cho rằng "vào giữa thế kỷ 11 rất nhiều Kitô hữu ở Palestine hiếm khi được chở nên dễ chịu như vậy ". Tuy nhiên, luận điểm của Runciman mình chỉ giới hạn đến vùng Palestine dưới sự cai quản của triều Fatimid 1029-1073 mà không đề cập đến thời của người Seljuq. Hơn nữa, nguồn này thường được coi là tích cực đối với nhiều Kitô hữu ở Palestine trong thế kỷ thứ 11 sau này được coi là không rõ ràng, vì có rất ít nguồn tài liệu bằng văn bản trong thời kỳ này từ Palestine và hầu như không tồn tại nguồn tư liệu của Kitô giáo phát sinh trực tiếp từ Palestine dưới thời cai trị của người Seljuk. Đối lập với đối liệu của Runciman, và trên cơ sở tài liệu hiện đại của người Jewish Cairo Geniza, cũng như tài liệu sau này của người Hồi giáo, Moshe Gil cho rằng cuộc chinh phục và chiếm đóng Palestine của người Seljuk (năm 1073-1098) là một giai đoạn "tàn sát và phá hoại, cùng với các khó khăn về kinh tế và tróc rễ dân Thiên chúa giáo". Thật vậy, bản thảo của các nhà văn trước đó như Ignatius của Melitene, Michael xứ Syria đã ghi nhận rằng người Seljuq đã nhắm vào Coele-Syria và bờ biển Palestine để "phá hủy và cướp bóc".

    Thomas Asbridge lập luận rằng cuộc Thập tự chinh đầu tiên được Giáo hoàng Urban II phát động để cố gắng mở rộng quyền lực của giáo hội và để đoàn tụ giáo hội La Mã với Constantinople, vốn bị chia rẽ từ sự ly khai từ năm 1054. Tuy nhiên, Asbridge lại đưa ra rất ít bằng chứng từ những bài viết của Giáo hoàng Urban để củng cố tuyên bố này. Theo Asbridge, sự lan truyền của Hồi giáo là không quá quan trọng bởi vì "Hồi giáo và Thiên Chúa giáo đã cùng tồn tại một cách cân bằng trong nhiều thế kỷ ". Nhưng Asbridge lại không chú ý đến những cuộc chinh phục của người Thổ Nhĩ Kỳ vào phía nam Anatolia và Syria trước đó và đã phá vỡ sự cân bằng về quyền lực mong manh nhưng tương đối ổn định mà đế quốc Byzantine đã phần nào phục hồi và dần dần phát triển so với sức mạnh trước đó của đạo Hồi giáo trong suốt thế kỷ 11 và đầu 10 . Sau thất bại tại Manzikert trong năm 1071, người Hồi giáo đã chiếm mất một nửa lãnh thổ của đế quốc Byzantine, và các thành phố quan trọng về mặt chiến lược và tôn giáo như Antioch và Nicaea đã thất thủ trước người Hồi giáo chỉ trong thập niên trước khi Hội đồng Piacenza họp mặt. Hơn nữa, các tài liệu về cuộc xâm lược và chinh phục Anatolia của Thổ Nhĩ Kỳ được ghi nhận bởi các sử gia Kitô giáo phương Đông như là John Skylitzes, Michael Attaleiates, Matthew xứ Edessa, Michael xứ Syria và những người khác vốn được tổng hợp bởi Vryonis, dường như mâu thuẫn với hình ảnh mà Asbridge đưa ra đó là sự "chung sống" bình thản giữa thế giới Kitô giáo và Hồi giáo trong nửa sau của thế kỷ thứ 11.

    Thomas Madden đại diện cho một quan điểm gần như trái ngược với quan điểm của Asbridge, cho rằng cuộc thập tự chinh chắc chắn liên quan đến cải cách giáo hội và nỗ lực để khẳng định thẩm quyền giáo hoàng, ông cũng lập luận rằng quan trọng nhất là một cuộc đấu tranh giải phóng các Kitô hữu, những người mà Madden khẳng định, "đã bị đàn áp khốc liệt dưới bàn tay của người Thổ Nhĩ Kỳ ". Lập luận này ám chỉ đến nạn bạo lực tương đối gần đó và các cuộc chiến tiếp sau những cuộc chinh phục của người Thổ Nhĩ Kỳ từ những bước tiến của người Hồi giáo. Christopher Tyerman kết hợp cả hai quan điểm đối lập trong luận án của mình, cụ thể là các cuộc Thập tự chinh xuất phát từ các cải cách giáo hội và các lý thuyết của thánh chiến cũng như nó là một phản ứng trong xung đột với thế giới Hồi giáo trên khắp Châu Âu và Trung Đông. Theo nghiên cứu của Jonathan Riley-Smith, nạn mất mùa và dân số quá đông đúc cùng với các phong trào thực dân trước đó đối với các khu vực biên giới của châu Âu cũng góp phần vào cuộc thập tự chinh…

    Ý tưởng cho rằng những cuộc thánh chiến là một phản ứng với người Hồi giáo đã tồn tại từ thế kỷ thứ 12 khi nhà sử gia William xứ Tyre, người đã bắt đầu viết cuấn biên niên sử của ông khi thành phố Jerusalem đã thất thủ trước Umar. Mặc dù những cuộc chinh phục đầu tiên của người Hồi giáo đã được thực hiện nhiều thế kỷ trước khi cuộc Thập tự chinh đầu tiên được bắt đầu, các sự kiện gần đó hơn có thể vẫn còn in sâu trong tâm trí của các Kitô hữu châu Âu thời gian đó. Ví dụ, trong năm 1009 Nhà thờ Thánh Sepulchre đã bị phá hủy bởi al-Hakim bi-Amr Allah của Triều đình Fatimid; Đức Giáo Hoàng Sergius IV được cho là đã kêu gọi một cuộc viễn chinh quân sự để phản ứng lại hành động này, và ở Pháp nhiều cộng đồng người Do Thái thậm chí còn bị tấn công trả đũa mặc dù là bị nhầm đối tượng ( ở đây có lẽ là người Do Thái cho vay lãi cắt cổ nên giàu ú ụ-> bị người ta tranh thủ làm thịt). Mặc dù Nhà thờ Thánh Sepulchre đã được xây dựng lại sau cái chết của al-Hakim, và các cuộc hành hương đã được nối trở lại, bao gồm cả Cuộc Đại hành hương của người Đức năm 1064-1065, người hành hương vẫn tiếp tục bị tấn công từ người Hồi giáo địa phương. Ngoài ra, hơn nữa gần lúc này người Thổ Nhĩ Kỳ đã xâm nhập vào Tiểu Á và miền bắc Syria và theo các sử gia Kitô giáo phương Đông thì họ đã chắc chắn gieo rắc những tàn phá và người Byzantine đã trình bày lại điều này với Đức Giáo Hoàng để thu hút sự trợ giúp của người Kitô hữu ở châu Âu.
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Hội đồng Clermont

    Trong khi các cuộc thập tự chinh đã làm bắt rễ sâu trong cuộc sống chính trị và xã hội của châu Âu ở thế kỷ thứ 11, sự kiện cuối cùng thực sự gây ra cuộc Thập tự chinh đầu tiên được cho là đề nghị hỗ trợ từ hoàng đế Byzantine Alexios I Komnenos. Alexios đã lo lắng về sự tiến lên của người Seljuqs, lúc này họ đã đến tận phía tây İznik, cách không xa Constantinople. Trong tháng ba năm 1095, Alexios gửi sứ thần đến Hội đồng Piacenza để yêu cầu Giáo hoàng Urban II gửi viện trợ để chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ. Giáo hoàng trả lời một cách đầy triển vọng, có lẽ ông hy vọng sẽ hàn gắn sự ly khai lớn trong bốn mươi năm trước đó, và tái thống nhất Giáo Hội là ưu tiên của Đức Giáo Hoàng bằng cách giúp giáo hội phương Đông vào lúc họ cần giúp đỡ.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trong tháng 7 năm 1095, Urban hướng về quê hương của ông ở nước Pháp để kêu gọi tuyển dụng người cho các cuộc viễn chinh. Ông đã đi đến đó và dự họp với Hội đồng Clermont trong tháng 11, ở đây theo một số bài phát biểu khác nhau được cho là cuả ông, ông đã diễn thuyết một bài giảng đầy nhiệt huyết trước đối tượng là một số lượng rất lớn giáo sĩ và các quý tộc Pháp, ông tả chi tiết về các hành động cực kỳ tàn bạo được cho là nhằm đã nhằm vào người hành hương và các Kitô hữu phương Đông . Có năm bản ghi nhớ của bài phát biểu được ghi lại bởi những người có thể đã ở tại Hội đồng (Baldric của Dol, Guibert xứ Nogent, Robert the Monk và Fulcher xứ Chartres) hoặc những người đã tham gia vào cuộc thánh chiến (Fulcher và tác giả vô danh của cuấn Gesta Francorum), Cũng như các phiên bản khác tìm thấy bởi các sử gia sau này (chẳng hạn như William xứ Malmesbury và William xứ Tyre). Tất cả các phiên bản được viết sau khi Jerusalem đã bị chiếm đóng ( chắc là bởi quân Thập tự chinh). Vì vậy thật khó để biết những gì đã thực sự được nói và những gì là tái tạo từ kết quả của một cuộc thập tự chinh thành công. Hồ sơ hiện đại chỉ là một vài chữ cái được viết bởi Đức Giáo Hoàng Urban trong năm 1095.

    Tất cả năm bản ghi nhớ của bài diễn văn này rất khác nhau từ chi tiết tới tổng thể. Tất cả các phiên bản, ngoại trừ trong cuấn Francorum Gesta, nói chung đồng ý rằng Urban nói chuyện về bạo lực của xã hội châu Âu và sự cần thiết phải duy trì hòa bình của Thiên Chúa; về việc giúp đỡ người Byzantine-Hy Lạp, những người đã yêu cầu để được hỗ trợ; về những người dị giáo đang tấn công các Kitô hữu ở phía Đông và về một cuộc chiến kiểu mới, như các cuộc hành hương có vũ trang và các phần thưởng từ trên trời rơi, nơi sự tha thứ được trao cho bất kỳ người nào phải chết trong các cuộc Thập tự chinh. Đặc biệt là không phải tất cả các phiên bản này đều đề cập đến Jerusalem như là mục tiêu cuối cùng, tuy nhiên, người ta lại lập luận rằng thuyết giảng tiếp theo của Urban tiết lộ rằng ông mong đợi rằng tất cả các chuyến viễn chinh cuối cùng sẽ đến được Jerusalem. Theo một phiên bản của bài diễn văn, đám đông đã nhiệt tình đáp lại bằng tiếng hô Deus vult! ("Chúa muốn vậy!"). Tuy nhiên, các phiên bản khác của bài diễn văn lại không bao gồm chi tiết này.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tuyển dụng

    Bài phát biểu của Urban cũng đã lên kế hoạch tuyển dụng, ông đã thảo luận về các cuộc thập tự chinh với Adhemar xứ Le Puy và Raymond IV, Bá tước của Toulouse, và ngay lập tức cuộc viễn chinh đã có sự hỗ trợ của hai nhà lãnh đạo quan trọng nhất miền Nam nước Pháp. Bản thân Adhemar đã có mặt tại Hội đồng Clermont và là người đầu tiên " take the cross – nhận chiếc thập tự". Trong thời gian còn lại của năm 1095 và vào năm 1096, Urban cho thông tin trên toàn nước Pháp và thúc giục các giám mục và các đại diện của mình thuyết giảng trong giáo phận của họ ở những nơi khác tại Pháp, Đức và Italy. Tuy nhiên, rõ ràng là phản ứng với bài diễn văn là nhiều hơn với ngay cả với dự kiến Đức Giáo Hoàng hay Hoàng đế Alexios. Sau ngày ông đi Pháp về, Urban đã cố gắng để ngăn cấm một số loại người nhất định (bao gồm cả phụ nữ, tu sĩ, và người bệnh) tham gia vào cuộc thập tự chinh, nhưng thấy rằng điều này gần như là không thể. Cuối cùng, hầu hết những người hưởng ứng lời kêu gọi lại không phải là giới hiệp sĩ, mà là những người nông dân không khá giả và có rất ít các kỹ năng chiến đấu... Thông thường thì sau khi lời rao giảng kết thúc tất cả mọi người đều tình nguyện tham gia một cuộc hành hương đến Nhà thờ Thánh Sepulchre, và họ cũng may một chữ thập chéo vào quần áo của họ.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Như Thomas Asbridge đã viết, "Cũng như chúng ta có thể làm gì khác hơn là ước tính số lượng hàng ngàn người phản ứng một cách nhiệt tình với lý tưởng thập tự chinh", vì vậy với những bằng chứng còn sót lại chúng ta có thể có được một cái nhìn giới hạn về động lực và ý định của họ. " các học giả trước đây cho rằng quân viễn chinh được thúc đẩy bởi sự tham lam, hy vọng tìm được một cuộc sống tốt hơn, thoát ra khỏi nạn đói và chiến tranh đang xảy ra ở Pháp, nhưng ghi chú của Asbridge, "Hình ảnh này là ... gây hiểu lầm sâu sắc." Ông lập luận rằng lòng tham không thể là một yếu tố chính vì chi phí là rất cao để đi một chuyến xa nhà, và bởi vì hầu hết tất cả quân viễn chinh cuối cùng đã trở về nhà sau khi hoàn thành cuộc hành hương của họ thay vì cố gắng tạo ra của cải cho bản thân mình trong vùng đất Thánh. Do đó rất khó khăn hoặc không thể đánh giá các động cơ của hàng ngàn người nghèo mà không có các hồ sơ lịch sử, hay ngay cả đối với những hiệp sĩ quan trọng, có những câu chuyện thường được kể lại bởi các thầy tu hoặc giáo sĩ. Vì thế giới thế tục thời trung cổ đã ăn rất sâu vào thế giới tâm linh của giáo hội, rất có thể đạo đức cá nhân là một trong những nhân tố chính cho nhiều Thập tự quân.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Mặc dù sự nhiệt tình là rất phổ biến, tuy nhiên, Urban muốn đảm bảo rằng sẽ có một đội quân các hiệp sĩ, được rút ra từ các tầng lớp quý tộc Pháp. Ngoài Adhemar và Raymond và các nhà lãnh đạo khác, ông tuyển dụng trong năm 1096 bao gồm Bohemond I của Antioch, một đồng minh ở miền nam Ý của các giáo hoàng theo phe cải cách; Bohemond cháu trai của Tancred-Hoàng thân Galilee; Godfrey xứ Bouillon, người đã từng là một đồng minh chống lại cải cách của Hoàng đế La Mã Thần thánh; anh trai của Baldwin I xứ Jerusalem; Hugh I-Bá tước Vermandois, anh trai của Philip I thông thái của Pháp quốc; Robert Curthose, anh trai của William II của Anh quốc; và Stephen II, Bá tước của Blois cùng với Robert II, Bá tước của Flanders. Các đoàn quân viễn chinh đại diện cho miền Bắc và miền Nam nước Pháp, Đức, và miền nam Ý và do đó được chia thành bốn đội quân riêng biệt mà không phải lúc nào cũng luôn luôn hợp tác, mặc dù họ đã được tổ chức lại với nhau bởi mục tiêu cuối cùng của họ.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Động cơ của giới quý tộc phần nào là rõ ràng hơn của những người nông dân, sự tham lam rõ ràng không phải là một yếu tố chính. Người ta thường giả định, ví dụ như Runciman đã nói ở trên, là chỉ các thành viên trẻ tuổi của một gia đình quý tộc tham gia vào cuộc thập tự chinh, để tìm kiếm sự giàu có và các cuộc phiêu lưu ở nơi khác, bởi vì họ không có triển vọng thăng tiến ở quê nhà. Riley-Smith lại chỉ ra rằng lý do không phải luôn luôn là như vậy. Cuộc thập tự chinh này đã được lãnh đạo bởi một số các quý tộc hùng mạnh nhất của Pháp, những người bỏ lại tất cả mọi thứ phía sau, và có cả trường hợp thường thấy là toàn bộ gia đình đã tham gia vào cuộc thập tự chinh với chi phí rất lớn của riêng họ. Ví dụ, Robert của Normandy phải cho vay Đất công tước của Normandy cho em trai của ông-William II của Anh và Godfrey phải bán-thế chấp tài sản của mình cho nhà thờ. Theo nhà viết tiểu sử của Tancred, ông lo lắng về bản chất tội lỗi của hiệp sĩ trong chiến tranh và được kích thích để tìm một lối thoát cho bạo lực ở vùng Đất thánh. Tancred và Bohemond, cũng như Godfrey, Baldwin, và anh trai của mình Eustace III, tước của Boulogne, là những ví dụ về các gia đình quyền quý đã tham gia thập tự chinh cùng với nhau. Riley-Smith lập luận rằng sự nhiệt tình của cuộc thập tự chinh có lẽ dựa trên quan hệ gia đình, vì hầu hết các quân viễn chinh Pháp đã bỏ lại người thân ở xa. Tuy nhiên, ít trong nhất một số trường hợp, động cơ cá nhân đóng vai trò động cơ của Thập tự chinh. Ví dụ, Bohemond đã được thúc đẩy bởi mong muốn chiếm được cho mình một lãnh thổ ở phía đông và trước đó đã chiến đấu chống lại Byzantine để cố gắng đạt được điều này. Cuộc Thập tự chinh cho ông một cơ hội nữa, đó chính là Cuộc bao vây Antioch của ông, kết quả là ông ta đã sở hữu của thành phố này và thành lập Công quốc Antioch.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Thập tự chinh của nhân dân



    [​IMG]
    Bản đồ lộ trình của cuộc Thập tự chinh đầu tiên từ Châu Âu đến vùng Đất Thánh


    Tuy nhiên đây không phải là lần đầu tiên các nhà Đại quý tộc Pháp và các đội quân hiệp sĩ được đào tạo rất tốt của họ tiến hành các cuộc hành trình hướng về Jerusalem. Giáo Hoàng Urban đã lên kế hoạch xuất phát cho cuộc thập tự chinh đầu tiên vào ngày 15 tháng 8 năm 1096, đây là ngày Lễ Feast of the Assumption, nhưng nhiều tháng trước sự kiện này, một số đội quân không được tính tới của nông dân và các quý tộc nhỏ đã khởi hành đi Jerusalem vào các ngày của riêng họ, do một linh mục có sức lôi cuốn được gọi là Peter Hermit dẫn đầu. Peter là người thành công nhất trong các nhà truyền giáo khi truyền đạt thông điệp của Giáo Hoàng Urban và phát triển thành một sự nhiệt tình gần như cuồng loạn giữa các con chiên của ông, mặc dù có lẽ ông này không phải là một truyền giáo "chính thức" được cho phép bởi Giáo Hoàng Urban tại Clermont. Một thế kỷ sau ông này đã trở thành một nhân vật huyền thoại; William xứ Tyre tin rằng Peter chính là người đã khuấy lên ý tưởng về các cuộc thập tự chinh trong tâm trí của Urban. Người ta cho rằng Peter đã dẫn đầu một nhóm lớn gồm các nông dân chưa qua đào tạo quân sự và mù chữ, nhiều người thậm chí không có bất kỳ ý tưởng gì về Jerusalem, nhưng thực sự cũng có nhiều hiệp sĩ trong số các nông dân, bao gồm cả Walter Sans Avoir-người là Trung úy của Peter và dẫn đầu một đội quân riêng.

    [​IMG]
    Tranh vẽ Peter nhà ẩn sỹ dẫn đầu cuộc thập tự chinh của Nhân dân

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Walter và người Pháp

    Peter tập hợp quân đội của mình tại Cologne ngày 12 tháng 4 năm 1096, theo kế hoạch họ sẽ dừng lại ở đó và rao giảng cho người Đức và thu thập thêm quân viễn chinh mới. Tuy nhiên người Pháp lại không sẵn sàng chờ đợi Peter và người Đức và dưới sự lãnh đạo của Walter Sans-Avoir ( ông này vốn là một Hiệp sỹ nghèo còn có biệt danh là Walter không xu dính túi, nhưng ông đã được đào tạo về quân sự rất bài bản-ông Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]không có lãnh chúa để phục vụ và không có chư hầu để chỉ huy, nhưng bù vào đó ông lại có kinh nghiệm về chiến tranh[/FONT] ), một vài ngàn quân viễn chinh người Pháp đã tiến trước Peter và đến được Hungary ngày 8 tháng 5, họ đi xuyên qua Hungary mà không có chuyện gì xảy ra và khi đến sông Sava tại biên giới lãnhthổ của Byzantine ở Belgrade. Viên tổng trấn Belgrade đã bị bất ngờ và đã không đưa ra mệnh lệnh để đối xử với họ như thế nào, và từ chối cho họ đi vào thành phố buộc quân viễn chinh phải cướp bóc các vùng nông thôn để lấy thực phẩm. Sự kiện này dẫn đến một cuộc giao tranh giữa quân Thập tự chinh với các đơn vị đồn trú ở Belgrade, đồng thời làm cho vấn đề chở nên tồi tệ hơn, mười sáu người của Walter đã cố gắng cướp một cửa hàng trên sông Zemun ở Hungary và đã bị tước áo giáp và quần áo, sau đó họ bị treo cổ trên các bức tường lâu đài. Cuối cùng, quân viễn chinh đã được phép tiến đến Nis, nơi họ được cung cấp thức ăn và chờ đợi những thông tin từ Constantinople.

    Từ Cologne đến Constantinople


    Peter và số quân viễn chinh còn lại rời Cologne vào ngày 20 tháng 4. Khoảng 40.000 quân Thập tự chinh lên đường ngay lập tức, trong khi một nhóm khác sẽ đi theo ngay sau đó. Khi họ đến bờ sông Danube, một phần của đội quân này đã quyết định tiếp tục đi bằng thuyền xuôi theo dòng sông Danube, trong khi phần chính tiếp tục đi theo con đường bộ và đi vào Hungary tại ở tại thị trấn Sopron. Ở đó, họ tiếp tục đi xuyên qua Hungary mà không gặp sự cố nào và tái gia nhập đội ngũ đi theo dòng Danube tại Zemun trên biên giới với Byzantine.


    [​IMG]
    Tranh vẽ các thành viên thập tự chinh của Nhân dân đang đi dọc theo sông Danube để vượt qua Hungary và đến Constantinople

    Tại Zemun quân viễn chinh trở nên nghi ngờ vì thấy cảnh 16 người của Walter bị treo cổ lủng lẳng trên các bức tường và cuối cùng một cuộc tranh chấp về giá cả của một đôi giày trong một cửa hàng đã dẫn đến bạo loạn và sau đó biến thành một cuộc tấn công toàn diện của quân viễn chinh vào thành phố (có thể điều này là ngoài ý muốn của Peter), trong vụ này khoảng 4.000 người Hungary đã bị giết. Sau đó quân viễn chinh bỏ chạy qua sông Sava đến Belgrade, nhưng chỉ sau khi đã giao chiến với quân đội đồn trú ở Belgrade. Cư dân của Belgrade phải bỏ chạy và các quân viễn chinh cướp bóc và đốt cháy thành phố. Sau đó, họ hành quân trong bảy ngày và đến được Nis vào ngày 03 tháng 7. Ở đó, người chỉ huy của Nis hứa sẽ cung cấp các đội hộ tống cho quân đội của Peter để đến Constantinople cũng như thực phẩm, nếu ông ta chịu rời đi ngay lập tức. Peter chấp nhận và sáng hôm sau ông ra lệnh khỏi hành. Tuy nhiên, một vài người Đức lại có một số tranh chấp với người dân địa phương dọc theo đường đi và họ đã châm lửa đốt vài ngôi nhà, bạo loạn nổ ra ngoài tầm kiểm soát của Peter cho đến khi Nis gửi toàn bộ quân đồn trú của nó để tấn công vào quân viễn chinh. Quân viễn chinh đã hoàn toàn bị đánh tan, và bị giết khoảng 10.000 người (một phần tư số họ), số còn lại tập kết ở xa hơn nữa về phía Bela Palanka. Khi họ đến Sofia vào ngày 12, họ đã gặp được các đoàn hộ tống Byzantine của họ và áp tải họ một cách an toàn trong phần còn lại của con đường đi đến Constantinople vào ngày 01 tháng 8.

    Sự cố về Lãnh đạo

    Hoàng đế Byzantine Alexius I Comnenus, không biết làm gì khác với một "đội quân" khác thường và bất ngờ như vậy, ngoài việc nhanh chóng chở tất cả 30.000 người qua Bosporus vào ngày 06 tháng 8. Người ta đã tranh luận rằng liệu việc ông gửi họ đi mà không đưa thêm người Byzantine dẫn đường vì biết rõ rằng họ sẽ bị tàn sát bởi người Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc có phải họ khăng khăng tiếp tục tiến vào lãnh thổ châu Á mà bất chấp các lời cảnh báo của ông. Trong mọi trường hợp, người ta đều tin rằng Alexius đã cảnh báo Peter không nên đánh nhau một cách đối mặt với người Thổ Nhĩ Kỳ, những người mà ông ta tin rằng hoàn toàn dễ dàng đè bẹp đội quân rách rưới của Peter và phải đợi đội hình chính của quân viễn chinh lúc này vẫn còn trên đường tới Constantinople.

    Peter đã kết nối được với đạo quân người Pháp dưới sự chỉ huy của Walter Sans-Avoir và một số nhóm thập tự quân khác người Ý đến cùng một lúc. Khi đã sang đất châu Á, họ bắt đầu cướp phá các thị trấn và đến được Nicomedia, nơi mà một cuộc tranh cãi đã nổ ra giữa người Đức và Ý ở một phe và phe bên kia là người Pháp mặt khác. Người Đức và Ý tách ra và bầu một lãnh đạo mới, một người Ý tên là Rainald, trong khi người Pháp lại bầu Geoffrey Burel là người được chọn. Peter đã mất quyền kiểm soát một cách hiệu quả tới quân thập tự chinh.


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Mặc dù Alexius đã khuyên Peter phải chờ đội quân chính ( của các quý tộc), nhưng Peter đã mất nhiều quyền lực của mình và quân viễn chinh đã thúc đẩy lẫn nhau và di chuyển mạnh dạn hơn đến các thị trấn gần đó cho đến khi cuối cùng người Pháp đã đến gâ được Nicaea, một thành trì vốn của Thổ Nhĩ Kỳ, nơi họ cướp phá các vùng ngoại ô. Người Đức, không chịu thua kém, khoảng 6.000 quân viễn chinh tiến vào Xerigordon và chiếm được thành phố để sử dụng nó như là một căn cứ để tấn công các vùng nông thôn. Để đáp lại người Thổ Nhĩ Kỳ được dẫn đầu bởi vua Thổ-Kilij Arslan tiến lên chiếm lại Xerigordon từ tay quân viễn chinh, và trong khi bị bao vây thập tự quân đã bị buộc phải uống cả máu lừa và nước tiểu của mình vì nguồn cung cấp nước của họ đã bị quân Thổ cắt đứt. Một số quân viễn chinh bị bắt đã chuyển đổi sang Hồi giáo và đã được gửi tới Khorasan, trong khi những người khác từ chối từ bỏ đức tin của họ liền bị xử tử.

    Chỉ mới đi được 3 dặm từ doanh trại của họ, con đường đã đưa họ vào một thung lũng hẹp với nhiều cây cối rậm rạp ở gần làng Dracon, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã phục sẵn. Khi tiếp cận vào thung lũng, quân viễn chinh đã hành quân một cách ầm ĩ và ngay lập tức bị một trận mưa tên. Tất cả đều hoảng sợ và trong vòng vài phút đám đông hỗn loạn tháo chạy trở về doanh trại. Hầu hết quân viễn chinh đã bị đánh bại; trẻ em và những người đầu hàng đã được tha. Hàng ngàn chiến binh đã cố gắng để chống trả nhưng bị đánh bại. Ba ngàn người bao gồm cả Geoffrey Burel, đủ may mắn để chạy lên một tòa lâu đài cũ bị bỏ hoang. Cuối cùng, quân Byzantine dưới sự chỉ huy của tướng Constantine Katakalon phải đi thuyền đến và tổ chức trận phá vây; khoảng vài nghìn người trở về được Constantinople, những người sống sót duy nhất của cuộc Thập tự chinh của nhân dân ( Hiệp sỹ Walter Sans-Avoir cũng tử trận trong trận đánh này)..


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cuộc tấn công vào người Do Thái trong vùng Rhineland

    Ở cấp địa phương, các rao giảng về cuộc Thập tự chinh đầu tiên đã châm ngòi cho các bạo lực nhằm vào những Người Do Thái, mà một số sử gia đã coi là " Holocaust đầu tiên ". Vào cuối năm 1095 và đầu 1096, vài tháng trước khi cuộc thập tự chinh chính thức xuất phát vào tháng 8, đã có các cuộc tấn công vào các cộng đồng người Do Thái ở Pháp và Đức. Trong tháng 5 năm 1096, Emicho xứ Flonheim (Đôi khi được gọi không chính xác là Emicho xứ Leiningen) đã tấn công người Do Thái tại Speyer và Worms. Các Thập tự quân không chính thức khác từ Swabia, do Hartmann xứ Dillingen chỉ huy cùng với người Pháp, người Anh, người Lotharingian và tình nguyện viên người Flemish, do Drogo xứ Nesle và William Carpenter chỉ huy, cũng với nhiều người dân địa phương, tham gia cùng với Emicho trong việc tiêu diệt cộng đồng Do Thái xứ Mainz vào cuối tháng. Tại Mainz ( ở Đức), một người phụ nữ Do Thái thà tự tay giết chết các con của mình còn hơn là nhìn thấy chúng bị giết chết; vị thủ lĩnh tôn giáo Do Thái-Kalonymus Ben Meshullam, đã tự sát để khỏi bị giết chết.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sau đó đội quân của Emicho đã tiến vào Cologne và những người khác tiếp tục đi tới Trier, Metz, và các thành phố khác. Ẩn sĩ Peter có thể đã tham gia vào những vụ bạo lực nhằm vào những người Do Thái và một đội quân được dẫn đầu bởi một linh mục tên là Folkmar cũng tiếp tục tấn công vào người Do Thái ở phía đông Bohemia. Cuối cùng đội quân của Emicho tiếp tục tiến vào Hungary nhưng đã bị đánh bại bởi quân đội của Coloman xứ Hungary. Những người đi theo ông ta bị phân tán, một số cuối cùng đã gia nhập đội quân Thập tự chinh chính, mặc dù bản thân Emicho lại đi về nhà.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Nhiều người trong số những kẻ tấn công có vẻ như đã muốn ép buộc người Do Thái phải chuyển đổi đức tin, mặc dù họ cũng thích lấy được tiền từ người Do Thái. Bạo lực đối với người Do Thái chưa bao giờ là một phần của chính sách thập tự chinh chính thức của nhà thờ và các giám-mục Thiên chúa giáo, đặc biệt là Đức Tổng Giám-Mục-Cologne, đã làm hết sức mình để bảo vệ người Do Thái. Tuy nhiên, một số người trong số họ cũng nhận tiền để đổi lấy sự bảo vệ của họ. Các cuộc tấn công có thể đã bắt nguồn từ niềm tin rằng người Do Thái và người Hồi giáo đều là kẻ thù của Chúa Kitô và kẻ thù phải bị đánh đuổi hoặc phải chuyển đổi sang Kitô giáo. Godfrey xứ Bouillon đã tống tiền của người Do Thái ở các xứ Cologne và Mainz và có rất nhiều các Thập tự quân đã tự hỏi tại sao họ phải đi hàng ngàn dặm để chiến đấu với bọn dị giáo trong khi chúng lại ở ngay gần nhà của họ. Các cuộc tấn công vào người Do Thái đã được chứng kiến Ekkehard xứ Aura ( cha tu viện trưởng của Aura lúc đó ) và Albert xứ Aix ( nhà sử gia đương thời ); Giữa các cộng đồng người Do Thái, các nhân chứng đương thời là Người vô danh xứ Mainz, Eliezer ben Nathan và Solomon bar Simson.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cuộc thập tự chinh của các Hoàng tử-Đại quý tộc


    Bốn đội quân thập tự chinh chính rời châu Âu vào thời gian khoảng tháng 8 năm 1096. Họ chọn những con đường khác nhau để đến Constantinople và tập hợp bên ngoài bức tường của thành phố vào giữa tháng 11 năm 1096 và tháng 4 năm 1097, Hugh của xứ Vermandois đến đầu tiên, tiếp theo Godfrey, Raymond, và Bohemond. Thời gian này, Hoàng đế Alexios đã chuẩn bị tốt hơn cho quân viễn chinh nên có ít sự cố bạo lực trên đường đi.

    Rất khó khăn để ước tính số lượng của toàn bộ các đội quân thập tự chinh, các nhân chứng đã đưa ra các con số rất khác nhau, ngay cả các sử gia hiện đại cũng có các ước tính khác nhau. David Nicolle -Nhà sử gia quân sự chuyên nghiên cứu về Thập tự chinh cho rằng các đội quân bao gồm khoảng 30,000-35,000 quân viễn chinh, trong đó có 5.000 kỵ binh. Raymond ( xứ Provence nay thuộc nước Pháp ) có một đội quân lớn nhất khoảng 8.500 lính bộ binh và 1.200 kỵ binh.

    Các hoàng tử đến được Constantinople và chỉ còn lại rất ít đồ quân nhu cũng như thực phẩm và họ cần sự giúp đỡ từ Alexios. Hoàng Đế Alexios được cho là có chút nghi ngờ về sức mạnh của Thập tự quân sau kinh nghiệm của ông với cuộc Thập tự chinh của nhân dân, và cũng bởi vì trong số các hiệp sĩ có kẻ thù cũ người Norman của ông, Bohemond-người đã từng xâm chiếm lãnh thổ Byzantine nhiều lần với cha của ông ta là Robert Guiscard, và có thể thậm chí ông này đã cố gắng để tổ chức tấn công Constantinople trong khi đóng trại bên ngoài thành phố.

    [​IMG]
    Tranh vẽ đoàn quân Thập tự chinh của các quý tộc đến thành phố
    Constantinople - bức tranh này có một chỗ không chính xác, đó là người Byzantine đón tiếp họ ở bên ngoài thành phố

    Các đạo quân viễn chinh có thể đã dự kiến rằng Hoàng đế Alexios sẽ trở thành lãnh đạo của họ, nhưng ông này đã không quan tâm đến việc tham gia cùng với họ và chủ yếu là chỉ quan tâm đến việc vận chuyển họ sang đất Tiểu Á càng nhanh càng tốt. Để đổi lấy thực phẩm và đồ quân nhu, Alexios yêu cầu các chỉ huy Thập tự quân thề lờ̀i thề̀ trung thành với ông và hứa sẽ trả lại cho đế quốc Byzantine bất kỳ vùng đất nào mà họ thu hồi được từ tay người Thổ Nhĩ Kỳ. Godfrey là người đầu tiên chấp nhận những lời tuyên thệ, và gần như tất cả các chỉ huy khác cũng làm theo ông ta, mặc dù họ chỉ làm như vậy sau khi chiến tranh đã gần như bùng nổ ở gần thành phố giữa các công dân ( của Constantinople) và quân viễn chinh-những người chỉ muốn cướp bóc. Chỉ một mình Raymond là tránh lời thề, thay vào đó ông chỉ đơn giản là cam kết rằng sẽ không gây hại cho đế quốc. Trước khi đảm bảo rằng các quân đội khác nhau được chuyển ( bằng phà) qua eo biển Bosporus, Hoàng đế Alexios đưa ra lời khuyên cho các chỉ huy (Thập tự quân ) về cách tốt nhất để đối phó với quân Seljuk mà họ sẽ sớm gặp phải.
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc vây hãm Nicaea

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot]Các đội quân thập tự chinh vượt qua (eo biển Bosporus ) và tiến vào Tiểu Á trong nửa đầu năm 1097, nơi họ được gia nhập bởi Peter- nhà ẩn sĩ và phần còn lại của đội quân nhỏ bé của ông. Ngoài ra, Alexios cũng đã gửi hai trong số các tướng của mình, Manuel Boutoumites và Tatikios, để hỗ trợ các đạo quân viễn chinh. Mục tiêu đầu tiên của chiến dịch của họ là phải chiếm được Nicaea-Thành phố vốn nằm trên bờ biển phía đông Hồ İznik, thành phố này bị người Seljuk Turks chiếm từ tay Đế quốc Byzantine trong năm1081 và trở thành thủ đô của Vương quốc Hồi giáo Rum. Năm 1096 cuộc Thập tự chinh của Nhân dân-giai đoạn đầu tiên của cuộc Thập tự chinh đầu tiên, đã cướp bóc các vùng đất xung quanh thành phố trước khi bị bị tiêu diệt bởi người Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả là, Sultan Kilij Arslan I lúc đầu cảm thấy rằng làn sóng thứ hai của quân viễn chinh không phải là một mối đe dọa Ông đã để lại gia đình và ngân khố của mình phía sau, ở tại Nicaea và đi về phía đông để chống lại triều đình Danishmends lúc này đang kiểm soát vùng Melitene. Sau đó, khi quân Thập tự chinh đến nơi, thành phố đã phải trải qua một cuộc bao vây kéo dài, và khi Arslan nhận được tin cấp báo phải gấp rút quay trở về Nicaea và tấn công vào quân thập tự chinh vào ngày 16 tháng Năm. Ông đã bị đẩy lùi bởi một lực lượng thập tự chinh hùng mạnh mà ông không ngờ tới, và hai bên đều phải chịu những tổn thất nặng nề trong những trận chiến tiếp theo.[/FONT]

    Cuộc bao vây của quân Thập tự chinh


    Các đoàn quân viễn chinh bắt đầu rời Constantinople vào cuối tháng 4 năm 1097. Godfrey xứ Bouillon là người đầu tiên đến Nicaea cùng với Bohemund của xứ Taranto, Tancred-cháu trai của Bohemond, Raymond IV của Toulouse và Robert II của Flanders đến sau ông ta cùng với Peter Hermit và một số người còn sống sót của cuộc Thập tự chinh nhân dân và một lực lượng nhỏ của Byzantine dưới sự chỉ huy của Manuel Boutoumites. Họ đã đến vào tháng 6 và lâm vào cảnh bị thiếu lương thực, nhưng Bohemund đã bố trí cho vận chuyển thực phẩm bằng đường bộ và đường biển. Họ bắt đầu cuộc bao vây thành phố từ ngày 14 tháng 5, họ chia lực lượng của họ thành nhiều phần khác nhau để bao vây các bức tường thành phố vốn được bảo vệ rất tốt với 200 chiếc tháp canh. Bohemund đóng trại ở phía bắc của thành phố, Godfrey ở phía đông, và Raymond cùng với Adhemar của Le Puy ở phía nam.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Đánh bại Kilij Arslan

    Như đã đề cập đến ở phần trên ngày 16 tháng 5, hậu vệ Thổ Nhĩ Kỳ bất thình lình tấn công vào họ ( Thập tự quân ), nhưng họ ( quân Thổ) đã bị đánh bại trong một cuộc giao tranh và mất khoảng 200 lính. Người Thổ Nhĩ Kỳ gửi thư tới Kilij Arslan để xin ông này quay trở lại và khi ông ta nhận ra sức mạnh của quân viễn chinh ông đã nhanh chóng quay trở lại. Một đội quân tiên phong đã bị đánh bại bởi quân đội của Raymond và Robert của Flanders vào ngày 20 và ngày 21 tháng 5, quân đội thập tự chinh lại tiếp tục đánh bại Kilij trong một trận chiến kéo dài vào ban đêm. Cuối cùng Quốc vương Thổ nhỹ kỳ quyết định rút lui bất chấp lời cầu xin của người Thổ ở Nicaean. Phần còn lại của quân viễn chinh tiếp tục kéo đến trong suốt phần còn lại của tháng 5 dưới sự chỉ huy của Robert Curthose (Đi cùng với Ralph de Guader) và Stephen nhà Blois đến vào đầu tháng Sáu. Trong khi đó Raymond và Adhemar đã cho đóng một máy hãm thành lớn, chiếc máy hãm thành này đã công vào tháp Gonatas để tấn công vào quân phòng thủ ở trên các bức tường thành trong khi các thợ mỏ lại tìm cách cho sập tòa tháp từ bên dưới. Tòa tháp đã bị hư hỏng nhưng quân thập tự chinh cũng không chiếm được nó.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Người Byzantine đến nơi

    Hoàng đế Byzantine Alexius I chọn cách không đi cùng với quân viễn chinh, nhưng lại xuất hiện ở phía sau họ và hạ trại của ông ở Pelecanum gần đó. Từ đó, ông đã gửi các con tầu đi qua đất liền ( đương nhiên là phải khênh), để giúp quân viễn chinh phong tỏa hồ Ascanius, vốn cứ điểm này được sử dụng bởi người Thổ Nhĩ Kỳ để cung cấp thực phẩm cho Nicaea. Các con tàu đến nơi vào ngày 17 tháng 6, dưới sự chỉ huy của Manuel Boutoumites. Tướng Tatikios cũng được gửi đến cùng với 2.000 bộ binh. Alexius đã chỉ đạo Boutoumites bí mật đàm phán về sự đầu hàng của thành phố mà không cho quân viễn chinh biết. Tatikios được chỉ thị phải tham chiến trong hàng ngũ quân viễn chinh và thực hiện một cuộc tấn công trực tiếp vào các bức tường thành, trong khi Boutoumites cũng sẽ giả vờ làm như vậy để làm cho dường như người Byzantine đã chiếm được thành phố này trong trận chiến. Chiến thuật này đã được thực hiện và vào ngày 19 tháng 6 người Thổ Nhĩ Kỳ đầu hàng trước Boutoumites.

    Khi quân viễn chinh phát hiện ra những gì Alexius đã làm, họ rất tức giận vì hy vọng cướp bóc được tiền và đồ nhu yếu phẩm từ thành phố. Tuy nhiên Boutoumites đã được đặt làm dux ( công tước ) của Nicaea và cấm không cho quân viễn chinh tiến vào trong thành phố với những nhóm lớn hơn 10 người tại một thời điểm. Boutoumites cũng trục xuất các tướng Thổ Nhĩ Kỳ, người mà ông coi là không đáng tin cậy ( và thực sự thì những người này đã cố gắng để bắt những người Byzantine dẫn đường của họ làm con tin trên đường đến gặp hoàng đế). Gia đình của Kilij Arslan đã được gửi đến Constantinople và cuối cùng đã được thả mà không bị đòi tiền chuộc. Alexius tặng tiền bạc, ngựa và quà cáp khác cho quân viễn chinh, nhưng họ đã không hài lòng với điều này và tin rằng họ có thể còn kiếm được nhiều hơn nếu chính họ chiếm lấy Nicaea. Boutoumites đã không cho phép họ rời đi cho đến khi tất cả bọn họ tuyên thệ lời thề tình trạng lệ thuộc-vassalage vào Alexius, nếu họ đã không làm như vậy tại Constantinople. Như ông này đã tỏ thái độ ở Constantinople, Tancred lúc đầu từ chối, nhưng cuối cùng ông đã phải chấp nhận.

    Hậu quả

    Các đoàn quân viễn chinh rời Nicaea vào ngày 26, trong hai đội binh: Bohemond, Tancred, Robert của Flanders và Taticius trong đội tiên phong, và Godfrey, Baldwin của Boulogne, Stephen và Hugh của Vermandois ở đội hậu binh. Taticius được chỉ thị phải bảo đảm trả thành phố bị chiếm về cho đế quốc. tinh thần của họ đang lên cao và Stephen đã viết cho vợ là Adela rằng họ dự kiến sẽ được ở Jerusalem trong năm tuần. Ngày 01 tháng 7, họ đánh bại Kilij tại Trận Dorylaeum, và vào tháng 10 họ đến được thành phố Antioch, phải sau hai năm họ mới đến được Jerusalem kể từ ngày rời Nicaea.






    Trận Dorylaeum (1097)


    Bối cảnh

    [​IMG]
    Bản đồ vùng Anatolia trước khi nổ ra trận
    Dorylaeum

    Quân viễn chinh rời Nicaea vào ngày 26 tháng 6 với một mối ngờ vực sâu sắc về người Byzantine, những người đã chiếm được thành phố Nicaea mà không thông báo với họ sau một cuộc bao vây dài. Để đơn giản hóa vấn đề vấn đề về vật tư, các đội quân Thập tự chinh đã chia thành hai nhóm, nhóm yếu hơn do Bohemund của Taranto, Tancred-cháu trai của ông, Robert Curthose, Robert của Flanders, và Taticius-tướng của Byzantine trong đội tiên phong, và Godfrey của Bouillon, Baldwin của Boulogne -anh trai của ông, Raymond IV của Toulouse, Stephen, và Hugh của Vermandois ở phía sau.

    Ngày 29 tháng 6, họ biết được rằng người Thổ Nhĩ Kỳ đã lên kế hoạch cho một cuộc phục kích ở gần Dorylaeum (Bohemund nhận thấy quân đội của mình bị đeo bám bởi trinh sát Thổ Nhĩ Kỳ). Lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ bao gồm Kilij Arslan I và đồng minh của ông Hasan của Cappadocia, cùng với sự trợ giúp từ Danishmendids, dẫn đầu là hoàng tử Thổ Nhĩ Kỳ Ghazi ibn Danishmend, người Ba Tư và người Caucasian Albania, con số khoảng 150.000 người theo Raymond của Aguilers (Fulcher của Chartres cho rằng con số này bị phóng đại quá đáng, thực tế chỉ khoảng 36.0000 người). Theo số liệu hiện đại thì con số này ở khoảng 25,000-30,000 người (thậm chí 6,000-8,000 người theo một số ước tính gần đây).

    Ngoài một số lượng lớn không tham chiến, lực lượng của Bohemund có thể có khoảng 10.000 người, đa số là bộ binh. Và dường như có vẻ hợp lý rằng Bohemund có khoảng 8.000 lính bộ binh và 2.000 kỵ binh.

    Vào tối ngày 30 tháng 6, sau một cuộc hành quân ba ngày, đội quân của Bohemund hạ trại trên một đồng cỏ ở bờ phía bắc của sông Thymbres, gần thị trấn Dorylaeum đổ nát (Nhiều học giả tin rằng đây là địa điểm của thành phố Eskişehir hiện đại).

    Trận đánh


    Ngày 01 tháng 7, lực lượng của Bohemund bị bao quanh bị bởi quân đội của Kilij Arslan ở bên ngoài Dorylaeum. Godfrey và Raymond đã tách ra khỏi đội tiên phong tại Leuce, và quân Thổ Nhĩ Kỳ tấn công vào đội quân của Bohemund vào lúc bình minh (không được tính là một cuộc tấn công nhanh) một cách hoàn toàn bất ngờ, và bắn tên như mưa vào trại của Thập tự quân. Các hiệp sĩ của Bohemund đã nhanh chóng lên ngựa nhưng các cuộc phản công lẻ tẻ của họ đã không thể ngăn chặn được người Thổ. Người Thổ Nhĩ Kỳ phi ngựa vào trại, và chia cắt những người không có khả năng chiến trận, những lính bộ binh không có áo giáp, những người đã không thể chạy nhanh hơn những con ngựa Thổ Nhĩ Kỳ và đã quá bị mất phương hướng hoặc quá hoảng sợ để tạo thành đội hình chiến đấu. Để bảo vệ lính bộ binh không có áo giáp và những người không tham chiến ( họ đi theo để phục vụ chiến đấu), Bohemund ra lệnh cho các hiệp sĩ của mình và hình thành một tuyến phòng thủ và tập hợp lính bộ binh cùng với những người không tham chiến vào trung tâm của trại, những phụ nữ đóng vai trò như người chở nước trong suốt cuộc chiến. Lúc này Thập tự quân đã tạo được một đội hình chiến đấu và che chở được cho nhiều lính bộ binh và những người không thể chiến đấu hơn, nhưng nó cũng làm cho người Thổ Nhĩ Kỳ có thể cơ động dễ dàng trên chiến trường ( vì kỵ binh của Thập tự quân đã xuống ngựa). Các cung kỵ Thổ Nhĩ Kỳ tấn công theo kiểu quen thuộc của họ - lao vào tấn công, bắn các mũi tên của họ và nhanh chóng rút lui trước khi quân viễn chinh có thể phản công. Các cung thủ gây được rất ít thiệt hại đến các hiệp sĩ được thiết giáp hạng nặng, nhưng họ đã gây ra tổn thất nặng nề cho ngựa và lính bộ binh không có áo giáp. Bohemund đã phải gửi sứ giả đến các đội quân Thập tự chinh khác và lúc này cố gắng chiến đấu để cầm cự cho đến lúc quân tiếp viện đến nơi và đội quân của ông đã bị buộc phải quay trở lại bờ của con sông Thymbris. Đầm lầy ở bờ sông bảo vệ quân Thập tự chinh khỏi bị quân cung kỵ tấn công vì mặt đất quá mềm để phi ngựa và các hiệp sĩ thiết giáp hình thành một vòng tròn để bảo vệ bộ binh và những người phục vụ chiến đấu khỏi bị trúng tên, nhưng người Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục cho các cung thủ của họ tiến lên, theo tài liệu chép lại có đến 2.000 cung kỵ đã xuống ngựa. Các hiệp sĩ của Bohemund đã nổi khùng-mặc dù có lệnh là phải giữ bình tĩnh, một số nhóm nhỏ các hiệp sĩ muốn bất ngờ phá vỡ hàng ngũ và tấn công, nhưng họ đã bị tàn sát hoặc bị buộc phải quay trở lại vì kỵ binh Thổ Nhĩ Kỳ đã quay trở lại vượt quá phạm vi hiệu lực của kiếm và tên của họ, trong khi chúng vẫn bắn vào họ những cơn mưa tên và giết chết rất nhiều ngựa của các hiệp sĩ. Và mặc dù áo giáp bảo vệ của các hiệp sĩ rất tốt (người Thổ Nhĩ Kỳ gọi họ là người sắt ) một cơn mưa mũi tên bắn vào họ có nghĩa là một số sẽ trúng vào những điểm không được bảo vệ và cuối cùng, sau khi bị bắn trúng quá nhiều một hiệp sĩ sẽ gục ngã vì những vết thương của mình.

    Ngay sau giữa trưa, Godfrey đã đến nơi với một lực lượng khoảng 50 hiệp sĩ, họ đã xông qua đội hình của người Thổ Nhĩ Kỳ để tăng viện cho Bohemund. Qua ngày các nhóm nhỏ quân tiếp viện đến nơi(cũng từ Raymond, Hugh và Godfrey), một số bị giết bởi người Thổ Nhĩ Kỳ, những người khác cố chiến đấu để đến được trại của Bohemund. Vì Thập tự quân đã bị mất hết ngựa, người Thổ Nhĩ Kỳ đã trở nên hung dữ và quân Thập tự chinh bị buộc phải lui từ bờ sông có đầm lầy vào các vùng nước nông. Tuy nhiên, Thập tự quân vẫn còn giữ được tổ chức và sau khoảng 7 giờ hỗn chiến, các hiệp sĩ của Raymond đã đến (không rõ liệu Raymond có đi cùng với họ, hoặc liệu họ đã đến trước ông ta), họ phát động một cuộc tấn công bất ngờ vào cạnh sườn của quân Thổ Nhĩ Kỳ và làm cho người Thổ trở nên lộn xộn và cho phép quân Thập tự chinh tập hợp lại. Thập tự quân đã hình thành đội hình một dòng trận chiến với Bohemund, Tancred, Robert của Normandy và Stephen ở cánh trái, Raymond, Robert của Flanders ở trung tâm và Godfrey, Robert của Flanders và Hugh bên phải và họ cùng tiến lên để tấn công người Thổ Nhĩ Kỳ vừa hô to "hodie omnes divites si Deo placet effecti eritis"(" Ngày hôm nay Thiên Chúa rất hài lòng nếu tất cả các bạn sẽ trở nên giàu có "). Mặc dù sự tàn khốc của cuộc tấn công của Norman vào người Thổ Nhĩ Kỳ diễn ra một cách bất ngờ, họ đã không thể đánh gục người Thổ ngay lập tức, phải cho đến khi một lực lượng được chỉ huy bởi Đức-Giám-mục Adhemar của Le Puy-người thừa kế của giáo hoàng, đến nơi vào giữa buổi chiều, có lẽ cùng với Raymond trong đoàn tùy tùng, họ bí mật di chuyển xung quanh trận chiến qua ngọn đồi và vượt qua con sông, rồi tấn công ngang sườn vào các cung thủ ở bên trái và tấn công bất ngờ từ phía sau người Thổ Nhĩ Kỳ. Lực lượng của Adhemar đổ vào trại của người Thổ Nhĩ Kỳ và tấn công họ từ phía sau. Tất cả người Thổ Nhĩ Kỳ đều khiếp sợ khi nhìn thấy trại của họ bốc cháy và bởi sự tàn khốc và độ bền của các hiệp sĩ, vì áo giáp của các hiệp sĩ bảo vệ họ khỏi các mũi tên và che chắn cho họ khỏi bị thương từ ngay cả những nhát đâm, chém của gươm giáo và họ ( người Thổ ) nhanh chóng bỏ chạy, bỏ lại trại của họ ở phía sau và buộc Kilij Arslan-vua Thổ phải rút lui khỏi chiến trường.

    Hậu quả

    Quân viễn chinh đã thực sự trở nên giàu có, ít nhất là trong một thời gian ngắn, sau khi thu giữ được kho bạc của Kilij Arslan. Người Thổ bỏ trốn và Arslan quay sang mối quan tâm khác về các lãnh thổ phía đông của mình và quân viễn chinh có thể hành quân mà hầu như không bị kháng cự qua Anatolia để đến Antioch. Phải mất gần ba tháng để họ vượt qua Anatolia trong sự nắng nóng của mùa hè và vào tháng 10 họ bắt đầu cuộc bao vây thành phố Antioch.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} v\:-* {behavior:url(#default#VML);} o\:-* {behavior:url(#default#VML);} w\:-* {behavior:url(#default#VML);} .shape {behavior:url(#default#VML);} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc bao vây thành phố Antioch




    [​IMG]
    Bản đồ hoạt động của quân thập tự chinh trong năm 1097 -> 1098

    Cuộc bao vây Antioch đã diễn ra trong cuộc Thập tự chinh đầu tiên từ năm 1097 -> 1098. Cuộc bao vây đầu tiên do quân viễn chinh tiến hành để chiếm thành phố từ tay người Hồi giáo, kéo dài từ ngày 21 tháng 10 năm 1097, đến ngày 02 tháng 6 năm 1098. Cuộc bao vây thứ hai để chống lại chính lực lượng viễn chinh đã chiếm nó, kéo dài từ ngày 07-> ngày 28 tháng 6 năm 1098.

    Bối cảnh


    [​IMG]
    Bản đồ lộ trình của quân Thập tự chinh lần đầu tiên ( không phải của
    Thập tự chinh Nhân dân) từ thành phố Nicaea đến vùng đất Thánh

    Thành phố Antioch bị người Seljuk chiếm từ tay Đế quốc Byzantine chỉ rất gần lúc đó, trong năm 1085. Các công sự của Byzantine được xây dựng kể từ thời Justinian I và gần đây chúng đã được xây dựng lại và củng cố; người Seljuks đã chiếm được thành phố qua sự phản bội và những bức tường thành phố vẫn còn nguyên vẹn. Từ năm 1088, thống đốc Seljuk của nó là Yaghi-Siyan. Yaghi-Siyan cũng đã biết rằng quân thập tự chinh đã hành quân qua Anatolia trong năm 1097 và ông ta kêu gọi sự giúp đỡ từ các quốc gia Hồi giáo láng giềng nhưng vô ích. Để chuẩn bị cho sự xuất hiện của họ, ông đã cho bỏ tù John the Oxite- Giáo trưởng chính thống của Antioch, và cho lưu đày những người Hy Lạp và Armenia theo đạo Kitô Chính Thống, mặc dù các công dân Syria theo đạo Kitô Chính Thống được phép ở lại.

    Các kế hoạch của thập tự quân


    Khi quân viễn chinh đến bờ sông Orontes bên ngoài Antioch vào ngày 20 tháng 10 năm 1097. Ba thủ lãnh chính của cuộc thập tự chinh vào thời điểm này, Godfrey của Bouillon, Bohemund của Taranto và Raymond IV của Toulouse ban đầu không đồng ý về những việc cần làm tiếp theo: Raymond muốn tổ chức một cuộc tấn công trực tiếp, trong khi Godfrey và Bohemund lại muốn tiến hành một cuộc bao vây thành phố. Raymond miễn cưỡng bằng lòng và một phần quân viễn chinh được triển khai để bao quanh thành phố vào ngày 21. Các pháo đài của thành phố cũ của người Byzantine đã đủ mạnh để chống lại một cuộc tấn công trực tiếp, mặc dù Yaghi-Siyan có thể không có đủ người để bảo vệ toàn thành phố và ông đã cảm thấy nhẹ nhõm và phấn khích khi quân viễn chinh đã không tấn công ngay lập tức. Bohemund đóng trại ở góc đông bắc của thành phố tại cổng Thánh Paul, Raymond lập trại của mình ở xa hơn nữa về phía tây tại cổng của Chó- Gate of the Dog và Godfrey hạ trại cho quân của mình tại các cửa của Công tước, tiếp tục xa hơn nữa về phía tây, nơi mà một cầu tàu đã được xây dựng ngan qua Orontes tới làng Talenki. Phía Nam là tháp Hai chị em và ở góc tây bắc của của Thánh George Gate, nơi này đã không bị phong tỏa bởi quân viễn chinh và được sử dụng trong suốt cuộc bao vây cung cấp thực phẩm cho Yaghi-Siyan. Về phía nam và phía đông của thành phố là khu vực đồi núi được gọi là Mt. Silpius, nơi mà thành lũy và các cổng sắt được xây dựng.

    Cuộc bao vây đầu tiên



    [​IMG]
    Bản đồ cuộc bao vây thành phố Antioch của quân Thập tự chinh năm 1097-> 1098


    Vào giữa tháng 10 Tancred-cháu của Bohemund đến nơi với quân tiếp viện và một hạm đội của Genova đã đi vào cảng tại St Symeon, đưa thêm thực phẩm và quân nhu. Cuộc bao vây kéo dài và vào tháng 12 Godfrey đã bị bệnh, thực phẩm đã cạn mà mùa đông lại đến gần. Vào cuối tháng này Bohemund và Robert của Flander mang khoảng 20.000 người đi tìm kiếm thức ăn và thực phẩm ở phía Nam, nhưng khi họ ra đi Yaghi-Siya đã tiến ra từ Cổng Thánh George vào ngày 29 và tấn công vào doanh trại của Raymond ở bên kia sông tại Talenki. Raymond đã đẩy được ông ta lui trở lại nhưng đã không thể chiếm được thành phố. Trong khi đó, Bohemund và Robert đã bị tấn công bởi một đội quân dưới sự chỉ huy của Duqaq xứ Damascus, lực lượng này tiến về phía Bắc để viện trợ cho Antioch. Mặc dù quân viễn chinh đã chiến thắng ở đây, họ vẫn buộc phải rút lui về Antioch với rất ít lương thực. Tháng này kết thúc mang tới điềm gở cho cả hai phía: có một trận động đất vào ngày 30 tháng 12 và những tuần sau người ta thấy những trận mưa to trái mùa và thời tiết rất lạnh làm cho Duqaq phải quay trở về nhà mà không thể tiếp tục tấn công vào quân viễn chinh.

    Nạn đói


    Do thiếu lương thực nên đã có một nạn đói xảy ra trong trại của quân viễn chinh, giết chết cả hai người và ngựa, một phần bảy số người bị chết vì đói và chỉ còn có 700 con ngựa còn sống sót. Có vẻ như là một số trong những người lính nghèo nhất, những tàn dư của Thập tự chinh Nhân dân được chỉ huy bởi Peter Hermit và kêu gọi Tafurs, trở thành những kẻ ăn thịt người, ăn các cơ quan nội tạng của người Thổ Nhĩ Kỳ đã chết. Những người khác ăn thịt những con ngựa, mặc dù một số hiệp sĩ thà chết đói. Các Kitô hữu địa phương, cũng như Simeon-Giáo trưởng Chính Thống của Jerusalem, người đang sống lưu vong ở Cyprus, đã cố gắng để gửi thực phẩm nhưng cũng không làm giảm bớt nạn đói. Một số hiệp sĩ và binh lính đã bắt đầu bỏ ngũ vào tháng giêng năm 1098, bao gồm cả Peter-nhà ẩn sĩ, mặc dù ông đã nhanh chóng bị tìm thấy và được đưa trở lại trại của Tancred nhưng uy tín của ông đã bị lu mờ.

    Taticius bỏ đi

    Trong tháng Hai, Taticius-viên tướng và là người đại diện của Byzantine, người đã ở lại với quân viễn chinh như là cố vấn và đại diện của Hoàng đế Alexius I, đột nhiên rời bỏ quân đội của quân viễn chinh. Theo Anna Comnena, người có lẽ đã nói chuyện với cá nhân Taticius, quân viễn chinh đã từ chối lắng nghe lời khuyên của ông và Bohemund đã thông báo với ông rằng các thủ lĩnh khác đã lập kế hoạch để giết ông vì họ tin rằng Alexius đã bí mật khuyến khích người Thổ Nhĩ Kỳ. Mặt khác Bohemund lại tuyên bố rằng đây là sự phản bội hay hèn nhát, lý do đủ để xóa bỏ nghĩa vụ phải trả lại Antioch cho Byzantine và ông ta cũng muốn bỏ đi trừ phi ông ta được phép giữ Antioch cho chính mình khi nó bị chiếm. Biết thừa rằng Bohemund đang lập kế hoạch để chiếm thành phố cho riêng mình và rằng có thể chính ông ta đã lên kế hoạch để đuổi Taticius đi để tạo ra điều kiện này, Godfrey và Raymond đã không để cho ông ta làm mình làm mẩy, nhưng một nhóm nhỏ các hiệp sĩ và binh lính đã công nhận yêu cầu của ông và ông ta đã đạt được sự đồng cảm của họ. Trong những lúc xảy ra sự kiện này, Yaghi-Siyan tiếp tục tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người hàng xóm của mình và quân đội dưới sự chỉ huy của Ridwan đến Antioch từ Aleppo. Giống như Duqaq trước đó, ông ta cũng đã bị đánh bại tại Ha-rim ở ngoài thành phố Antioch vào ngày 9 tháng 2.

    Người Anh tiếp viện cho quân thập tự chinh


    Trong tháng 1 năm 1098 một hạm đội được dẫn đầu bởi Edgar Atheling, nhà vua bị lật đổ của nước Anh ( bởi William the Conqueror), đã đến bến Saint Simeon từ Constantinople, nơi Edgar đang sống lưu vong. Họ mang theo nguyên vật liệu để đóng một máy công thành, nhưng nó đã gần như bị mất vào ngày 6 khi Raymond và Bohemund ( họ không tin tưởng lẫn nhau để chỉ một người đi mang các vật liệu về một mình) đã bị tấn công trên đường trở về Antioch bởi một phân đội của quân đồn trú của Yaghi-Siyan. Tuy nhiên với sự giúp đỡ của Godfrey, họ đã đánh bại được quân Thổ và các vật liệu đã được thu hồi. Mặc dù Edgar đã được trao hạm đội và các vật liệu để bao vây thành phố được cung cấp bởi hoàng đế Alexius, nhưng quân viễn chinh đã không cho rằng đây là sự hỗ trợ trực tiếp của người Byzantine. Quân viễn chinh thiết lập để đóng một máy công thành, cũng như một pháo đài được gọi là La Mahomerie để ngăn chặn Gate Bridge và ngăn cản Yaghi-Siyan tấn công vào đường dây cung cấp cho Thập tự quân từ cảng Saint Simon và Alexandretta, trong khi họ cũng sửa chữa tu viện bị bỏ hoang ở phía tây của Cổng Saint George, nơi vẫn còn đang được sử dụng để cung cấp thực phẩm cho thành phố. Tancred cho quân đồn trú trong tu viện, trong khi Bá tước Raymond của Toulouse giành quyền kiểm soát pháo đài La Mahomerie. Cuối cùng thì cuộc bao vây của quân thập tự chinh đã có thể tạo ra một số hiệu ứng vào thành phố được bảo vệ rất tốt. Các điều kiện về thực phẩm đã được cải thiện đối với quân viễn chinh cũng như mùa xuân đang đến gần và thành phố đã bị phong tỏa hoàn toàn.

    Sứ giả của triều Fatimid


    Vào tháng Tư một sứ giả của triều đình Fatimid Ai Cập đến trại của thập tự chinh, hy vọng sẽ thiết lập một nền hòa bình với các Kitô hữu, những người đã là kẻ thù của kẻ thù của mình-người Seljuks. Peter nhà ẩn sĩ, người rất thông thạo Tiếng Ả Rập, đã được gửi đi để đàm phán. Những cuộc đàm phán đã không thu được kết quả gì. Triều đình Fatimid giả định rằng quân viễn chinh chỉ đơn giản là lính đánh thuê của người Byzantine, và họ đã chấp nhận để cho quân viễn chinh chiếm giữ Syria nếu họ ( Thập tự quân) đồng ý không tấn công vào Palestine của nhà Fatimid, một tình trạng hoàn toàn chấp nhận được giữa Ai Cập và Byzantine trước khi có các cuộc xâm lược của Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, quân viễn chinh không thể chấp nhận bất kỳ giải pháp nào mà không cho họ Jerusalem. Nhưng sứ giả của nhà Fatimid cũng được đối sử nồng hậu và được trao nhiều quà tặng, vốn cướp bóc được từ người Thổ Nhĩ Kỳ, những người đã bị đánh bại vào tháng Ba và dứt khoát không đạt được một thoả thuận nào giữa các bên.

    Chiếm được Antioch


    Các cuộc bao vây vẫn tiếp tục và vào cuối tháng 5 năm 1098 một đội quân Hồi giáo từ Mosul dưới sự chỉ huy của Kerbogha tiến đến gần Antioch. Quân đội này lớn hơn nhiều so với các nỗ lực để giải vây trước đó. Kerbogha đi cùng với Ridwan và Duqaq và quân đội của ông cũng bao gồm quân đội từ Ba Tư và từ Ortuqids ở Lưỡng Hà. Quân viễn chinh đã may mắn có được thêm thời gian để chuẩn bị cho sự xuất hiện của họ, vì lúc đầu Kerbogha đã tiến hành một cuộc hành quân kéo dài ba tuần tới Edessa, nhưng ông ta đã không thể tái chiếm thành phố này từ Baldwin xứ Boulogne-người đã chiếm nó trước đó trong năm 1098.


    [​IMG]
    Tranh vẽ cảnh Baldwin xứ Boulogne tiến vào Edessatrong năm 1098

    Quân viễn chinh biết họ sẽ phải chiếm được thành phố trước khi Kerbogha đến nếu họ muốn có bất kỳ cơ hội sống sót. Bohemund bí mật liên hệ với Firouz, một lính phòng thủ Armenia, người chỉ huy tháp Hai chị em nhưng lại có ác cảm với Yaghi-Siyan và mua chuộc anh ta mở cửa. Sau đó ông đi đến chỗ các thập tự quân khác và chỉ cho họ cách vào thành thông qua Firouz, nếu họ sẽ đồng ý để cho ông ta cai quản thành phố. Raymond đã rất tức giận và cho rằng thành phố cần được bàn giao cho Alexius, vì họ đã thề như vậy khi rời Constantinople vào năm 1097, nhưng Godfrey, Tancred, Robert và các thủ lĩnh khác đang phải đối mặt với một tình huống tuyệt vọng và đã chấp nhận yêu cầu của ông ta.


    [​IMG]
    Tranh vẽ cảnh quân Thập tự chinh chiếm Thành phố Antioch trong ban đêm dưới sự giúp đỡ của
    Firouz-người Armenia


    [​IMG]
    Tranh vẽ quân Thập tự chinh tàn sát người Hồi giáo sau khi chiếm được thành phố Antioch


    Mặc dù vậy, vào ngày 2 tháng 6, Stephen của Blois và một số các quân viễn chinh khác đã từ bỏ quân đội. Sau đó cùng ngày, Firouz hướng dẫn Bohemund để giả vờ tạo ra một cuộc hành quân để đánh chặn Kerbogha ( quân tiếp viện) và sau đó quay trở lại và tấn công thành phố vào ban đêm. Chiến thuật này đã được thực hiện. Firouz mở cửa và một vụ thảm sát xảy ra tiếp theo sau đó. Các Kitô hữu còn lại trong thành phố đã mở các cánh cửa khác và chính họ cũng tham gia vào các vụ thảm sát các đơn vị đồn trú Thổ Nhĩ Kỳ mà họ căm ghét. Tuy nhiên quân viễn chinh đã giết chết một số các Kitô hữu trong số những người Hồi giáo, trong đó có anh trai của Firouz. Yaghi-Siyan đã cố gắng chạy trốn nhưng bị bắt lại bởi một số Kitô hữu Syria bên ngoài thành phố. Ông này đã chặt đầu và đầu của ông được đưa đến cho Bohemund.


    Cuộc bao vây thứ hai



    Đến cuối ngày, vào ngày 3 tháng Sáu, các quân viễn chinh kiểm soát hầu hết các thành phố, trừ thành lũy vẫn nằm trong tay của Shams ad-Daulah con trai của Yaghi-Siyan. John the Oxite được phong làm giáo trưởng bởi Adhemar xứ Le Puy-người thừa kế của Giáo hoàng, ông này cũng muốn giữ quan hệ tốt với người Byzantine, đặc biệt là khi Bohemund có kế hoạch rõ ràng muốn chiếm thành phố cho riêng mình. Tuy nhiên, thành phố bây giờ rất thiếu thực phẩm và Kerbogha cùng quân đội của ông ta vẫn còn trên đường đến đó. Kerbogha đến chỉ chậm có hai ngày, vào ngày 05 tháng 6. Ông đã cố gắng để tấn công thành phố vào ngày 07 và 09 tháng 6 và thất bại, ông này lại phải tiến hành vây hãm quanh thành phố.

    Rất nhiều quân viễn chinh khác đã bỏ ngũ trước khi Kerbogha đến và họ đã gặp Stephen của Blois tại Tarsus. Stephen đã thấy quân đội của Kerbogha đóng trại ở gần Antioch và cho rằng đã mất tất cả hy vọng, những người đào ngũ cũng đã xác nhận về những lo ngại của ông ta. Trên đường trở về Constantinople, Stephen và những người đào ngũ khác gặp Alexius lúc này đang trên đường đến để hỗ trợ cho quân viễn chinh, và không biết họ đã chiếm được thành phố và bây giờ chính mình lại đang bị bao vây. Stephen thuyết phục ông ta rằng phần còn lại của quân viễn chinh coi như đã chết và Alexius nhận được tin từ quân trinh sát của mình rằng có một toán quân Seljuk ở gần Tiểu Á. Vì thế, ông quyết định quay trở về Constantinople chứ không mạo hiểm lao vào chiến đấu.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Khám phá ra Holy Lance

    Trong khi đó tại Antioch, ngày 10 tháng 6 một tu sĩ nghèo và có một cái tên không có mấy ý nghĩa là Peter Bartholomew đi lên tuyên bố đã nhìn thấy Thánh St Andrew và nói với ông rằng Holy Lance đang ở trong thành phố. Phần lớn quân viễn chinh vì đói qúa nên chẳng nhìn thấy gì và dễ bị ảo giác và một thầy tu tên là Stephen ở xứ Valence có báo lại là đã nhìn thấy Chúa Kitô và Virgin Mary. Ngày 14 tháng 6 một ngôi sao băng ( sao chổi) đã được nhìn thấy là bay về phía doanh trại của kẻ thù, đây được hiểu như là một điềm tốt. Mặc dù Adhemar cảm thấy ngờ vì ông đã nhìn thấy một di tích của Holy Lance ở Constantinople, nhưng Raymondại tin Peter. Raymond, Raymond của Aguilers, William, Giám mục xứ Orange, và những người khác đã bắt đầu đào bới trong nhà thờ Thánh Phêrô vào ngày 15 tháng 6 và khi họ đi ra với đôi bàn tay trắng, Peter đi vào chỗ đào bới, cúi xuống và nhặt lên một đầu ngọn giáo. Raymond đã diễn đạt điều này như một dấu hiệu của Thiên Chúa rằng họ sẽ tồn tại và do đó chuẩn bị cho một cuộc chiến cuối cùng thay vì đầu hàng. Peter sau đó lại đưa ra một tuyên bố khác rằng St Andrew đã chỉ thị cho quân đội thập tự chinh phải chiến đấu trong năm ngày ( mặc dù họ đang chết đói), sau đó họ sẽ chiến thắng.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Bohemund cũng đã hoài nghi về chuyện Holy Lance, nhưng không đưa ra câu hỏi nào vì phát hiện ra nó làm tăng tinh thần chiến đấu của quân viễn chinh. Cũng có thể là Peter đã tuyên bố về những gì mà Bohemund muốn (chứ không phải những gì St Andrew muốn) vì Bohemund biết- từ gián điệp của ông ta trong trại của Kerbogha, rằng các phe phái ( Hồi giáo ) khác nhau thường xuyên đấu đá với nhau. Kerbogha của Mosul đã thực sự bị nghi ngờ bởi hầu hết các Tiểu vương Hồi giáo vì ông ta cũng rất thèm muốn chủ quyền ở Syria và thường được coi như là một mối đe dọa lớn hơn đến lợi ích của họ so với những kẻ xâm lược dị giáo. Ngày 27 tháng 6, Peter-nhà ẩn sĩ đã được gửi bởi Bohemund để đàm phán với Kerbogha, nhưng việc này đã được chứng minh là vô ích và phải chiến đấu với người Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành điều không thể tránh khỏi. Bohemund đã thành lập lên sáu đơn vị: ông chỉ huy một mình, và năm đơn vị còn lại được dẫn đầu bởi Hugh của Vermandois và Robert của Flanders, Godfrey, Robert của Normandy, Adhemar và Tancred và Gaston IV của Béarn. Raymond đã bị ốm nên phải ở lại bên trong để bảo vệ thành phố với 200 binh sỹ, và thành trì đang được quản lý bởi Ahmed Ibn Merwan-một gián điệp của Kerbogha. ( quân Kitô giáo mới chiếm được thành phố mà chưa chiếm được chiếc thành bên trong)

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trận chiến Antioch


    [​IMG]
    Ở vào thế không còn gì để mất, quân thập tự chinh dàn trận chiến đấu với quân tiếp viện của người Hồi giáo ở bên ngoài thành phố Antioch và cuối cùng người Hồi giáo phải bỏ chạy, tranh vẽ Robert II xứ Normandy đang hạ gục một thủ lĩnh Hồi giáo


    Vào thứ hai ngày 28 tháng 6, các lộ quân viễn chinh xuất hiện từ các cổng của thành phố, với Raymond của Aguilers mang biểu tượng Holy Lance đi trước họ. Kerbogha chần chừ trước lời khuyên của các tướng lĩnh của mình vì ông ta hy vọng sẽ tấn công họ cùng một lúc chứ không phải là chỉ một đơn vị tại một thời điểm, nhưng ông đánh giá thấp số lượng của họ. Ông giả vờ rút lui để dử quân viễn chinh đến những nơi có địa hình xấu, trong khi cung thủ của ông liên tục bắn tên vào quân viễn chinh đang tiến lên. Một đội quân đã được tung ra để tấn công vào cánh trái của quân thập tự chinh, nơi họ đã không được bảo vệ bởi bờ sông, việc này làm cho Bohemund phải nhanh chóng hình thành một đơn vị thứ bảy và đánh bại rồi đẩy lui họ. Người Thổ đã gây ra nhiều thương vong, trong đó có cả Adhemar-người mang ảnh thánh và Kerbogha cho đốt đồng cỏ giữa vị trí của mình và quân viễn chinh nhưng điều này cũng không ngăn cản nổi họ: họ đã nhìn thấy ba vị thánh đi cùng với họ, đó là: St George, St Demetrius và St Maurice ( chẳng qua quân thập tự chinh phao tin để tự nâng cao tinh thần hoặc đói quá nhìn nhầm mà thôi ). Trận chiến diễn ra rất nhanh. Trước khi quân viễn chinh đến được đội hình của Kerbogha, Duqaq và các Tiểu vương Hồi giáo khác đã phản bội Kerbogha và mang quân đội trở lại vùng đất riêng của họ, sự kiện này làm giảm đáng kể lợi thế về số quân số hùng hậu của Kerbogha trước đối thủ Kitô giáo của mình. Chẳng bao lâu thì quân Hồi giáo còn lại cũng phải rút lui.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sau trận đánh

    Sau khi Kerbogha bỏ chạy, thành trì dưới sự chỉ huy của Merwan ibn Ahmed cuối cùng đã đầu hàng, nhưng chỉ hạ vũ khí trước cá nhân Bohemund chứ không phải là trước Raymond, điều này dường như đã được sắp đặt trước mà không cho Raymond biết trước. Theo dự kiến, Bohemund tuyên bố thành phố là của mình, mặc dù Adhemar và Raymond không đồng ý. Hugh của Vermandois và Baldwin của Hainaut được gửi tới thành phố Constantinople, tuy vậy Baldwin đã mất sau một cuộc phục kích trên đường đi. Tuy nhiên Alexius đã không quan tâm tới việc gửi một đoàn viễn chinh để đòi thành phố này vào cuối mùa hè. Trở lại Antioch, Bohemund lập luận rằng Alexius đã bỏ chạy khỏi trận chiến và do đó tất cả các lời thề của ông đối với ông ta trở nên vô hiệu lực. Bohemund và Raymond cùng chiếm đóng cung điện của Yaghi-Siyan, nhưng Bohemund kiểm soát hầu hết các phần còn lại của thành phố và cho cắm cờ xí của ông ta lên trên mặt tường thành. Đây là một giả định phổ biến rằng người Frank ở miền Bắc nước Pháp, người Provencal ở miền Nam nước Pháp ( Raymond là người Provence) và người Norman ở miền nam Italy ( người Norman lấn chiếm lãnh thổ của người Byzantine ở miền nam Italy, nên giữa Hoàng đế Byzantine và Bohemund-người Norman luôn có hiềm khích) luôn tự coi mình là "quốc gia" riêng biệt và mỗi vùng đều muốn gia tăng vị thế của nó. Điều này có thể đã là nguyên nhân của các tranh chấp, nhưng chủ yếu nhiều khả năng vẫn là các tham vọng cá nhân đã tạo ra các cuộc đấu đá nội bộ giữa hai người.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Chẳng bao lâu một bệnh dịch đã nổ ra, có thể là bệnh sốt rét, và vào ngày 1 tháng 8 Adhemar-người thừa kế của Giáo hoàng đã chết. Trong tháng 9 các lãnh tụ của cuộc thập tự chinh đã viết cho Giáo hoàng Urban II, yêu cầu chính bản thân ông ta kiểm soát thành phố Antioch nhưng ông này đã từ chối. Trong phần còn lại của năm 1098, họ giành nhau quyền kiểm soát vùng nông thôn xung quanh Antioch, mặc dù lúc này ngay cả ngựa cũng còn ít hơn trước và nông dân Hồi giáo từ chối không cho họ thực phẩm. Các hiệp sĩ và chiến binh trẻ tuổi đã trở nên bất an và nạn đói lại bắt đầu nổ ra và họ đe dọa sẽ tiếp tục tiến tới Jerusalem mà không cần tới các thủ lĩnh của họ. Vào tháng11, cuối cùng Raymond đã trao hoàn toàn quyền quản lý thành phố cho Bohemund vì mục đích duy trì hòa bình trong thập tự chinh và để chấn tĩnh đám quân đang chết đói và sắp nội loạn của ông lại. Vào đầu tháng 3 năm 1099 họ lại bắt đầu một cuộc viễn chinh mới, để lại đằng sau Bohemund lúc này đã trở thành Hoàng tử đầu tiên của Antioch và trong mùa xuân Cuộc vây hãm Jerusalem đã được bắt đầu dưới sự chỉ huy của Raymond xứ Provence.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sự thành công tại Antioch đã làm cho quá nhiều người cảm thấy hoài nghi về Peter Bartholomew. Những gì mà Peter nhìn thấy dường như là quá đúng lúc và quá thiết thực và ông này đã công khai bị cáo buộc là nói dối. Trong cuộc cãi cọ Peter bị ép buộc phải trải qua thử thách bằng lửa để chứng minh rằng ông ta đã được thần thánh hướng dẫn. Đang ở vùng đất Thánh nên họ đã chọn một kiểu thử thách trong Kinh Thánh: Peter sẽ đi qua một lò lửa và sẽ được bảo vệ bởi một thiên sứ của Thiên Chúa ( nếu đúng là ông ta nhìn thấy Thiên Chúa ). Quân viễn chinh xây dựng một con đường đi qua một lò lửa; Peter sẽ đi bộ xuống con đường giữa những ngọn lửa. Ông đã làm như vậy và đã bị bỏng một cách khủng khiếp. Ông qua đời sau khi chịu đau đớn trong mười hai ngày. Không có gì để nói nhiều hơn về Holy Lance mặc dù một trong những phe phái vẫn tiếp tục cho rằng Peter đã nhìn thấy Thần thánh thực sự và rằng Holy Lance là có thật. ( có vẻ như là Thập tự quân chiến đấu về Niềm tin Tôn giáo nhưng họ lại không mê tín bằng người NC bây chừ, nếu không thì phải cho Thánh cô, Thánh cậu vào lò lửa tất he he).
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc vây hãm Jerusalem năm 1099

    v\:-* {behavior:url(#default#VML);} o\:-* {behavior:url(#default#VML);} w\:-* {behavior:url(#default#VML);} .shape {behavior:url(#default#VML);} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cuộc vây hãm Jerusalem diễn ra từ ngày 7 đến ngày 15 tháng 7 năm 1099 trong cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Những Thập tự quân đã tấn công và chiếm được thành phố từ triều đình Fatimid của Ai Cập.

    Bối cảnh


    Sau khi bao vây và công chiếm thành công thành phố Antioch vào tháng 6 năm 1098, quân viễn chinh đã đóng lại ở khu vực trong phần còn lại của năm đó. Adhemar của Le Puy-người thừa kế Giáo hoàng đã chết và Bohemund của Taranto đã tuyên bố chiếm Antioch cho chính mình. Baldwin của Boulogne ở lại Edessa vốn bị ông ta chiếm vào hồi đầu 1098. Có xảy ra bất đồng giữa các hoàng tử về những việc cần làm tiếp theo; Raymond của Toulouse đã cảm thấy rất thất vọng và rời khỏi Antioch để chiếm lấy pháo đài Ma'arrat al-Numan trong Cuộc vây hãm Maarat. Đến cuối năm các hiệp sĩ và binh sỹ trẻ tuổi đã đe dọa hành quân đến Jerusalem mà không cần đến các thủ lĩnh.

    Cuộc bao vây Arqa


    Vào cuối tháng 12 hoặc đầu tháng Giêng, Robert của Normandy và Tancred-cháu trai của Bohemond đồng ý trở thành chư hầu của Raymond, người đủ giàu có để trả tiền cho sự phục vụ của họ. Tuy nhiên Godfrey của Bouillon, người mà giờ đây đã có thu nhập từ lãnh thổ của anh trai của ông tại Edessa đã từ chối không theo Raymond nữa. Ngày 05 tháng 1, Raymond cho phá hủy các bức tường của Ma'arrat và vào ngày 13 tháng 1 ông bắt đầu một cuộc trường chinh về phía nam với chân đất và ăn mặc như một khách hành hương, tiếp theo là Robert và Tancred. Đổ bộ xuống bờ biển Địa Trung Hải, họ đã gặp phải những kháng cự nhỏ bởi những thủ lĩnh Hồi giáo địa phương thích chọn phương án hòa bình và chấp nhận cung cấp cho họ lương thực và quân nhu hơn là chiến đấu. Các thủ lĩnh địa phương người Hồi giáo Sunni có thể cũng thích sự cai trị của Thập tự quân hơn là người Hồi giáo dòng Shia của triều đình Fatimid.

    Raymond lên kế hoạch để chiếm Tripoli cho mình để thiết lập một thành bang tương đương với Antioch của Bohemund. Tuy nhiên lúc đầu ông đã bị bao vây ở Arqa gần đó. Trong khi đó, Godfrey cùng với Robert của Flander, những người đã từ chối trở thành chư hầu của Raymond, đã tham gia cùng với quân viễn chinh còn lại tại Latakia và hành quân về phía nam vào tháng Hai. Bohemond cũng tham gia hành quân ra với họ nhưng rồi lại nhanh chóng trở về Antioch. Tại thời điểm này Tancred rời bỏ Raymond và gia nhập với Godfrey do một số cuộc tranh cãi không rõ nguyên nhân. Ngoài ra còn một lực lượng Thập tự chinh riêng biệt nữa mặc dù họ có liên kết với lực lượng của Godfrey, được dẫn đầu bởi Gaston IV của xứ Béarn.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Godfrey, Robert, Tancred và Gaston đến Arqa vào tháng ba, nhưng vòng vây vẫn tiếp tục. Tình hình căng thẳng không chỉ ở giữa các nhà thủ lãnh quân sự, mà còn giữa các giáo sĩ, kể từ sau cái chết của Adhemar đã có không có một nhà lãnh đạo thực sự và kể từ khi lúc phát hiện ra Holy Lance bởi Peter Bartholomew tại Antioch, đã có những cáo buộc về gian dối trong số các phe phái khác nhau của nhà thờ. Cuối cùng, vào tháng Tư, Arnulf của Chocques đã thách đố Peter đi trên lò lửa. Peter đã chấp nhận thử thách và chết vì vết thương của mình, do đó đã mất hết uy tín như là một giáo sỹ thánh thiện và Raymond trở thành một trong những người giữ quyền lực tối cao trong cuộc Thập tự chinh.

    Cuộc bao vây Jerusalem


    Đến thành phố linh thiêng


    [​IMG]
    Tranh vẽ cảnh khi quân Thập tự chinh đến được Đất Thánh
    Jerusalem, trông họ thật tả tơi tuốt tuột

    Cuộc bao vây Arqa kéo dài cho đến 13 tháng 5 sau khi quân viễn chinh bỏ đi mà không chiếm được cái gì. Triều đình Fatimid đã cố gắng để thương lượng hòa bình với điều kiện là các thập tự quân không được tiếp tục hướng tới Jerusalem, nhưng điều này đã bị bỏ ngoài tai; Iftikhar Ad-Daula-Thống đốc của Triều đình Fatimid ở Jerusalem, đã biết được ý định của quân Thập tự chinh. Do đó ông ta cho trục xuất tất cả các cư dân người Thiên chúa giáo của Jerusalem. Ông ta cũng cho hạ độc hầu hết các giếng nước trong khu vực này. Ngày thứ 13 quân Thập tự chinh đến được Tripoli, nơi mà Thống đốc của thành phố đã tặng cho họ tiền và ngựa. Theo quấn Gesta Francorum –quấn biên niên sử vô danh, ông này cũng tuyên bố sẽ chuyển sang Kitô giáo nếu quân viễn chinh thành công trong việc chiếm giữ Jerusalem từ kẻ thù thuộc nhà Fatimid của mình. Tiếp tục đi về phía nam dọc theo bờ biển, quân viễn chinh đã đi qua Beirut vào ngày 19 tháng 5, Tyre vào ngày 23 tháng 5 và di chuyển vào sâu trong nội địa tại Jaffa, đến được Ramlah vào ngày 3 tháng 6, nơi mà đã bị bỏ hoang bởi cư dân của nó. Toà Giám mục của Ramlah-Lydda được thành lập tại nhà thờ St George (Một vị anh hùng thập tự chinh nổi tiếng) trước khi họ tiếp tục tiến vào Jerusalem. Ngày 6 tháng 6, Godfrey đã cử Tancred và Gaston đi để chiếm Bethlehem, và Tancred đã cắm cờ của mình ở Nhà thờ Chúa Giáng sinh ( VN Church of the Nativity- có thể là Nhà thờ Bethlehem ngày nay). Ngày 07 tháng 6 Thập tự quân đã trông thấy thành phố Jerusalem. Nhiều người đã khóc khi nhìn thấy thành phố mà họ đã phải trải qua một cuộc hành trình rất dài để đến nơi.


    [​IMG]
    Bản đồ cuộc bao vây thành phố của quân Thập tự chinh năm 1098


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cũng như ở Antioch, khi quân viễn chinh tiến tới thành phố, họ cũng tiến hành một cuộc bao vây mà có lẽ cuộc bao vây này lại làm hại chính bản thân họ nhiều hơn so với các cư dân của thành phố vì do thiếu lương thực và nước uống xung quanh Jerusalem. Thành phố đã được chuẩn bị tốt cho một cuộc bao vây và thống đốc Fatimid Iftikhar Ad-Daula đã cho trục xuất hầu hết các Kitô hữu. Trong số khoảng ước tính 5.000 hiệp sĩ đã tham gia vào cuộc Thập tự chinh của các Hoàng tử-Đại quý tộc, chỉ còn có khoảng 1.500 người vẫn đứng vững, cùng với 12.000 binh sĩ khỏe mạnh, (trong số có lẽ có đến 30,000 người). Godfrey, Robert của Flanders và Robert của Normandy (những người đã rời bỏ Raymond để gia nhập với Godfrey) bao vây các bức tường phía bắc tới tận Tháp David, Trong khi Raymond lập trại của ông ở phía tây, từ Tháp David đến tận Núi Zion. Một cuộc tấn công trực tiếp vào các bức tường trong ngày 13 tháng 6 đã thất bại. Nếu không có nước và lương thực thì cả người và ngựa sẽ nhanh chóng chết vì khát và đói và quân viễn chinh biết rằng thời gian đã không đứng về phía họ. Thật trùng hợp, ngay sau khi nổ ra cuộc tấn công đầu tiên, 2 chiếc tầu Galley của người Genova đã đi vào cảng Jaffa và quân viễn chinh đã có thể được cung cấp lương thực để duy trì chính bản thân mình trong một thời gian ngắn. Quân viễn chinh cũng bắt đầu thu thập gỗ từ Samaria để chế tạo một máy công thành. Họ vẫn còn thiếu lương thực và nước uống và đến cuối tháng 6 thì đã có tin đồn rằng một đội quân Fatimid đang hành quân đến từ phía bắc Ai Cập.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Đám rước chân trần


    [​IMG]
    Đám rước chân trần của Tu sỹ và hiệp sỹ thập tự chinh, nó thể hiện quyết tâm phải công phá bằng được Gerusalem của họ

    Đối mặt với một nhiệm vụ tưởng như không thể, tinh thần của họ đã được nâng lên khi một linh mục tên là Peter Desiderius đã tuyên bố rằng ông ta đã nhìn thấy Thiên Chúa, theo ông ta kể thì hồn ma của Adhemar ( người đã chết vì bệnh sốt rét ở Antioch) hướng dẫn họ chiến đấu trong ba ngày và sau đó họ phải tuần hành trong một đám rước bằng chân trần trên những bức tường của thành phố, sau đó thành phố sẽ sụp đổ trong chín ngày, giống như là ví dụ về Joshua tại cuộc bao vây Jericho trong Kinh Thán. Mặc dù họ đang chết đói, họ phải nhịn ăn nhưng vào ngày 08 tháng 7 họ đã thực hiện đám rước, với hàng giáo sĩ thổi kèn và hát các bài Thánh Ca trước sự chế giễu của tất cả quân phòng thủ Jerusalem. Đám rước dừng lại ở Núi Olives và các bài giảng được đọc bởi Peter Hermit ( bác này sống dai quá), Arnulf của Chocques và Raymond của Aguilers.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cuộc tấn công cuối cùng


    [​IMG]
    Quân Thập tự chinh chuẩn bị cho đượt tấn công cuối cùng, giây phút yên ả trước cơn bão tố


    [​IMG]
    Tháp công thành, thang gỗ, pháo bắn đá đã sẵn sàng, bắt đầu thôi


    Trong suốt cuộc bao vây, rất nhiều cuộc tấn công đã được tiến hành vào các bức tường, nhưng tất cả đều bị đẩy lui. Một toán quân người Genova được dẫn đầu bởi chỉ huy Guglielmo Embriaco, ông này trước đó đã cho phá dỡ những con tàu mà những người Genoeses dùng để đến được vùng Đất Thánh của Thiên Chúa; Embriaco sử dụng gỗ của con tàu để đóng một số tháp công thành. Chúng được được kéo đi bằng bánh xe để tiến lại gần đến các bức tường vào đêm 14 tháng 7 sự ngạc nhiên và quan tâm của các binh lính đồn trú. Sáng ngày 15 tháng 7, chiếc tháp công thành của Godfrey đã đến được những bức tường gần cổng góc đông bắc và theo quấn Gesta Francorum thì hai hiệp sĩ người Flemish đến từ Tournai tên Lethalde và Engelbert là những người đầu tiên vượt qua tường thành để tiến vào thành phố, tiếp theo là Godfrey, Eustace -em trai của ông, Tancred và người của họ. Đầu tiên chiếc tháp công thành của Raymond bị chặn lại bởi một chiếc hào có nước, nhưng khi những lính Thập tự chinh khác đột nhập được vào thành phố, binh lính Hồi giáo bảo vệ cổng thành đã đầu hàng Raymond.


    [​IMG]
    Tranh vẽ lính phòng thủ Hồi giáo đang chuẩn bị đánh trả đợt tấn công cuối cùng của quân Thiên chua giáo tại Gerusalem



    [​IMG]
    Tranh vẽ
    Godfrey de Bouillon-vị hiệp sỹ thập tư chinh nổi tiếng của người Pháp, đang trèo lên tường thành Gerusalem, người ở góc dưới bên phải

    [​IMG]
    Quân Thập tự chinh đã vượt qua bức tường thành và bây giờ mọi sự mới bắt đầu

    Cuộc thảm sát ở
    Jerusalem


    Cuộc thảm sát người Hồi giáo


    [​IMG]
    Tranh vẽ thập tự quân tàn sát người Hồi giáo tại Jerusalem

    [​IMG]
    Tranh vẽ Quân thập tự chinh xông vào Gerusalem và tàn sát 40.000 người Hồi giáo + 1.000 lính phòng thủ, họ cũng mất khoảng 11.000 người trong các trận công thành

    [​IMG]
    Sự xuất hiện của các thủ lĩnh Thập tự chinh cũng chỉ vãn hồi được đôi chút tình hình

    Nhiều người Hồi giáo nói nói chung là đã tìm nơi trú ẩn trong nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa Mosque-toà nhà thờ Đá mái Vòm và khu vực Núi Temple. Theo quấn Gesta Francorum, Nói duy nhất của khu vực núi Đền, "...[ người của chúng tôi] đã giết và tàn sát ngay cả đến tận đền thờ Solomon, nơi mà cuộc tàn sát diễn ra một cách điên cuồng nhất, quân thập tự chinh lội trong những vũng máu lên đến mắt cá chân của họ ... " Theo hồi ký của Raymond của Aguilers, loại bằng văn bản duy nhất ở khu vực núi Đền, "trong đền thờ và hiên nhà của đền thờ Solomon quân thập tự chinh người đầy máu me lên đến đầu gối và dây cương ngựa." Tuy nhiên, hình ảnh này không nên dùng theo nghĩa đen, vì nó được lấy trực tiếp từ chương Apocalypse 14:20 trong Kinh Thánh. Đoạn viết về khu vực núi Đền của Fulcher Chartres-người không phải là một nhân chứng cho cuộc bao vây Jerusalem vì ông đã ở lại với Baldwin tại Edessa lúc đó, nói:..? "Trong ngôi đền này đã có 10.000 người bị giết hại Thực vậy, nếu bạn đã ở đó bạn sẽ nhìn thấy bàn chân của chúng tôi đến tận mắt cá chân của chúng tôi toàn là máu của người bị giết. Không một ai trong số họ còn sống sót, phụ nữ và trẻ em cũng không được tha ". Việc tàn sát một số lượng lớn người Hồi giáo ở Núi Đền đôi khi cũng gây ngờ vực rằng nó được tiến hành vào toàn bộ thành phố, một số nhà bình luận hiện đại cho rằng tất cả hoặc gần như tất cả các cư dân của thành phố đã bị giết. Không có bằng chứng hoặc nhân chứng cho một cơ sở rằng khu bán buôn bên ngoài khu vực núi Đền bị tàn sát.

    Các nhân chứng trong quấn Gesta Francorum nói rằng một số người đã được tha chết. tác giả ẩn danh của nó đã viết, "Khi những người ngoại đạo đã bị chế phục, người của chúng tôi đã bắt giữ một số lượng lớn, cả nam và nữ, giết hoặc giam giữ chúng tùy họ muốn." Sau đó cùng một nguồn viết, "[thủ lĩnh của chúng tôi] cũng ra lệnh cho tất cả những người Saracen đã chết phải bị vứt ra bên ngoài vì mùi hôi thối rất kinh khủng kể từ lúc toàn thành phố đầy ngập xác chết của họ và do đó chúng tôi kéo những người Saracens hoặc sống hoặc chết ra khỏi cửa nhà và sắp chúng thành vào đống. Từ đó không ai nhìn thấy hoặc tiếp tục nghe nói về việc tàn sát người ngoại giáo, cho đến khi việc chôn cất được tiến hành cho những đống xác chết được chất như kim tự tháp và không ai biết số của họ ngoại trừ chỉ một mình Thiên Chúa. Nhưng Raymond đã gây chuyện với các Tiểu vương và những người khác-toàn bộ những người chưa bị thương ( những Thập tự quân còn lành lặn) đã đi cùng ông ta để đến Ascalon ( nơi diễn ra trận chiến cuối cùng của cuộc Thập tự chinh lần 1). "

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Một nguồn nhân chứng, Raymond của Aguilers, viết rằng vẫn có một số người Hồi giáo sống sót. Sau khi tường thuật lại việc tàn sát trên núi Đền, ông này cũng nói rằng một số người "đã chạy đến tị nạn ở Tháp David và yêu cầu Công tước Raymond bảo vệ và đầu hàng trước ông ta", Những người Hồi giáo này được phép rời đi cùng với viên thống đốc của Triều đình Fatimid để đến Ascalon. Một phiên bản của truyền thuyết này cũng được Ibn al-Athir-sử gia Hồi giáo sau này (10, 193-95), người kể lại rằng sau khi thành phố đã bị chiếm và cướp bóc: "Một nhóm người Hồi giáo chiếm tháp David (Mihrab Dawud) và chiến đấu trong nhiều ngày, họ được tha chết để đổi lấy việc đầu hàng. Người Frank đã giữ lời của họ và nhóm này rời đi vào ban đêm để đến Ascalon. " Một lá thư từ Cairo Geniza cũng đề cập rằng một số cư dân Do Thái đã rời khỏi thành phố cùng với thống đốc Fatimid.

    Tancred tuyên bố chủ quyền ở Temple quarter cho bản thân mình và cung cấp bảo vệ cho một số người Hồi giáo ở đó, nhưng rồi ông cũng không thể ngăn chặn được việc họ bị tàn sát bởi bàn tay của các đồng chí trong quân Thập tự chinh của mình.


    Mặc dù quân Thập tự chinh đã giết rất nhiều người Hồi giáo và người dân Do Thái, các nhân chứng (Gesta Francorum, Raymond của Aguilers và tài liệu của Cairo Geniza) đã chứng minh rằng một số người Hồi giáo và người dân Do Thái được phép sống, miễn là họ phải rời Jerusalem. Tất cả các ước tính hiện đại của các con số thực sự bị giết tại Jerusalem sau khi cuộc bao vây của quân Thập tự chinh hoàn toàn là do suy đoán; các nguồn tài liệu chính thức từ thời kỳ này chỉ đơn giản là không cho phép thực hiện một ước tính đáng tin cậy.


    Người Do Thái


    Quấn biên niên sử của Ibn al-Qalanisi cồng bố rằng người Do Thái đã tìm nơi trú ẩn trong thánh đường của họ, nhưng "người Frank đã đốt cháy nó trên đầu của họ" và giết chết tất cả mọi người bên trong. Một tài liệu cáo buộc rằng quân Thập tự chinh đứng vòng quanh tòa nhà cháy và hát "Chúa Kitô, Chúng tôi tôn thờ Ngài!, Ngài là ánh sáng của chúng tôi, lãnh tụ của chúng tôi, tình yêu của chúng tôi". Không có câu hỏi nào cho thấy có một vụ thảm sát người Do Thái tại Jerusalem, bức thư đương đại từ Cairo Geniza yêu cầu sự trợ giúp cho những người Do Thái chạy thoát khỏi Jerusalem vào thời điểm các cuộc vây hãm có liên quan đến các vụ tàn sát của Thập tự quân lúc này. Tuy nhiên, cùng một bức thư này cũng cho thấy đã rõ ràng rằng có một số nạn nhân Do Thái sống sót.

    Kitô hữu phương Đông


    Trái ngược với những gì đôi khi bị cáo buộc, không có nguồn nhân chứng nào nói đến việc quân Thập tự chinh người Kitô hữu phương Đông ở Jerusalem và nguồn tin ban đầu của Cơ đốc giáo phương Đông (Matthew của Edessa, Anna Comnena, Michael Syria, vv) đã không đưa ra các cáo buộc như vậy về quân Thập tự chinh ở Jerusalem. Theo sử gia Syriac viết vào năm 1234, Kitô hữu đã bị trục xuất khỏi Jerusalem trước khi quân Thập tự chinh tiến đến. Có lẽ điều này có thể được thực hiện bởi thống đốc triều đình Fatimid để ngăn chặn sự cấu kết có thể xảy ra giữa họ với quân Thập tự chinh.

    Quấn Gesta Francorum tuyên bố rằng vào Thứ Tư ngày 09 tháng 8, hai tuần rưỡi sau cuộc bao vây, Peter Hermit khuyến khích tất cả những "linh mục và giáo sĩ Hy Lạp và La tinh " tiến hành một đám rước tạ ơn tại Nhà thờ Thánh Sepulchre. Sự kiện này cho thấy rằng một số đông giáo sĩ Thiên chúa giáo vẫn còn trong hoặc gần Jerusalem trong thời gian của cuộc bao vây. Tháng 11 năm 1100, cá nhân của Fulcher Chartres ( người thuật lại nhiều chuyện về cuộc Thập tự chinh) đi cùng với Baldwin trong một chuyến viếng thăm Jerusalem, họ đã được chào đón bởi cả giáo sĩ Hy Lạp và Syria và giáo dân (Sách II, 3), điều này cho thấy sự hiện diện Kitô giáo phương Đông ở thành phố một năm sau đó.


    Hậu quả


    Sau vụ thảm sát, Godfrey của Bouillon đã nhận danh hiệu Advocatus Sancti Sepulchri ( Người bảo vệ của Thánh Sepulchre) vào ngày 22, từ chối để được chọn làm vua của thành phố nơi mà Chúa Kitô đã chết, ông nói rằng ông từ chối đeo một chiếc vương miện bằng vàng ở thành phố, nơi mà Chúa Kitô đã phải đeo một vòng gai. Raymond cũng đã từ chối bất cứ danh hiệu nào và Godfrey đã thuyết phục ông rời bỏ tháp David. Sau đó Raymond đã tiến hành một cuộc hành hương và trong lúc ông vắng mặt Arnulf Chocques, người mà Raymond đã phản đối vì ông này (Raymond) đã hỗ trợ cho Peter Bartholomew, được bầu là Giáo trưởng Latin đầu tiên vào ngày 1 (các khiếu nại của Giáo trưởng Hy Lạp bị bỏ qua). Vào ngày 05 tháng 8, Arnulf sau khi lấy ý kiến của người dân còn sống sót trong thành phố, đã phát hiện ra di tích True Cross.
    Ngày 12 tháng 8, Godfrey đã dẫn đầu một đội quân với chiếc chữ thập True Cross được mang theo trong đội quân tiên phong để chống lại quân đội của Triều đình Fatimid ở Trận Ascalon vào ngày 12. Các quân viễn chinh đã thành công, nhưng sau chiến thắng này phần lớn trong số họ coi cuộc thập tự chinh đã hoàn tất và không phải tất cả nhưng một vài trăm hiệp sĩ đã trở về nhà. Tuy nhiên, chiến thắng của họ đã mở đường cho việc thành lập Vương quốc Jerusalem.

Chia sẻ trang này