1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Ascalon

    Trận Ascalon diễn ra vào ngày 12 tháng 8 năm 1099, và thường được coi là trận chiến cuối cùng của cuộc Thập tự chinh đầu tiên.

    Bối cảnh


    Quân viễn chinh đã thương lượng với Triều Fatimid của Ai Cập về chuyến hành trình đến Jerusalem, nhưng không đạt được sự thỏa hiệp nào- Triều đình Fatimid đã sẵn sàng từ bỏ quyền kiểm soát Syria nhưng không chịu từ bỏ Palestine, nhưng điều này là không thể chấp nhận đối với quân viễn chinh vì mục tiêu của họ là Nhà thờ Thánh Sepulchre tại Jerusalem. Jerusalem đã bị chiếm từ Triều Fatimid ngày 15 tháng 7 năm 1099, sau khi một cuộc bao kéo vây dài, và ngay lập tức quân viễn chinh biết được rằng một đội quân Fatimid đang trên đường tới tấn công họ.

    Quân viễn chinh đã hành động một cách nhanh chóng. Godfrey của Bouillon được nhận danh hiệu Người bảo vệ Thánh Sepulchre vào ngày 22 tháng 7 và Arnulf của Chocques, trở thành giáo trưởng của Jerusalem vào ngày 01 tháng 8, ông này phát hiện ra một di tích của True Cross vào ngày 05 tháng 8. Sứ giả của Triều Fatimid đến nơi và yêu cầu quân viễn chinh phải rời khỏi Jerusalem nhưng họ đã bỏ ngoài tai. Ngày 10 tháng 8 Godfrey dẫn đầu lực lượng thập tự quân còn lại ra khỏi Jerusalem và hướng tới Ascalon, Một ngày tháng ba đi, trong khi Peter Hermit dẫn đầu các giáo sĩ Công giáo và Chính thống Byzantine trong một đám rước và cầu nguyện từ Nhà thờ Thánh Sepulchre đến Núi Temple. Robert II của Flanders và Arnulf đi kèm với Godfrey, nhưng Raymond IV của Toulouse và Robert của Normandy lại ở lại, có thể là họ lại có một cuộc tranh cãi với Godfrey hoặc vì họ thích nghe về quân đội Ai Cập từ các chư hầu của mình. Khi sự hiện diện của Ai Cập đã được xác nhận, họ cũng đã hành quân ngày tiếp theo. Ở gần Ramla, họ đã gặp được Tancred và Eustace-em trai của Godfrey, những người đã ở lại để chiếm lấy Nablus trong tháng trước. Theo sau người đứng đầu quân đội, Arnulf mang di tích của thập giá True Cross, trong khi Raymond của Aguilers mang các di tích của Holy Lance vốn đã được phát hiện tại Antioch trong năm trước.


    Trận chiến


    [​IMG]
    Tranh vẽ trận Ascalon nhưng mang tính chất ảnh thánh

    Quân của Triều Fatimids được dẫn đầu bởi tể tướng al-Afdal Shahanshah, người lúc này chỉ huy có lẽ có đến 50.000 quân (các ước tính khác là khoảng từ 20-30,000 đến 200.000 người theo phóng đại của Gesta Francorum). Quân đội của ông bao gồm người Seljuk Turk, Người Ả Rập, Ba Tư, Armenia, người Kurd và Ethiopia. Ông có ý định bao vây quân viễn chinh ở Jerusalem, mặc dù ông đã không mang theo các thiết bị máy móc công thành. Tuy nhiên có một hạm đội, cũng lắp ráp tại cảng Ascalon. Số lượng chính xác của quân viễn chinh là không rõ, nhưng số lượng được đưa ra bởi Raymond của Aguilers là 1.200 hiệp sĩ và 9.000 lính bộ binh. Con số ước tính cao nhất là 20.000 người nhưng điều này là chắc chắn không thể ở giai đoạn này của cuộc thập tự chinh. Al-Afdal đóng trại ở vùng đồng bằng al-Majdal trong một thung lũng ở bên ngoài Ascalon, chuẩn bị để tiếp tục hành quân đến Jerusalem và bao vây quân viễn chinh ở đó, dường như ông không biết được rằng quân viễn chinh đang tiến tới để tấn công ông ta. Ngày 11 tháng 8 của quân viễn chinh thấy các đàn bò, cừu, lạc đà và dê tụ tập xung quanh doanh trại của quân đội Fatimid, họ chăn thả gia súc bên ngoài thành phố. Theo những tù binh bị bắt bởi Tancred trong cuộc giao tranh ở gần Ramla, Các con vật này được mang đi với tác dụng là khuyến khích quân viễn chinh giải tán hàng ngũ để cướp bóc, làm cho triều Fatimid có thể tấn công dễ dàng hơn. Tuy nhiên, al-Afdal vẫn chưa biết được quân viễn chinh đã xuất hiện trong khu vực của mình và rõ ràng không mong chờ đợi họ. Và những con vật này đã tiếp tục xuất phát cùng với họ vào sáng hôm sau, làm cho quân đội của họ dường như đông hơn nhiều so với thực tế.


    [​IMG]
    Ảnh đồ họa mô phỏng trận Ascalon, quân Thập tự chinh mang chiếc Thánh giá True Cross đi đánh quân Hồi giáo triều Fatimid


    [​IMG]
    Hai bên dàn trận


    [​IMG]
    Và trận chiến

    [​IMG]
    bắt đầu

    Vào sáng ngày 12, trinh sát thập tự quân báo cáo về vị trí của trại Fatimid và quân đội Thập tự chinh đã hành quân về phía nó. Trong thời gian hành quân, quân viễn chinh đã được tổ chức thành chín lộ binh: Godfrey chỉ huy bên cánh trái, Raymond bên cánh phải, và Tancred, Eustace, Robert của Normandy và Gaston IV của Béarn tạo thành cánh trung quân, họ được chia thành hai đơn vị nhỏ hơn và một đơn vị bộ binh lại hành quân trước một đơn vị kỵ binh. Sự sắp xếp này cũng được sử dụng như là đội hình chiến đấu ở bên ngoài Ascalon, với cánh trung quân của quân Thập tự chinh ở giữa Jerusalem và Jaffa Gates, cánh phải ra đến tận bờ biển Địa Trung Hải và cánh trái đối diện với cổng Jaffa.


    Theo hầu hết các tài liệu (cả từ phía thập tự chinh và người Hồi giáo), quân Fatimid đã bị tấn công mà không kịp chuẩn bị trước và trận chiến diễn ra
    chỉ trong một thời gian rất ngắn, nhưng Albert của Aix lại nói rằng cuộc chiến kéo trong một số thời gian khá dài và quân đội Ai Cập đã được chuẩn bị khá tốt. Lực lượng chính của hai bên giao chiến với nhau bằng cung tên cho đến khi họ tiến vào đủ để chiến đấu tay đôi bằng giáo và các vũ khí cầm tay khác. Người Ethiopia tấn công vào đội hình trung tâm của quân thập tự chinh và đội quân tiên phong của Triều đình Fatimid đã có thể dùng mưu lừa quân viễn chinh và bao quanh hậu đội của họ cho đến khi Godfrey đến để giải cứu. Mặc dù có thế mạnh số đông, quân đội của al-Afdal lại dường như không thiện chiến và nguy hiểm bằng các đội quân Seljuk mà quân viễn chinh đã gặp phải trước đó. Cuộc chiến có vẻ như đã kết thúc trước kỵ binh hạng nặng Fatimid chuẩn bị để nhập cuộc. Al-Afdal và quân đội của ông ta quá hoảng sợ và bỏ chạy về phía thành phố vốn đã được tăng cường phòng ngự; Raymond đuổi theo và một số trong số họ chạy ra biển, những người khác leo lên cây và bị giết bằng cung tên, trong khi một số khác nữa lại bị dẫm đạp trong cuộc rút lui trở lại các cánh cổng của thành phố Ascalon. Al-Afdal bỏ lại doanh trại phía sau mình cùng với các đồ vật quý báu của ông ta, và cái trại này đã bị chiếm bởi Robert và Tancred. Không rõ Thập tự quân thiệt hại bao nhiêu người nhưng người Ai Cập mất khoảng 10-12,000 người.

    Hậu quả


    Quân viễn chinh nghỉ ngơi qua đêm ở trong chiếc trại bị bỏ lại và chuẩn bị cho một cuộc tấn công khác, nhưng vào buổi sáng họ đã thấy rằng quân Fatimid đã rút lui về Ai Cập, Al-Afdal bỏ chạy bằng tàu. Họ ( Thập tự quân) đã cướp phá nhiều như họ có thể mang, bao gồm cả các lều trại và các đồ dùng cá nhân của al-Afdal và đốt bỏ các phần còn lại. Họ trở về Jerusalem vào ngày 13 và sau nhiều lễ kỷ niệm chiến thắng cả Godfrey và Raymond đều tuyên bố sẽ chiếm Ascalon. Khi đơn vị đồn trú ( của Ai Cập) biết được sự tranh chấp giữa hai người, họ đã tuyên bố từ chối đầu hàng. Sau trận đánh, hầu như tất cả quân viễn chinh còn lại đều trở về nhà của họ ở châu Âu, ý nguyện hành hương của họ đã hoàn thành. Có lẽ chỉ còn vài trăm hiệp sĩ ở lại tại Jerusalem vào cuối năm đó, nhưng họ đã dần dần được củng cố bởi quân viễn chinh mới, lấy cảm hứng từ sự thành công của cuộc thập tự chinh ban đầu.

    Mặc dù trận chiến Ascalon là một chiến thắng của quân thập tự chinh, thành phố này vẫn nằm trong quyền kiểm soát của Triều đình Fatimid và cuối cùng nó lại được tăng cường các đơn vị đồn trú. Nó trở thành căn cứ hoạt động cho các cuộc xâm lược vào Vương quốc Jerusalem những năm sau đó và nhiều trận giao chiến lại xảy ra ở đó trong những năm tiếp theo, cho đến năm 1153 khi cuối cùng quân viễn chinh đã chiếm được nó trong Cuộc vây hãm Ascalon.

    Cuộc Thập tự chinh đầu tiên đã thành công trong việc thiết lập các "Thành bang thập tự chinh" như Edessa, Antioch, Jerusalem và Tripoli tại Palestine và Syria (cũng như các đồng minh dọc theo tuyến đường của cuộc Thập tự chinh, chẳng hạn như Vương quốc Cilicia của người Armenia-chẳng biết có phải vì người Armenia có truyền thống ủng hộ người Kitô giáo từ thời này mà trong Đại chiến I-khi người Thổ tuyên chiến với các nước phương Tây, họ đã thịt một lèo hơn một triệu người Armenia trong vùng kiểm soát của họ).

    Trở về nhà ở Tây Âu, những người sống sót từ Jerusalem được coi là những anh hùng. Robert của Flanders đã được mệnh danh là "Hierosolymitanus" để vinh danh những cống hiến của ông. Cuộc đời của Godfrey của Bouillon đã trở thành huyền thoại ngay chỉ sau khi ông chết một vài năm. Trong một số trường hợp, tình hình chính trị tại quê nhà đã bị bị ảnh hưởng rất nhiều bởi sự vắng mặt của những đại quý tộc khi họ phải tham gia thập tự chinh. Ví dụ trong khi Robert Curthose tham gia vào một cuộc thập tự chinh, ngai vàng của nước Anh đã được truyền cho người anh em của ông-Henry I của Anh quốc và kết quả tất yếu của cuộc xung đột giữa họ đã dẫn đến Trận Tinchebray trong năm 1106.

    Trong khi đó, việc thành lập các Thành bang thập tự chinh ở phía đông đã giúp giảm bớt áp lực của người Seljuk vào Đế quốc Byzantine, họ (người Byzantine) đã lấy lại được một số lãnh thổ của mình ở vùng Anatolia với sự giúp đỡ của quân thập tự chinh và họ đã có một khoảng thời gian tương đối hòa bình và thịnh vượng trong thế kỷ 12. Ảnh hưởng của các triều đại Hồi giáo ở phía đông là ngấm dần dần nhưng cực kỳ quan trọng. Sau cái chết của Malik Shah I trong năm 1092 các bất ổn chính trị và làm phân chia Đế quốc Đại Seljuk, ( chính Đế quốc này) đã gây sức ép bắt người Byzantine phải kêu gọi viện trợ từ Đức Giáo Hoàng, và họ ( người Hồi giáo ) cũng đã ngăn chặn được sự hung hăng và bành trướng của các tiểu quốc Latin (các Thành bang thập tự chinh ở phía đông). Sự hợp tác giữa họ ( người Hồi giáo ) là rất ít ỏi trong nhiều thập kỷ, nhưng từ khi từ Ai Cập cho đến Syria tới Baghdad đều đứng lên hưởng ứng lời kêu gọi trục xuất quân Thập tự chinh, đỉnh điểm là cuộc tái chiếm Jerusalem dưới sự chỉ huy của Saladin vào cuối thế kỷ 12 khi Vương triều Ayyubid đã thống nhất được các khu vực xung quanh Palestine.




    Cuộc Thập tự chinh trong năm 1101 ( Hậu của cuộc thập tự chinh lần một)


    Cuộc Thập tự chinh năm1101 là ba chiến dịch riêng biệt được tổ chức vào năm 1100 và 1101 do hậu quả từ thành công của cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Nó cũng được gọi là Crusade của-Faint Hearted do số người tham gia tham gia cuộc thập tự chinh này phần lớn là những người đã quay trở lại từ cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Cuộc Thập tự chinh năm 1101 xuất phát từ một phản ứng thành công của người Seljuk Turks vào cuộc Thập tự chinh đầu tiên, đó là việc người Thổ Nhĩ Kỳ đã đánh bại các đội quân thập tự chinh trong ba trận riêng biệt.

    Cuộc Thập tự chinh đầu tiên thành công đã nhắc nhở một lời kêu gọi tiếp viện cho Vương quốc Jerusalem mới được thành lập, và Đức Giáo Hoàng Paschal II, người kế nhiệm Giáo hoàng Urban II ( ông này đã chết trước khi có được kết quả của cuộc thập tự chinh mà ông đã kêu gọi), đã kêu gọi cho một cuộc thám hiểm mới. Ông đặc biệt kêu gọi những người đã chấp nhận lời thề chiến đấu nhưng chưa bao giờ khởi hành, và những người đã quay trở lại sau khi hành hương ( có võ trang). Một số người đã đào ngũ về nhà và phải đối mặt với một áp lực rất lớn để trở về phía đông; Adela của Blois, vợ của Stephen, Bá tước của Blois-người đã bỏ chạy khỏi Cuộc bao vây Antioch trong năm 1098, đã cảm thấy rất xấu hổ vì chồng bà ta và rằng bà ta sẽ không cho phép ông ở nhà ( dễ chừng bà này có bồ nên chỉ muốn đuổi chồng mình đi he he). Cả người giàu có và người nghèo đều muốn làm theo cách riêng của họ đến đến được Đất Thánh, để giải phóng đất thánh khỏi bàn tay của người dị giáo nhân danh Chúa Giêsu, họ muốn có cuộc sống vĩnh cửu trên thiên đàng sau khi họ đã chiến đấu và hy sinh vì Chúa, họ đã được crucesignati. Một số thì lại không thể chịu nổi sự khinh miệt khi họ nhận được ở nhà ( bị phỉ nhổ vì hèn nhát) và như với tất cả các cuộc thập tự chinh khác, hầu hết mọi người muốn rời khỏi đói nghèo và áp bức để tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn.

    Người Lombard

    Cũng như trong cuộc thập tự chinh đầu tiên, những chiến binh và người hành hương không kéo đi thành những đội quân lớn mà là trong một vài nhóm từ các miền khác nhau từ khắp Tây Âu. Trong tháng 9 năm 1100, một nhóm lớn người Lombard rời thành phố Milan. Đây là những nông dân chủ yếu chưa qua đào tạo quân sự, được dẫn đầu bởi Anselm IV, [FONT=&quot]Tổng-giám-mục [/FONT]của Milan. Khi họ đến lãnh thổ của Đế quốc Byzantine, họ đã cướp bóc nó một cách thiếu thận trọng và [FONT=&quot]Hoàng đế Byzantine [/FONT]Alexius I đã áp tải họ tới một doanh trại ở bên ngoài Constantinople. Điều này đã không đáp ứng được yêu cầu của họ và họ đã tràn vào trong thành phố, cướp phá cả cung điện Blachernae, thậm chí đã giết chết một con sư tử-con vật cưng của Alexius. Người Lombard đã được nhanh chóng được chở qua vịnh Bosporus và lập trại của họ tại Nicomedia để chờ quân tiếp viện.

    Vào tháng 5 năm 1101 tại Nicomedia họ đã được gia nhập bởi một đội ngũ nhỏ hơn nhưng mạnh hơn từ Pháp, Burgundy và Đức … dưới sự chỉ huy của Stephen của Blois, Stephen I, Bá tước của Burgundy, Eudes I, Công tước của Burgundy và Conrad-Hộ quốc công của Henry IV- Hoàng đế La Mã Thần thánh. Gia nhập với họ ở Nicomedia còn có Raymond IV của Toulouse, một trong những nhà lãnh đạo của cuộc Thập tự chinh đầu tiên, người lúc đó cũng đang phục vụ cho Hoàng đế (La Mã Thần thánh ). Ông được bổ nhiệm làm thủ lĩnh chung và một lực lượng lính đánh thuê người Pecheneg của Byzantine đã được gửi đi cùng với họ dưới sự chỉ huy của tướng Tzitas. Nhóm người này bắt đầu hành quân ra vào cuối tháng để đến Dorylaeum, sau khi tuyến đường được dọn sạch bởi Raymond và Stephen trong năm 1097 trong cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Họ đã lên kế hoạch tiếp tục hướng tới Konya, nhưng người Lombard, những người luôn tỏ ra vô kỷ luật hơn tất cả các đội ngũ khác, đã xác định đi xuống phía bắc để đến Niksar nơi Bohemond I của Antioch đang bị bắt giữ bởi người Danishmend. Sau khi chiếm được Ancyra vào ngày 23 tháng 6 năm 1101 và trả nó trở về với Alexius-Byzantine, quân viễn chinh lại tiến về phía bắc. Họ nhanh bao vây thành phố Gangra-nơi có rất nhiều quân đồn trú, và sau đó tiếp tục tiến về phía bắc để cố gắng chiếm Kastamonu -thành phố do người Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát. Tuy nhiên, họ đã bị tấn công từ người Seljuk Turk-những người đã quấy rối họ trong nhiều tuần và một toán đi tìm kiếm lương thực đã bị tiêu diệt vào tháng Bảy.

    Tại thời điểm này, trước sức ép của người Lombard, toàn bộ đội quân đã từ bỏ nơi trú chân an toàn có thể có ở bờ Biển Đen và một lần nữa di chuyển về phía đông, về phía lãnh thổ của người Danishmend và cố gắng cứu Bohemond. Tuy nhiên, người Seljuks dưới sự chỉ huy của Kilij Arslan I, ông này đã nhận ra rằng mất đoàn kết là nguyên nhân của sự thất bại của mình trong việc ngăn chặn cuộc Thập tự chinh đầu tiên, giờ đây đã liên minh với cả Danishmends và Ridwan của Aleppo. Trong đầu tháng 8 quân viễn chinh đã gặp một đội liên quân Hồi giáo tại Mersivan.

    Trận Mersivan

    Quân viễn chinh được tổ chức thành năm lộ binh: người Burgundy, Raymond và Byzantine, người Đức, người Pháp và người Lombard. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã gần như tiêu diệt toàn bộ quân đội của quân viễn chinh ở gần vùng núi Paphlagonia tại Mersivan. Vùng đất rất phù hợp với người Thổ Nhĩ Kỳ-nó khô và khắc nghiệt đối với kẻ thù của họ, và nó được mở ra với nhiều không gian cho các đơn vị kỵ binh của họ. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã quấy nhiễu những người Latinh trong một số ngày, cuối cùng sau khi chắc chắn rằng họ đã tiến vào nơi mà Kilij Arslan muốn họ chui đầu vào và đảm bảo rằng họ chỉ tìm thấy một lượng rất nhỏ lương thực và quân nhu.

    Trận chiến diễn ra trong vòng vài ngày. Vào ngày đầu tiên, người Thổ Nhĩ Kỳ chặn đứng những bước tiến của quân thập tự chinh và bao quanh chúng. Ngày hôm sau, Công tước Conrad dẫn đầu đội quân người Đức của mình trong một cuộc tấn công nhưng thất bại thảm hại. Không những họ không phá được thế trận của người Thổ Nhĩ Kỳ mà họ còn không thể quay trở lại đội hình chính của quân đội thập tự chinh và đã phải trú ẩn trong một tòa thành ở gần đó. Sự kiện này có nghĩa rằng họ đã bị cắt khỏi các nguồn quân lương, tiếp viện và thôngg tin liên lạc cho một cuộc tấn công có thể đã xảy ra, dịp mà người Đức đã có thể phô trương sức mạnh quân sự của họ.

    [​IMG]
    Các cung thủ Thổ nhĩ kỳ, sau những trận thua liểng xiểng người Hồi giáo bắt đầu biết được điểm yếu của Thập tự quân


    [​IMG]
    Đó là quân Thập tự chinh luôn phải tiến vào vùng sa mạc không có nước uống và lương thực, người Thổ không bao giờ còn muốn chiến đấu đối mặt với quân thập tự chinh nữa mà họ chỉ dùng lính cung kỵ-một vũ khí đặc biệt của họ để quấy rối và tiêu hao làm kẻ địch mệt mỏi rồi mới ra tay, tranh vẽ các cung kỵ Thổ nhĩ kỳ đang đánh nhau với người Pecheneg-lính đánh thuê của người Byzantine.


    [​IMG]
    Ngựa của người Châu Âu to khỏe có thể mang được một Hiệp sỹ với đầy đủ giáp trụ nhưng trên sa mạc thì chúng không thể so với những con ngựa nhỏ bé nhưng nhanh nhẹn của người Thổ và người Thổ cũng mặc giáp nhẹ hơn nhiều.

    [​IMG]
    Tranh vẽ kỵ binh Thổ nhĩ kỳ thế kỷ 11


    [​IMG]
    Tranh vẽ kỵ binh của người Arab ở thế kỷ thứ 11, mặc dù không ưa gì người Thổ nhưng sau này theo lời hiệu triệu của Salaedin họ đã cùng chung sức để đánh bật quân Thập tự chinh khỏi vùng đất thánh


    [​IMG]
    Tranh vẽ lính kỵ binh của triều đình Ai cập-đối thủ của Thập tự quân tại Gerusalem


    [​IMG]
    Kể từ khi người Thổ nắm được điểm yếu của Thập tự chinh thì không bao giờ họ còn có thể vượt qua vùng Anatolia mà không bị thiệt hại nặng nề, thậm chí là còn bị tiêu diệt hoàn toàn.

    Ngày thứ ba có phần nào yên tĩnh, với ít các cuộc giao tranh xảy ra hoặc không nghiêm trọng, nhưng vào ngày thứ tư quân viễn chinh đã nỗ lực phá vây để tự thoát khỏi cái bẫy mà họ đã chui vào. Quân viễn chinh đã gây ra tổn thất nặng nề cho người Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cuộc tấn công đã thất bại vào cuối ngày. Kilij Arslan đã được tăng viện bởi Ridwan hùng mạnh của xứ Aleppo và vương công Danishmend khác.

    Người Lombard ở đội tiên phong bị đánh bại, người Pechenegs đào ngũ và người Pháp và Đức cũng bị buộc phải quay trở lại. Raymond đã bị mắc kẹt trên một tảng đá và được cứu bởi Stephen và Conrad. Trận chiến vẫn tiếp tục vào ngày hôm sau, khi doanh trại của quân thập tự chinh bị tấn công và thất thủ và các hiệp sĩ phải bỏ chạy, để lại phụ nữ, trẻ em các linh mục bị giết hoặc bị bắt làm nô lệ. Hầu hết người Lombard-những người không có ngựa, đã sớm bị đánh bại và bị giết chết hoặc bị bắt làm nô lệ cho người Thổ Nhĩ Kỳ. Raymond, Stephen của Blois, và Stephen của Burgundy bỏ chạy về phía bắc đến Sinope và trở về Constantinople bằng tàu thủy.

    Người Nivernois

    Ngay sau khi đội ngũ người Lombard rời khỏi Nicomedia, một lực lượng độc lập dưới sự chỉ huy của William II-Bá tước của Nevers đến được Constantinople. Ông đã vượt qua tiến vào lãnh thổ của Byzantine trên Biển Adriatic từ thành phố Bari, và hành quân đến Constantinople mà không gặp sự cố gì, một điều bất thường đối với một đội quân Thánh chiến. Ông nhanh chóng hành quân để cứu viện cho những người khác, nhưng trên thực tế ông không bao giờ đuổi kịp với họ, mặc dù hai đội quân đã có nhiều lần suýt bắt kịp nhau. William đã có một thời gian ngắn bao vây thành phố Iconium (nay là Konya) Nhưng không thể chiếm được thành phố và ông đã ngay lập tức bị phục kích tại Heraclea Cybistra bởi Kilij Arslan, người vừa mới chỉ đánh bại người Lombard tại Mersivan và đã sẵn sàng để tiêu diệt những đội quân mới càng sớm càng tốt. Tại Heraclea gần như toàn bộ đội quân đến từ Nevers đã bị xóa sổ, ngoại trừ vị Bá tước và một vài người trong số tùy tùng của mình.

    Người Pháp và Bavaria

    Ngay sau khi William II rời Constantinople, một đội quân thứ ba đã kéo đến, dẫn đầu bởi William IX Bá tước của xứ Aquitaine, Hugh của xứ Vermandois (Một trong những người đã không hoàn tất lời thề của mình về cuộc Thập tự chinh đầu tiên) và Welf I, Công tước xứ Bavaria, cùng với Ida của nước Áo-mẫu thân của Leopold III của nước Áo. Họ đã cướp phá lãnh thổ Byzantine trên đường đến Constantinople và gần như đã nổ ra một cuộc xung đột với lính đánh thuê người Pecheneg ( của Byzantine ) được gửi đến để ngăn chặn họ cho đến khi William và Welf kịp can thiệp.

    Từ Constantinople, quân đội này chia đôi, một nửa đi trực tiếp đến Palestine bằng tàu thủy, trong số đó có sử gia Ekkehard của xứ Aura. Phần còn lại, đi du lịch bằng đường bộ và đến được Heraclea trong tháng 9 và cũng giống như đội quân trước, họ đã bị phục kích và tàn sát bởi Kilij Arslan. William và Welf trốn thoát, nhưng Hugh lại nằm trong số những người bị thương; số người sống sót cuối cùng đã đến được Tarsus, nơi mà Hugh đã chết ở đó vào ngày 18 tháng 10 ( biết thế thì cứ ở nhà mà mang tiếng xấu còn hơn he he ). Ida bị mất tích trong cuộc phục kích này và đã được cho là đã bị giết chết, nhưng theo truyền thuyết thì sau đó bà bị giam cầm và trở thành mẹ của Zengi-một kẻ thù lớn của quân viễn chinh trong những năm 1140, tuy nhiên điều này là không logic vì yếu tố thời gian ( bà ta quá già?).

    Hậu quả của cuộc Thập tự chinh năm 1101

    William Bá tước của Nevers cũng trốn thoát đến Tarsus và gia nhập vào phần còn lại của những người sống sót có cũng như Raymond của Toulouse. Dưới sự chỉ huy của Raymond họ đã chiếm được Tortosa (Tartous), với sự giúp đỡ từ một hạm đội Genova. Vào lúc này thì quân Thập tự chinh đã trở nên một giống như một đoàn hành hương nhiều hơn là chiến binh ( Họ đã kiệt quệ). Một số người sống sót đến được Antioch vào cuối năm 1101 và tại Lễ Phục Sinh của năm 1102 họ đến được Jerusalem. Sau đó nhiều người trong số họ chỉ đơn giản là quay về nhà, ý nguyện của họ đã được hoàn thành mặc dù một số khác vẫn còn ở lại để giúp vua Baldwin I phòng thủ chống lại một cuộc tấn công của Ai Cập ở Ramla. Stephen của Blois đã bị giết chết trong trận đánh này ( bít thí bác này cứ ở nhà nghe vợ nó tửi sướng hơn ), Hugh VI của Lusignan-Tổ phụ của triều đại Lusignan tương lai của Jerusalem và Cyprus cũng vậy. Joscelin của Courtenay cũng ở lại phía sau và sống sót để trở thành Bá tước của Edessa trong năm 1118.

    Thất bại của quân viễn chinh cho phép Kilij Arslan thành lập thủ đô tại Konya ( thủ đô cũ là thành phố Nicaea đã bị quân Thập tự chinh chiếm và giao cho người Byzantine), và cũng chứng tỏ với thế giới Hồi giáo rằng quân viễn chinh không phải là bất khả chiến bại như họ đã tỏ ra trong cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Quân Thập tự chinh và người Byzantine đổ lỗi cho nhau vì những thất bại này và lúc này không ai trong số họ có thể đảm bảo được một lộ trình an toàn đi xuyên qua vùng Anatolia khi mà Kilij Arslan đã củng cố được vị thế của mình. Lúc này con đường duy nhất đến vùng Đất Thánh là tuyến đường biển và điều này sẽ làm lợi cho các thành phố của Ý. Việc thiếu một con đường an toàn trên bộ từ Constantinople cũng làm lợi cho Công quốc Antioch, nơi mà Tancred đang nắm quyền thay cho Bohemond chú của ông, người cũng đã có thể củng cố quyền lực của mình mà không cần can thiệp của Đế quốc Byzantine.
    Các cuộc Thập tự chinh thứ hai và thứ ba đều gặp những khó khăn tương tự khi Thập tự quân cố gắng để vượt qua vùng Anatolia.
  2. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    thank bác, quá hấp dẫn

    mình đã đọc vài lần về các cuộc TTC do charlie Nguyễn viết nhưng mấy bài đó thiên về tôn giáo, không có phân tích mấy trận đánh như bài cua bác.
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7

    Cám ơn bác Macay3 đã ủng hộ nha, còn về phe Hồi giáo nữa em chưa viết được thôi cứ bổ xung dần vậy
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc Thập tự chinh lần thứ hai

    Tóm lược tình hình vùng Đất Thánh sau cuộc Thập tự chinh lần một

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Năm 1119. Quân đội của các thành bang thập tự chinh bị đánh bại tại trận Cánh đồng Đẫm máu.
    Năm 1121. Al-afdal-tể tướng của Vương triều Fatimid Aicập bị ám sát
    Năm 1122. Công tước Roceline của Edessa bị bắt bởi người Thổ nhĩ kỳ, cái chết của nhà cai trị người Hồi giáo Thổ nhĩ kỳ Ghazi Ibn Artuq II, thừa kế bởi Temur Tash Husam al-Din như là người cai trị Artuqi
    Năm 1123 Vua Baldwin II của Jerúalem bị bắt và giam giữ tại Harput ở miền Đông Anatolia, cái chết của Sultan Shah Ibn Ridwan-nhà cai trị người Saljuq ở Syria: atabeg Tughtakin trở thành nhà cai trị cuả Damacus.
    Năm 1124. Vua Baldwin II của Jerusalem được thả khỏi Harput ( trong tháng 6), bến cảng của thành phố Tyre thuộc Triều Fatimid thất thủ về tay Thập tự quân của Vương quốc Jerusalem ( tháng 7).
    Năm 1125. Quân đội Thổ nhĩ kỳ dưới sự chỉ huy của Aqsunqur al-Bursiqui bị đánh bại bởi vua Baldwin II của Gerusalem tại trận Azaz, Aqsunqur al-Bursiqui bị ám sát.
    Năm 1126. Bohemond II trở thành người cai trị của Công quốc Antioch.
    Năm 1127. Imad al-Din Zangi được chọn làm Thống đốc Mosul, ông ta đã chiếm được Nisibin, Sinjar và Harran tại vùng Jazira phía Bắc Mesopotamia.
    Năm 1128. Sự xuất phát của hàng loạt cuộc Thập tựchinh, Tughtigin của Damacus chết và được thừa kế bởi Buri Ibn Tughtigin. Imad al-Din Zangi chiếm Allepo.
    Năm 1129. Bá tước Fulk của Ạnjoụ cưới Melisande và được của hồi môn là thừa kế Jerusalem, quân Thập tự chinh tấn công Damacus không thành công.
    Năm 1130. Bohemond chết khi chiếm đấu với người Danismandid Turk, Alice-bà vợ góa của ông ta từ chối quy thuận bố đẻ của mình-Baldwin II vua của Jerusalem và kêu gọi Imad al-Din Zangi trợ giúp, Imad al-Din Zangi đánh bại liên quân thành bang Thập tự chinh và người Artuqid Turk chiếm Mardin phía đông nam Anatolia và Artharib phía bắc Syria.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Năm 1131. Vua Baldwin II của Jerusalem, Fulk của Anjou trở thành vua cùng với Melisende là nữ Hoàng của ông ta, Bá tước Jocelin ( xứ Courtenay) của Edessa chết, Sultan Mahmud II chết, kết quả là nổ ra nội chiến trong Đế quốc Đại Saljuq ( Iraq và phía tây Iran ngày nay).
    Năm 1132. Isma’il Buri trở thành Burid nhà cai trị của xứ Damacus, quốc vương Abbasid al-Mustarshid đánh bại Imad al-Din Zangi ở gần Samara.
    Năm 1134. Konya trở thành thủ đô của Vương quốc Rum của người Saljuq Turk ( ở vùng Anatolia), Amir Ghazi-nhà cai trị của Danishmanđi ( vùng phía bắc Anatolia) chết, ông ta được thừa kế bởi Muhamad Ibn Amir Ghazi.
    Năm 1135. Mahmud Buri trở thành nhà cai trị Burid của Da macus, Imad al-Din Zangi của Mosul chiếm Kafr Tab, Ma’arat al Nu’man và Atharib ở Syria nhưng thất bại trong việc chiếm Damacus, tranh cãi về quyền thừa kế và nội chiến nổ ra giữa Stephen và Matilda ở Anh Quốc..
    Năm 1136. Raymond của Poitiers cưới Constance và trở thành nhà cai trị Antioch.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Năm 1137. Hoàng đế Byzantine John Comnenus đánh bại vua Leo Roupenian người Armenian tại Cilicia, và tiến, Imad al-Din Zangi chiếm Montferrand từ tay quân Thập tự chinh, Bá tước Pons chết-Raymond II trở thành Bá tước của thành bang Tripoli.
    Năm 1138. Chiến dịch của Hoàng đế Byzantine John Comnenus để chống lại sự cai trị của người Hồi giáo ở Syria, Imad al-Din Zangi tránh đánh trận với quân đội Byzantine nhưng chiếm được quyền kiểm soát Him bằng hôn nhân.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Năm 1139. Mahmud Ibn Buri trở thành nhà cai trị Burid của Damacus, Hoàng đế John phát động chiến dịch chống lại người Danismandid Turk ở phía Đông Anatolia Imad al-Din Zangi chiếm vùng Ba’alka ở Lebannon nhưng đã thất bại trong việc chiếm Damacus.
    Năm 1140.Vua Fulk đối trận với Imad al-Din Zangi ở gần Dara’a ở phía nam Syria, Abaq Ibn Muhamad trở thành Buri, nhà cai trị Damacus, vào thánh Sau một trận động đất nổ ra ở Damacus tạo ra những phá hủy nghiêm trọng.
    Năm 1142. Imad al-Din Zangi tiếp tục chiến dịch chống lại người Kurd ở phía Tây nam Anatolia ( kể từ năm 1141), sự tan ra của vương quốc Danishmandid ở phía Đông của A natolia, sự tan rã của vương quốc Menguiekid Turk ở phía Bắc Anatolia, Hoàng đế Byzantine John Comnenus thất bại trong việc chiếm Antioch.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Năm 1143. Hoàng đế Byzantine John Comnenus chết khi đang tiến hành chiến dịch Cilicia, ông được thừa kế bởi Manuel-con trai mình , vua Fulk của Jerusalem bị giết tại Acre, được thừa kế bởi con trai ông ta-Baldwin III
    Năm 1144. Imad al-Din Zangi chiếm thành phố Edessa ( Urfa) và một nửa phía tây của Công quốc Edessa, Qara Arslan Fakhr al-Din trở thành vua của triều Artuqid của vùng Hisn Kayfa phía Đông nam Anatolia.
    Năm 1145. Quân nổi loạn người Armenia ở Cilicia bị đánh bại bởi người Byzantine, Bá tước Raymond của Antioch chấp nhận quyền bá chủ của Đế quốc Byzantine, Eugenius II trở thành Giáo hoàng La Mã và kêu gọi cho cuộc thập tự chinh thứ hai.
    Năm 1146. St Bernard của Clairvaux cầu nguyện cho quân thập tự chinh, tàn sát dân Do thái ở Rhineland, Imad al-Din Zangi bị ám sát, ông này được thừa kế bởi Sayf-Din Zangi I Ibn Zanghi tại Mosul, Atabar của Damacus chiếm quyền kiểm soát Ba’albak và ký hiệp ước liên minh với Hím và Hama. Vua Kondrad III của Đức quốc đồng ý tham dự cuộc thập tự chinh lần thứ hai, cuộc xâm lược của Manuel-Hoàng Đế Byzantine vào vương quốc Rum của người Turk Saljuq đã thất bại.Nur al-Din Mahmud Ibn Zangi trở thành người cai trị của Alepo, ataberg Anur của Damacus và Nur al-Din của Alepo đã nhất trí để ký một hiệp ước liên minh, và Nur al-Din cưới con gái của Anur, Thống đốc của vùng Hawran đưa ra đề nghị chuyển giao vùng Busra và Salkhad cho Vương quốc Jerusalem ( vào khoảng tháng 5 và tháng 6) Vua Baldwin III xâm lược vùng lãnh thổ của Damacus, Anur yêu cầu Nur al-Din giúp đỡ, họ cùng nhau chiếm lại vùng Busra và Salkhad khi mà quân đội của quân thập tự chinh rút lui, Giáo hoàng mở rộng Cuộc thập tự chinh lần thứ 2 sang vùng vịnh Iberia ( Tây ban nha và Bồ đào nha), người Bồ đào nha chiếm được Santarem ( vùng đệm- March), Giáo hoàng ủy thác cho một cuộc thập tự chinh của người Đức để chống lại người Wend dị giáo ( người Slav ở phía Tây) vào ngày 13 tháng 4, một đạo thủy quân của quân thập tự chinh lần 2 xuất phát từ Dartmounth ( cuối tháng 5), đạo bộ quân đầu tiên của quân thập tự chinh lần 2 bắt đầu Hành quân về phía Trung Đông ( khoảng tháng 5 và tháng 6), Giáo Hoàng Eugenius và Bernard của Clairvaux tổ chức một buổi lễ hào nhoáng ở Abbey of Saint-Denis để kỷ niệm ngày xuất phát của Vua Louis Vii, các chiến dịch của người German và Scandinavia để triệt phá người Wend ( tháng 7 -> 9), Thập tự quân người Đức dưới sự chỉ huy của Konrad III tới Constantinople ( vào ngày 10 tháng 9), Thập tự quân người Pháp dưới sự chỉ huy của Louis VII tới Constantinople ( vào ngày 4-5 tháng 10), quân Đức được chia thành nhiều đạo binh, Konrad III thống lĩnh lực lượng trung quân tiến về phía lãnh thổ của người Saljuq ( giữa tháng 10 ), thập tự quân chiếm thành phố cảng Almeria ở Bán đảo Iberia ( ngày 17 tháng 10), người Bồ đào nha và Hạm đội thập tự chinh của các quốc gia Bắc Âu công chiếm được Lisbon ( vào ngày tháng 10), thập tự quân người Đức dưới sự thống lĩnh của Konrad III bị đánh bại bởi người Saljuq Turk ở phía nam của Dorylaeum ( ngày 25 tháng 10), Konrad và thập tự quân người Đức hội binh với quân đội của Vua Louis, quân thập tự chinh người Đức và Pháp hành quân dọc theo bờ biển và đón mừng lễ Noel ở Ephesus, người Norman ở phía nam Ytalia tấn công vào lãnh thổ của Đế quốc Byzantine ở Hylạp.
    Năm 1148. Quân thập tự chinh người Pháp dưới sự chỉ huy của Louis VII đánh bại một cuộc phục kích của người Thổ ở gần con sông Meander ( ngày 1 tháng 1) nhưng đã bị thiệt hại nặng nề khi họ vượt qua các ngọn núi ở vùng Honaz Dagi ( vào khoảng ngày 8 tháng 1) trước khi đến được vùng Antalya ( ngày 20 tháng 1), hạm đội của quân Thập tự chinh căng buồm từ Lisbon đến Trung Đông ( ngày 1 tháng 2), Konrad III và quân thập tự chinh căng buồm từ Constantinople tới Acre ( đến nơi vào tháng 4), Louis và quân thập tự chinh người Pháp đi thuyền từ Antalya tới Antioch ( đến vào 19 tháng 3), hạm đội của miền Nam nước Pháp dưới sự chỉ huy của Bá tước Alphonse-Jordan của Toulouse đến được Arc ( vào mùa xuân). Alphonse-Jordan chết tại Caesarea, Vua Alphonso của xứ Leon và Castile thất bại khi tấn công Jaen ( vào tháng 4), ataberg Anur củaDa macus lại cầu xin Sayf al-Din của Mosul-người đã mang quân đội của mình để hội binh với quân của Nur al-Din tại Hims, quân thập tự chinh họp bàn ở Palmarea và quyết định tấn Damacus ( trong tháng 6), quân thập tự chinh đến được ngoại ô Damacus ( vào ngày 24 tháng 7), quân đội của Damacus đã cố gắng chặn không cho quân thập tự chinh vượt sông Barada nhưng họ đã bị đẩy lui, cuộc bao vây Damacus của quân thập tự chinh lần thứ 2 được bắt đầu vào ngày ( 24-> 28 tháng 7), thập tự quân từ bỏ cuộc bao vây Damacus và trở lại Vương quốc Jerusalem ( ngày 29 tháng 7), Vua Konrad III đi thuyền từ Acre ( 8 tháng 8) tới Thessalonika và lập một liên minh với Hoàng Đế Byzantine Manuel đển chống lại vua Roger của Sicily, người đã xâm lược lãnh thổ của Đế quốc Byzantine, phần lớn quân thập tự chinh người Pháp và Eleanor còn ở lại, người Genoese và Bá tước của Barcelona chiếm Tortosa ( 30 tháng 12), Vương quốc Aragon ( của người Kitô giáo) chiếm được vùng đồng bằng hạ Ebro ( 1148->9).
    Năm 1149. Konrad trở về Đức ( vào mùa thu ) bằng thuyền, Hoàng tử Raymond của xứ Antioch bị giết trong trận chiến tại Ain Murad ( 29 tháng 6), Louis và Eleanor đến được Sicily ( vào cuối tháng 7), Mu’in al-Din Anur, atabeg của Damacus chết ( 28 tháng 8), Sayf al-Din của Mosul chết và ông được thừa kế bởi Mawdud Qutb al-Din Ibn Zangi, Louis và Eleanor quay trở lại Pháp ( tháng 11).
    Năm 1151. Nur al-Din của Alepo công chiếm pháo đài cuối cùng của Quận quốc Edessa vốn lúc này đã không còn tồn tại.
    Năm 1153. Quân thập tự chinh của Vương quốc Jerusalem công chiếm thành công Ascalon, cứ điểm cuối cùng của Triều đình Fatimid ở Palestine.
    Năm 1154. Nur al-Din nắm quyền kiểm soát Damacus.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cuộc Thập tự chinh lần thứ hai (1145-1149) là cuộc thập tự chinh được bắt đầu từ châu Âu. Nó được bắt đầu trong năm 1145, để trả lời sự sụp đổ của Quận quốc Edessa vào tay lực lượng của Zengi trong năm trước. Quận quốc này được thành lập trong cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất (1095-1099) bởi Baldwin của Boulogne trong năm 1098. Nó là thành bang đầu tiên của quân Thập tự chinh được thành lập được thành lập và cũng là thành bang đầu tiên bị thất thủ.

    Cuộc Thập tự chinh thứ hai được tuyên bố bởi Đức Giáo Hoàng Eugene III và nó cũng là cuộc thánh chiến đầu tiên được dẫn dắt bởi các vị vua của châu Âu, cụ thể là Louis VII của Pháp và Conrad III của Đức, với sự giúp đỡ từ một số quý tộc quan trọng khác của châu Âu. Quân đội của hai vị vua đã hành quân một cách riêng rẽ trên khắp châu Âu. Sau khi vượt qua lãnh thổ của Đế quốc Byzantine để tiến vào vùng Anatolia, quân đội của cả hai nhà vua đã bị đánh bại một cách riêng rẽ bởi người Turk Seljuk. Theo nguồn tin chính của Thiên chúa giáo phương Tây-Odo của Deuil và Syriac Christian cho rằng Hoàng đế Byzantine Manuel I Comnenus bí mật cản trở sự tiến quân của quân viễn chinh, đặc biệt là ở Tiểu Á, nơi ông đã bị cáo buộc là đã cố ý cảnh báo cho người Thổ Nhĩ Kỳ để tấn công họ-quân Thập tự chinh ( đương nhiên đây là những lời chữa ngượng vì đến đợt thập tự chinh thứ 3 có cả ba vị vua lớn nhất của châu Âu: Vua Anh-Pháp-Đức thì quân thập tự chinh vẫn thua như thường). Louis và Conrad và tàn quân của họ đến được Jerusalem, và trong năm 1148, tham gia vào một cuộc tấn công theo một lời khuyên sai lầm vào Damascus. Cuộc thập tự chinh ở phía đông là một thất bại thảm hại cho quân viễn chinh và là một chiến thắng tuyệt vời đối với thế giới Hồi giáo. Cuối cùng nó có ảnh hưởng quan trọng đến sự sụp đổ của vương quốc Jerusalem và cuộc Thập tự chinh lần thứ ba vào cuối thế kỷ 12.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sự thành công duy nhất của cuộc Thập tự chinh lần thứ hai đến từ một lực lượng liên quân gồm 13.000 người Flemish, Frisian, Norman, Anh, Scotland và quân viễn chinh Đức trong năm 1147. Xuất phát bằng đường thủy từ Anh đến Đất Thánh, đội quân này đã dừng lại và giúp đội quân nhỏ bé hơn 7000 người của Bồ Đào Nha chiếm Lisbon và trục xuất người Moor ra khỏi đó.

    Cuộc vây hãm Edessa

    Cuộc vây hãm Edessa đã diễn ra từ ngày 28 -> 24 tháng 12 năm 1144, kết quả là sự sụp đổ của quận quốc của Quận quốc Edessa của thập tự chinh để Zengi, atabeg của Mosul và Aleppo.

    Bối cảnh


    Quận quốc Edessa là thành bang đầu tiên của quân thập tự chinh được thành lập trong khi diễn ra cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Nó ở xa nhất về phía bắc và là thành bang yếu nhất với ít dân cư nhất; nhưng nó luôn phải chịu các cuộc tấn công thường xuyên từ các quốc gia Hồi giáo xung quanh được cai trị bởi các Triều đại Ortoqid, Danishmend và Seljuk Turk. Bá tước Baldwin II và Bá tước tương lai Joscelin của Courtenay đã bị kẻ thù bắt tù binh sau những thất bại của họ ở trận Harran năm 1104. Cả Baldwin và Joscelin đã bị bắt lại lần thứ hai trong năm 1122 và mặc dù Edessa đã hồi phục phần nào sau trận Azaz năm 1125, Joscelin đã bị giết chết trong trận chiến của năm 1131. Người kế nhiệm ông Joscelin II đã buộc phải tham gia một liên minh với Đế quốc Byzantine, nhưng trong năm 1143 cả hai vị hoàng đế Byzantine John II Comnenus và Fulk xứ Anjou-vua của Jerusale đều qua đời. John II được kế vị bởi con trai ông Manuel I Comnenus, người phải đối phó và củng cố quyền lực tại quê nhà để chống lại người anh lớn tuổi của mình, trong khi Fulk được kế tục bởi vợ ông-Melisende và con trai của ông-Baldwin III. Joscelin cũng đã có những tranh cãi với Raymond II xứ Tripoli và Raymond xứ Antioch làm cho Edessa không còn có một đồng minh mạnh mẽ nào cả.

    Cuộc bao vây và tàn sát


    Năm 1144, Joscelin đã liên minh với Kara Aslan, người cai trị Vương quốc Diyarbakır Triều Ortoqid để chống lại sức ép và ảnh hưởng ngày càng tăng của Zengi. Joscelin hành quân từ Edessa với gần như toàn bộ quân đội của mình để hỗ trợ Kara Aslan tấn công Aleppo. Zengi đã lợi dụng cái chết của Fulk trong năm 1143 và vội vã tiến về phía bắc đến bao vây Edessa và đến nơi vào ngày 28. Thành phố này đã được cảnh báo về việc ông ta kéo quân đến và đã được chuẩn bị cho cuộc bao vây, nhưng họ có quá ít quân để có thể phòng thủ trong khi Joscelin và quân đội chính của Quận quốc lại ở nơi khác.

    Việc tổ chức phòng thủ thành phố được chỉ đạo bởi Hugh II-Đức Tổng-Giám-mục Latin, Giám-mục John người Armenia và Đức-Giám-mục Jacobite Basil. John và Basil đảm bảo rằng sẽ không có Kitô hữu bản địa nào đào ngũ sang phía Zengi. Khi Joscelin biết về cuộc bao vây, ông đã cho quân đội của mình dừng lại ở Turbessel, vì biết rằng ông không bao giờ có thể đánh bật được Zengi đi mà không có sự giúp đỡ từ các thành bang thập tự chinh khác. Tại Jerusalem Melisende đáp trả yêu cầu của Joscelin bằng cách gửi một đội quân được dẫn đầu bởi Manasses của Hierges, Philip của Milly và Elinand của Bures. Raymond của Antioch bỏ qua lời kêu gọi giúp đỡ, vì quân đội của ông này đang bận để chống lại đế quốc Byzantine ở Cilicia.

    Zengi cho bao vây toàn bộ thành phố, và nhận thấy rằng không có quân đội bảo vệ nó. Ông cho chế tạo tháp công thành và bắt đầu phá hủy các bức tường thành ( bằng cách đào hầm ngầm để làm sập tường thành ), trong lúc lực lượng của ông ta được người Kurd và Turcoman tiếp viện. Cư dân của Edessa chống cự ở mức họ có thể, nhưng họ không có kinh nghiệm trong việc chiến đấu giữ thành, các tòa tháp của thành phố không được bố trí phòng thủ đủ mạnh. Họ cũng không có kinh nghiệm về cách chống lại chiến thuật đào hầm ngầm và một phần của bức tường ở gần chiếc cổng Giờ (the Gate of the Hours ) đã sụp đổ vào ngày 24. Quân của Zengi đã xông vào thành phố và giết chết tất cả những người không thể chạy trốn vào Thành lũy Maniaces. Hàng ngàn người khác bị chết ngạt hoặc giẫm đạp đến chết vì hoảng sợ, kể cả Đức-Tổng-Giám mục Hugh. Zengi đã ra lệnh ngừng các vụ thảm sát, mặc dù ông đã cho hành quyết tất cả các tù nhân người Latin; các Kitô hữu bản địa được tha chết và được phóng thích. Thành lũy được bàn giao vào ngày 26. Một trong những chỉ huy của Zengi, Zayn ad-Din Ali Kutchuk, được bổ nhiệm làm thống đốc, trong khi Đức-Giám-mục Basil, dường như sẵn sàng dâng sự trung thành của mình cho bất cứ ai cai quản thành phố và ông được công nhận là lãnh đạo tinh thần của dân Kitô giáo tại Edessa.

    Hậu quả


    Trong tháng giêng năm 1145 Zengi chiếm giữ Saruj và bao vây Birejik, nhưng quân đội của Vương quốc Jerusalem cuối cùng đã đến và hội binh với Joscelin. Zengi nghe nói về có biến xảy ra tại Mosul ( vương quốc của ông ta ) và vội vã trở lại để kiểm soát nó. Ở đó ông ta được ca ngợi bởi tất cả người Hồi giáo như là "người bảo vệ của đức tin" và nhận danh hiệu al-Malik al-Mansur- vị vua chiến thắng. Ông không tiếp tục tiến hành một cuộc tấn công nào nữa trên lãnh thổ còn lại của Edessa, hoặc vào Công quốc Antioch, như người ta lo sợ. Joscelin II tiếp tục trị vì phần còn lại ở phía tây của Công quốc ở bên kia sông Euphrates từ Turbessel, nhưng dần dần phần lãnh thổ nhỏ bé còn lại của ông tiếp tục bị chiếm bởi người Hồi giáo hoặc bị bán cho người Byzantine.

    Zengi đã bị ám sát bởi một người nô lệ trong năm 1146, trong khi bao vây Qalat Jabar và Nur al-Din con trai ông trở thành quốc vương của Aleppo. Joscelin đã cố gắng để chiếm lại Edessa sau khi Zengi bị giết và ông đã lên kế hoạch để chiếm lại tất cả vào tháng 10 năm 1146. Tuy nhiên, ông không có được sự trợ giúp từ các thành bang thập tự chinh khác, và đoàn quân chinh phạt ít ỏi của ông bị đẩy ra khỏi Edessa bởi al Nur-Din trong tháng 11. Joscelin, lo sợ cho sự an toàn của Kitô giáo Armenia của thành phố và đã cố gắng đột phá, tạo một lỗ hổng trong vòng vây của Nur al-Din để người dân địa phương có thể chạy trốn đến an toàn. Tuy nhiên, nỗ lực của Joscelin đã thất bại và những nỗi lo sợ của ông đã thành sự thật khi quân của Nur al-Din đã tàn sát những người Armenia chạy trốn và bắt những người còn sống sót làm nô lệ.
    Đến thời điểm này, tin tức về sự sụp đổ của Edessa đã vang đến châu Âu và Raymond của Antioch đã gửi một phái đoàn bao gồm Hugh-Giám mục của Jabala, để tìm kiếm viện trợ từ Đức Giáo Hoàng Eugene III. Ngày 1 tháng 12 năm 1145 Eugene đã ban hành Sắc lệnh Quantum praedecessores kêu gọi cho cuộc Thập tự chinh thứ hai. Cuộc thập tự chinh này đã được chỉ huy bởi Louis VII của Pháp và Conrad III của Đức, nhưng nó đã kết thúc trong thảm họa trong năm 1148 và Edessa đã không bao giờ được khôi phục.
    v\:-* {behavior:url(#default#VML);} o\:-* {behavior:url(#default#VML);} w\:-* {behavior:url(#default#VML);} .shape {behavior:url(#default#VML);} Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc Thập tự chinh lần thứ 2 ở phương Đông


    (Cuộc thập tự chinh lần thứ 2 thực chất bao gồm ba cuộc Thập tự chinh riêng biệt, cuộc thập tự chinh ở phương Đông do vua Pháp và vua Đức tiến hành, cuộc thập tự chinh vào người Weds-Tây Slav ở trung Âu và cuộc Thập tự chinh ở Bồ đào nha-công chiếm Thành phố Lisbon. Người sưu tầm xin ưu tiên nói đến các cuộc Thập tự chinh ở phương Đông còn ở nơi khác xin bổ sung sau)

    Joscelin đã cố gắng để chiếm lại Edessa sau cái chết của Zengi, nhưng Nur ad-Din đã đánh bại ông ta trong tháng 11 năm 1146. Ngày 16 tháng 2 năm 1147 các thủ lĩnh của quân viễn chinh Pháp và Đức đã gặp nhau ở Étampes để thảo luận về lộ trình của họ. Người Đức đã quyết định đi đường bộ qua Hungary, vì tuyến đường biển là không thực tế bởi vì Roger II-vua của Sicily là một kẻ thù của Conrad. Nhiều người trong số các quý tộc Pháp không tin tưởng về con đường trên bộ, con đường sẽ đưa họ qua lãnh thổ của đế quốc Byzantine, sự khủng khiếp của nó vẫn còn được ghi trong tài liệu của quân Thập tự chinh lần đầu tiên. Tuy nhiên Conrad đã quyết định chọn con đường bộ và khởi hành vào ngày 15 tháng 6. Roger II bị xúc phạm ( ai thì không rõ- khả năng là Conrad) và từ chối không tiếp tục tham gia. Tại Pháp, cha tu viện trưởng Suger và Bá tước William II của Nevers được bầu làm nhiếp chính, trong khi nhà vua tham gia vào cuộc thập tự chinh. Tại Đức, những bài giảng mở rộng được thực hiện bởi Adam của Ebrach và Hồng y Otto của Freising cũng tham gia vào Thập tự chinh. Ngày 13 tháng 3 năm 1147, tại Frankfurt, Frederick -con trai của Conrad được bầu làm vua dưới sự nhiếp chính của Henry, Tổng–giám-mục của Mainz. 5 năm sau Conrad III được Frederick Barbarossa -cháu trai của ông (Frederick râu đỏ) làm người kế nhiệm. Người Đức có kế hoạch khởi hành vào Lễ Phục sinh nhưng đã không thể bắt đầu cho đến tháng 12 năm 1146.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Quá trình hành quân của người Đức

    Quân viễn chinh người Đức, đi kèm theo với người thừa kế của Giáo hoàng và hồng y Theodwin, dự định sẽ gặp người Pháp tại Constantinople. Ottokar III của Styria gia nhập với Conrad tại Vienna và Geza II vua của Hungary-đối thủ của Conrad cho phép họ đi qua lãnh thổ của mình mà không gây hề hấn gì. Khi quân Đức- khoảng 20.000 người đến được lãnh thổ Byzantine, Manuel đã lo sợ rằng họ sẽ tấn công ông ta và quân đội Byzantine đã được cảnh báo để đảm bảo rằng không có sự cố gì xảy ra. Có một cuộc giao tranh ngắn với một số trong những tay cứng đầu người Đức ở gần thành phố Philippopolis và Adrianople, nơi tướng Prosouch của Byzantine đã đánh nhau với Frederick-cháu trai của Conrad kiêm hoàng đế tương lai. Mọi thứ trở thành tồi tệ hơn khi một số binh sĩ Đức bị thiệt mạng trong một trận lụt vào đầu tháng Chín. Tuy nhiên vào ngày 10 tháng Chín, họ đã đến được Constantinople, nơi mà mối quan hệ ( giữa người Đức) với Manuel trở nên rất tệ và người Đức đã bị thuyết phục để vượt sang Tiểu Á càng nhanh càng tốt. Manuel muốn Conrad để lại một số quân của mình đằng sau, để hỗ trợ trong việc bảo vệ chống lại các cuộc tấn công của Roger II ( vua Sicily nhưng thực chất là người Norman), người đã nắm lấy cơ hội này để cướp bóc các thành phố của Hy Lạp, nhưng Conrad đã không đồng ý, dù ông này cũng là một kẻ thù của Roger. Tại Tiểu Á, Conrad quyết định không chờ đợi người Pháp nữa và quyết định tiến đến Iconium-thủ đô của Vương quốc Hồi giáo Rum của người Seljuk. Conrad chia quân đội của mình thành hai bán đội. Nhà vua Đức đích thân chỉ huy một trong số này và nó đã gần như bị hủy diệt hoàn toàn bởi người Seljuks vào ngày 25 tháng 10 năm 1147 tại trận Dorylaeum lần thứ hai ( có nguồn nói rằng người Đức bị thương vong đến 9/10 phần quân số, tức là 18.000 người lính, nhưng nguồn này không có dẫn chứng).

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trong trận chiến này, người Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng chiến thuật điển hình của họ là giả vờ rút lui và sau đó quay trở lại để tấn công lực lượng nhỏ kỵ binh của người Đức đã tách ra khỏi đội quân chính để truy đuổi họ. Conrad đã bắt đầu phải rút lui một cách chậm chạp về phía Constantinople và hàng ngày quân đội của ông liên tục bị quấy rối bởi người Thổ Nhĩ Kỳ, họ đã tấn công và đánh bại những toán lính Đức bị lạc ra khỏi đội hình của hậu quân. Ngay cả Conrad cũng đã bị thương trong một cuộc giao tranh với họ. Một bộ phận khác được dẫn đầu bởi Đức-Giám-mục Otto của Freising-người anh em cùng cha khác mẹ với nhà vua, lúc này cũng đang hành quân về phía nam tới bờ biển Địa Trung Hải và cũng đã bị đánh bại bằng một chiến thuật tương tự vào đầu năm 1148.

    Quá trình hành quân của người Pháp


    Quân viễn chinh người Pháp đã khởi hành từ Metz vào tháng Sáu năm 1147, dẫn đầu là các đại Quý tộc Louis và Thierry của Alsace, Renaut I của Bar, Amadeus III của Savoy và William V của Montferrat-người anh cùng cha khác mẹ của ông ta, William VII của Auvergne và những người khác, cùng với quân đội từ Lorraine, Britainy, Burgundy và Aquitaine. Một lực lượng từ Provence, do Alphonse của Toulouse chỉ huy đã chọn cách chờ đến tháng Tám và đi đến vùng đất Thánh bằng đường biển. Tại Worms, Louis gia nhập với các đạo quân viễn chinh từ Normandy và Anh quốc. Họ đã theo con đường mà Conrad đã đi qua một cách khá bình yên, mặc dù Louis đã có một cuộc xung đột với Geza (vua) của Hungary khi Geza phát hiện Louis cho phép người cướp ngôi Hungary gia nhập vào quân đội của ông ta. Các quan hệ (của người Pháp với người Đức và cả với người bản địa ) tại lãnh thổ Byzantine là rất tồi tệ và người Lorrain, những người đã hành quân vượt trước phần còn lại của quân Pháp, cũng đã rơi vào một cuộc xung đột với người Đức- những người đi chậm hơn ( so với đoàn quân chính của người Đức) mà họ gặp trên đường.

    Kể từ các cuộc đàm phán ban đầu giữa Louis và Manuel, Manuel đã cho tạm dừng các chiến dịch quân sự chống lại Vương quốc Hồi giáo Rum, và ký kết một thỏa thuận ngừng bắn với Sultan Mesud I-đối phương của ông. Thỏa thuận ngừng bắn này được thực hiện để Manuel được rảnh tay tập trung vào việc bảo vệ vương quốc của mình từ quân Thập tự chinh, những người đã nổi tiếng về các hành vi trộm cướp và phản bội từ khi cuộc Thập tự chinh đầu tiên và được bị nghi ngờ là có chứa những dự định độc ác với thành phố Constantinople. Tuy nhiên, mối quan hệ của Manuel với quân Pháp có vẻ tốt hơn so với người Đức và Louis đã được đòn tiếp một cách xa xỉ ở Constantinople. Một số người Pháp đã bị xúc phạm bởi thỏa thuận ngừng bắn của Manuel với người Seljuk và kêu gọi một thành lập một liên minh với Roger II và tấn công vào thành phố Constantinople, nhưng họ đã bị ngăn cản bởi Louis.

    [FONT=&quot]Khi các đội quân từ Savoy, Auvergne và Montferrat gia nhập với đội quân của Louis ở Constantinople, họ đã đi qua các tuyến đường xuyên qua nước Ý và qua Brindisi để đến được Durazzo, toàn bộ quân Pháp đã được vận chuyển qua eo biển Bosporus để Tiểu Á. Người Byzantine đã được khuyến khích bởi những tin đồn rằng quân Đức đã chiếm được Iconium, nhưng Manuel từ chối điều cho Louis bất cứ đội quân Byzantine nào. Người Byzantine đang bị xâm chiếm bởi Roger II của Sicily và tất cả quân đội của Manuel là rất cần thiết ở tại khu vực Balkan. Vì thế cả người Đức và người Pháp đã tiến vào phần đất châu Á mà không cần bất kỳ sự trợ giúp nào của Byzantine, không giống như các đội quân Tây Âu trong cuộc Thập tự chinh lần đầu tiên. Theo truyền thống của Alexios I-ông nội của ông để lại, Manuel cũng bắt người Pháp phải tuyên thệ là sẽ trả lại cho đế quốc ( Byzantine) bất cứ lãnh thổ mà họ chiếm được. [/FONT]Người Pháp đã gặp được tàn quân của Conrad tại Nicaea và Conrad gia nhập với lực lượng của Louis. Họ đã theo con đường của Otto của Freising ( anh em cùng cha khác mẹ với Conrad), di chuyển gần hơn tới bờ biển Địa Trung Hải, và họ đã đến được Ephesus trong tháng 12, tại đây họ biết được rằng người Thổ Nhĩ Kỳ đang chuẩn bị để tấn công chúng. Manuel cũng đã gửi sứ giả đến để phàn nàn về sự cướp bóc mà quân của Louis đã làm trên đường đi và không bảo đảm rằng người Byzantine sẽ giúp họ chống lại người Thổ. Trong khi đó, Conrad đã bị ốm và quay lại Constantinople, nơi Manuel đã đón tiếp cá nhân ông ta một cách long trọng và Louis, mà không có chú ý đến sự cảnh báo của ( người Byzantine) về những cuộc tấn công của người Thổ Nhĩ Kỳ, khi người Pháp và những người sống sót hành quân Đức ra khỏi Ephesus. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã chờ đợi để tấn công họ từ lâu nhưng trong một trận chiến nhỏ ở bên ngoài Ephesus người Pháp đã chiến thắng.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Họ đến được Laodicea vào đầu tháng 1 năm 1148, gần như cùng một lúc với thời gian quân đội của Otto Freising bị tiêu diệt tại cùng một vùng. Lại tiếp tục cuộc hành quân và đội tiên phong dưới sự chỉ huy của Amadeus xứ Savoy đã bị cắt với đội trung quân ở tại núi Cadmus và quân đội của Louis bị tổn thất nặng nề từ người Thổ Nhĩ Kỳ. Theo lời kể của Odo xứ Deuil thì bản thân Louis đã phải leo lên một tảng đá và người Thổ Nhĩ Kỳ đã không tấn công vì không nhận ra ông ta là ai. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã không tổ chức những đợt tấn công quyết liệt và người Pháp tiếp tục hành quân về phía Adalia trong khi liên tục bị quấy rối từ xa bởi người Thổ Nhĩ Kỳ, họ ( người Thổ Nhĩ Kỳ ) đã cho đốt cháy mặt đất để ngăn chặn việc người Pháp kiếm thêm lương thực cho người và ngựa của họ. Louis không còn muốn tiếp tục đi bằng đường bộ và ông đã quyết định tập hợp một hạm đội tại Adalia và giương buồm đi Antioch. Sau khi bị trì hoãn trong một tháng do bão tố, hầu hết tất cả các tàu được cử đi đã không đến được đích. Louis và các tùy tùng thân tín đã lên tàu và đi bằng đường thủy, trong khi phần còn lại của đội quân này phải tiếp tục hành quân một chặng dài đến Antioch. Quân Pháp đã gần như hoàn toàn bị tan rã bởi người Thổ Nhĩ Kỳ hoặc vì thiếu ăn và bệnh tật.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Hành trình đến Jerusalem

    Cuối cùng Louis đã đến Antioch vào ngày 19 tháng 3 sau khi bị trì hoãn do một cơn bão; Amadeus của Savoy đã qua đời vào ngày trên đường đi Síp. Louis đã được chào đón bởi Raymond của Poitiers-chú của Eleanor. Raymond muốn ông ta giúp để chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ và đi cùng với ông này (Raymond của Poitiers ) cho một chuyến viễn chinh chống lại Aleppo-một thành phố Hồi giáo vốn là cửa ngõ để đến Edessa, nhưng Louis đã từ chối, ông muốn kết thúc cuộc hành hương của mình ở Jerusalem thay vì tập trung vào các khía cạnh quân sự của cuộc thập tự chinh. Eleanor rất muốn đi theo Louis, nhưng chú của bà đã yêu cầu bà ta ở lại để mở rộng vùng đất của dòng họ và ly hôn Louis nếu nhà vua từ chối giúp đỡ những gì chắc chắn là mục tiêu về mặt quân sự của cuộc Thập tự chinh. Louis nhanh chóng rời Antioch đến Tripoli nhưng Eleanor đã bị giữ ở lại (Eleanor đã li dị Louis của Pháp và cưới Henry II-Công tước người Norman, người trở thành vua Henry II của Anh quốc. Sự kiện này cũng là một trong các nguyên nhân chính của chiến tranh trăm năm giữa Anh và Pháp vì Eleanor là nữ Bá tước vùng Aquitaine ). Trong khi đó, Otto của Freising và phần còn lại trong tờ trình của quân đội của ông đến Jerusalem vào đầu tháng Tư và Conrad đến ngay sau đó. Fulk-Giáo trưởng Jerusalem, đã gửi lời mời Louis cùng tham gia với họ. Đội tàu đã dừng lại tại Lisbon và trong khoảng thời gian này thì người Provençal cũng rời châu Âu dưới sự chỉ huy của Alfonso Jordan-Bá tước của Toulouse. Bản thân Alphonso đã không đến được Jerusalem vì ông qua đời ở Caesarea. Ông được cho là đã bị đầu độc bởi Eleanor của Aquitaine hoặc Raymond II của Tripoli, họ là những người cháu rất e sợ tham vọng chính trị của ông. Sự tập trung ban đầu của cuộc thập tự chinh là Edessa, nhưng mục tiêu mà vua Baldwin III và các Hiệp sĩ Templar quan tâm lại là Damascus.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Hội đồng quân sự ở Acre

    Các quý tộc ở Jerusalem hoan nghênh sự có mặt của quân đội đến từ Châu Âu và họ rằng nên tổ chức một hội đồng quân sự để quyết định đâu là mục tiêu tốt nhất cho quân viễn chinh. Sự kiện này diễn ra vào ngày 24 tháng 6 năm 1148, khi Cour Haute của Jerusalem ( đây tương tự như một nghị viện thời Trung cổ của Jerusalem ) gặp quân viễn chinh đến từ Châu Âu tại Palmarea-một thành phố lớn của ở Vương quốc Jerusalem của quân thập tự chinh ở gần Acre. Đây là cuộc họp ngoạn mục nhất trong sự tồn tại của nó (Cour Haute của Jerusalem) .

    Cuối cùng, (Hội đồng quân sự ở Acre ) đã quyết định phải tấn công thành phố Damascus, một đồng minh cũ của Vương quốc Jerusalem lúc này đã chuyển sang liên minh với người Zengid và tấn công thành phố Bosra vốn đang liên minh với Vương quốc Jerusalem trong năm 1147. Trong tháng 7 quân đội của họ ( Thập tự quân) được tập hợp tại Tiberias và hành quân đến Damascus bằng cách qua biển Galilee và Banyas. Có lẽ họ có tổng cộng 50.000 quân.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cuộc bao vây Damascus

    Cuộc bao vây Damascus đã diễn ra trong bốn ngày vào tháng 7 năm 1148, trong cuộc Thập tự chinh thứ hai. Nó đã kết thúc với một thất bại mang tính quyết định thập tự chinh và dẫn tới sự tan vỡ của cuộc thập tự chinh này. Như đã nói ở phần trên hai lực lượng người Kitô giáo được lãnh đạo bởi Louis VII của Pháp và Conrad III của Đức hành quân đến thánh địa để hưởng ứng lời kêu gọi Giáo hoàng Eugenius III và Bernard của Clairvaux về cuộc Thập tự chinh lần thứ hai. Cả hai ( quân Pháp và quân Đức) đều phải đối mặt với thảm họa bị tiêu diệt khi hành quân qua vùng Anatolia trong những tháng tiếp theo và phần lớn quân đội của họ đã bị phá hủy. Mục tiêu tập trung ban đầu của cuộc thập tự chinh là Edessa, nhưng ở Jerusalem, nhưng vua Baldwin III của Jerusalem và các Hiệp sĩ Templar lại muốn tấn công Damascus. Tại Hội đồng Acre, các Đại quý tộc từ Pháp, Đức và Vương quốc Jerusalem đã quyết định chuyển hướng của cuộc thập tự chinh đến Damascus.

    Thất bại thảm hại tại Damascus

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Quân viễn chinh quyết định tấn công Damascus từ phía tây, nơi mà Jerusalem sẽ cung cấp cho họ một nguồn quân lương ổn định. Họ đến Daraiya vào ngày 23 tháng 7 với đội tiên phong là quân đội của Jerusalem, theo sau là quân của Louis và hậu đội là quân của Conrad. Người Hồi giáo đã được chuẩn bị tốt để giáng trả các cuộc tấn công và liên tục quấy rối các đạo quân tấn công khi họ tiến qua các vườn cây ăn quả ở bên ngoài Damascus vào ngày 24 tháng 7. Các vườn cây ăn quả được bảo vệ bởi các tháp và các bức tường và các thập tự quân đã liên tục bị tấn công bằng cung tên và các mũi lao dọc theo những con đường hẹp.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Nhờ một đợt tấn công đầy nỗ lực do Conrad chỉ huy, quân viễn chinh mới đẩy lực lượng trở lại phía sông Barada và thành Damascus. Khi đến bên ngoài các bức tường của thành phố, họ ngay lập tức bố trí bao vây và sử dụng gỗ từ vườn cây ăn quả để làm các phương tiện công thành. Bên trong thành phố người dân đã ngăn các đường phố chính và chuẩn bị cho những gì họ tin là một cuộc tấn công không thể tránh khỏi. Unur đã tìm sự giúp đỡ từ Saif ad-Din Ghazi I ( vua) của Mosul và Nur ad-Din Zangi ( vua) của Aleppo, và bản thân ông cũng dẫn đầu một tấn công vào doanh trại của quân thập tự chinh, họ ( thập tự quân) bị lui đẩy trở lại từ bên ngoài các bức tường thành vào trong vườn cây ăn trái, nơi họ dễ bị phục kích và tấn công theo kiểu du kích. Theo William của xứ Tyre, ngày 27 tháng 7 thập tự quân quyết định chuyển đến đóng quân ở đồng bằng phía đông của thành phố nơi có ít các công sự ( của người Hồi giáo) hơn nhưng cũng lại ít lương thực và nước hơn.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Có những xung đột nổ ra trong nội bộ của cả hai phe: Unur không tin tưởng Saif ad-Din hoặc Nur ad-Din vì sợ rằng họ sẽ thuận tay dắt bò ( ý nói là nhân cơ hội này sau khi đẩy lui Thập tự quân họ sẽ chiếm luôn Damacus) và quân viễn chinh không thể nhất trí về việc ai sẽ tiếp quản thành phố nếu họ chiếm được nó. Guy Brisebarre-lãnh chúa của Beirut đề nghị để quyền quản lý lại cho các nhà lãnh đạo địa phương, nhưng Thierry của Alsace- Bá tước của Flanders lại muốn có nó cho chính mình và ông này lại được hỗ trợ bởi Baldwin, Louis và Conrad. Một số tài liệu đã ghi lại là Unur đã tìm cách mua chuộc các thủ lĩnh Thập tự quân để họ di chuyển đến một vị trí ít được phòng thủ hơn và rằng Unur đã hứa sẽ cắt đứt liên minh của ông với Nur ad-Din nếu quân viễn chinh quay về nhà. Trong khi đó Nur ad-Din và Saif ad-Din lúc này đã kéo đến Homs và đàm phán với Unur về quyền sở hữu Damascus, đây là điều mà cả Unur lẫn quân viễn chinh đều không muốn (Unur sợ bị mất đất mà Thập tự quân sợ bị tấn công từ đằng sau ). Dường như Saif ad-Din đã viết một lá thư cho quân viễn chinh và kêu gọi họ trở về nhà. Với việc ad Nur-Din đã vào vị trí chiến đấu thì quân Thập tự chinh không thể quay trở về vị trí tốt hơn của họ ( ở phía Tây thành phố). Các thủ lĩnh địa phương của quân thập tự chinh từ chối tiếp tục với cuộc bao vây và ba vị vua đã không còn lựa chọn nào khác và phải bỏ thành phố. Đầu tiên là Conrad sau đó là phần còn lại của quân đội, họ quyết định rút về Jerusalem vào ngày 28 tháng 7, mặc dù đã rút lui toàn bộ, họ vẫn bị đeo bám và quấy rối bởi các cung kỵ Thổ Nhĩ Kỳ.

    Hậu quả của cuộc Thập tự chinh lần 2

    Mỗi lực lượng Kitô giáo lại cảm thấy bị phản bội bởi một lực lượng Kitô giáo khác. Một kế hoạch mới đã được thực hiện để tấn công Ascalon và Conrad cùng quân đội của ông đã đến đó, nhưng không có lực lượng Thiên chúa giáo nào nữa và đến tham gia cùng ông, do sự thiếu tin tưởng lẫn nhau nên kết quả là cuộc vây hãm đã không thành công. Sự mất lòng tin lẫn nhau kéo dài sự thất bại trong một thế hệ, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của các vương quốc Kitô giáo trong vùng Đất Thánh. Sau khi dỡ bỏ vây ở Ascalon, Conrad trở về Constantinople để tiếp tục liên minh với Manuel ( để chống lại Roger II của Sicily ) còn Louis của Pháp quốc thì tiếp tục ở lại Jerusalem cho đến năm 1149.

    Quay trở về châu Âu, Bernard của Clairvaux ( người đại diện của Giáo Hoàng) coi thất bại là một sự nhục nhã. Bernard nhiệm vụ của mình là phải gửi một lời xin lỗi đến Giáo hoàng và nó được thêm vào phần thứ hai trong cuấn Book of Consideration của ông. Ông giải thích rằng chính những tội lỗi của quân viễn chinh là nguyên nhân của sự bất hạnh và thất bại của họ. Khi cố gắng của ông để kêu gọi một cuộc thập tự chinh mới không thành công, ông đã cố gắng tách mình ra khỏi sự thất bại của cuộc Thập tự chinh thứ hai. Ông chết vào năm 1153.

    Cuộc Thập tự chinh vào người Wendish ( Tây Slav) đạt được kết quả khác nhau. Trong khi người Saxon ( ở lục đia châu Âu-không phải ở nước Anh) khẳng định quyền sở hữu của họ ở Wagria và Polabia, người ngoại đạo lại vẫn giữ được quyền kiểm soát vùng đất Obodrite-phía đông của Lübeck. Người Saxon cũng nhận được phần thưởng từ giáo trưởng Niklot, đó là vùng lãnh địa Giám mục Havelberg , và họ đã phóng thích một số tù nhân người Đan Mạch. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Kitô giáo đã tỏ ra nghi ngờ các đối tác của họ và thường cáo buộc lẫn nhau về các chiến dịch phá hoại. Tại bán đảo Iberia, các chiến dịch tại Tây Ban Nha, cùng với cuộc bao vây thành công Lisbon được xem là những thắng lợi duy nhất của người Kitô giáo trong cuộc Thập tự chinh lần thứ hai. Chúng ( các chiến thắng này) được xem là những trận đánh then chốt để mở rộng phong trào Reconquista ( tái chinh phục Tây ban nha và Bồ đào nha về tay người Kitô giáo) ra rộng hơn nữa và phong trào này sẽ hoàn thành vào năm 1492.

    Ở phương Đông tình hình đã trở nên xấu hơn đối với các Kitô hữu. Tại Đất Thánh, cuộc Thập tự chinh lần thứ hai đã để lại hậu quả tai hại lâu dài cho Jerusalem. Damascus không còn tin vào các thành bang thập tự chinh nữa ( trước đây họ đã từng liên minh với người Kitô giáo để giữ cân bằng tại khu vực này ), và thành phố đã được bàn giao cho Nur ad-Din vào năm 1154. Baldwin III cuối cùng đã chiếm giữ Ascalon vào năm 1153, và đưa Ai Cập vào sâu hơn trong các cuộc xung đột. Vương quốc Jerusalem đã có thể đánh bại người Ai Cập và chiếm được Cairo trong một thời gian ngắn trong những năm 1160. Tuy nhiên, quan hệ với Đế quốc Byzantine thì lẫn lộn cả tốt lẫn xấu, và quân tiếp viện từ châu Âu lại rất thưa thớt sau thảm họa của cuộc Thập tự chinh lần thứ hai. Vua Amalric I của Jerusalem đã liên minh với người Byzantine và tham gia vào một cuộc xâm lược kết hợp vào Ai Cập trong năm 1169, nhưng cuộc viễn chinh cuối cùng đã không thành công. Năm 1171, Saladin-cháu trai của một trong những tướng lĩnh của Nur ad-Din, đã tuyên bố làm Sultan của Ai Cập và thống nhất Ai Cập với Syria và hoàn toàn bao quanh các vương quốc thập tự chinh. Trong khi đó liên minh với người Byzantine đã kết thúc với cái chết của hoàng đế Manuel I năm 1180 và năm 1187, Jerusalem đã phải đầu hàng trước Saladin. Sau đó lực lượng của ông này đã tràn lên phía bắc để chiếm tất cả các thành phố thủ phủ của các thành bang thập tự chinh còn lại và sự kiện này chính là nguyên nhân chính của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba.

  6. shinsaber

    shinsaber Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/04/2009
    Bài viết:
    1.644
    Đã được thích:
    483
    Hình ảnh minh họa 3D là lấy từ đâu vậy bác hongson?
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trên gúc đó bác, em coppy ra một đống nhưng quên mất trang nào rồi, à trang ign.com đó bác thử xem nha
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Khoảng thời gian giữa cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất và lần thứ hai


    Trong khoảng thời gia này đã xuất hiện những danh tướng tuyệt vời như Saladin của Ai Cập và đối thủ của ông-Baldwin IV-vua hủi thành Jerusalem. Trước khi bị bại trận trước Risa Sư tử tâm của nước Anh ( mặc dù những trận này cũng không hoàn toàn thay đổi được chiến cuộc) thì Saladin vĩ đại chỉ thua trận trước Baldwin IV và nếu người thanh niên chỉ sống đến có 22 tuổi này không đoản thọ thì không biết đến bao giờ người Hồi giáo mới chiếm được Jerusalem ( nếu bác nào đã xem cuốn phim Jeusalem thì ông này là nhân vật có đeo mặt nạ bằng vàng nhưng trên thực tế thì có thể chiếc mặt nạ chỉ là hư cấu)


    Saladin vị danh tướng-quân vương vĩ đại của người Hồi giáo

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Salah ad-Din Yusuf ibn Ayyūbi ( từ năm 1138 - Ngày 04 tháng 3 năm 1193), được biết đến trong thế giới phương Tây như là Saladin, là một người Kurd theo Hồi giáo, người trở thành Sultan ( Hoàng đế) đầu tiên của Vương triều Ayyubid của Ai Cập và Syria. Ông đã lãnh đạo phe Hồi giáo để chiến đấu với người Frank và những người châu Âu khác tại vùng Levant ( tên gọi khác của vùng Trung Đông). Ở đỉnh cao quyền lực của mình, ông đã cai trị Ai Cập, Syria, Mesopotamia ( Lưỡng Hà), Hejaz và Yemen. ( Buồn thay cho ông là người Kurd-con cháu của ông ngày nay lại không có tổ quốc)

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Ông đã lãnh đạo người Hồi giáo chống lại quân Thập tự chinh và cuối cùng chiếm lại được Palestine từ tay của Vương quốc Jerusalem của quân Thập tự chinh sau chiến thắng của ông trong trận Hattin, vì vậy ông là một tượng đài của người Kurd, người Ả Rập và văn hóa Hồi giáo. Saladin có một quan hệ chặt chẽ với người Hồi giáo Sunni và các đệ tử của tổ chức Qadiri Sufi thần bí ( chẳng biết có phải là giống Ninja của Nhựt Bủn không nhỉ). Những hành vi nghĩa hiệp của ông đã được ghi nhận bởi các sử gia Kitô giáo, đặc biệt là trong các tài liệu về cuộc bao vây Kerak ở Moab, và mặc dù là địch thủ của Thập tự quân ông đã giành được sự tôn trọng của rất nhiều người trong số họ, bao gồm cả Richard Lionheart ( vua Risa Sư tử tâm của nước Anh), thay vì trở thành một nhân vật đáng ghét ở châu Âu, ông đã trở thành một ví dụ nổi tiếng của quy tắc về tinh thần thượng võ của các Hiệp sỹ châu Âu.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Thời trẻ

    Saladin được sinh ra tại Tikrit, Iraq. Gia đình ông là một gia đình mang phong cách đặc trưng của người Kurd và có nguồn gốc từ thành phố Dvin ở vương quốc Armenia thời trung cổ. Cha của ông tên là Najm ad-Din Ayyu, đã bị trục xuất khỏi thành phố Tikrit năm 1139 , ông ( Saladin ) và chú của mình là Asad al-Din Shirkuh, chuyển đến Mosul. Sau đó ông tham gia phục vụ quân đội cho Imad ad-Din Zengi, người chỉ định ông làm chỉ huy pháo đài của ông ta ở Baalbek. Sau cái chết của Zengi năm 1146, Nur ad-Din con trai ông ta, trở thành nhiếp chính của Aleppo và thủ lãnh của vùng Zengids.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Thời trẻ Saladin sống ở Damascus nhưng thông tin về thời thơ ấu của ông thì khá là khan hiếm. Về giáo dục, Saladin đã viết rằng "trẻ em được nuôi dậy theo cách thức mà người lớn tuổi đã được hưởng" Theo al-Wahrani, một trong những người viết tiểu sử của ông thì Saladin có thể trả lời câu hỏi về toán học, số học và pháp luật nhưng đây là một ý tưởng chỉ mang tính truyền thuyết. Một số nguồn tin cho rằng trong quá trình học tập của mình, ông đã quan tâm nhiều về vấn đề tôn giáo hơn là quan tâm đến việc gia nhập quân đội. Một yếu tố khác có thể có ảnh hưởng quan tâm của ông về tôn giáo là cuộc Thập tự chinh đầu tiên, Jerusalem đã bị chiếm giữ bởi một cuộc tấn công bất ngờ của các Kitô hữu. Ngoài Hồi giáo, Saladin còn có kiến thức về các phổ hệ, tiểu sử và lịch sử của người Ả Rập, cũng như các giống ngựa Ả Rập. Quan trọng hơn ông thuộc lòng các bài thơ Hamasah của Abu Tammam ( thơ về lòng tự hào dân tộc của người Arab ).

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cuộc chinh phạt đầu tiên

    [FONT=&quot]Sự nghiệp quân sự của Saladin đã bắt đầu dưới sự giám hộ của người chú Asad al-Din Shirkuh của ông, ông này là một chỉ huy quân sự quan trọng dưới quyền của Nur ad-Din. Năm 1163, khi Shawar-vị tể tướng của [/FONT][FONT=&quot]al-Adid-vua[/FONT][FONT=&quot] triều Fatimid bị đuổi ra khỏi Ai Cập bởi Dirgham-đối thủ của ông ta và ông này cũng là một thành viên của bộ lạc Banu Ruzzaik hùng mạnh. Ông (Shawar ) đã yêu cầu sự ủng hộ bằng quân sự từ Nur ad-Din, ông này đã đồng ý và đã gửi Shirkuh ( chú của Saladin) đến để hỗ trợ cho Shawar trong để chống lại Dirgham trong năm 1164. Saladin lúc đó mới tuổi 26, đã đi cùng với đoàn quân chinh phạt. Sau khi Shawar thành công phục hồi chức vị tể tướng, ông yêu cầu Shirkuh rút quân đội của mình từ Ai Cập để đổi lấy một số tiền khoảng 30.000 dinar, nhưng ông này đã từ chối và khẳng định rằng Nur ad-Din muốn ông ở lại. Vai trò của Saladin trong cuộc viễn chinh này là rất nhỏ và người ta chỉ được biết rằng ông đã được lệnh của Shirkuh là phải thu thập đồ dự trữ từ Bilbais ( một thành phố pháo đài của Ai Cập) trước khi cuộc bao vây được tiến hành bởi một lực lượng liên quân của quân Thập tự chinh và quân đội của Shawar ( ông này đòi không được quay ra liên minh với Thập tự quân để chiếm lại đất của mình).

    [/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sau khi công chiếm Bilbais, lực lượng liên quân Ai Cập và Thập tự chinh đã giao chiến một trận lớn với lực lượng của Shirkuh trên vùng biên giới sa mạc của sông Nile ở phía tây Giza. Saladin đã đóng một vai trò quan trọng trong trận đánh này, ông chỉ huy cánh phải của quân đội Zengid, trong khi một lực lượng của người Kurd ở cánh tráivà Shirkuh chỉ huy trung quân. Tuy nhiên nguồn tài liệu của người Hồi giáo vào thời điểm đó lại nói rằng Saladin chỉ huy toán quân " vận chuyển hành lý ở trung quân" với nhiệm vụ là thu hút đối phương vào một chiếc bẫy bằng cách dàn dựng một cuộc rút lui giả vờ. Lực lượng Thập tự chinh đã thu được thành công thành ban đầu khi quân đội của họ tấn công vào Shirkuh, nhưng do địa hình quá dốc và cát trên sa mạc làm cho ngựa của họ không thể chạy nhanh và Hugh của xứ Caesarea-chỉ huy của họ đã bị bắt trong khi tấn công vào đội quân của Saladin. Sau những cuộc chiến rải rác trong các thung lũng nhỏ ở phía nam của vị trí trung quân, người Zengid tập trung lực lượng phản công ngược trở lại, Saladin tham gia cuộc phản công này từ phía hậu quân.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trận đánh kết thúc với chiến thắng thuộc về người Zengid và Saladin được cho là đã trợ giúp Shirkuh ở một trong những " những chiến thắng đáng được chú ý nhất trong lịch sử", theo sử gia Hồi giáo Ibn al-Athir, mặc dù quân của Shirkuh đã thiệt mạng nhiều hơn và thậm chí trận chiến được xem xét bởi hầu hết các nguồn khác lại không phải là một chiến thắng ( của Shirkuh). Saladin và Shirkuh chuyển hướng tới Alexandria, nơi họ được chào đón, cung cấp tiền, vũ khí và một căn cứ để đóng quân. Đối mặt của một lực lượng liên quân Thập tự chinh-Ai Cập đông đảo hơn đang cố gắng bao vây thành phố, Shirkuh chia quân đội của mình ra làm hai. Ông này và một số lớn quân của mình rút ra khỏi Alexandria trong khi Saladin đã được để lại ( với ít quân hơn) với nhiệm vụ bảo vệ thành phố.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tại Ai Cập

    Ở cương vị tể tướng của Ai Cập

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Shirkuh đã tham gia vào một cuộc tranh giành quyền lực ở Ai Cập với Shawar và Amalric I của Vương quốc Jerusalem, trong đó Shawar yêu cầu Amalric hỗ trợ. Năm 1169, Shawar được cho là đã bị ám sát bởi Saladin và Shirkuh qua đời một năm sau đó. Nur ad-Din đã chọn một người ( không biết ai) kế nhiệm cho Shirkuh, nhưng al-Adid ( vua của Triều Fatimid) lại bổ nhiệm Saladin làm tể tướng để thay thế Shawar.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Lý do đằng sau việc al Adid-một người theo Hồi giáo dòng Shia lại lựa chọn Saladin-một người theo dòng Sunni làm tể tướng ( người có thực quyền nhất trong vương quốc). Sử gia Hồi giáo Ibn al-Athir tuyên bố rằng vị quốc vương đã chọn ông sau khi nói với các cố vấn của ông rằng "không có một người nào yếu ớt hơn hoặc trẻ hơn" so với Saladin và "không có một người nào trong đám tiểu vương-emirs vâng lời ông ta hoặc phục vụ ông ta" Tuy nhiên cũng lại có một ý kiến khác là sau một số cuộc thương lượng và mặc cả, cuối cùng ông đã được chấp nhận bởi đa số các tiểu vương. Các cố vấn của Al-Adid bị nghi ngờ là cố gắng để chia rẽ vương quốc Zengid ở Syria bằng sự phong chức này. Al-Wahrani viết rằng Saladin đã được lựa chọn vì danh tiếng của "sự rộng lượng và sức mạnh quân sự" của ông ta trong họ. Imad ad-Din viết rằng sau thời gian ngắn tang lễ cho Shirkuh, bởi vì có quá nhiều các "ý kiến khác nhau"nên tiểu vương Zengid quyết định chọn Saladin và buộc quốc vương Ai Cập phải chấp nhận " ông ta là tể tướng" của mình. Mặc dù vị trí là nguyên nhân của những cuộc đấu đá phức tạp giữa các nhà lãnh đạo Hồi giáo, phần lớn những người cai trị Syria đã hỗ trợ Saladin trong chuyến viễn chinh Ai Cập của ông, và trong chiến dịch này ông đã thể hiện một trình độ quân sự đỉnh cao.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trở thành tể tướng vào ngày 26 tháng 3, Saladin đã sám hối "về việc uống rượu và bỏ những trang phục phù phiếm để mặc trang phục mang tính chất tôn giáo." Có được nhiều quyền lực hơn và trở nên độc lập hơn bao giờ hết trong sự nghiệp của mình, ông vẫn phải đối mặt với vấn đề về lòng trung thành cuối cùng giữa al-Adid và Nur ad-Din. Có một tin đồn là tại một cuộc gặp mặt bí mật giữa Nur ad-Din với Saladin và người ta đã trích dẫn câu nói ( của Nur ad-Din) là "làm thế nào anh dám [Saladin] làm bất cứ điều gì mà không có mệnh lệnh của ta?" Ông này (Nur ad-Din) đã viết nhiều thư cho Saladin để yêu cầu ông này không được từ bỏ sự trung thành của mình với chính ông ta ( Nur ad-Din).

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cuối năm đó, một nhóm binh sĩ Ai Cập và các tiểu vương đã cố gắng ám sát Saladin, nhưng biết được âm mưu này, ông đã cho xử tử Mu'tamin al-Khilafa quan điện tiền của Triều Fatimid, người cầm đầu âm mưu này. Ngày hôm sau, 50.000 binh sĩ người Phi từ các chiến đoàn trong quân đội Fatimid phản đối sự cai trị của Saladin đã cùng với một số tiểu vương người Ai Cập và dân thường tổ chức một cuộc nổi dậy. Vào ngày 23 tháng Tám, Saladin đã quyết dẹp yên những cuộc nổi dậy và không bao giờ phải đối mặt với một thách thức quân sự nào nữa từ Cairo.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Đến cuối 1169, Saladin với quân tiếp viện từ Nur ad-Din đã đánh bại một lực lượng liên quân lớn của quân Thập tự chinh và người Byzantine ở gần Damietta. Sau đó, vào mùa xuân năm 1170, Nur ad-Din cho gửi cha của Saladin đến Ai Cập theo yêu cầu của Saladin, cũng như khuyến khích từ al-Mustanjid, quốc vương của triều Abbasid ở Baghdad, họ ( Nur ad-Din và al-Mustanjid ) gây áp lực để ép Saladin phế truất al-Adid, vị quốc vương đối thủ của mình. Bản thân Saladin đã được tăng cường được thế lực của mình ở Ai Cập và mở rộng các căn cứ ủng hộ ông ở đó. Ông bắt đầu bố trí các thành viên trong gia đình của mình vào những vị trí cao cấp trong vùng và gia tăng ảnh hưởng của người Sunni tại Cairo, ông đã ra lệnh xây dựng một trường đại học cho người Hồi giáo Maliki-chi nhánh của Hồi giáo Sunni trong thành phố, cũng như một trường nữa cho nhóm Hồi giáo Shafi'i mà ông là thành viên ở al-Fustat.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sau khi đã vững chân ở Ai Cập, Saladin đã phát động một chiến dịch chống quân Thập tự chinh, bao vây Darum năm 1170. Vua Amalric phải rút những Hiệp sỹ dòng Đền của ông đang đồn trú ở Gaza đến để giúp ông ta bảo vệ Darum, nhưng Saladin đã lẩn tránh lực lượng của họ và thay vào đó là ông kéo quân vào Gaza. Ông cho phá hủy thị trấn được xây dựng bên ngoài lâu đài của thành phố và giết chết hầu hết các cư dân của nó vì họ không vào được tòa lâu đài. Không chính xác khi nào, nhưng cũng trong năm đó ông đã tấn công và chiếm được lâu đài của quân thập tự chinh ở Eila, đây là một pháo đài vốn được xây dựng trên một hòn đảo ngoài khơi Vịnh Aqaba. Nó là một mối đe dọa cho sự di chuyển của hải quân của người Hồi giáo, nhưng lại có thể quấy rối các đội tàu nhỏ hơn của họ và Saladin đã quyết định là phải xóa xổ nó trên con đường tiến quân của mình.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Làm Sultan của Ai Cập

    Theo sử gia Imad ad-Din, Nur ad-Din đã viết thư cho Saladin trong tháng 6 năm 1171, và nói với ông rằng hãy thiết lập lại vương quốc Hồi giáo Abbasid ở Ai Cập, sau đó ông lại được khuyến khích thêm bởi Najm ad-Din al-Khabushani, faqih- người cầm đầu tòa án Hồi giáo của Shafi'i, ông này đã kịch liệt phản đối việc dòng Hồi giáo Shia trị vì Ai Cập. Một số tiểu vương người Ai Cập đã bị giết chết vì chống đối, nhưng al-Adid ( vua Ai Cập lúc đó) lại được báo cáo rằng họ đã bị giết bởi nổi loạn chống lại chính ông ta. Ông này sau đó đổ bệnh hoặc bị đầu độc. Trong khi bị bệnh, ông ta hỏi Saladin cung cấp tiền cho mình để chăm sóc những đứa con nhỏ của ông ta, nhưng Saladin từ chối vì sợ rằng ông ta sẽ sự dụng số tiền này để chống lại triều Abbasids và ông ( Saladin) được cho là đã hối hận vì hành động của mình sau khi nhận ra những gì al-Adid muốn. Ông ta (al-Adid) qua đời vào ngày 13 tháng 9 năm 1171 tức là năm ngày sau đó, nhà Abbas khutba đã được lên ngôi ở Cairo và al Fustat, và tuyên bố al-Mustadi ( quốc vương Triều Abba ở Baghdad ) là quốc vương.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Ngày 25 Tháng Chín, Saladin rời Cairo để triển khai một cuộc tấn công phối hợp vào Kerak và Montreal, những lâu đài trên sa mạc của Vương quốc Jerusalem, còn Nur ad-Din thì sẽ tấn công từ Syria. Trước khi đến Montreal, Saladin đã rút lui vì nhận ra rằng nếu ông gặp Nur ad-Din ở Shaubak, ông sẽ không được quay trở lại Ai Cập vì Nur ad-Din sẽ giữ ông để kiểm soát lãnh thổ của Saladin. Ngoài ra, để vương quốc của người Thập tự chinh tồn tại như một quốc gia làm vùng đệm giữa Syria và Ai Cập, nó có thể đã sụp đổ nếu hai thủ lãnh của người Hồi giáo cùng tấn công từ phía đông và bờ biển. Điều này cũng sẽ trao cho Nur ad-Din cơ hội thôn tính Ai Cập. Saladin tuyên bố rằng ông rút lui vì tàn dư của Triều Fatimid âm mưu chống lại ông, nhưng Nur ad-Din đã không chấp nhận "mọi lý do"

    Trong mùa hè năm 1172, một đội quân người Nubian cùng với một đội quân khác người tị nạn Armenia trên biên giới Ai Cập, được hồi báo là đang chuẩn bị cho một cuộc bao vây chống lại Aswan. Vị tiểu vương của thành phố yêu cầu sự trợ giúp của Saladin và nhận được quân tiếp viện dưới sự chỉ huy của Turan-Shah- anh trai của Saladin. Do đó, người Nubians đã xuất phát, nhưng lại quay lại trong năm 1173 và lại một lần nữa bỏ đi. Có được sự kiện này là do lực lượng Ai Cập tiến về phía Aswan và chiếm được thị trấn Nubian của Ibrim. Mười bảy tháng sau cái chết của al Adid, Nur ad-Din đã không tiến hành bất kỳ hành động liên quan đến Ai Cập, mà ông dự định trả một số tiền 200.000 dinar mà ông đã nhận để sử dụng quân đội của Shirkuh để chiếm giữ đất nước này. Saladin trả khoản nợ này với 60.000 dinar bằng những " hàng hoá được sản xuất tuyệt vời", một số đồ trang sức, một con lừa giống tốt nhất và một con voi. Trong khi vận chuyển hàng hoá đến Damascus, Saladin đã có cơ hội để tàn phá các vùng nông thôn của quân thập tự chinh. Ông không tạo ra một cuộc tấn công trực tiếp chống lại những lâu đài sa mạc, mà cố gắng để xua người Hồi giáo Bedouins ( mấy bác này thì ai cũng chén hết bất kể là Hồi giáo hay Phật giáo) vào sống ở lãnh thổ của quân Thập tự chinh với mục đích làm người Frank mất phương hướng.


    Ngày 31 tháng 7 năm 1173, Ayyub-cha của Saladin bị thương trong một tai nạn cưỡi ngựa, cuối cùng dẫn đến cái chết của ông vào ngày 09 tháng 8. Năm 1174, Saladin đã cử Turan Shah đi để chinh phục Yemen và chiếm vùng Aden cho nhà Ayyubid. Yemen là một lãnh thổ dành cho hợp khẩn cấp, nơi mà Saladin có thể chạy trốn trong trường hợp xảy ra một cuộc xâm lược của Nur ad-Din.
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Mua lại Syria

    Chiếm Damascus

    Trong đầu mùa hè năm 1174, Nur ad-Din tập hợp một đội quân và gửi giấy triệu tập tới Mosul, Diyarbakir và al-Jazira với một mục đích rõ ràng là chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào Ai Cập của Saladin. Triều đại Ayyubid đã tổ chức một hội đồng để thảo luận về mối đe dọa có thể và Saladin thu thập quân đội của mình ở bên ngoài Cairo. Ngày 15 tháng 5, Nur ad-Din chết sau khi bị đầu độc và ngai vàng của ông đã được giao cho con trai mười một tuổi as-Salih Ismail al-Malik . Cái chết của ông đã làm cho Saladin có sự độc lập về mặt chính trị và trong một bức thư được cho là gửi Salih, ông hứa sẽ " như một thanh kiếm" để chống lại kẻ thù của mình và gọi cái chết của cha as-Salih như là một "cú sốc từ động đất".

    Với dư chấn từ cái chết của Nur ad-Din, Saladin phải đối mặt với một quyết định khó khăn, ông nên cho quân đội của mình hành quân chống lại quân Thập tự chinh từ Ai Cập hay chờ cho đến khi được mời bởi Salih ở Syria để đến viện trợ cho ông kia và khởi động một cuộc chiến tranh từ lúc đó. Ông cũng có thể chiếm Syria cho mình trước khi nó có thể có thể bị rơi vào tay đối thủ, nhưng ông sợ rằng tấn công vào một vùng đất trước đây thuộc về ông chủ của mình- là điều bị cấm trong các nguyên tắc của Hồi giáo mà ông đang theo-có thể miêu tả ông là đạo đức giả và do đó, ông không phù hợp để dẫn đầu cuộc chiến chống quân Thập tự chinh. Saladin thấy rằng để có được Syria, ông cần một lời mời từ như-Salih hoặc cảnh báo cho ông kia về tiềm năng của tình trạng hỗn loạn và nguy hiểm khi mà quân Thập tự chinh nổi được lên.

    Khi Salih bị ép chuyển đến Aleppo vào tháng Tám, Gumushtigin-vị tiểu vương của thành phố Aleppo kiêm chỉ huy trưởng của một đội chiến binh kỳ cựu của Nur ad-Din đã tự nhận làm người giám hộ cho Salih. Vị tiểu vương này chuẩn bị để lật đổ tất cả các đối thủ của mình tại Syria và al-Jazira, ông ta bắt đầu đầu tiên với Damascus. Trong trường hợp khẩn cấp này, tiểu vương của Damascus đã kêu gọi Saif al-Din (một người anh em họ của Gumushtigin) của Mosul để trợ giúp chống lại Aleppo, nhưng ông này đã từ chối buộc người Syria phải yêu cầu sự trợ giúp của Saladin và ông này đã nhận lời. Saladin cưỡi ngựa vượt sa mạc cùng với 700 lính kỵ binh đi qua al-Kerak và sau đó đến Bosra, ông được sự tham gia của các tiểu vương, chiến binh, người Kurd và người Bedouins. Vào ngày 23, ông đã tới Damascus giữa sự hoan hô nhiệt liệt của dân chúng và nghỉ ngơi tại ngôi nhà cũ của cha mình ở đó cho đến khi cửa của tòa thành của Damascus được mở ra để đón ông vào bốn ngày sau đó. Ông sống trong tòa lâu đài và nhận được sự kính trọng và lời chúc mừng của các công dân của thành phố.


    Các cuộc chinh phục xa hơn nữa


    Để anh trai của ông là Tughtigin làm Thống đốc Damascus, Saladin tiến quân để chiếm các thành phố khác vốn thuộc về Nur ad-Din, nhưng thực tế lúc này đã trở thành độc lập. Ông đã chiếm được Hamah một cách tương đối dễ dàng, nhưng phải lui quân trước Homs vì sức mạnh của bức tường thành của nó. Sau đó ông chuyển về phía bắc Aleppo và bao vây nó vào ngày 30 tháng 12 sau khi Gumushtigin từ chối thoái vị. Có vẻ như Salih đã hoảng sợ trước Saladin, nên đã đi ra khỏi cung điện của mình và kêu gọi người dân không từ bỏ ông ta và trao thành phố quân xâm lược. Một trong những tuyên bố của các sử gia của Saladin là "mọi người đi theo lời thần chú của ông"

    Gumushtigin yêu cầu Rashid ad-Din Sinan, đại sư phụ của Assassins ( tổ chức sát thủ) người đã có xung đột với Saladin kể từ khi ông thay thế triều Fatimids của Ai Cập, để ám sát Saladin trong doanh trại của ông. Một nhóm mười ba sát thủ của Assassins dễ dàng đột nhập vào doanh trại của Saladin, nhưng đã bị phát hiện ngay trước khi họ tiến hành cuộc tấn công. Một người bị giết bởi một viên tướng của Saladin và những người khác đã bị giết trong khi cố gắng trốn thoát. Để làm cho tình hình của ông ta thêm khó khăn, Raymond của Tripoli đã cho tập hợp lực lượng của mình ở Nahr al-Kabir nơi ông có một vị trí rất tốt để bắt đầu một cuộc tấn công vào lãnh thổ của người Hồi giáo. Sau đó ông chuyển về hướng phía Homs nhưng rút lui sau khi nghe nói có một lực lượng tiếp viện đã được gửi đến từ thành phố của Saif al-Din.


    Trong khi đó, các đối thủ của Saladin ở Syria và Jazira đã tiến hành một cuộc chiến tuyên truyền khi tuyên bố rằng ông đã "ông đã quên rằng ông là đầy tớ của Nur ad-Din " và cho thấy ông không có lòng biết ơn đối với chủ cũ của mình khi bao vây con trai của ông ta, và dấy lên " cuộc nổi loạn chống lại Chúa của mình ". Saladin nhằm để chống lại những lời tuyên truyền này bằng cách khởi động các cuộc bao vây để bảo vệ người Hồi giáo từ quân Thập tự chinh, quân của ông quay trở lại Hama và tấn công một lực lượng Thập tự quân ở đó. Các Thập tự quân rút đi từ trước đó và Saladin tuyên bố đó là "một chiến thắng mở cửa của trái tim của người Hồi giáo" Ngay sau đó, Saladin đã tiến đến Homs và chiếm được thành phố vào tháng 3 năm 1175, sau khi đánh bại những quân phòng thủ cứng đầu của nó.


    Những thành công của Saladin đã báo động đến Saif al-Din. Người đứng đầu các hậu duệ của Zengid bao gồm cả Gumushtigin, ông này coi Syria và Lưỡng Hà như là tài sản riêng của gia tộc và đã cực kỳ tức giận khi Saladin cố gắng để chiếm đoạt phần của họ. Saif al-Din tập trung một đội quân lớn và gửi nó đến Aleppo nơi quân phòng thủ đang lo lắng để chờ đợi họ. Các lực lượng kết hợp của Mosul và Aleppo đã hành quân để chống lại Saladin ở Hama. Ít hơn đối thủ rất nhiều, ban đầu ông cố gắng để thương lượng với những người thuộc dòng tộc Zengids bằng cách từ bỏ tất cả các cuộc chinh phục phía bắc của Damascus, nhưng họ đã từ chối và khẳng định rằng ông phải trở về Ai Cập. Thấy rằng một cuộc đối đầu là điều không thể tránh khỏi, Saladin chuẩn bị cho trận chiến, chiếm một vị trí cao hơn trên những ngọn đồi của các hẻm núi của con sông Orontes. Ngày 13 tháng 4 năm 1175, quân Zengid hành quân đến để tấn công lực lượng của ông nhưng ngay sau đó họ lại thấy mình bị bao quanh bởi các chiến binh Ayyubid kỳ cựu của Saladin và họ đã bị tiêu diệt. Trận đánh kết thúc với một chiến thắng quyết định cho Saladin, ông truy kích nhà Zengid đến tận cửa của Aleppo, buộc của các cố vấn Salih phải trao cho ông các tỉnh của Damascus, Homs và Hama, cũng như một số thị trấn bên ngoài Aleppo như al-Numan Ma'arat.


    Sau khi ông chiến thắng trước dòng tộc Zengid, Saladin tự xưng làm vua và xóa tên của Salih trong lời cầu nguyện Hôm thứ sáu và tiền đúc của Hồi giáo. Từ đó, ông ra lệnh cho những buổi cầu nguyện trong tất cả các nhà thờ Hồi giáo của Syria và Ai Cập như là một vị vua có chủ quyền và ông đã cho ban hành tại Cairo tiền vàng đúc tên của ông al-Malik an-Nasir Yusuf Ayyub, ala ghaya . Quốc vương Hồi giáo Abbasid ở Baghdad chào đón ân cần Saladin và tuyên bố ông là "vua của Ai Cập và Syria".


    Trận Hama đã không kết thúc cuộc tranh giành quyền lực giữa dòng Ayyubids và nhà Zengid, cuộc đối đầu cuối cùng xảy ra vào mùa xuân năm 1176. Saladin đã mang lực lượng của mình đến từ Ai Cập và quân của Saif al-Din là lính mới tuyển ở giữa các bang nhỏ của Diyarbakir và al-Jazira. Khi Saladin vượt qua Orontes để rời Hama, mặt trời đã khuất bóng và đây được xem là một điềm xấu nhưng ông tiếp tục cuộc hành quân về phía bắc của mình. Ông đến được núi của Sultan, 15 dặm (24 km) từ Aleppo, nơi mà lực ng của ông đã gặp phải quân đội của Saif al-Din. Một cuộc cận chiến nổ ra ngay sau đó và nhà Zengids đã cố gắng để đánh bại cánh trái của Saladin, đẩy họ về phía trước ông ta, trong khi ông tấn công trực diện về phía lực lượng cận vệ của nhà Zengid. Lực lượng của nhà Zengid đã hoảng sợ và nhất là khi các sỹ quan của Saif al-Din đã bị giết hoặc bị bắt sống, ông này (Saif al-Din ) cũng suýt tự trốn thoát. Doanh trại, ngựa nghẽo, hành lý, lều trại và đồ dự trữ của quân đội nhà Zengid đều bị chiếm bởi quân Ayyubids. Tuy nhiên các tù nhân nhà Zengid đã được phóng thích và trao quà tặng bởi Saladin và tất cả các chiến lợi phẩm trong chiến thắng của ông đã được chia cho quân đội, ông không giữ lấy một thứ gì cho chính mình.


    Ông tiếp tục hướng tới Aleppo lúc này vẫn đóng cửa trước mặt mình và tạm dừng trước khi đến thành phố. Trên đường đi, quân đội của ông đã chiếm Buza'a sau đó là Manbij. Từ đó họ hướng về phía Tây để bao vây pháo đài A'zaz vào ngày 15 tháng 5. Một vài ngày sau đó, trong khi Saladin đang nghỉ ngơi ở chiếc lều của mình, một sát thủ xông tới và đâm vào đầu ông bằng một con dao. Nhưng con dao đã không xuyên qua được chiếc mũ sắt của ông và ông đã cố gắng nắm được bàn tay của tên sát thủ và kẻ tấn công đã nhanh chóng bị giết chết. Saladin đã không bị mất bình tĩnh trước nỗ lực để lấy đi cuộc sống của mình, mà ông đã cáo buộc là âm mưu của Gumushtugin và Assassins và do đó ông cho tăng các nỗ lực trong cuộc bao vây.


    A'zaz đầu hàng vào ngày 21 và sau đó Saladin vội vã cho lực lượng của mình hành quân để trừng phạt Aleppo của Gumushtigin. Cuộc tấn công của ông lại một lần nữa thất bại, nhưng ông đã cố gắng để đảm bảo không chỉ là một thỏa thuận ngừng bắn mà là một liên minh với Aleppo, trong đó Gumushtigin và Salih được phép tiếp tục giữ thành phố này cho họ và ngược lại, họ công nhận Saladin có chủ quyền trên tất cả các lãnh địa mà ông đã chinh phục. Các tiểu vương của Mardin và Keyfa-đồng minh Hồi giáo của Aleppo, cũng công nhận Saladin là vua của Syria. Khi hiệp ước đã được ký kết, em gái của Salih đã được gửi đến chỗ Saladin để làm con tin và ông phải trả lại pháo đài A'zaz; điều kiện được tuân thủ và ông trả cô bé lại cho Aleppo với rất nhiều quà tặng.


    Trận chiến và thỏa thuận ngừng bắn với Baldwin

    Triều Ayyubids đã cho phép vua Baldwin chiếm được Ascalon và Gaza dựa trên lực lượng Hiệp sỹ dòng Đền mà không tiến hành bất cứ biện pháp phòng ngừa nào chống lại một cuộc tấn công bất ngờ. Mặc dù lực lượng Thập tự quân chỉ gồm 375 hiệp sĩ, Saladin đã do dự trong việc phục kích họ do có sự hiện diện của các võ sỹ có trình độ lão luyện. Ngày 25 tháng 11, trong khi phần lớn hơn của quân đội Ayyubid đã ở chỗ khác, Saladin và người của ông đã tấn công bất ngờ vào Tell Jezer ở gần Ramla. Trước khi họ có thể lập đội hình, lực lượng Templar (Hiệp sỹ dòng Đền) đã tấn công vào quân đội Ayyubid. Ban đầu, Saladin đã cố gắng tổ chức để những người của mình vào trận chiến, nhưng các vệ sĩ của ông đều bị giết, ông thấy rằng thất bại là không thể tránh khỏi và như vậy với phần còn lại của đội quân của mình, ông nhanh chóng nhảy lên lưng một con lạc đà chạy bán xới về lãnh thổ của Ai Cập.

    Không nản lòng bởi thất bại của ông tại Tell Jezer, Saladin đã chuẩn bị kỹ càng để chiến đấu chống lại quân Thập tự chinh lại một lần nữa. Vào mùa xuân 1178, ông đóng trại dưới các bức tường của Homs và một vài cuộc giao tranh xảy ra giữa quân đội của ông và quân Thập tự chinh, lực lượng của ông ở Hama đã giành được một chiến thắng trước kẻ thù của họ và mang chiến lợi phẩm, cùng với nhiều tù binh chiến tranh. Saladin đã ra lệnh cho chặt đầu các tù binh vì tội "cướp bóc và làm xú uế các vùng đất của các tín đồ sùng đạo" Ông dành phần còn lại của năm ở Syria mà không có một cuộc đối đầu nào với kẻ thù của mình.

    Trinh sát của Saladin báo cáo với ông rằng quân Thập tự chinh đang lập kế hoạch cho một cuộc tấn công vào Syria. Như vậy, ông ra lệnh cho Farrukh-Shah, một trong số các tướng lĩnh của ông bảo vệ biên giới Damascus với một ngàn chiến binh của mình để đánh chặn một cuộc tấn công, sau đó tìm cách hưu chiến và truyền tin cho ông bằng ánh sáng đèn hiệu trên những ngọn đồi mà Saladin sẽ diễu hành qua đó. Trong tháng 4 năm 1179, quân Thập tự chinh do vua Baldwin chỉ huy dự kiến sẽ không có đề kháng mạnh mẽ và chờ đợi để khởi động một cuộc tấn công bất ngờ vào khu chăn thả đàn gia súc của người Hồi giáo ở phía đông của cao nguyên Golan. Baldwin đã tiến quá xa khi truy đuổi Farrukh-Shah, lực lượng vốn được tập trung ở phía đông nam Quneitra và sau đó bị đánh bại bởi quân Ayyubids. Với chiến thắng này, Saladin đã quyết định gọi thêm quân từ Ai Cập, ông đã yêu cầu 1.500 kỵ sỹ được gửi bởi al-Adil.

    Vào mùa hè năm 1179, vua Baldwin đã thiết lập một tiền đồn trên đường đến Damascus và nhằm để củng cố một đoạn trên sông Jordan, tiền đồn này được gọi là Ford of Jacob, và pháo đài này đã kiểm soát việc tiếp cận đồng bằng Banias (đồng bằng này được phân chia giữa những người Hồi giáo và các Kitô hữu). Saladin đã trả 100.000 dinar vàng cho Baldwin để từ bỏ công việc xây dựng pháo đài vốn xâm phạm đến quyền lợi của người Hồi giáo nhưng vô ích. Sau đó ông giải quyết bằng cách tiêu diệt chiếc pháo đài này và cho di chuyển sở chỉ huy của mình về phía Banias. Khi quân Thập tự chinh vội vã lao ra để tấn công lực lượng Hồi giáo, họ rơi vào rối loạn với việc bộ binh bị tụt lại phía sau. Mặc dù có thành công ban đầu, họ đã quá ham truy đuổi người Hồi giáo và đủ để trở thành quá rải rác và Saladin đã lợi dụng thời cơ này để tập hợp quân đội của mình và tấn công vào quân Thập tự chinh. Trận chiến đã kết thúc với chiến thắng quyết định thuộc về Ayyubid và nhiều hiệp sĩ thất thủ đã bị bắt sống. Sau đó Saladin tiến lên bao vây pháo đài và nó thất thủ vào ngày 30 tháng 8 năm 1179.

    Vào mùa xuân 1180, khi Saladin ở trong vùng Safad, lo rằng sẽ có một chiến dịch mạnh mẽ nhằm vào Vương quốc Jerusalem, King Baldwin đã gửi sứ giả tới ông ta và đề nghị ký hiệp ước hòa bình. Do hạn hán và mất mùa làm đồ quân nhu của ông bị hao hụt, Saladin đã đồng ý một cuộc ngừng bắn. Raymond của Tripoli lên án cuộc ngưng bắn, nhưng đã buộc phải chấp nhận sau một cuộc đột kích của Ayyubid vào lãnh thổ của mình trong tháng 5 và sau khi có sự xuất hiện hạm đội hải quân của Saladin ở ngoài khơi cảng Tartus.

    Mở rộng Đế quốc

    Chinh phục nội địa Mesopotamian ( Lưỡng hà-Iraq ngày nay)

    Saif al-Din đã chết trước đó trong tháng 6 năm 1181 và anh trai của ông Izz al-Din kế thừa quyền cai trị Mosul. Ngày 04 tháng 12, thái tử của nhà Zengid, as-Salih đã chết ở Aleppo. Trước khi chết, ông đã bắt trưởng quan của mình thề trung thành với Izz al-Din, vì ông này là người cai trị nhà Zengid đủ mạnh để chống lại Saladin. Izz al-Din đã được chào đón ở Aleppo, nhưng đồng sở hữu nó và Mosul là quá tải đối với khả năng của ông ta. Vì thế ông giao Aleppo cho anh trai của ông là Imad al- Din Zangi để đổi lấy Sinjar. Saladin không đưa ra sự phản đối nào với những giao dịch này để tôn trọng hiệp ước trước đây của ông với nhà Zengids.

    Ngày 11 tháng 5 năm 1182, Saladin cùng với một nửa của quân đội Ayyubid Ai Cập và nhiều người phục vụ chiến đấu rời Cairo đến Syria. Vào buổi tối trước khi xuất quân, ông ngồi với bạn đồng hành của mình và là người đỡ đầu của một trong những con trai của ông rồi đọc một dòng thơ: "tận hưởng hương thơm của cây mắt bò của Najd, để sau buổi tối này sẽ không bao giờ còn dịp này nữa. " Saladin được mô tả như là biết trước một điềm xấu và ông không bao giờ được nhìn thấy Ai Cập một lần nữa. Biết rằng lực lượng của người Thập tự chinh đã dồn đến biên giới để ngăn chặn ông ta, ông đã chọn con đường qua sa mạc trên bán đảo Sinai để đến Ailah ở đầu Vịnh Aqaba. Không gặp đối thủ Saladin tàn phá vùng nông thôn của Montreal, trong khi lực lượng của Baldwin chỉ theo dõi mà từ chối can thiệp ( ông này vẫn còn tởn vì trận trước). Ông tới Damascus vào tháng 6 và được biết rằng Farrukh-Shah đã tấn công vào Galilee, chiếm Daburiyya và bắt Habis Jaldek, một pháo đài có tầm quan trọng rất lớn của quân Thập tự chinh. Trong tháng 7, Saladin cử Farrukh-Shah đi tấn công al-Hawa Kawkab. Sau đó vào tháng 8, triều Ayyubids phát động một cuộc tấn công bằng cả thủy bộ để chiếm Beirut, Saladin đã dẫn quân đội của mình tiến vào thung lũng Bekaa. Nhưng cuộc tấn công có vẻ trở nên là một thất bại và Saladin cho dừng chiến dịch để tập trung vào các vấn đề ở Lưỡng Hà.

    Kukbary, tiểu vương của Harran, mời Saladin đến và chiếm đóng khu vực Jazira, chiếm miền bắc Lưỡng Hà. Ông tuân thủ và các thỏa thuận ngừng bắn giữa ông và nhà Zengids nó chính thức kết thúc vào tháng 9 năm 1182. Trước cuộc hành quân của ông đến Jazira, căng thẳng đã tăng lên giữa những người cai trị nhà Zengid trong khu vực, chủ yếu liên quan đến việc họ không muốn trả tiền để chiều theo Mosul. Trước khi ông vượt qua Euphrates, Saladin bao vây Aleppo trong ba ngày để báo hiệu rằng cuộc ngưng bắn đã kết thúc.

    Sau khi ông đến Bira ở gần sông, ông đã bị tấn công bởi Kukbary và Nur al-Din của Hisn Kayfa và các lực lượng này cùng phối hợp để chiếm giữ thành phố Jazira đội quân này tiếp đội quân kia. Trước tiên, Edessa thất thủ tiếp theo Saruj và sau đó là ar-Raqqah, Karkesiya và Nusaybin. Ar-Raqqah là một cứ điểm quan trọng và được tổ chức phòng thủ bởi Qutb al-Din Inal, người đã bị mất Manbij trước Saladin ở năm 1176. Khi nhìn thấy số lượng lớn của quân đội của Saladin, ông đã có rất ít nỗ lực để chống lại và đầu hàng với điều kiện rằng ông sẽ giữ lại tài sản của mình. Saladin đã kịp thời tạo ấn tượng với các cư dân của thành phố bằng cách đưa ra một sắc lệnh rằng một số loại thuế sẽ được hủy bỏ và xóa tất cả các giấy nhận nợ và nêu rõ "người cai trị tồi tệ nhất là những người rất chất béo nhưng người dân của họ lại gầy" Từ ar-Raqqah, ông chuyển đến chinh phục al-Fudain, Husain al-, Maksim, Durain, 'Araban, và Khabur-tất cả đều đã thề trung thành với ông.

    Saladin chiếm được Nusaybin mà không hề có kháng cự. Là một thành phố cỡ trung bình, Nusaybin không quá quan trọng, nhưng nó lại được đặt tại một vị trí chiến lược giữa Mardin và Mosul và dễ di chuyển đến Diyarbakir. Trong bối cảnh gặt hái hàng loạt những chiến thắng, Saladin nhận được tin rằng quân Thập tự chinh lại đột kích vào các ngôi làng của Damascus. Ông trả lời: "Hãy để họ ... trong khi họ tấn công các làng mạc thì chúng ta lại chiếm các thành phố, khi chúng ta trở lại, chúng ta sẽ có tất cả các sức mạnh hơn nữa để chống lại chúng." Trong khi đó, ở Aleppo, tiểu vương của thành phố Zangi đã đột kích vào các thành phố của Saladin ở phía bắc và phía đông, chẳng hạn như Balis, Manbij, Saruj, Buza'a, al-Karzain. Ông cũng cho phá hủy thành phố A'zaz của riêng mình để ngăn chặn việc nó được sử dụng bởi quân Ayyubids nếu họ tái chiếm nó.

    Sở hữu Aleppo


    Saladin chuyển sự chú ý từ Mosul tới Aleppo, và cử anh trai của ông al-Mulk Taj để chiếm Tell Khalid, 80 dặm (130 km) về phía đông bắc của thành phố. Một cuộc bao vây đã được thiết lập, nhưng thống đốc của Tell Khalid đã đầu hàng khi bản thân Saladin xuất hiện vào ngày 17 tháng 5 trước khi một cuộc bao vây có thể diễn ra. Theo Imad ad-Din, sau Tell Khalid, Saladin đã đi một đường vòng về phía Bắc để đến Ain Tab, nhưng ông đã sở hữu được nó khi quân đội của ông hướng về phía nó, cho phép ông di chuyển nhanh chóng theo chiều ngược lại 60 dặm (97 km) về phía Aleppo. Ngày 21 tháng 5, ông đóng trại bên ngoài thành phố về phía đông của thành lũy của Aleppo, trong khi lực lượng của mình bao quanh các khu ngoại ô của Banaqusa ở phía đông bắc và Bab Janan ở phía tây. Ông cho quân của mình đóng gần thành phố một cách quá mạo hiểm, và hy vọng cho một thành công tức thì.

    Zangi đã không thể kéo dài sự kháng cự. Ông không được lòng dân và muốn trở về Sinjar của mình, thành phố mà trước đó ông đã cai trị và một cuộc đàm phán đã được tiến hành và Zangi sẽ bàn giao Aleppo cho Saladin để đổi lấy sự phục hồi quyền kiểm soát của ông với Sinjar, Nusaybin và ar-Raqqa. Zangi sẽ nắm giữ các lãnh thổ này như là chư hầu của Saladin về các điều khoản của phục vụ quân sự. Ngày 12 táng Sáu, Aleppo được chính thức đặt vào tay Ayyubid. Những người dân của Aleppo đã không được biết về các cuộc đàm phán và đã bị bất ngờ khi cờ hiêụ của Saladin được treo trên tường thành. Hai tiểu vương trong đó có một người bạn cũ của Saladin, Izz al-Din Jurduk, hoan nghênh và cam kết về sự phục vụ của họ với ông ta. Saladin thay thế quan tòa Hanafi bằng Thống đốc Shafi'i, mặc dù ông có một lời hứa là sẽ không can thiệp vào sự lãnh đạo tôn giáo của thành phố. Mặc dù ông đang thiếu tiền, Saladin vẫn cho phép Zangi khởi hành với tất cả các đồ dự trữ của thành phố mà ông ta có thể mang đi và bán phần còn lại cho Saladin.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    ( Saladin tiếp)

    Mặc dù có những do dự trước đó, ông không hề nghi ngờ gì về thành công của mình và nói rằng Aleppo là "chìa khóa để tiến vào các vùng đất" và "thành phố này là mắt của Syria và tòa thành là học trò của nó" Đối với Saladin, bản thân việc chiếm được thành phố đã đánh dấu sự kết thúc hơn tám năm chờ đợi kể từ khi ông nói với Farrukh-Shah "chúng ta đã chỉ làm công việc vắt sữa và Aleppo ( con bò sữa) sẽ là của chúng ta." Theo quan điểm của mình, bây giờ ông có thể đe dọa toàn bộ bờ biển của quân Thập tự chinh.

    Sau khi nghỉ một đêm tại của thành Aleppo, Saladin đã hành quân đến Ha-rim, nơi ở gần thành phố Antioch vốn nằm trong tay Thập tự quân . Thành phố này (Ha-rim ) đang được quản lý bởi Surhak, một "Mamluk trẻ tuổi-một đẳng cấp chiến binh có nguồn gốc là nô lệ trong thế giới Hồi giáo thời đó " Saladin đề nghị đổi thành phố Busra và tài sản tại Damascus để lấy Ha-rim, nhưng khi Surhak đòi hỏi thêm nữa thì chính quân đồn trú của ông tại Ha-rim đã buộc ông phải ra đi. Sau đó ông này bị bắt bởi Phó tướng của Saladin là Taqi al-Din và bị cáo buộc rằng ông đã lập kế hoạch để nhường Ha-rim cho Bohemond III của Antioch ( thủ lĩnh quân Thập tự chinh). Khi Saladin nhận đầu hàng của mình, ông ( Surhak) đã tiến hành sắp xếp việc phòng thủ Ha-rim trước quân Thập tự chinh. Ông cũng báo lại với vị quốc vương và thuộc cấp của mình tại Yemen và Baalbek ( vùng thuộc Lebannon ngày nay) khi họ đang hành quân để tấn công người Armenia. Saladin đã đồng ý một thỏa thuận ngừng bắn với Bohemond để đổi lấy các tù nhân Hồi giáo bị binh bắt tù bởi ông ta và sau đó ông đã giao thành phố A'zaz cho Alam ad-Din Suleiman và giao Aleppo cho Saif al-Din al-Yazkuj quản lý. Người đầu tiên vốn là một tiểu vương của Aleppo đã đi theo Saladin và và người thứ hai là một cựu Mamluk của Shirkuh, người đã cứu ông khỏi những âm mưu ám sát tại A'zaz.

    Chiến tranh với Mosul

    Khi Saladin đến gần Mosul, ông phải đối mặt với vấn đề tấn công vào trong một thành phố lớn và biện minh cho hành động của mình. Nhà Zengids của Mosul kêu gọi an-Nasir, tể tướng của triều Abbasid ở Baghdad ủng hộ họ. An-Nasir gửi Badr al-Badr (một nhân vật tôn giáo cao cấp) đến để hòa giải giữa hai bên. Saladin đến thành phố vào ngày 10 tháng 11 năm 1182. Izz al-Din đã không chấp nhận các điều khoản của ông vì ông này coi nó (các điều khoản của Saladin ) là không trung thực và đòi hỏi quá nhiều và Saladin ngay lập tức bao vây thành phố vốn có hệ thống phòng thủ hạng nặng.

    Sau một vài cuộc đụng độ nhỏ và bế tắc trong các cuộc bao vây được khởi xướng bởi vị quốc vương này, Saladin có ý định tìm một cách để rút lui khỏi cuộc bao vây mà không thiệt hại tới danh tiếng của mình trong khi vẫn giữ một số áp lực về quân sự. Ông quyết định tấn công Sinjar, giờ đây được quản lý bởi Izz al-Din Sharaf, anh trai của al-Din. Thành phố thất thủ sau một cuộc bao vây 15 ngày, đó là ngày 30 tháng 12. Các chỉ huy và binh sĩ của Saladin đã trở nên mất kỷ luật của họ và cướp bóc thành phố; Saladin chỉ bảo vệ viên thống đốc và các sỹ quan của ông này bằng cách gửi họ đến Mosul. Sau khi thiết lập một đơn vị đồn trú tại Sinjar, ông chờ đợi một liên minh được tập hợp bởi Izz al-Din bao gồm các lực lượng của chính ông ta, những người khác đến từ Aleppo, Mardin và Armenia. Saladin và quân đội của ông đã gặp quân liên minh ở Harran vào tháng Hai năm 1183, nhưng khi nghe thấy rằng ông ( Saladin ) đang đến gần, Izz al-Din gửi sứ giả đến Saladin để cầu hòa. Các lực lượng trở lại thành phố của họ.

    Ngày 02 tháng 3, al-Adil từ Ai Cập đã viết thư cho Saladin và báo rằng Thập tự quân đã tấn công các vùng "trung tâm của đạo Hồi." Raynald de Châtillon đã gửi tàu đến từ vùng Vịnh Aqaba để đột kích các thị trấn và làng mạc ngoài khơi bờ biển Hồng hải. Đây không phải là một nỗ lực nhằm mở rộng ảnh hưởng của Thập tự quân về phía miền duyên hải hoặc chiếm giữ các tuyến đường thương mại của họ ( người Arab Hồi giáo), mà chỉ đơn thuần là một động thái tựa như cướp biển. Tuy nhiên, Imad al-Din ghi các cuộc tấn công để báo động cho người Hồi giáo vì họ không quen với các cuộc tấn công từ phía biển và Ibn al-Athir cho biết thêm rằng người dân không có kinh nghiệm với Thập tự quân như các chiến binh hoặc thương nhân.

    Ibn Jubair đã cho biết, mười sáu chiếc tàu của người Hồi giáo đã bị đốt bởi quân Thập tự chinh, sau đó họ lại bắt giữ một con tàu và một đoàn hành hương tại Aidab. Ông cũng cho biết họ dự định tấn công Medina ( đất thiêng của đạo Hồi) và phá hủy l.ă.ng mộ Muhammad. Al-Maqrizi còn cho biết thêm có tin đồn là họ tuyên bố ngôi mộ Muhammad sẽ được chuyển đến lãnh thổ của thập tự quân và như vậy sẽ làm cho người Hồi giáo phải đến và hành hương ở đó. May mắn cho Saladin, al-Adil có tàu chiến của mình di chuyển từ Fustat và Alexandria đến Biển Hồng hải dưới sự chỉ huy của một lính đánh thuê người Armenia. Họ đã phá vỡ vòng phong tỏa của quân Thập tự chinh, phá hủy hầu hết các tàu bè của họ và truy kích bắt giữ những người đang thả neo và chạy trốn vào sa mạc. 170 Thập tự quân bị bắt tù binh và Saladin đã ra lệnh hành quyết họ ở các thành phố Hồi giáo.

    Từ quan điểm riêng của Saladin thì về lãnh thổ, cuộc chiến tranh chống lại Mosul đang tiến triển tốt, nhưng ông vẫn không đạt được mục tiêu của mình và quân đội của ông đã phải thu hẹp lại; Taqi al-Din đưa người của ông ta trở lại Hama, trong khi Nasir al-Din Muhammad và các lực lượng của ông này cũng rút lui. Điều này khuyến khích Izz al-Din và các đồng minh của mình tổ chức những cuộc tấn công. Quân liên minh lúc này tập hợp lại tại một địa điểm cách Harzam 90 dặm (140 km) từ Harran. Trong đầu tháng 4, không cần chờ đợi sự trở lại của Nasir al-Din và Taqi al -Din, Saladin bắt đầu tiến quân để tấn công quân liên minh, ông tiến quân về hướng đông để không bị ngăn cản bởi Ras al-Ein. Đến cuối tháng Tư, sau ba ngày kể từ ngày "chiến đấu thực sự" dưới sự chỉ huy của Saladin, quân đội Ayyubids đã chiếm được Amid. Ông bàn giao thành phố cho Nur al-Din Muhammad cùng với đồ quân nhu của nó-đó bao gồm 80.000 ngọn nến, rất nhiều mũi tên, và 1.040.000 cuốn sách. Để đáp lại Nur al-Din đã thề trung thành với Saladin, hứa sẽ theo ông trong mỗi chuyến chinh phạt trong cuộc chiến chống quân Thập tự chinh và cho sửa chữa các thiệt hại của thành phố. Sự sụp đổ của Amid, ngoài mặt lãnh thổ nó còn thuyết phục Il-Ghazi của Mardin chạy sang phe Saladin và làm suy yếu liên minh của Izz al-Din.

    Saladin đã cố gắng để có được các hỗ trợ của Quốc vương an-Nasir trong việc chống lại Izz al-Din bằng cách gửi cho ông một lá thư về một tài liệu mà có thể làm cho ông ta được biện hộ về mặt pháp luật khi tiếp quản Mosul và vùng lãnh thổ của mình. Saladin nhằm thuyết phục vị quốc vương tuyên bố rằng trong khi ông chinh phục Ai Cập và Yemen dưới lá cờ của triều Abbasids, nhà Zengids của Mosul công khai hỗ trợ người Seljuks (đối thủ của vương quốc Hồi giáo) và chỉ xuất hiện khi vị quốc vương yêu cầu. Ông cũng cáo buộc lực lượng của al-Din Izz gây rối công cuộc "Thánh chiến" của người Hồi giáo chống lại quân Thập tự chinh và nêu rõ "họ không thể chiến đấu ( chống lại quân Thập tự chinh, nhưng họ lại ngăn chặn những người có thể." Saladin bảo vệ hành vi của mình khi chính ông tuyên bố rằng đến Syria để chống quân Thập tự chinh, để tiêu diệt tổ chức sát thủ Assassins và để kết thúc những sai lầm ngớ ngẩn của người Hồi giáo. Ông cũng hứa rằng nếu Mosul được trao vào tay ông ta thì hậu quả của nó là thành phố Jerusalem, Constantinople, Georgia, và các vùng đất Almohad trong Maghreb "cho đến khi lời của Chúa là tối cao và vương quốc Hồi giáo Abbasid sẽ lan rộng ra khắp thế giới và biến nhà thờ Kitô giáo thành nhà thờ Hồi giáo. " Saladin nhấn mạnh rằng tất cả điều này sẽ xảy ra do ý muốn của Chúa và thay vì yêu cầu sự hỗ trợ tài chính và quân đội từ quốc vương nhà Abbasid, ông lại cho chiếm và chuyển giao cho họ lãnh thổ của Tikrit, Daquq, Khuzestan, Kish Island và Oman.

    Cuộc thánh chiến của Saladine chống quân Thập tự chinh


    Trận Hattin - Saladin chiến thắng
    Cuộc bao vây Jerusalem - Saladin chiến thắng

    Trận Montgisard
    - Vua Baldwin IV chiến thắng ( Sa ladin bị tiêu diệt 90% tổng số gần 3 vạn quân của mình)
    Trận Jacob's Ford
    - Saladin chiến thắng
    Trận Kerak
    - Vua Baldwin IV chiến thắng
    Trận Cresson
    - Saladin chiến thắng các hiệp sỹ dòng Đền

    Các trận chiến trong cuộc thập tự chinh lần thứ 3
    Cuộc bao vây Arce - Vua Richard the Lionheard chiến thắng
    Trận Arsuf - Vua Richard the Lionheard chiến thắng
    Trận Jaffa - Vua Richard the Lionheard chiến thắng

    Các trận đánh này sẽ được lần lượt giới thiệu ở các phần sau

    Quan hệ giữa Saladin và
    Richard the Lionheard của Anh quốc

    Các đội quân của Saladin tham chiến với quân đội của vua Richard trong trận Arsuf trong ngày 07 tháng 9 năm 1191, tại đó Saladin đã bị đánh bại. Mọi nỗ lực được thực hiện bởi Richard the Lionheart để chiếm lại Jerusalem đều thất bại. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Saladin và Richard là một trong những sự tôn trọng lẫn nhau giữa các hiệp sỹ và cũng như sự đối đầu của hai thủ lĩnh quân sự. Khi Richard bị mắc bệnh với triệu chứng sốt, Saladin đã gửi hai bác sĩ riêng của mình đến để điều trị cho ông ta. Saladin cũng đã gửi cho ông này những trái cây tươi được ướp trong tuyết lạnh để làm mát đồ uống như là một cách để điều trị bệnh ( nên nhớ là tại Trung Đông quân Thập tự chinh bị chết khát và nắng nóng nhiều hơn bị quân địch giết chết, vậy mà Saladin có tuyết để làm mát đồ uống thì đúng là Tần Thủy Hoàng rồi). Tại Arsuf, khi Richard bị chết mất con ngựa của mình thì Saladin đã gửi tặng ông này hai con thay thế. Richard đã đề xuất với Saladin rằng tại Palestine, Kitô giáo và Hồi giáo có thể có thể được chung sống qua cuộc hôn nhân của Joan của Anh quốc-chị gái của ông kiêm Nữ hoàng của Sicily với anh trai của Saladin và rằng Jerusalem có thể sẽ chở thành món quà cưới [ điều này không bao giờ được thực hiện]. Tuy nhiên hai người đàn ông không bao giờ gặp mặt một cách trực tiếp và giao tiếp giữa hai người đều qua văn bản thư từ hoặc bằng tin nhắn. [FONT=&quot]

    Như là các thủ lĩnh của các phe phái của mình, hai người đã đi đến một thỏa thuận trong Hiệp ước Ramla năm 1192, theo đó Jerusalem sẽ vẫn còn trong tay người Hồi giáo nhưng sẽ được mở cho các cuộc hành hương của người Kitô giáo. Theo Hiệp ước này thì các Thành bang Latin của người Thập tự chinh chỉ còn lại một dải dọc theo bờ biển từ Tyre đến Jaffa. Hiệp ước này đã được hai bên nhất trí tôn trọng trong ít nhất ba năm.
    [/FONT][FONT=&quot]
    Cái chết của Saladin
    [FONT=&quot]

    Saladin chết vì một cơn sốt trong ngày 4 tháng 3 năm 1193, tại Damascus, không lâu sau khi Richard khởi hành về Anh quốc. Tài sản riêng của Saladin tại thời điểm ông qua đời là 1 đồng tiền vàng và 47 đồng bạc. Ông đã cho phần tài sản lớn của mình cho những thần dân nghèo đói của mình và không có đủ tiền để trả cho đám tang của chính ông. Ông được chôn cất trong một l.ă.ng mộ trong khu vườn bên ngoài nhà thờ Hồi giáo Umayyad ở Damascus, Syria.

    Bảy thế kỷ sau đó, Hoàng đế Wilhelm II của Đức trao tặng chiếc quách bằng đá cẩm thạch mới ở [/FONT]
    [/FONT][FONT=&quot]l.ă.ng[/FONT][FONT=&quot] mộ của ông. Tuy nhiên Saladin lại không được đặt ở trong đó. Thay vào đó [/FONT][FONT=&quot]l.ă.ng[/FONT][FONT=&quot] mộ được mở cửa cho du khách, hiện nay có hai chiếc quách: một chiếc để trống làm bằng đá cẩm thạch và các chiếc kia được làm bằng gỗ có thể thực sự là dùng để an táng Saladin. [/FONT]
    [FONT=&quot]
    [/FONT]

Chia sẻ trang này