1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại của nhân dân Liên Xô

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi danngoc, 04/09/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    - Ông làm nhiệm vụ gì sau khi Phương diện quân Tây Bắc giải thể ?

    - À, cuộc chiến tiếp tục. Sau khi phần của Ukraine được giải phóng, các Phương diện quân (hay Cụm Tập đoàn quân) Ukrainian và Belarussian tiếp tục mở các chiến dịch tấn công. Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất được tổ chức ở Liên Xô gồm những người bị đưa từ Ba Lan tới Liên Xô đầu chiến tranh và sống ở phía tây Belarus và tây Ukraine. Nhưng tất nhiên, binh lính Soviet cũng được biên chế vào đó để tổ chức nên lực lượng vũ trang của Ba Lan. Sư đoàn số 1 nổi tiếng của quân đội Ba Lan, thành lập ở khu vực Ryazan, tham chiến lần đầu trong trận đánh ở Lenino, và đó là trận đánh khai sinh quân đội Ba Lan. Do đó, sau khi Phương diện quân Tây Bắc giải thể, tôi được điều động tới Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất.
    Là lính xe tăng nên tôi được cử tới ban Thiết giáp của sở chỉ huy Tập đoàn quân cho đúng sở trường. Tôi mặc quân phục Ba Lan, giống như bất cứ ai đi chiến đấu trong biên chế quân đội Ba Lan. Tôi không nói được mấy tiếng Ba Lan, nhưng tôi là dân Ukraina, hai ngôn ngữ này có nhiều điểm chung và đã có ích rất nhiều. Chỉ huy của chúng tôi là người Ba Lan, nhưng là một người Ba Lan Soviet, được sinh ra và chôn cất ở Leningrad, và ông ấy rất nghiêm khắc với nhưng ai không tiến bộ trong học tiếng Ba Lan. Thực tế là ông ấy đúng, biết tiếng Ba Lan rất có ích khi sau đó chúng tôi bắt đầu giao tiếp với người dân, với cán bộ chiến sĩ người Ba Lan, những người không nói được tiếng Nga, để huấn luyện quân sự cho họ, và tổ chức họ vào hàng ngũ quân đội Ba Lan chống Đức. Thời gian chúng tôi tiến tới Warsaw quân đội Ba Lan đã có một số sư đoàn và đang trong quá trình thử lửa. Họ được tổ chức thành một bộ phận của Phương diện quân Belarussia số 1 và số 2 dưới sự chỉ huy của Zhukov và Rokossovsky. Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất đã tham gia giải phóng Warsaw, Poznan, Gdansk và toàn bộ vùng Pomerania. Quân đội Ba Lan được trang bị xe tăng, pháo cùng các vũ khí khác giống như quân đội Soviet. Do đó làm nhiệm vụ ở đây cũng không khác như trong Hồng quân.

    - Người Ba Lan đối xử với quân Đức thế nào ?

    - Thái độ của họ rất cứng rắn (Theirs was a very principled attitude). Người Ba Lan bị xúc phạm và đau đớn vì họ là nạn nhân đầu tiên của bọn phát xít xâm lược, đó là quốc gia đầu tiên bị Đức chiếm trong chiến dịch ?oDrang nach Osten? (Đông tiến). Vì thế người Ba Lan tự mình trả thù quân Đức vì Warsaw bị tàn phá, vì những Warsaw ghetto (khu tập trung Do Thái), vì cuộc khởi nghĩa Warsaw bị đàn áp. Thực tế thủ đô của Ba Lan gần như chỉ còn là đống đổ nát. Đôi khi họ không khoan dung với quân Đức còn hơn cả Hồng quân. Nhưng sau này, khi chúng ta (chỉ Hồng quân Soviet-TS) sắp chiến thắng trong cuộc chiến và có thể khoan dung hơn nhiều, thì quân Ba Lan lại đang chiến đấu trên chính lãnh thổ của họ, điều đó làm mọi thứ khác đi đối với họ. (But then, we were about to win the war and could afford to be lenient at times, while the Polish Army fought on their own territory, which made things different for them).

    - Ông nhớ rõ điều gì về thời kỳ này (What do you remember of that period of war)?

    - Tôi có nhớ một câu chuyện thú vị. Ở Pomerania, khi quân ta đang tiến tới sông Order, quân Đức cố tìm cách rút quân khỏi Ba Lan và vượt sang bờ tây của sông để lợi dụng nó như một chướng ngại vật thiên nhiên ngăn cản quân đội Soviet tiến vào Đức. Chúng tôi được lệnh không cho quân Đức rút lui và bắt chúng làm tù binh ở Ba Lan.
    Biên giới Pomerania nằm trên biển Baltic, nên bọn phát xít cố dùng tàu và thậm chí thuyền nhỏ để chạy trốn. Vì vậy trung đoàn xe tăng số 1 (trang bị xe tăng hạng nặng) được lệnh chiếm và không cho quân Đức rút về phía tây. Trung đoàn ra đi và mất tích. Họ không trả lời điện đài từ sở chỉ huy, và điều làm mọi thứ trở nên tồi tệ, một trung đoàn xe tăng không có đơn vị bộ binh nào đi đi kèm, chỉ toàn lính tăng, nên họ thậm chí không thể cử liên lạc (dispatch rider) về. Họ không có cả người để bảo vệ xe tăng. Và đó là trung đoàn xe tăng hạng nặng duy nhất của Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất. Chúng tôi phải khoanh vùng nơi mất liên lạc với trung đoàn ở Pomerania, nơi đang đầy những đơn vị lộn xộn của Đức (roaming Germans) và các đơn vị Soviet đang tiến quân. Do đó tôi được lệnh sử dụng B-1, một đơn vị nhỏ xe bọc thép chở quân để tìm ra trung đoàn. B-1 có thể chứa 2 người, lái xe và trưởng xe trong một tháp pháo nhỏ. Chúng tôi rời đi lúc chập tối, và chúng tôi chỉ có một định hướng rất chung chung về lộ trình của trung đoàn (and we had a very general idea of the regiment''s route). Đạn vạch đường được bắn không ngừng ra xung quanh, chúng tôi có thể nghe tiếng súng đáp lại ở những nơi gần đó, các toán quân Đức đang rút lui trên cánh đồng, trong khi các đơn vị của Phương diện quân Belarussia số 2 đang tiến về phía tây. Nhưng không có dấu hiệu nào của trung đoàn? Nhưng tôi rất vui mừng khi nhìn thấy một xe tăng của ta ngay trước khi trời tối. Điều đó có nghĩa là phần còn lại của trung đoàn phải ở đâu đó gần đây. Tôi nhận ra rằng tổ lái đó đang đứng gác trong chặng dừng chân (I realized the tank crew was part of protection at the halt). Kíp lái mệt gần chết và đã nhanh chóng thiếp đi, khi chúng tôi đánh thức, họ xác nhận rằng họ đang gác trong chặng dừng chân, trong khi trung đoàn đang ở một địa điểm gần đó. Chúng tôi phải đi thêm vài km trước khi tới một khu vực xây dựng của Đức và có một số xe tăng ở đó. Nhưng không thấy ai xung quanh. Gần đó có một kho để cỏ khô lớn, một trong số chúng người Ba Lan gọi là ?oStadolja?. Chúng tôi bước vào và thấy những người lính tăng nằm ngủ trên sàn, quân phục bám đầy đất. Sau đó chúng tôi thấy hàng trăm lính Đức, cũng đang ngủ. Khi tôi đánh thức trung đoàn trưởng, anh ta nói rằng họ đã chiếm được Kreisburg, họ thấy một đám đông quân Đức đang rút lui, vì thế họ bắn vài phát và quân Đức, gồm có cả sĩ quan, liền hạ vũ khí. Vũ khí để ở sau nhà kho. Bằng cách đó họ bắt chúng làm tù binh. Nhưng do không có bộ binh đi cùng nên lính tăng bảo quân Đức vào trong nhà kho và đợi đến khi những người khác đảm nhận nhiệm vụ canh gác áp tải tới chịu trách nhiệm về việc này (until taken care of by those in charge of such things). Trung đoàn trưởng nói anh ta đã báo cáo cấp trên đề nghị gửi quân đến để áp giải tù binh. Quả thực trên đường về chúng tôi thấy xe tải chở quân đang đi tới chỗ của trung đoàn. Chúng tôi thấy rằng liên lạc đã về tới sở chỉ huy, báo cáo tình hình và xin gửi quân tới để bắt tù binh.

    - Nhưng sau khi giải phóng Ba Lan, ông có chiến đấu với bọn phát xít trên đất Đức không?

    - Chuyện chiến đấu ở Đức, nơi bọn phát xít thực hiện kháng cự đặc biệt mãnh liệt trên diện rộng nhằm giữ đất của chúng để lại ấn tượng nhiều nhất cho tôi. Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất tiến từ sông Oder tới phía bắc dãy điểm cao Seelow, nơi giao tranh ít ác liệt hơn trên chính điểm cao (where fighting proved less bitter than on the Heights proper), nơi quân đội Soviet dưới quyền Nguyên soái Zhukov đang thực hiện đòn đột kích để vượt sông Oder (were amid an assault crossing of the Oder). Quân Đức vòng về phía sau nhằm kiểm soát khu vực giữa Oder và Berlin (The Germans bent over backwards to retain control over the territory between the Oder and Berlin). Nhưng khu phía bắc lòng chảo Oder có rất nhiều sông nhỏ, đó thực tế là nguồn của sông Oder, nên phòng thủ của quân Đức ở đây yếu hơn. Và đó là nơi mà Phương diện quân Belarussian số 2 mà Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất trực thuộc vượt sông Oder. Sau đó, một bộ phận, gồm cả các sư đoàn Ba Lan, tiến về phía trước và tới sông Elbe, trong khi bộ phận còn lại tiến xuống phía nam, tới Berlin, để nhanh chóng đánh chiếm thủ đô của Đức. Trận đánh Berlin, có lẽ là trận ác liệt nhất trong Chiến tranh Vệ quốc, khi quân Đức tung ra tất cả lực lượng dự bị mà chuyển một lực lượng lớn từ mặt trận phía tây về để ngăn chặn quân đội Soviet chiếm thành phố. Nhưng dù chúng đã cố gắng, chúng vẫn không giữ được thủ đô của ?

    - Ông có những kỉ niệm gì về trận chiến Berlin?
    - Trận đánh Berlin diễn ra liên tục suốt ngày đêm. Berlin có rất nhiều con kênh chảy giữa những bức tường bằng bê tông. Quân Đức chống cự cực kì ác liệt để giữ từng cây cầu nhỏ bắc qua những con kênh này. Vấn đề là, không thể vượt qua những con kênh này như vượt sông bình thường. Cách duy nhất là phải chiếm được một cây cầu và đưa xe tăng, pháo binh sang bờ bên kia để có thể chiếm một cây cầu khác, và cứ tiếp tục như vậy. (The only way out was to seize one of these small bridges and send tanks and artillery to the other bank so later we could capture another such bridge, and so on). Chúng ta phải đưa rất nhiều vũ khí và bộ đội để dập tắt các hoả điểm trên đường phố, trong nhà, cửa sổ mà quân Đức bắn ra để chiếm Berlin. Rất ngạc nhiên, chúng tôi thấy lính Đức trong Berlin, nhưng không có chỗ ẩn náu, nấp sau những hầm chứa và những toà nhà bị phá hủy. Tất nhiên, một số trong đó bị chết khi Berlin bị san bằng. Quân đội Soviet buộc phải phá hủy từng toà nhà một vì có những lính Đức kháng cự bên trong. Ai cũng muốn là người đầu tiến tới được trung tâm thành phố Reichstag (Tòa Quốc hội), Reichskanzlei, hay Văn phòng Đế chế (Imperial Chancellery), phòng làm việc của Hitler, nơi hắn từng ở, bất kể là còn sống hay đã chết chúng tôi cũng không biết. Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất rất hăng hái khi tiến chiếm Berlin, điều đó có ý nghĩa tượng trưng là Ba Lan đã tham gia đến tận màn cuối của trận chiến (Poland was involved in the final stage of fighting), trận đánh ác liệt và đẫm máu nhất trong chiến tranh.

    - Ông đã làm điều gì khi biết tin Chiến thắng (What did you do when you learnt about the Victory)?

    - Tất cả chúng tôi đều biết là chiến tranh sẽ sớm kết thúc, vì thế chúng tôi rất mừng khi lần lượt chiếm được từng ngôi nhà ở Berlin. Khi tin Berlin bị chiếm được loan báo qua radio, chúng tôi đón nhận nó như một ngày lễ lớn (When the seizure of Berlin was announced by radio, we took it as a big holiday). Chúng tôi nhận ra dù quân đội Soviet vẫn đang phải đối phó với các toán quân địch, chiến thắng và sự kết thúc Chiến tranh Vệ quốc đã rất gần. Ai cũng muốn được chụp ảnh ở địa điểm đáng nhớ này. Khi chúng tôi vào Văn phòng Đế chế (Imperial Chancellery) và thấy trên sàn nhà là hàng ngàn mảnh giấy, bất kể là chỉ thị hay truyền đơn. Trên tường Tòa Quốc hội (Reichstag) ghi đầy những câu viết của những người chiến thắng, những người đầu tiên chiếm được nó. Nhưng những người đến sau đã ghi tên mình lên bất cứ chỗ trống nào. Đại diện bộ chỉ huy Đức ký văn kiện đầu hàng vô điều kiện, và tất cả chúng tôi đều hy vọng sẽ sớm được trở về nhà đoàn tụ với gia đình, để ăn mừng việc chúng tôi đã sống sót qua cuộc chiến tranh khủng khiếp này. Chúng tôi đã tổn thất rất nhiều ở đây, đặc biệt khi tấn công qua sông Oder. Niềm hy vọng vui mừng vào một chiến thắng rất gần đã đưa Hồng quân tới Berlin, và ngày này, gần 60 năm sau chiến thắng vĩ đại trước chủ nghĩa phát xít, thật khó để hình dung cảm xúc đầy ám ảnh đó. Đó là kí ức của tôi về sự kết thúc cuộc Chiến tranh Vệ quốc.
    Copyright © 2003 The Voice of Russia
    Dịch từ Anh sang Việt: Phan Trường Sơn
    Hiệu đính tiếng Việt: LTD
  2. signtoday

    signtoday Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2004
    Bài viết:
    1.366
    Đã được thích:
    0
    Có phải là bạn danngoc vẫn có bài trên trang www.nuocnga.net không?
  3. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Chính xác đấy bác ạ. Nick của bác bên đó là chi? Nhân đây xin khóc thêm là xác của topic cũ chìm đâu giờ tui cũng không biết rõ.
    Gennadii Shutz
    [​IMG]
    Tháng 6-1941 tôi 17 tuổi. Vào ngày 18 chúng tôi làm lễ tốt nghiệp, và ngày 22 có trận đấu bóng của quận tôi, mà tôi chơi trong đó với một đội láng giềng. Chúng tôi đang thua. Và rồi anh trai tôi chạy tới và hét lên : ?oGenka, chiến tranh đã bắt đầu !?. Tôi nói : ?oChiến tranh nào ? Anh không thấy là bọn em đang thua à ??. Sau đó vào buổi tối ở câu lạc bộ, nơi chúng tôi đang xem phim, bất thình lình màn hình phụt tắt và một bài diễn văn được đọc. Người của uỷ ban quận đọc thông báo rằng chiến tranh đã bắt đầu và yêu cầu các đoàn viên KOMSOMOL tới trình diện Quân uỷ. Chúng tôi tới đó trong buổi tối. Tôi viết đơn xin tình nguyện ra mặt trận, nhưng vì tôi sinh năm 24 [năm 1924] nên vẫn chưa tới tuổi nhập ngũ, người ta cử tôi đi làm nhiệm vụ thu thập cỏ khô cho quân đội ngoài mặt trận. Họ giao cho tôi quản lý 13 cô gái, những người chả làm được việc gì ?" và do đó tôi phải chạy hết từ người này sang người khác : "Genka, lắp hộ em cái hái ! Genka, cái hái của em bị mắc vào một đám đất ! Genka, mài hộ em cái hái !". Tôi mệt đến đứt cả hơi vì họ.
    Mùa hè năm đó tôi ghi tên vào học ở trường đường sắt Tomsk. Tôi chỉ học ở đó một tháng thì họ gửi trả tôi về nhà. Tháng 1-1942, khi 18 tuổi tôi được gọi nhập ngũ. Người ta đưa tất cả đám tân binh chúng tôi tới Moscow, ở đó họ đưa chúng tôi vào một doanh trại phân loại ở Izmailovo. Khi chúng tôi tới đó, một thượng sĩ bước tới chỗ tôi và hỏi : ?oCậu học đến lớp mấy rồi ??. Tôi nói : ?oLớp 10?. ?oCậu biết làm toán lượng giác không ?? ?oCó?. ?oCó muốn trở thành pháo thủ cao xạ không ??. Tôi trả lời : ?oRất muốn ạ !?. Và sau đó, tháng 4-1942 tôi được phiên chế vào một đại đội pháo cao xạ cỡ nhỏ (nguyên văn : ?obattery?, gồm 4 khẩu pháo, biên chế như vậy ở VN tương đương cấp đại đội nên tạm dịch là ?ođại đội pháo cao xạ?cho dễ hiểu ?" TS). Người ta nói sẽ huấn luyện chúng tôi đến tháng 8. Đầu tháng 6 chúng tôi nhận được vũ khí - những khẩu cao xạ Model 1939 37mm với tốc độ bắn 160 phát/phút. Nhưng trong thực tế, chỉ sau 75-100 phát là nòng pháo đã nóng lên đến mức đạn bị kẹt.
    Đại đội trưởng phân công nhiệm vụ và tôi trở thành một trắc thủ. Như sau này được biết, khả năng quan trắc lập thể, là khả năng tính khỏang cách tới mục tiêu và xác định những cự ly có liên quan, là môn học chủ yếu. Quá trình kiểm tra cực kì đơn giản : người chỉ huy chỉ một cái cây và một cái cọc, cách chúng tôi khoảng 800m và hỏi xem cái nào ở xa hơn. Tôi trả lời chuẩn xác nên đã trở thành một trắc thủ. Thời gian đó đại đội gồm 4 khẩu đội bố trí ở các đỉnh của một hình vuông có cạnh 100-150m. Vị trí của chỉ huy ở tâm của hình vuông đó và có các công sự sâu đến thắt lưng cho trinh sát mục tiêu (spotter), trắc thủ và chỉ huy. Đại đội trưởng liên lạc với các khẩu đội bằng đường dây hữu tuyến. Thực tế, trong suốt thời gian của trận đánh, không thể ra mệnh lệnh bằng miệng vì tiếng bom đạn nổ hỗn loạn, đó là lí do vì sao chúng tôi dùng một phương thức liên lạc đặc biệt bằng kí hiệu quy ước trước.
  4. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Hế hế, anh em làm tớ cảm động quá.
    Ê ku Sơn em, tớ có buồn đâu, biết đâu mình đổi mới cũng là cái hay? Hôm qua lão panzerlehr vừa mang từ Phú Lãng Sa về tặng tớ cuốn "My just Wả", hồi ký của lão Hồng quân Do Thái, quảng cáo rầm rộ trên Russian Battlefield, cùng hai cuốn Stalingrad và The Fall of Berlin 45 của lão Anthony Beevor. Đang nghiên cứu. Cuốn của tay Do Thái rất tuyệt.
    Bây giờ thì tiếp nè:
    [​IMG]
    Trong một buổi huấn luyện, tháng Năm 1946. Nước Đức.
    (Bức ảnh này được chụp sau chiến tranh, nó cho thấy tòan cảnh họat động của một chốt chỉ huy).
    Đại đội tác chiến theo cách như sau. Chỉ điểm viên (spotter), được trang bị ống nhòm, sau khi phát hiện máy bay địch tới sẽ thông báo về số lượng của chúng. Khoảng cách lý tưởng có thể được là từ 5km trở lại. Tôi, trắc thủ sẽ xác định khoảng cách tới mục tiêu và liên tục thông báo cho chỉ huy về các thay đổi. Đến lượt mình, đại đội trưởng sẽ định rõ vị trí của mục tiêu và các khẩu đội và chọn thời điểm cũng như kiểu bắn ?" phát một, loạt ngắn hay loạt dài. Thông thường pháo bắn ở khoảng cách 2000-2200m với loạt ngắn. Bắn loạt dài chỉ sử dụng khi gặp mục tiêu bay thấp. Thường chúng tôi dùng đạn nổ. Tất nhiên là chúng tôi cũng có đạn xuyên nhưng chúng rất hiếm khi được sử dụng và chỉ dùng để bắn mục tiêu trên mặt đất. Mỗi khẩu đội gồm 8 người - khẩu đội trưởng, 2 pháo thủ, trắc thủ, trinh sát về hướng và tốc độ may của mục tiêu, chiến sĩ nạp đạn và 2 chiến sĩ mang đạn (nếu bắn bằng loạt dài thì một người không thể đảm nhiệm được kịp, các kẹp đạn mau chóng mất hút như thể đút vào một cối xay thịt (the clips disappeared as if into a meat grinder)). Số 1 ngắm mục tiêu trên đường thẳng đứng cho đến khi đường nằm ngang của thước ngắm trùm lên mục tiêu (The Number 1 aimed the gun in the vertical until the horizontal line in the collimator overlaid the target), số 2 trên đường nằm ngang cho đến khi đường nằm ngang của thước ngắm trùm lên mục tiêu (the Number 2 in the horizontal until the vertical line in the collimator overlaid the target), số 3 xác định khoảng cách và hướng của mục tiêu được thông báo từ đại đội trưởng (Number 3 set the distance and velocity of the target which were relayed by the battery commander), chỉ điểm viên, bằng cách quay chiếc tay quay, cố gắng ước lượng hướng của mục tiêu (tried to guess the aircraft''s direction), khẩu đội trưởng sau khi xác định mục tiêu đã bị nắm bắt sẽ báo cáo đại đội trưởng và theo mệnh lệnh của đại đội trưởng mà cho số 2 nổ súng (the commander, after having determined that the target was acquired reported to the command post and at battery commander''s order the Number 2 opened fire). Tuy nhiên, những pháo thủ có kinh nghiệm thường ngắm bắn bằng đạn vạch đường. Khả năng này có thể đạt được nhờ luyện tập liên tục qua các trận chiến hoặc trong nhiệm vụ canh gác (trong đại đội luôn có một khẩu pháo làm nhiệm vụ canh gác).
    [​IMG]
    Tổ pháo thủ của trung sĩ Ivan Shapin
    Đứng từ trái sang phải: người tiếp đạn, trắc thủ, người nạp đạn, chỉ điểm viên, người tiếp đạn, chỉ huy. Những người ngồi: pháo thủ số 1, pháo thủ số 2.
    (Trích từ cuốn sách của A. Grechko "Bitva za Kavkaz"; "Trận đánh Kavkaz".)

    Trở lại năm 1942, chúng tôi thậm chí không có đủ thời gian để hoàn tất làm chủ khẩu pháo, khi có một mệnh lệnh chuyển tới về việc đưa chúng tôi ra mặt trận. Đầu tháng 7-1942, trung đoàn pháo phòng không của lục quân 241 chúng tôi được thành lập, gồm 4 đại đội pháo cao xạ và 2 tiểu đoàn súng máy DShK (nguyên văn : ?ocompany? - đại đội, ở đây tạm dịch là tiểu đoàn là cấp tương đương của VN cho dễ theo dõi ?" TS) được biên chế trong Phương diện quân Voronezh. Chúng tôi luyện tập với những khẩu pháo trên tàu hoả, và trong một lần luyện tập, các pháo thủ đã bắn một phát đạn súyt giết chết đại đội trưởng ?" viên đạn bay vượt sát đầu anh ta (the gunners fired a shot which almost killed our battery commander - the shell flew over his head). Ở ga Serebriannye Prudy chúng tôi bị ném bom lần đầu tiên. Tôi nhảy đầu tiên vào một bụi cây gần nhất và ngồi đó run lên vì sợ cho đến khi máy bay địch bỏ đi. Cuối cùng ở ga Anna chúng tôi cũng được thử lửa trận đầu.
    Cho tới cuối mùa hè chúng tôi vẫn rút lui cùng với lục quân cho tới khi mặt trận ổn định ở sông Đông, chúng tôi được bố trí ở bờ bên phải sông ngay đúng khi bắt đầu của cuộc phản công (on whose bank we were deployed right up to the beginning of the counteroffensive). Đó là một thời kỳ rất khó khăn. Đạn dược rất khan hiếm. Chúng tôi chỉ được ăn đạm bạc ?" cả bữa thứ nhất lẫn bữa thứ hai chỉ là súp hoặc cháo đặc nấu độc bằng lúa mì, hoặc đậu Hà Lan nấu với dầu bông Uzbek, trông như gỉ sắt vậy (We were poorly fed - for the first and second course soup or porridge from whole grain wheat, or peas freshly cooked on Uzbek cotton oil, which looked like rust). Thậm chí có thời kỳ chúng tôi không có cả muối ?" đúng là cực hình. Chúng tôi phải ăn khẩu phần như vậy khoảng một tháng trời.
    Đây là năm cuối cùng mà quân Đức cố gắng chiến đấu theo đúng thời gian biểu (That was the last year when the Germans tried to fight according to a schedule). Chúng hầu như không bao giờ ném bom vào ban đêm, nhưng các cuộc không kích thường bắt đầu vào buổi sáng. Thời tiết nóng ghê gớm ?" 8 giờ rưỡi sáng, trời nóng, hôi thối, tốp ném bom đầu tiên bay tới. Chúng thả bom cả vào chúng tôi lẫn vào đám bộ binh. Sau đó khoảng 30-40 phút, sau đó là tốp thứ hai. Sau đợt không kích thứ ba, nếu chúng ném bom thành công thì chúng tôi sẽ bị phủ đen từ đầu đến chân vì đất cát và bồ hóng.
  5. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Có lần sau một đợt không kích như vậy bí thư chi đoàn KOMSOMOL của trung đoàn bị thương và phòng chính trị cử tôi thay thế. Bất cứ lúc nào rảnh rỗi là tôi đi thăm các đại đội, nói chuyện về tình hình mặt trận, về tình hình của các nước đồng minh của ta. Hầu hết chiến sĩ đều thất học ?" tòan đại đội của tôi chỉ có 2 người đã tốt nghiệp trung học, số còn lại mới học đến lớp 7 hoặc thậm chí lớp 4. Tất nhiên ta phải nói chuyện với họ. Hơn nữa, bọn Đức cũng tiến hành công tác tuyên truyền của riêng chúng ?" thả truyền đơn. Tôi nhớ rất rõ nội dung một vài tờ trong số đó. Truyền đơn thứ nhất gấp đôi trên một tờ A4 hoặc giấy phấn (chalk paper). Trang nhất cắt một lỗ thủng hình tròn để có thể nhìn thấy quốc huy Liên Xô in ở trang 3. Khi mở nó ra, có một đoạn thuyết minh dưới hình quốc huy : ?oLiềm ở bên trái, búa ở bên phải. Đó là quốc huy Liên Xô của chúng ta. Cứ việc gặt lúa hoặc quai búa tùy thích, anh sẽ vẫn chỉ có? và ba dấu chấm (Theo cách của người Nga, nó sẽ là một vần thông tục để chỉ cơ quan sinh dục của đàn ông, trong trường hợp này câu trên sẽ có nghĩa là ?oanh sẽ trắng tay?). Tất nhiên, nó thật tầm thường. Hình như, bọn Đức được cung cấp thông tin là quân ta rất thiếu giấy, và thậm chí không có gì để quấn một điếu thuốc lá, do đó có loại truyền đơn thứ hai được in đặc biệt lên giấy quấn thuốc lá với hy vọng là lính ta sẽ dùng nó để quấn thuốc lá và cũng đọc nó luôn. Chúng viết : "Chỉ có Timoshenko và đám anh hùng Do Thái là muốn chiến tranh. Các anh phải rút lui chỉ vì Staline đã giết hại 130 ngàn sĩ quan chỉ huy và sĩ quan chính trị ưu tú nhất?. Hoặc có những truyền đơn mô tả những Ivanov, Petrov, Sidorov nào đó đã đầu hàng và sống tốt như sau. Trong ảnh, chúng ngồi đó, chơi đàn ác-coóc-đê-ông và cười. Tôi phải giải thích rằng tất cả đều là dối trá.
    Khi chiến dịch Stalingrad bắt đầu chúng tôi tới những ngôi làng Kazak ở Kantimirovka và Buturlinovka. Trong thời gian chiến dịch chúng tôi sống không được dễ chịu lắm - những khẩu pháo được kéo bằng xe jeep Willys, chúng đi tốt trên đường bằng phẳng. Nhưng khi leo lên đồi thì khẩu pháo và những hòm đạn đặt trên đó luôn đe doạ làm chiếc xe trượt ra khỏi đường. Chỉ đến năm 1944 chúng tôi mới có những xe Dodge 3/4, và sau đó là xe hai cầu Chevrolet và ?oStudebaker US6x6?, loại thường xuyên kéo một lúc 2 khẩu pháo. Nhưng trước đó thì chỉ có những chiếc Willys theo cùng chúng tôi (But back then only the Willys could get us through).
    Sau khi trận Stalingrad kết thúc, tôi được cử đi học trường pháo binh ở Tomsk, và sau đó là Irkutsk, nơi tôi hoàn tất khoá huấn luyện. Cuối năm 1943 tôi tới Leningrad. Một chiếc "ovechka" ("cừu? trong tiếng Nga, do hình dáng của chiếc đầu máy) động cơ hơi nước từ thời trước cách mạng chở chúng tôi chạy hết tốc lực theo đường sắt hành lang giữa Volkhov và Leningrad năm 43. Tôi được điều động tới sư đoàn 32 theo lệnh trên, ở đó tôi được giao phụ trách một trung đội (2 khẩu pháo). Vào thời điểm đó diễn ra cải tổ mở rộng trong các đơn vị pháo binh và sư đoàn pháo phòng không 32 RGK của chúng tôi (RGK - C-in-C''s Reserve - trans.) có 4 trung đoàn, trong đó 3 trung đoàn (1387, 1393, và 1413 của tôi) là MZA (pháo phòng không cỡ nhỏ) và trung đoàn 1387 SZA (pháo phòng không hạng trung), trang bị pháo cao xạ 85mm. Các đại đội cũng được tái tổ chức với 6 khẩu đội trong biên chế. Các khẩu pháo bây giờ được bố trí thành hình lục giác cách nhau từ 150-200m. Đó là nói về bình thường, nhưng trong điều kiện chiến đấu thỉnh thoảng chúng tôi cũng dùng những cách bố trí khác, ví dụ như thành một hàng ngang khi bảo vệ các đội hình hàng dọc.
    Chúng tôi chiến đấu trong tháng Giêng. Giải phóng Gatchina và gần như hoàn toàn tiến tới Pskov. Trong suốt chiến dịch trung đoàn tôi yểm hộ cho Sư đoàn bộ binh Luga 46. Ở Pskov tôi đã được đề bạt làm đại đội trưởng. Tôi nhớ rằng rất rõ cái ngày mình được đề bạt. Đó là vào đầu tháng Hai. Tôi vừa tới chỗ đại đội 4, dưới quyền chỉ huy của tôi, và liền đi gặp các chiến sĩ. Vào thời điểm đó đại đội tính cả thành phần hỗ trợ có 84 chiến sĩ. Thêm vào đó, tất cả các trung đội trưởng đều là trung uý (lieutenant) trong khi tôi mới chỉ là thiếu úy (junior lieutenant). Tất nhiên, tôi được chào đón với sự ngờ vực. Và rồi một cuộc không kích diễn ra : 30-35 chiếc Ju-87. Tất cả đều nhìn tôi - để xem tôi sẽ chỉ huy thế nào. Anh hỏi là nếu tôi không cho nổ súng ? Tôi có thể, nhưng điều đó sẽ bị những người lính cao xạ coi là sự hèn nhát. Chúng tôi có một quy tắc ?" khi cuộc không kích diễn ra thì không ai, từ người mang đạn cho đến đại đội trưởng, được phép chúi mình xuống trốn tránh (bend down). Anh buộc phải tiếp tục hòan thành nhiệm vụ của mình. Điều cốt lõi là không được để mất tinh thần. Sau cùng, cũng đã có một vài người chúi đầu xuống dưới xe kéo pháo vì sợ hãi. After all, there were some who stuck their heads under the gun''s carriage out of fear. Thế đấy, chúng tôi đã vượt qua trận thử lửa này một cách thành công. Chúng tôi không bắn hạ được chiếc nào, nhưng đã khiến máy bay địch phải tản ra, chúng không thử nhào xuống thêm lần thứ hai, và chúng tôi bảo vệ được điểm nút giao thông. Đó là một sự đóng góp chung. Hơn nữa, đã không có ai phải hy sinh.
    Tính tổng cộng, từ đầu năm 1944 đến tháng 5-1945 đại đội tôi bắn rơi 13 máy bay địch, và xếp trong những hạng đầu tiên của tòan sư đoàn về hiệu quả chiến đấu. Có vẻ không hợp lý lắm, đúng không ? Nhưng nhiệm vụ của chúng tôi là gì ? Không được để máy bay địch ném bom khi phải bảo vệ mục tiêu. Chắc chắn là rất tuyệt vời nếu bắn rơi được một máy bay địch, nhưng đó không phải vấn đề chính, vấn đề chính là bảo vệ được bộ binh, xe tăng, hay một ngã tư khỏi bị thiệt hại do không kích. Ở Stalingrad trung đoàn chúng tôi bắn rơi khoảng 100 máy bay địch trong 2 tháng. Nhưng chúng là những chiếc Ju-52 làm nhiệm vụ tiếp tế cho Tập đoàn quân số 6 (của Đức ?" TS) bị bao vây, bắn rơi chúng rất dễ. Nhưng để bắn rơi một chiếc Ju-87 thì rất khó. Chúng là những chiếc cường kích bổ nhào khó lường nhất (nguyên văn : perfidious) và nguy hiểm nhất của quân Đức. Mặc dù không nhanh lắm, chúng ném bom rất chính xác. Đó là lí do vì sao chúng tôi bắn ngay thời điểm chúng kéo lên cao để bổ nhào. Điều đó sẽ làm tên phi công hoảng sợ, hắn thấy là mình có thể bị bắn trúng. Dù thế nào thì hắn vẫn sẽ ném được bom, nhưng bằng cách làm hắn mắc sai lầm thì bom sẽ được ném sớm hơn hoặc muộn hơn cần thiết ?" đó là nhiệm vụ của chúng tôi. Nhưng khi chúng tôi thấy mình đã bắn rơi một chiếc máy bay, chúng tôi sẽ ngay lập tức cử một lính kĩ thuật (gun mechanic) lái một chiếc "Willys" tới chỗ máy bay rơi, để lấy những mảnh xác làm bằng chứng rõ ràng. Điều đó rất có ích để có được sự công nhận của bộ phận được bảo vệ. Tất nhiên, có thể xảy ra trường hợp là máy bay rơi trong khu vực địch kiểm soát, khi đó nó sẽ chỉ được tính nếu có một sự kiểm chứng nào đó. Và, với thành tích 5 chiếc máy bay đầu tiên tôi nhận được Huân chương Sao Đỏ, với 5 chiếc tiếp theo ?" Huân chương Chiến tranh Vệ quốc hạng hai. Tôi cũng nhận được huy chương ?oBảo vệ Leningrad?, ?oĐánh chiếm Berlin? và ?oChiến Thắng nước Đức?.
  6. Mr_Hoang

    Mr_Hoang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    8.879
    Đã được thích:
    10.411
    Post thêm vào đây cho đắc khách
    Tặng các bác 1 tập trong bộ the World at War, nói về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của Liên Xô trong thời kì đen tối nhất 1941-1943
    Phim dài 50 phút, nặng 658MB, mình upload lên filefront không chia nhỏ gì cả nên chỉ dành cho các bác có broadband thôi các bác dùng modem thông cảm nhá
    http://files.filefront.com/baovayleningrad4143avi/;4314631;;/fileinfo.html
  7. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    - Đã 60 năm trôi qua kể từ chiến thắng vĩ đại của nhân dân Soviet, có sự kiện nào gây ấn tượng mà ông vẫn nhớ ?
    -Một sự kiện ấn tượng xảy ra vào năm 1943, lúc tôi chỉ huy đơn vị trinh sát của một trung đoàn xe tăng (One dramatic development dates back to 1943, when I commanded the reconnaissance group of a tank regiment). Hồng quân đang mở chiến dịch tấn công ở mặt trận Kalinin và vài nơi khác. Chúng ta ngừng tấn công một thời gian (But we had a lull in battle) nên quân Đức bắt đầu đưa lực lượng từ mặt trận chúng tôi đưa đến những nơi chiến sự ác liệt. Chúng tôi được lệnh kìm chân không cho chúng gửi quân đi bằng cách mở cuộc tấn công từ Staraya Roussa tới Porkhov, Dno và xa hơn về phía tây. Chúng tôi có ít xe tăng vì địa hình gây khó khăn cho việc sử dụng chúng. Nhưng chúng tôi lại có một số sư đoàn còn nguyên vẹn, quân số tới 15.000 người, nhanh chóng có được những bài học trong chiến đấu và vạch kế hoạch (quickly held a battle exercise and planned the operation). Đó là ngày 18, 19 hoặc 20 tháng 8. Thời tiết tốt, nhiệt độ lên cao, phần lớn các bãi lầy đã khô lại, cho phép xe tăng và pháo hạng nặng vận động.
    Có một sân bay ở phía nam Staraya Roussa, một khu đất phẳng rộng khoảng 10km, xung quanh là cánh đồng. Chúng tôi cho rằng đây là một vị trí tốt để chọc thủng phòng tuyến quân Đức và từ đó mở màn cuộc tấn công. Là trinh sát có kinh nghiệm nên tôi được lệnh tới đài quan sát của tư lệnh Tập đoàn quân vào hôm diễn ra cuộc tấn công. Chúng tôi tới đài quan sát vào buổi tối trước khi nổ súng, và khi đi ngang qua một khu rừng chúng tôi thấy xe tăng ta và cánh đồng mà họ sẽ vượt qua khi tấn công. Khi màn đêm tan dần, tôi đang ngồi trong xe ô tô và thấy trời đổ mưa. Khi tới nơi thì trời đang mưa rất to, một điều bất thường ở vùng tây bắc nước Nga. Trận mưa nặng hạt kéo dài hàng tiếng và tất cả chúng tôi đều thấy lo về những gì sẽ xảy ra với xe tăng và quân ta. Trận mưa như trút sẽ làm bộ đội không thể nhìn rõ mục tiêu phải vận động tới, còn những đầm lầy đầy nước sẽ rất nguy hiểm cho xe tăng nếu đi qua. Nhưng không thể ngừng cuộc tấn công, nên mệnh lệnh ban ra và quân ta bắt đầu tiến lên. Quân Đức bố trí 12 tuyến rào thép gai bùng nhùng, tuyến phòng thủ do thậm chí cả một sư đoàn Pháp cùng phối hợp xây dựng (lính Pháp của Vichy hay có thể đúng hơn là tù binh Pháp ?" LTD). (The German defences comprised up to 12 wire entanglement rows, defences that even a French division helped to build). Pháo binh Soviet bắn vào các vị trí địch trong 90 phút. Máy bay trinh sát có thể nghe thấy tiếng nổ nhưng không thể nhìn thấy nơi đạn rơi nên không thể hiệu chỉnh được. Theo kế hoạch, xe tăng vượt lên trước bộ binh để họ dựa vào đó mà tấn công vào tuyến phòng thủ có chiều sâu của quân Đức. Xe tăng ta lao lên trước và các sĩ quan bắt đầu báo cáo là cuộc tấn công diễn ra đúng kế hoạch, nhưng mưa lớn làm chúng tôi không thể phân biệt giữa quân ta và quân Đức. Các sĩ quan bộ binh báo cáo rằng không thấy một xe tăng nào xung quanh và họ đã bắt đầu tấn công. Cuối cùng các sư đoàn bộ binh nguyên vẹn, không được xe tăng yểm trợ, đã cố gắng tấn công nhằm phá vỡ phòng thủ của địch. Trận mưa cuối cùng cũng tạnh một lát sau đó, và khi mặt trời hiện ra từ mây, chúng tôi kinh hoàng khi thấy hàng trăm xe tăng ta đang kẹt trong đầm lầy. Trong khi đó các sĩ quan bộ binh liên tục báo cáo rằng họ mới tiến vào sâu trong vị trí quân Đức được 50m, phải vòng tránh các tuyến dây thép gai và đã phải chịu thương vong khủng khiếp. (Meanwhile the infantry unit commanders kept reporting that they had managed to break into the German position by 50 metres, had to go to ground among wire entanglements and were suffering horrible losses). Tính kết quả của 3 ngày chiến đấu, tôi phải nói rằng chúng ta mất 300 xe tăng trong các đầm lầy. Bộ binh chỉ tiến được thành công từ 500 đến 700m. Một thời gian dài sau đó chúng tôi phải dùng máy kéo để kéo các xe tăng lên. Một vài chiếc chìm sâu đến mức giờ đây chúng vẫn nằm trong các đầm lầy như một đài kỉ niệm của trận đánh. Quân ta chịu thiệt hại rất nặng. Sự thực là quân Đức đã ngừng chuyển quân tới các mặt trận khác, và Tổng Tham mưu trưởng (Commander-in-Chief) nói rằng nhiệm vụ đặt ra cơ bản đã hoàn thành. Nhưng chúng tôi, những người tham gia chiến dịch sẽ luôn suy nghĩ về những nghĩa địa đầy những xe tăng và chiến sĩ của ta ở nơi này.
    - Ông làm nhiệm vụ gì sau khi Phương diện quân Tây Bắc giải thể ?
    - À, cuộc chiến tiếp tục. Sau khi phần của Ukraine được giải phóng, các Phương diện quân (hay Cụm Tập đoàn quân) Ukrainian và Belarussian tiếp tục mở các chiến dịch tấn công. Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất được tổ chức ở Liên Xô gồm những người bị đưa từ Ba Lan tới Liên Xô đầu chiến tranh và sống ở phía tây Belarus và tây Ukraine. Nhưng tất nhiên, binh lính Soviet cũng được biên chế vào đó để tổ chức nên lực lượng vũ trang của Ba Lan. Sư đoàn số 1 nổi tiếng của quân đội Ba Lan, thành lập ở khu vực Ryazan, tham chiến lần đầu trong trận đánh ở Lenino, và đó là trận đánh khai sinh quân đội Ba Lan. Do đó, sau khi Phương diện quân Tây Bắc giải thể, tôi được điều động tới Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất.
    Là lính xe tăng nên tôi được cử tới ban Thiết giáp của sở chỉ huy Tập đoàn quân cho đúng sở trường. Tôi mặc quân phục Ba Lan, giống như bất cứ ai đi chiến đấu trong biên chế quân đội Ba Lan. Tôi không nói được mấy tiếng Ba Lan, nhưng tôi là dân Ukraina, hai ngôn ngữ này có nhiều điểm chung và đã có ích rất nhiều. Chỉ huy của chúng tôi là người Ba Lan, nhưng là một người Ba Lan Soviet, được sinh ra và chôn cất ở Leningrad, và ông ấy rất nghiêm khắc với nhưng ai không tiến bộ trong học tiếng Ba Lan. Thực tế là ông ấy đúng, biết tiếng Ba Lan rất có ích khi sau đó chúng tôi bắt đầu giao tiếp với người dân, với cán bộ chiến sĩ người Ba Lan, những người không nói được tiếng Nga, để huấn luyện quân sự cho họ, và tổ chức họ vào hàng ngũ quân đội Ba Lan chống Đức. Thời gian chúng tôi tiến tới Warsaw quân đội Ba Lan đã có một số sư đoàn và đang trong quá trình thử lửa. Họ được tổ chức thành một bộ phận của Phương diện quân Belarussia số 1 và số 2 dưới sự chỉ huy của Zhukov và Rokossovsky. Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất đã tham gia giải phóng Warsaw, Poznan, Gdansk và toàn bộ vùng Pomerania. Quân đội Ba Lan được trang bị xe tăng, pháo cùng các vũ khí khác giống như quân đội Soviet. Do đó làm nhiệm vụ ở đây cũng không khác như trong Hồng quân.
    - Người Ba Lan đối xử với quân Đức thế nào ?
    - Thái độ của họ rất cứng rắn (Theirs was a very principled attitude). Người Ba Lan bị xúc phạm và đau đớn vì họ là nạn nhân đầu tiên của bọn phát xít xâm lược, đó là quốc gia đầu tiên bị Đức chiếm trong chiến dịch ?oDrang nach Osten? (Đông tiến). Vì thế người Ba Lan tự mình trả thù quân Đức vì Warsaw bị tàn phá, vì những Warsaw ghetto (khu tập trung Do Thái), vì cuộc khởi nghĩa Warsaw bị đàn áp. Thực tế thủ đô của Ba Lan gần như chỉ còn là đống đổ nát. Đôi khi họ không khoan dung với quân Đức còn hơn cả Hồng quân. Nhưng sau này, khi chúng ta (chỉ Hồng quân Soviet-TS) sắp chiến thắng trong cuộc chiến và có thể khoan dung hơn nhiều, thì quân Ba Lan lại đang chiến đấu trên chính lãnh thổ của họ, điều đó làm mọi thứ khác đi đối với họ. (But then, we were about to win the war and could afford to be lenient at times, while the Polish Army fought on their own territory, which made things different for them).
    - Ông nhớ rõ điều gì về thời kỳ này (What do you remember of that period of war)?
    - Tôi có nhớ một câu chuyện thú vị. Ở Pomerania, khi quân ta đang tiến tới sông Order, quân Đức cố tìm cách rút quân khỏi Ba Lan và vượt sang bờ tây của sông để lợi dụng nó như một chướng ngại vật thiên nhiên ngăn cản quân đội Soviet tiến vào Đức. Chúng tôi được lệnh không cho quân Đức rút lui và bắt chúng làm tù binh ở Ba Lan.
    Biên giới Pomerania nằm trên biển Baltic, nên bọn phát xít cố dùng tàu và thậm chí thuyền nhỏ để chạy trốn. Vì vậy trung đoàn xe tăng số 1 (trang bị xe tăng hạng nặng) được lệnh chiếm và không cho quân Đức rút về phía tây. Trung đoàn ra đi và mất tích. Họ không trả lời điện đài từ sở chỉ huy, và điều làm mọi thứ trở nên tồi tệ, một trung đoàn xe tăng không có đơn vị bộ binh nào đi đi kèm, chỉ toàn lính tăng, nên họ thậm chí không thể cử liên lạc (dispatch rider) về. Họ không có cả người để bảo vệ xe tăng. Và đó là trung đoàn xe tăng hạng nặng duy nhất của Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất. Chúng tôi phải khoanh vùng nơi mất liên lạc với trung đoàn ở Pomerania, nơi đang đầy những đơn vị lộn xộn của Đức (roaming Germans) và các đơn vị Soviet đang tiến quân. Do đó tôi được lệnh sử dụng B-1, một đơn vị nhỏ xe bọc thép chở quân để tìm ra trung đoàn. B-1 có thể chứa 2 người, lái xe và trưởng xe trong một tháp pháo nhỏ. Chúng tôi rời đi lúc chập tối, và chúng tôi chỉ có một định hướng rất chung chung về lộ trình của trung đoàn (and we had a very general idea of the regiment''''s route). Đạn vạch đường được bắn không ngừng ra xung quanh, chúng tôi có thể nghe tiếng súng đáp lại ở những nơi gần đó, các toán quân Đức đang rút lui trên cánh đồng, trong khi các đơn vị của Phương diện quân Belarussia số 2 đang tiến về phía tây. Nhưng không có dấu hiệu nào của trung đoàn? Nhưng tôi rất vui mừng khi nhìn thấy một xe tăng của ta ngay trước khi trời tối. Điều đó có nghĩa là phần còn lại của trung đoàn phải ở đâu đó gần đây. Tôi nhận ra rằng tổ lái đó đang đứng gác trong chặng dừng chân (I realized the tank crew was part of protection at the halt). Kíp lái mệt gần chết và đã nhanh chóng thiếp đi, khi chúng tôi đánh thức, họ xác nhận rằng họ đang gác trong chặng dừng chân, trong khi trung đoàn đang ở một địa điểm gần đó. Chúng tôi phải đi thêm vài km trước khi tới một khu vực xây dựng của Đức và có một số xe tăng ở đó. Nhưng không thấy ai xung quanh. Gần đó có một kho để cỏ khô lớn, một trong số chúng người Ba Lan gọi là ?oStadolja?. Chúng tôi bước vào và thấy những người lính tăng nằm ngủ trên sàn, quân phục bám đầy đất. Sau đó chúng tôi thấy hàng trăm lính Đức, cũng đang ngủ. Khi tôi đánh thức trung đoàn trưởng, anh ta nói rằng họ đã chiếm được Kreisburg, họ thấy một đám đông quân Đức đang rút lui, vì thế họ bắn vài phát và quân Đức, gồm có cả sĩ quan, liền hạ vũ khí. Vũ khí để ở sau nhà kho. Bằng cách đó họ bắt chúng làm tù binh. Nhưng do không có bộ binh đi cùng nên lính tăng bảo quân Đức vào trong nhà kho và đợi đến khi những người khác đảm nhận nhiệm vụ canh gác áp tải tới chịu trách nhiệm về việc này (until taken care of by those in charge of such things). Trung đoàn trưởng nói anh ta đã báo cáo cấp trên đề nghị gửi quân đến để áp giải tù binh. Quả thực trên đường về chúng tôi thấy xe tải chở quân đang đi tới chỗ của trung đoàn. Chúng tôi thấy rằng liên lạc đã về tới sở chỉ huy, báo cáo tình hình và xin gửi quân tới để bắt tù binh.
    - Nhưng sau khi giải phóng Ba Lan, ông có chiến đấu với bọn phát xít trên đất Đức không?
    - Chuyện chiến đấu ở Đức, nơi bọn phát xít thực hiện kháng cự đặc biệt mãnh liệt trên diện rộng nhằm giữ đất của chúng để lại ấn tượng nhiều nhất cho tôi. Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất tiến từ sông Oder tới phía bắc dãy điểm cao Seelow, nơi giao tranh ít ác liệt hơn trên chính điểm cao (where fighting proved less bitter than on the Heights proper), nơi quân đội Soviet dưới quyền Nguyên soái Zhukov đang thực hiện đòn đột kích để vượt sông Oder (were amid an assault crossing of the Oder). Quân Đức vòng về phía sau nhằm kiểm soát khu vực giữa Oder và Berlin (The Germans bent over backwards to retain control over the territory between the Oder and Berlin). Nhưng khu phía bắc lòng chảo Oder có rất nhiều sông nhỏ, đó thực tế là nguồn của sông Oder, nên phòng thủ của quân Đức ở đây yếu hơn. Và đó là nơi mà Phương diện quân Belarussian số 2 mà Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất trực thuộc vượt sông Oder. Sau đó, một bộ phận, gồm cả các sư đoàn Ba Lan, tiến về phía trước và tới sông Elbe, trong khi bộ phận còn lại tiến xuống phía nam, tới Berlin, để nhanh chóng đánh chiếm thủ đô của Đức. Trận đánh Berlin, có lẽ là trận ác liệt nhất trong Chiến tranh Vệ quốc, khi quân Đức tung ra tất cả lực lượng dự bị mà chuyển một lực lượng lớn từ mặt trận phía tây về để ngăn chặn quân đội Soviet chiếm thành phố. Nhưng dù chúng đã cố gắng, chúng vẫn không giữ được thủ đô của ?
    - Ông có những kỉ niệm gì về trận chiến Berlin?
    - Trận đánh Berlin diễn ra liên tục suốt ngày đêm. Berlin có rất nhiều con kênh chảy giữa những bức tường bằng bê tông. Quân Đức chống cự cực kì ác liệt để giữ từng cây cầu nhỏ bắc qua những con kênh này. Vấn đề là, không thể vượt qua những con kênh này như vượt sông bình thường. Cách duy nhất là phải chiếm được một cây cầu và đưa xe tăng, pháo binh sang bờ bên kia để có thể chiếm một cây cầu khác, và cứ tiếp tục như vậy. (The only way out was to seize one of these small bridges and send tanks and artillery to the other bank so later we could capture another such bridge, and so on). Chúng ta phải đưa rất nhiều vũ khí và bộ đội để dập tắt các hoả điểm trên đường phố, trong nhà, cửa sổ mà quân Đức bắn ra để chiếm Berlin. Rất ngạc nhiên, chúng tôi thấy lính Đức trong Berlin, nhưng không có chỗ ẩn náu, nấp sau những hầm chứa và những toà nhà bị phá hủy. Tất nhiên, một số trong đó bị chết khi Berlin bị san bằng. Quân đội Soviet buộc phải phá hủy từng toà nhà một vì có những lính Đức kháng cự bên trong. Ai cũng muốn là người đầu tiến tới được trung tâm thành phố Reichstag (Tòa Quốc hội), Reichskanzlei, hay Văn phòng Đế chế (Imperial Chancellery), phòng làm việc của Hitler, nơi hắn từng ở, bất kể là còn sống hay đã chết chúng tôi cũng không biết. Tập đoàn quân Ba Lan thứ nhất rất hăng hái khi tiến chiếm Berlin, điều đó có ý nghĩa tượng trưng là Ba Lan đã tham gia đến tận màn cuối của trận chiến (Poland was involved in the final stage of fighting), trận đánh ác liệt và đẫm máu nhất trong chiến tranh.
    - Ông đã làm điều gì khi biết tin Chiến thắng (What did you do when you learnt about the Victory)?
    - Tất cả chúng tôi đều biết là chiến tranh sẽ sớm kết thúc, vì thế chúng tôi rất mừng khi lần lượt chiếm được từng ngôi nhà ở Berlin. Khi tin Berlin bị chiếm được loan báo qua radio, chúng tôi đón nhận nó như một ngày lễ lớn (When the seizure of Berlin was announced by radio, we took it as a big holiday). Chúng tôi nhận ra dù quân đội Soviet vẫn đang phải đối phó với các toán quân địch, chiến thắng và sự kết thúc Chiến tranh Vệ quốc đã rất gần. Ai cũng muốn được chụp ảnh ở địa điểm đáng nhớ này. Khi chúng tôi vào Văn phòng Đế chế (Imperial Chancellery) và thấy trên sàn nhà là hàng ngàn mảnh giấy, bất kể là chỉ thị hay truyền đơn. Trên tường Tòa Quốc hội (Reichstag) ghi đầy những câu viết của những người chiến thắng, những người đầu tiên chiếm được nó. Nhưng những người đến sau đã ghi tên mình lên bất cứ chỗ trống nào. Đại diện bộ chỉ huy Đức ký văn kiện đầu hàng vô điều kiện, và tất cả chúng tôi đều hy vọng sẽ sớm được trở về nhà đoàn tụ với gia đình, để ăn mừng việc chúng tôi đã sống sót qua cuộc chiến tranh khủng khiếp này. Chúng tôi đã tổn thất rất nhiều ở đây, đặc biệt khi tấn công qua sông Oder. Niềm hy vọng vui mừng vào một chiến thắng rất gần đã đưa Hồng quân tới Berlin, và ngày này, gần 60 năm sau chiến thắng vĩ đại trước chủ nghĩa phát xít, thật khó để hình dung cảm xúc đầy ám ảnh đó. Đó là kí ức của tôi về sự kết thúc cuộc Chiến tranh Vệ quốc.
    Copyright © 2003 The Voice of Russia
    Dịch từ Anh sang Việt: Phan Trường Sơn
    Hiệu đính tiếng Việt: LTD

  8. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Gennadii Shutz
    [​IMG]
    Tháng 6-1941 tôi 17 tuổi. Vào ngày 18 chúng tôi làm lễ tốt nghiệp, và ngày 22 có trận đấu bóng của quận tôi, mà tôi chơi trong đó với một đội láng giềng. Chúng tôi đang thua. Và rồi anh trai tôi chạy tới và hét lên : ?oGenka, chiến tranh đã bắt đầu !?. Tôi nói : ?oChiến tranh nào ? Anh không thấy là bọn em đang thua à ??. Sau đó vào buổi tối ở câu lạc bộ, nơi chúng tôi đang xem phim, bất thình lình màn hình phụt tắt và một bài diễn văn được đọc. Người của uỷ ban quận đọc thông báo rằng chiến tranh đã bắt đầu và yêu cầu các đoàn viên KOMSOMOL tới trình diện Quân uỷ. Chúng tôi tới đó trong buổi tối. Tôi viết đơn xin tình nguyện ra mặt trận, nhưng vì tôi sinh năm 24 [năm 1924] nên vẫn chưa tới tuổi nhập ngũ, người ta cử tôi đi làm nhiệm vụ thu thập cỏ khô cho quân đội ngoài mặt trận. Họ giao cho tôi quản lý 13 cô gái, những người chả làm được việc gì ?" và do đó tôi phải chạy hết từ người này sang người khác : "Genka, lắp hộ em cái hái ! Genka, cái hái của em bị mắc vào một đám đất ! Genka, mài hộ em cái hái !". Tôi mệt đến đứt cả hơi vì họ.
    Mùa hè năm đó tôi ghi tên vào học ở trường đường sắt Tomsk. Tôi chỉ học ở đó một tháng thì họ gửi trả tôi về nhà. Tháng 1-1942, khi 18 tuổi tôi được gọi nhập ngũ. Người ta đưa tất cả đám tân binh chúng tôi tới Moscow, ở đó họ đưa chúng tôi vào một doanh trại phân loại ở Izmailovo. Khi chúng tôi tới đó, một thượng sĩ bước tới chỗ tôi và hỏi : ?oCậu học đến lớp mấy rồi ??. Tôi nói : ?oLớp 10?. ?oCậu biết làm toán lượng giác không ?? ?oCó?. ?oCó muốn trở thành pháo thủ cao xạ không ??. Tôi trả lời : ?oRất muốn ạ !?. Và sau đó, tháng 4-1942 tôi được phiên chế vào một đại đội pháo cao xạ cỡ nhỏ (nguyên văn : ?obattery?, gồm 4 khẩu pháo, biên chế như vậy ở VN tương đương cấp đại đội nên tạm dịch là ?ođại đội pháo cao xạ?cho dễ hiểu ?" TS). Người ta nói sẽ huấn luyện chúng tôi đến tháng 8. Đầu tháng 6 chúng tôi nhận được vũ khí - những khẩu cao xạ Model 1939 37mm với tốc độ bắn 160 phát/phút. Nhưng trong thực tế, chỉ sau 75-100 phát là nòng pháo đã nóng lên đến mức đạn bị kẹt.
    Đại đội trưởng phân công nhiệm vụ và tôi trở thành một trắc thủ. Như sau này được biết, khả năng quan trắc lập thể, là khả năng tính khỏang cách tới mục tiêu và xác định những cự ly có liên quan, là môn học chủ yếu. Quá trình kiểm tra cực kì đơn giản : người chỉ huy chỉ một cái cây và một cái cọc, cách chúng tôi khoảng 800m và hỏi xem cái nào ở xa hơn. Tôi trả lời chuẩn xác nên đã trở thành một trắc thủ. Thời gian đó đại đội gồm 4 khẩu đội bố trí ở các đỉnh của một hình vuông có cạnh 100-150m. Vị trí của chỉ huy ở tâm của hình vuông đó và có các công sự sâu đến thắt lưng cho trinh sát mục tiêu (spotter), trắc thủ và chỉ huy. Đại đội trưởng liên lạc với các khẩu đội bằng đường dây hữu tuyến. Thực tế, trong suốt thời gian của trận đánh, không thể ra mệnh lệnh bằng miệng vì tiếng bom đạn nổ hỗn loạn, đó là lí do vì sao chúng tôi dùng một phương thức liên lạc đặc biệt bằng kí hiệu quy ước trước.
    [​IMG]
    Trong một buổi huấn luyện, tháng Năm 1946. Nước Đức.
    (Bức ảnh này được chụp sau chiến tranh, nó cho thấy tòan cảnh họat động của một chốt chỉ huy).
    Đại đội tác chiến theo cách như sau. Chỉ điểm viên (spotter), được trang bị ống nhòm, sau khi phát hiện máy bay địch tới sẽ thông báo về số lượng của chúng. Khoảng cách lý tưởng có thể được là từ 5km trở lại. Tôi, trắc thủ sẽ xác định khoảng cách tới mục tiêu và liên tục thông báo cho chỉ huy về các thay đổi. Đến lượt mình, đại đội trưởng sẽ định rõ vị trí của mục tiêu và các khẩu đội và chọn thời điểm cũng như kiểu bắn ?" phát một, loạt ngắn hay loạt dài. Thông thường pháo bắn ở khoảng cách 2000-2200m với loạt ngắn. Bắn loạt dài chỉ sử dụng khi gặp mục tiêu bay thấp. Thường chúng tôi dùng đạn nổ. Tất nhiên là chúng tôi cũng có đạn xuyên nhưng chúng rất hiếm khi được sử dụng và chỉ dùng để bắn mục tiêu trên mặt đất. Mỗi khẩu đội gồm 8 người - khẩu đội trưởng, 2 pháo thủ, trắc thủ, trinh sát về hướng và tốc độ may của mục tiêu, chiến sĩ nạp đạn và 2 chiến sĩ mang đạn (nếu bắn bằng loạt dài thì một người không thể đảm nhiệm được kịp, các kẹp đạn mau chóng mất hút như thể đút vào một cối xay thịt (the clips disappeared as if into a meat grinder)). Số 1 ngắm mục tiêu trên đường thẳng đứng cho đến khi đường nằm ngang của thước ngắm trùm lên mục tiêu (The Number 1 aimed the gun in the vertical until the horizontal line in the collimator overlaid the target), số 2 trên đường nằm ngang cho đến khi đường nằm ngang của thước ngắm trùm lên mục tiêu (the Number 2 in the horizontal until the vertical line in the collimator overlaid the target), số 3 xác định khoảng cách và hướng của mục tiêu được thông báo từ đại đội trưởng (Number 3 set the distance and velocity of the target which were relayed by the battery commander), chỉ điểm viên, bằng cách quay chiếc tay quay, cố gắng ước lượng hướng của mục tiêu (tried to guess the aircraft''s direction), khẩu đội trưởng sau khi xác định mục tiêu đã bị nắm bắt sẽ báo cáo đại đội trưởng và theo mệnh lệnh của đại đội trưởng mà cho số 2 nổ súng (the commander, after having determined that the target was acquired reported to the command post and at battery commander''s order the Number 2 opened fire). Tuy nhiên, những pháo thủ có kinh nghiệm thường ngắm bắn bằng đạn vạch đường. Khả năng này có thể đạt được nhờ luyện tập liên tục qua các trận chiến hoặc trong nhiệm vụ canh gác (trong đại đội luôn có một khẩu pháo làm nhiệm vụ canh gác).
    [​IMG]
    Tổ pháo thủ của trung sĩ Ivan Shapin
    Đứng từ trái sang phải: người tiếp đạn, trắc thủ, người nạp đạn, chỉ điểm viên, người tiếp đạn, chỉ huy. Những người ngồi: pháo thủ số 1, pháo thủ số 2.
    (Trích từ cuốn sách của A. Grechko "Bitva za Kavkaz"; "Trận đánh Kavkaz".)

    Trở lại năm 1942, chúng tôi thậm chí không có đủ thời gian để hoàn tất làm chủ khẩu pháo, khi có một mệnh lệnh chuyển tới về việc đưa chúng tôi ra mặt trận. Đầu tháng 7-1942, trung đoàn pháo phòng không của lục quân 241 chúng tôi được thành lập, gồm 4 đại đội pháo cao xạ và 2 tiểu đoàn súng máy DShK (nguyên văn : ?ocompany? - đại đội, ở đây tạm dịch là tiểu đoàn là cấp tương đương của VN cho dễ theo dõi ?" TS) được biên chế trong Phương diện quân Voronezh. Chúng tôi luyện tập với những khẩu pháo trên tàu hoả, và trong một lần luyện tập, các pháo thủ đã bắn một phát đạn súyt giết chết đại đội trưởng ?" viên đạn bay vượt sát đầu anh ta (the gunners fired a shot which almost killed our battery commander - the shell flew over his head). Ở ga Serebriannye Prudy chúng tôi bị ném bom lần đầu tiên. Tôi nhảy đầu tiên vào một bụi cây gần nhất và ngồi đó run lên vì sợ cho đến khi máy bay địch bỏ đi. Cuối cùng ở ga Anna chúng tôi cũng được thử lửa trận đầu.
    Cho tới cuối mùa hè chúng tôi vẫn rút lui cùng với lục quân cho tới khi mặt trận ổn định ở sông Đông, chúng tôi được bố trí ở bờ bên phải sông ngay đúng khi bắt đầu của cuộc phản công (on whose bank we were deployed right up to the beginning of the counteroffensive). Đó là một thời kỳ rất khó khăn. Đạn dược rất khan hiếm. Chúng tôi chỉ được ăn đạm bạc ?" cả bữa thứ nhất lẫn bữa thứ hai chỉ là súp hoặc cháo đặc nấu độc bằng lúa mì, hoặc đậu Hà Lan nấu với dầu bông Uzbek, trông như gỉ sắt vậy (We were poorly fed - for the first and second course soup or porridge from whole grain wheat, or peas freshly cooked on Uzbek cotton oil, which looked like rust). Thậm chí có thời kỳ chúng tôi không có cả muối ?" đúng là cực hình. Chúng tôi phải ăn khẩu phần như vậy khoảng một tháng trời.
  9. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Đây là năm cuối cùng mà quân Đức cố gắng chiến đấu theo đúng thời gian biểu (That was the last year when the Germans tried to fight according to a schedule). Chúng hầu như không bao giờ ném bom vào ban đêm, nhưng các cuộc không kích thường bắt đầu vào buổi sáng. Thời tiết nóng ghê gớm ?" 8 giờ rưỡi sáng, trời nóng, hôi thối, tốp ném bom đầu tiên bay tới. Chúng thả bom cả vào chúng tôi lẫn vào đám bộ binh. Sau đó khoảng 30-40 phút, sau đó là tốp thứ hai. Sau đợt không kích thứ ba, nếu chúng ném bom thành công thì chúng tôi sẽ bị phủ đen từ đầu đến chân vì đất cát và bồ hóng.
    [​IMG]
    Trung sĩ Gennadii Shutz, năm 1942
    Có lần sau một đợt không kích như vậy bí thư chi đoàn KOMSOMOL của trung đoàn bị thương và phòng chính trị cử tôi thay thế. Bất cứ lúc nào rảnh rỗi là tôi đi thăm các đại đội, nói chuyện về tình hình mặt trận, về tình hình của các nước đồng minh của ta. Hầu hết chiến sĩ đều thất học ?" tòan đại đội của tôi chỉ có 2 người đã tốt nghiệp trung học, số còn lại mới học đến lớp 7 hoặc thậm chí lớp 4. Tất nhiên ta phải nói chuyện với họ. Hơn nữa, bọn Đức cũng tiến hành công tác tuyên truyền của riêng chúng ?" thả truyền đơn. Tôi nhớ rất rõ nội dung một vài tờ trong số đó. Truyền đơn thứ nhất gấp đôi trên một tờ A4 hoặc giấy phấn (chalk paper). Trang nhất cắt một lỗ thủng hình tròn để có thể nhìn thấy quốc huy Liên Xô in ở trang 3. Khi mở nó ra, có một đoạn thuyết minh dưới hình quốc huy : ?oLiềm ở bên trái, búa ở bên phải. Đó là quốc huy Liên Xô của chúng ta. Cứ việc gặt lúa hoặc quai búa tùy thích, anh sẽ vẫn chỉ có? và ba dấu chấm (Theo cách của người Nga, nó sẽ là một vần thông tục để chỉ cơ quan sinh dục của đàn ông, trong trường hợp này câu trên sẽ có nghĩa là ?oanh sẽ trắng tay?). Tất nhiên, nó thật tầm thường. Hình như, bọn Đức được cung cấp thông tin là quân ta rất thiếu giấy, và thậm chí không có gì để quấn một điếu thuốc lá, do đó có loại truyền đơn thứ hai được in đặc biệt lên giấy quấn thuốc lá với hy vọng là lính ta sẽ dùng nó để quấn thuốc lá và cũng đọc nó luôn. Chúng viết : "Chỉ có Timoshenko và đám anh hùng Do Thái là muốn chiến tranh. Các anh phải rút lui chỉ vì Staline đã giết hại 130 ngàn sĩ quan chỉ huy và sĩ quan chính trị ưu tú nhất?. Hoặc có những truyền đơn mô tả những Ivanov, Petrov, Sidorov nào đó đã đầu hàng và sống tốt như sau. Trong ảnh, chúng ngồi đó, chơi đàn ác-coóc-đê-ông và cười. Tôi phải giải thích rằng tất cả đều là dối trá.
    Khi chiến dịch Stalingrad bắt đầu chúng tôi tới những ngôi làng Kazak ở Kantimirovka và Buturlinovka. Trong thời gian chiến dịch chúng tôi sống không được dễ chịu lắm - những khẩu pháo được kéo bằng xe jeep Willys, chúng đi tốt trên đường bằng phẳng. Nhưng khi leo lên đồi thì khẩu pháo và những hòm đạn đặt trên đó luôn đe doạ làm chiếc xe trượt ra khỏi đường. Chỉ đến năm 1944 chúng tôi mới có những xe Dodge 3/4, và sau đó là xe hai cầu Chevrolet và ?oStudebaker US6x6?, loại thường xuyên kéo một lúc 2 khẩu pháo. Nhưng trước đó thì chỉ có những chiếc Willys theo cùng chúng tôi (But back then only the Willys could get us through).
    Sau khi trận Stalingrad kết thúc, tôi được cử đi học trường pháo binh ở Tomsk, và sau đó là Irkutsk, nơi tôi hoàn tất khoá huấn luyện. Cuối năm 1943 tôi tới Leningrad. Một chiếc "ovechka" ("cừu? trong tiếng Nga, do hình dáng của chiếc đầu máy) động cơ hơi nước từ thời trước cách mạng chở chúng tôi chạy hết tốc lực theo đường sắt hành lang giữa Volkhov và Leningrad năm 43. Tôi được điều động tới sư đoàn 32 theo lệnh trên, ở đó tôi được giao phụ trách một trung đội (2 khẩu pháo). Vào thời điểm đó diễn ra cải tổ mở rộng trong các đơn vị pháo binh và sư đoàn pháo phòng không 32 RGK của chúng tôi (RGK - C-in-C''s Reserve - trans.) có 4 trung đoàn, trong đó 3 trung đoàn (1387, 1393, và 1413 của tôi) là MZA (pháo phòng không cỡ nhỏ) và trung đoàn 1387 SZA (pháo phòng không hạng trung), trang bị pháo cao xạ 85mm. Các đại đội cũng được tái tổ chức với 6 khẩu đội trong biên chế. Các khẩu pháo bây giờ được bố trí thành hình lục giác cách nhau từ 150-200m. Đó là nói về bình thường, nhưng trong điều kiện chiến đấu thỉnh thoảng chúng tôi cũng dùng những cách bố trí khác, ví dụ như thành một hàng ngang khi bảo vệ các đội hình hàng dọc.
    Chúng tôi chiến đấu trong tháng Giêng. Giải phóng Gatchina và gần như hoàn toàn tiến tới Pskov. Trong suốt chiến dịch trung đoàn tôi yểm hộ cho Sư đoàn bộ binh Luga 46. Ở Pskov tôi đã được đề bạt làm đại đội trưởng. Tôi nhớ rằng rất rõ cái ngày mình được đề bạt. Đó là vào đầu tháng Hai. Tôi vừa tới chỗ đại đội 4, dưới quyền chỉ huy của tôi, và liền đi gặp các chiến sĩ. Vào thời điểm đó đại đội tính cả thành phần hỗ trợ có 84 chiến sĩ. Thêm vào đó, tất cả các trung đội trưởng đều là trung uý (lieutenant) trong khi tôi mới chỉ là thiếu úy (junior lieutenant). Tất nhiên, tôi được chào đón với sự ngờ vực. Và rồi một cuộc không kích diễn ra : 30-35 chiếc Ju-87. Tất cả đều nhìn tôi - để xem tôi sẽ chỉ huy thế nào. Anh hỏi là nếu tôi không cho nổ súng ? Tôi có thể, nhưng điều đó sẽ bị những người lính cao xạ coi là sự hèn nhát. Chúng tôi có một quy tắc ?" khi cuộc không kích diễn ra thì không ai, từ người mang đạn cho đến đại đội trưởng, được phép chúi mình xuống trốn tránh (bend down). Anh buộc phải tiếp tục hòan thành nhiệm vụ của mình. Điều cốt lõi là không được để mất tinh thần. Sau cùng, cũng đã có một vài người chúi đầu xuống dưới xe kéo pháo vì sợ hãi. After all, there were some who stuck their heads under the gun''s carriage out of fear. Thế đấy, chúng tôi đã vượt qua trận thử lửa này một cách thành công. Chúng tôi không bắn hạ được chiếc nào, nhưng đã khiến máy bay địch phải tản ra, chúng không thử nhào xuống thêm lần thứ hai, và chúng tôi bảo vệ được điểm nút giao thông. Đó là một sự đóng góp chung. Hơn nữa, đã không có ai phải hy sinh.
    Tính tổng cộng, từ đầu năm 1944 đến tháng 5-1945 đại đội tôi bắn rơi 13 máy bay địch, và xếp trong những hạng đầu tiên của tòan sư đoàn về hiệu quả chiến đấu. Có vẻ không hợp lý lắm, đúng không ? Nhưng nhiệm vụ của chúng tôi là gì ? Không được để máy bay địch ném bom khi phải bảo vệ mục tiêu. Chắc chắn là rất tuyệt vời nếu bắn rơi được một máy bay địch, nhưng đó không phải vấn đề chính, vấn đề chính là bảo vệ được bộ binh, xe tăng, hay một ngã tư khỏi bị thiệt hại do không kích. Ở Stalingrad trung đoàn chúng tôi bắn rơi khoảng 100 máy bay địch trong 2 tháng. Nhưng chúng là những chiếc Ju-52 làm nhiệm vụ tiếp tế cho Tập đoàn quân số 6 (của Đức ?" TS) bị bao vây, bắn rơi chúng rất dễ. Nhưng để bắn rơi một chiếc Ju-87 thì rất khó. Chúng là những chiếc cường kích bổ nhào khó lường nhất (nguyên văn : perfidious) và nguy hiểm nhất của quân Đức. Mặc dù không nhanh lắm, chúng ném bom rất chính xác. Đó là lí do vì sao chúng tôi bắn ngay thời điểm chúng kéo lên cao để bổ nhào. Điều đó sẽ làm tên phi công hoảng sợ, hắn thấy là mình có thể bị bắn trúng. Dù thế nào thì hắn vẫn sẽ ném được bom, nhưng bằng cách làm hắn mắc sai lầm thì bom sẽ được ném sớm hơn hoặc muộn hơn cần thiết ?" đó là nhiệm vụ của chúng tôi. Nhưng khi chúng tôi thấy mình đã bắn rơi một chiếc máy bay, chúng tôi sẽ ngay lập tức cử một lính kĩ thuật (gun mechanic) lái một chiếc "Willys" tới chỗ máy bay rơi, để lấy những mảnh xác làm bằng chứng rõ ràng. Điều đó rất có ích để có được sự công nhận của bộ phận được bảo vệ. Tất nhiên, có thể xảy ra trường hợp là máy bay rơi trong khu vực địch kiểm soát, khi đó nó sẽ chỉ được tính nếu có một sự kiểm chứng nào đó. Và, với thành tích 5 chiếc máy bay đầu tiên tôi nhận được Huân chương Sao Đỏ, với 5 chiếc tiếp theo ?" Huân chương Chiến tranh Vệ quốc hạng hai. Tôi cũng nhận được huy chương ?oBảo vệ Leningrad?, ?oĐánh chiếm Berlin? và ?oChiến Thắng nước Đức?.
  10. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Từ Pskov chúng tôi được chuyển tới Vyborg. Một lần nữa chúng tôi chọc thủng phòng tuyến của địch và tiến được khoảng 100km mà không gặp khó khăn, chúng tôi nghĩ sẽ tiếp tục như vậy, nhưng không - trước Vyborg chúng tôi vấp phải sự chống cự quyết liệt và bị chặn lại, và toàn bộ lực lượng tiếp tục tiến theo đà và hàng đống người và xe cộ dồn lại trên đường cao tốc Primorskoye. Tôi phân tán các trung đội dọc theo đội hình kéo dài 2km. Quân Đức không bắt chúng tôi phải đợi lâu. Trong cuộc không kích, mảnh bom làm bị thương gần như toàn bộ một khẩu đội. Thế là khẩu đội trưởng Ermeneyev, đã bị thương, thay thế vị trí một pháo thủ và cùng những chiến sĩ khác bắn rơi 3 máy bay khi chúng bổ nhào và đuổi chạy tán loạn những chiếc còn lại, do đó anh được khen thưởng và trở thành Anh hùng Liên Xô. Đó là câu chuyện tuyên truyền. Nhưng thực tế, anh ta có bị thương thật, nhưng nhẹ thôi, và anh ta không bắn hạ cả 3 ?" chúng tôi đã tính chúng cho anh ta. Những người khác cũng bắn , và máy bay rơi xa mặt trận. Nhưng đó vẫn là hành động anh hùng ?" anh ta không để địch ném bom đội hình quân ta, nếu không thì sẽ rất tai hại.
    Chúng tôi đề nghị thưởng huân chương cho anh ta, chứ không phải phong Anh hùng, để phong Anh hùng anh phải viết một bản đề cử riêng. Trong năm 1944 có quyết định tổ chức Ngày Pháo binh trong lễ kỉ niệm phản công ở Stalingrad ngày 19-11. Hình như, có lệnh của Staline về việc phong Anh hùng Liên Xô cho một hay hai người thuộc mỗi chủng loại của pháo binh. Cuối cùng, tôi được gọi lên trung đoàn bộ và được giao viết bản giới thiệu về Ermeneyev. Như thế, đại đội tôi đã có một Anh hùng.
    [​IMG]
    Anh hùng Liên Xô Viktor Ermeneyev
    Trên mặt sau tấm ảnh có viết:
    "Đồng chí thượng úy, xin hãy nhớ và đừng quên người Anh hùng của đồng chí. Viktor Ermeneyev. Một món quà kỷ niệm tặng đại đội trưởng, thượng úy Gennadiy Shutz. Stendal (nước Đức) 7.10.45 (Mùng 7 tháng Mười, 1945)

    Ở đó, ở Vyborg chúng tôi cũng có một tai nạn không được dễ chịu. Trong thời gian chiến dịch, tôi quen với một thiếu tá, chỉ huy đơn VNOS (Trinh sát, liên lạc và cảnh giới đường không - Aerial Reconnaissance, Warning, and Communication). Chỉ có phụ nữ trong đơn vị này và anh ta chỉ huy bọn họ. Và, họ có một quả khí cầu, giống như một cái xúc xích, người thiếu tá ngồi trong đó với điện đài trên độ cao khoảng 800m để quan sát mục tiêu cho pháo binh. Một lần chúng tôi nhìn thấy một chiếc "messer" (Messerschmitt) lao tới quả khí cầu ở độ cao cực kì thấp. Chúng tôi nổ súng khiến nó không thể vượt qua và bắn cháy chiếc ?oxúc xích?. Phải nói rằng rất khó để bắn trúng một mục tiêu bay nhanh ở độ cao thấp, mọi thứ phụ thuộc vào sự phối hợp giữa các pháo thủ, những người chọn thời điểm bắn bằng trực giác. Và đột nhiên tôi thấy một phát đạn của chúng tôi bắn trúng quả khí cầu, nó bốc cháy và bắt đầu rơi xuống. Người thiếu tá ở trong đó cố gắng nhảy ra và mở dù khi đã khá gần mặt đất. ?oXong?, tôi nghĩ, ?osẽ là toà án binh?. Và trung đoàn trưởng tới trên một chiếc "Willys" - một con người khó chịu. Ông ta nói : ?oViết báo cáo, cấp trên đã nhìn thấy các cậu bắn hạ một chiếc ?omesser?." Tôi nói : "''messer'' nào ? Tôi bắn rơi cái ?oxúc xích? của chúng ta rồi !". Nhưng ông ta vẫn khăng khăng với yêu cầu của mình. (But he pushes his own line.) Tôi nghĩ có lẽ ông ta đang hy vọng sẽ có được huân chương cho bản thân. Tôi cử một chiếc Willys đi tìm nếu viên thiếu tá còn sống. Họ trở về với anh ta. Cám ơn Chúa anh ấy còn sống ! Nhưng anh ta bị thương khá nặng ?" tay bị xước xát, mặt bị trầy da. Rồi anh ta bắt đầu chửi rủa tôi ! Tôi nói : ?oNào, anh cũng thấy, chúng tôi đã đuổi được chiếc ?omesser?. Chúng tôi uống một cốc rượu cồn với anh ta, băng bó và sau này khi chiến dịch vẫn đang diễn ra, chúng tôi còn gặp nhau không chỉ một lần. Tất nhiên, trong chiến tranh mọi chuyện đều có thể xảy ra. Một lần khác chúng tôi bắn vào một chiếc tiêm kích của quân ta. Thật tốt là chúng tôi đã không bắn rơi nó. Tất nhiên, chúng ta có hệ thống nhận dạng, YaSS (Máy bay của ta đây), nhưng nó rất sơ sài ?" ban ngày thì máy bay lắc cánh theo những kiểu khác nhau, còn ban đêm thì bật đèn theo quy định (various rolling of the wings during the day, and a combination of running lights during the night). Kí hiệu được thay đổi hàng ngày, điều đó gây rắc rối cho một đại đội trưởng như tôi.
    Sau đó quân ta tiến về phía tây dọc theo bờ biển vịnh Riga. Một lần, chúng tôi đang ngồi trên bờ biển, chơi bài với mấy cô gái. Và rồi người gác hét lên : ?oCó mục tiêu trên mặt nước !?. Tôi nhìn và thấy 3 tàu phóng lôi của quân Đức đang tiến vào. Tôi báo động đơn vị và chúng tôi để cho chúng vào gần hơn, nhưng từ 800m chúng đã bắn. Tôi thấy một phát đạn nổ, rồi phát nữa. Và chúng tôi đáp trả lại bằng cả 6 khẩu pháo. Một cách bài bản, chúng tôi săn đuổi chúng và kết thúc cuộc chơi. Quân ta nhanh chóng giải phóng thành phố Tartu. Đó là một buổi tối tháng Tám ấm áp khi chúng tôi tiến vào thành phố, và tôi có cảm giác chiến tranh đã kết thúc ?" không có tiếng súng nào, không có vết tích giao tranh trên đường phố. Chúng tôi dừng lại, và tôi quyết định hái ít quả mâm xôi ở khu vườn trước một ngôi nhà. Lấy đầy những quả mâm xôi ngon lành, tôi rẽ mấy bụi cây và thấy một người phụ nữ nằm chết trên mặt đất. Sự tương phản giữa cảnh đẹp và sự tĩnh lặng ở một bên và cái chết chóc ở bên kia đã in dấu trong kí ức của tôi suốt phần đời còn lại.
    Chúng tôi vượt qua biên giới Đức ở khu vực sông Netze ở Kostschin (Kostrzyn). Chúng tôi đang đi trên xe vào ban đêm qua khu vực hôm trước có giao tranh (We were driving at night over the site of yesterday''s battles). Những người lính mệt nhoài nằm ngủ trong thùng xe. Bỗng nhiên tôi thấy một khung vòm bằng gỗ dán (plywood arch) vắt qua con đường và những kí hiệu bằng chữ cái màu đen (a sign on it in large black letters). Tôi đọc nó và lập tức nổi da gà: "Nó đây rồi, nước Đức tội lỗi" (Đây là câu cảm thán của chính tác giả - LTD). Tôi tập hợp các trung đội trưởng. Các chiến sĩ được đánh thức. Tại đây, tôi nói, chúng ta đang bước vào hang ổ của con thú phát xít. Khi trời sáng thì trung đoàn trưởng tới. Chúng tôi đã bố trí một người gác sao cho quan sát được cả trên trời và dưới đường, để chờ cấp trên tới. Nếu anh ta thấy một chiếc ?oWillys" của cấp trên thì anh ta cũng sẽ hô ?oBáo động !? giống như khi có không kích. Cấp trên hỏi : ?oAnh cho bộ đội ăn gì ngày hôm nay ??. ?oChà, cháo đặc, như mọi khi? ?" tôi trả lời. ?oThượng sĩ, lại đây. Anh cho bộ đội ăn gì ?? (Có lẽ thượng sĩ là cấp bậc của người anh nuôi trong đại đội ?" LTD) ?oCháo đặc, thưa đồng chí đại tá? "Cháo đặc, cháo đặc? tôi vừa ở đại đội của Terekhov, họ đã kiếm được thịt lợn hay thứ gì đó tương tự. Hãy lấy một chiếc Studebaker hay Chevrolet và chạy tới một trang trại nào đó. Hãy lấy tất cả những gì họ có?. Cần phải nói rằng quanh Netze dân cư trong bán kính 20km đã bỏ đi, bỏ đói súc vật trong trang trại. Do đó cấp trên đã cho phép chúng tôi đi cướp bóc. Tuy nhiên, chuyện đó chấm dứt nhanh chóng vì có mệnh lệnh của Tư lệnh Phương diện quân Zhukov, nội dung đại loại như: ?oChúng ta là một quân đội giải phóng, đi giải phóng nhân dân Đức và chúng ta phải đối xử với nhân dân Đức như với chính người mình?. Nhưng cứ thử giải thích cho những người lính Nga chất phác, những người có người thân bị treo cổ hay xử bắn, có nhà cửa bị đốt phá, rằng họ phải quên tất cả ngay lập tức ?! Không thể ?! Họ phẫn nộ : ?oTại sao chúng tôi phải quên những gì mà bọn Đức đã làm với quê hương, gia đình tôi ??. Sự thay đổi thái độ là rất khó khăn. Vì từ tận Stalingrad tới biên giới Đức chúng tôi đã tiến quân với khẩu hiệu: ?oGiết một tên Đức !?. Tôi như vẫn thấy bài báo của Ilya Erenburg trước mắt mình. Anh cũng cần phải biết rằng quân bổ sung trong đại đội thời điểm đó phần lớn là tội phạm, được thả nhờ lệnh ân xá. Đã có một chuyện khi một lính của tôi, một tên tù như vậy, đã cưỡng hiếp một bà mẹ và cô con gái trong một nghĩa trang. Tôi phải tự bảo vệ mình, viết một bản báo cáo, SMERSH (viết tắt của "Cái chết cho bọn gián điệp?, cơ quan phản gián quân sự - Oleg Sheremet) đã lưu ý, và hắn bị đưa ra toà án binh. Nhưng đã không xảy ra trường hợp phạm tội tập thể nào.
    Rồi sau đó, chúng tôi chiếm Berlin, rồi Magdeburg, vượt sông Elba, và tới Stendal. Tại đó chúng tôi dừng lại và sống khoảng một năm. Chiến tranh đã kết thúc như vậy đấy.
    Ghi chép và hiệu chỉnh bởi Artem Drabkin
    Dịch từ Nga sang Anh bởi Oleg Sheremet
    Ảnh lấy từ lưu trữ của G. Shutz
    Dịch từ Anh sang Việt: Phan Trường Sơn
    Hiệu đính tiếng Việt: L?Zý Thế Dân

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này