1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại của nhân dân Liên Xô

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi danngoc, 04/09/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330

    Nhìn lại lịch sử 60 năm trước -
    Nga đánh bại đội quân Quan Đông của Nhật

    Ngày kỷ niệm 60 năm chiến thắng phát xít là dịp để các nhà chính trị, sử học và quân sự trên toàn thế giới nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện hơn về lịch sử cũng như hiện tại và tương lai.
    Trong dịp này, ngay tại Nga là đất nước đã đóng vai trò quyết định trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít và chịu nhiều đau thương mất mát nhất để giành thắng lợi, cũng có những luồng dư luận và ý kiến đòi mổ xẻ lại những sự kiện lịch sử, đánh giá lại ?ocông-tội? của ban lãnh đạo đất nước thời kỳ đó, thậm chí đánh giá lại ý nghĩa to lớn của chiến thắng chống phát xít và sự hy sinh lớn lao của nhân dân và quân đội xô-viết. Một trong những sự kiện đó là việc Liên Xô tham chiến chống quân phiệt Nhật tháng 8/1945. Xin giới thiệu bài phỏng vấn một trong những người trực tiếp tham gia chiến dịch đó, nay là Chủ tịch Viện khoa học quân sự Nga - đại tướng Makhmut Gareev.
    Hiện nay trong số các nhận định và ý kiến phân tích các sự kiện trong Chiến tranh Thế giới II có nhiều vấn đề gây tranh cãi, thậm chí xuyên tạc lịch sử. Một trong số đó là liệu Liên Xô, quốc gia đã kiệt sức khi vừa giành thắng lợi trong cuộc chiến chống phát xít Đức, có thật sự cần thiết tham gia một trận chiến nữa với quân phiệt Nhật vào năm 1945 hay không? rằng người Mỹ không có Liên Xô vẫn có thể giành thắng lợi trước quân đội Nhật?
    Trước hết xin lưu ý rằng đây là cuộc Chiến tranh thế giới giữa một bên là trục phát xít ?oĐức ?" Ý ?" Nhật?, một bên là liên minh chống phát xít với Liên Xô, Mỹ và Anh là những nước tham gia chính. Nếu nói Mỹ có thể không cần đến sự trợ giúp của Liên Xô ở phía Đông hay Liên Xô không cần sự trợ giúp của quân đồng minh ở phía Tây là hoàn toàn sai lầm. Chiến tranh chỉ có thể kết thúc khi cả vấn đề ở Đông và Tây được giải quyết triệt để.
    Hn nữa quan điểm của ban lãnh đạo Liên Xô thời kỳ đó đối với các thoả thuận hợp tác đồng minh là vô cùng nhất quán. Stalin đã thực hiện cam kết trợ giúp đồng minh tham gia cuộc chiến chống Nhật tại hội nghị Tehran năm 1943 và hội nghị Yanta sau này. Ông đã hứa sẽ tham chiến sau 2-3 tháng kể từ khi kết thúc cuộc chiến với nước Đức phát xít. Lịch sử đã một lần nữa chứng minh Stalin là người trọng lời hứa của mình ?" tròn 3 tháng sau khi chiến thắng Đức, ngày 9 tháng 8 năm 1945 Liên Xô bắt đầu các trận chiến chống Nhật tại phía Đông. Cũng nên nói thêm rằng ban lãnh đạo Liên Xô lúc đó chưa bao giờ loại bỏ mục tiêu đánh bại quân phiệt Nhật trong tổng thể kế hoạch chống phát xít của mình. Bởi vì trong các kế hoạch chiến lược quốc phòng được soạn thảo từ cuối những năm 30 Liên Xô đã xác định phải sẵn sàng chống trả cả hai phía Tây và Đông ?" phía Tây với Đức và phía Đông với Nhật. Và mọi chính sách chính trị và ngoại giao cũng như các hoạt động quân sự bấy giờ đều phục vụ cho mục tiêu làm thế nào để Liên Xô không phải đồng thời chiến đấu trên hai mặt trận, mà dốc thể lần lượt chiến đấu với từng đối thủ một.
    Có ý kiến cho rằng thậm chí khi tấn công Nhật, Liên Xô đã vi phạm hiệp ước đã ký với nước này. Thật sự trong vấn đề này Liên Xô hoàn toàn tuân thủ luật pháp quốc tế vì đã tuyên bố rút khỏi hiệp ước nói trên từ tháng 4-1945. Ngoài ra theo chính phân tích và nhận định của các nhà sử học và tài liệu nghiên cứu của tham mưu quân đội Mỹ ngay trong những năm chiến tranh, thì nếu như quân Mỹ chiếm các đảo của Nhật, quân Nhật tại đó sẽ chuyển sang đội quân Quan Đông và có thể chiến đấu hàng chục năm nữa. Tokyo đã có kế hoạch giữ lại vùng Mãn Châu Lý (Xin lưu ý rằng lúc này vẫn là Mãn Châu Quốc. Tài liệu các sử gia phe XHCN sau này sẽ không đề cập tới Mãn Châu Quốc, có lẽ vì không muốn ảnh hưởng quan hệ với Trung Quốc. Sau này các phân tích gia quân sự cao cấp của Nga sẽ còn nhắc lại nhiều lần về quyết định của Stalin khi xóa bỏ Mãn Châu Quốc, một quốc gia đệm để bảo vệ Viễn Đông của Nga trước tham vọng của Trung Quốc. ?" LTD) làm bàn đạp quân sự để tiếp tục chiến tranh. Bàn đạp này không chỉ đe doạ Mỹ mà trước hết nó đe doạ vùng Viễn Đông của Liên Xô. Liên Xô hoàn toàn không muốn thấy sự tồn tại có một căn cứ như vậy ngay sát biên giới nước mình.
    Mặt khác, các chuyên gia Mỹ đã phân tích và báo cáo tổng thống Roosevelt rằng nếu Liên Xô không tham chiến, chiến tranh có thể kéo dài không dưới một năm hay một năm rưỡi nữa, khi đó Mỹ có thể mất thêm một triệu quân. Thậm chí ngay cả khi Mỹ đã ném 2 quả bom nguyên tử xuống Okinawa và Nagasaki thì Nhật vẫn không đầu hàng, không ngừng kháng cự và dự định tiếp tục chiến đấu. Liên Xô đã phân tích tình hình mọi mặt và quyết định tham chiến vì lợi ích của quốc gia và lợi ích của toàn nhân loại - đó là kết thúc Chiến tranh Thế giới II. Việc đánh bại đội quân Quan Đông của Nhật trong thời gian ngắn đã xoá bỏ mọi nghi ngại ban đầu. Chiến thắng nhanh chóng của quân đội Xôviết đã cứu được hàng chục nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn sinh mạng quân Anh và Mỹ có thể sẽ phải hy sinh tại mặt trận này.
    Tôi khi đó là thiếu tá công tác tại phòng tác chiến ban tham mưu quân đoàn 5. Quân đội Xô-viết bắt đầu chia quân thành các hướng trên lãnh thổ Đông Prussia, quân đoàn 28 là đơn vị tấn công Koenigsberg được điều sang hướng Berlin, số còn lại đi về hướng Nam. Có chi tiết rất đáng lưu ý ở đây là việc chuyển quân sang phía Đông bắt đầu ngay sau khi kết thúc chiến tranh Phần Lan vào mùa thu năm 1944. Điểm mấu chốt để giành được thắng lợi nhanh chóng và ít tổn thất trong trận chiến với đội quân Quan Đông chính là yếu tố bất ngờ, trước hết trong việc chuyển quân.
    Trong chiến dịch này có sự tham gia của nguyên soái Vasilevski và chỉ huy Bộ tổng tham mưu đại tướng Antonov. Các sư đoàn đã bắt đầu tiến về phía Đông từ năm 1944 song việc này được giữ bí mật hoàn toàn. Có một số sư đoàn kiêm thêm nhiệm vụ nghi binh, đó chính là những sư đoàn trước đây đã từng hành quân từ Đông sang Tây để chiến đấu tại mặt trận Karenski, hoặc Hungaria. Cả quân Nhật và dân chúng đều tưởng rằng những sư đoàn đó sau khi giành chiến thắng nay rầm rộ rút về căn cứ đóng quân của họ trước đây. Những đơn vị ấy được cờ hoa đón chào tại các ga xe lửa. Còn đằng sau sự nghi binh ấy là những đơn vị khác, trong đó có không quân và xe tăng, lại hành quân cực kỳ bí mật. Sau khi trở về Koenigsberg một số đơn vị được lệnh chuẩn bị lên đường. Chúng tôi không biết mình sẽ đi đâu, thậm chí chỉ huy còn bắt tất cả dán lên tường bản đồ hướng Berlin và Praha vì tưởng đơn vị mình sẽ được điều tới đó. Song hoá ra chúng tôi lại trở về Maskva. Ban tham mưu quân đoàn 5 về đến thủ đô ngày 2/5 và được lệnh cấm trại. Chiều ngày hôm đó chúng tôi đã được đón pháo hoa mừng chiến thắng giải phóng Berlin và vẫn tưởng rằng mình sẽ chiến đấu chống quân Thổ Nhĩ Kỳ, cho mãi đến tận khi vượt sông Volga mới hiểu ra...
    Tại biên giới Mãn Châu Lý quân Nhật đã lập một phòng tuyến rất vững chắc và chỉ huy quân Nga đã có kế hoạch pháo kích liên tục trong 3 ngày đêm để phá vỡ phòng tuyến này. Pháo kích trong một ngày hay một ngày ruỡi chỉ có thể phát quang lớp nguỵ trang các lô-cốt chiến đấu. Song chỉ huy quân đoàn lúc đó là thượng tướng Krưlov đã đề nghị Nguyên soái Vasilevski cho các tiểu đoàn cơ động tấn công ngay không cần pháo kích. Vào lúc 1 giờ sáng ngày 9/8 chúng tôi cùng các đơn vị biên phòng lợi dụng trời mưa to đã vượt qua biên giới và chiếm lĩnh các lô-cốt. Vì bất ngờ nên quân Nhật lúc đó không ở trong lô cốt mà đóng tại khu nhà gỗ cách đó khoảng 500 - 600 mét. Khi chúng kịp xông ra thì lô cốt đã bị quân Nga chiếm hết.
    Về phía bắc, ở làng Gradekovo có một phòng tuyến của quân Nga do tướng Sursin chỉ huy. Để động viên quân sĩ, ông này đã quyết định cho pháo bắn dọn đường 10 phút trước khi tấn công. Song khi pháo kích bắt đầu thì quân Nhật đã vào hết lô cốt. Sau khi trận chiến bên chỗ chúng tôi đã kết thúc, lính Nhật ngồi trong lô cốt gần Gradekovo vẫn bắn ra. Nếu như quân đội Xô-viết áp dụng chiến thuật như ở mặt trận Phần Lan chứ không theo đề nghị của tướng Krưlov thì cuộc chiến với các tuyến phòng thủ của quân Nhật có thể kéo dài đến 6-7 tháng.
    Kết thúc chiến dịch, trong sô 1 triệu quân Quan Đông của Nhật có 690 nghìn bị bắt làm tù binh. Phía Nga mất 12 nghìn chiến sĩ và sĩ quan. Đây là câu trả lời hùng hồn cho những lời đánh giá quân Liên Xô chiến đấu vụng về, ?olấy thịt đè người? của một số ?onhà phân tích?. Đây cũng chính là lý do vì sao một số người ở Phương Tây không muốn nhắc đến chiến dịch Mãn Châu Lý.
    Một số chuyên gia Phương Tây khẳng định rằng quân đội Xô-viết ít bị tổn thất trong trận chiến này không phải nhờ tài chỉ huy hay kinh nghiệm chiến đấu, mà là nhờ 2 quả bom nguyên tử của Mỹ đã khiến đội quân Quan Đông suy sụp và không thể phát huy sức mạnh như trước ngày 6/8/1945. Song thực tế lịch sử không có gì chứng minh nhận định này. Nếu như quân Nga không có chiến lược và chiến thuật hợp lý thì trận chiến tại Mãn Châu Lý có thể còn kéo dài lâu hơn nữa. Tại làng Gradekovo nói trên quân Nhật còn ngồi trong lô cốt bắn ra 6 tháng nữa ngay cả khi chiến tranh đã kết thúc. Quân Nhật có đủ lòng quyết tâm chiến đấu cũng như lương thực và đạn được. Đúng là ngày 14/8 Nhật hoàng đã ra lời tuyên bố kêu gọi quân đội ngưng chiến, nhưng không phi tất cả các đơn vị thuộc đội quân Quan Đông nhận được mệnh lệnh này và không phải tất cả đều có ý định thực hiện. Đã có một mệnh lệnh không công khai khác: đầu hàng quân Mỹ và quân Trung Quốc, song phải tiếp tục chiến đấu chống quân Nga để hạn chế Liên Xô tiến vào lãnh thổ Triều Tiên, Mãn Châu Lý và các vùng khác của Trung Quốc.
    Trận chiến đấu tại Mãn Châu Lý có thể còn làm tốn nhiều bút mực bình luận, song yếu tố bất ngờ đã dược khẳng định là một trong những nguyên nhân chính làm nên chiến thắng. Có một tài liệu liên quan đến việc này. Tình báo quân đoàn 5 Quan Đông đã báo cáo cho chỉ huy quân đoàn là tướng Yamada rằng quân Nga đã tập trung quân và tiến về mặt trận. Song chỉ huy Nhật đã phê vào báo cáo đó như sau: ?ochỉ có kẻ điên mới tấn công vào mùa mưa?. Mưa dầm vùng này bắt đầu vào tháng 8. Và quân Nga đã tấn công đúng vào thời điểm bị tất cả coi là ?ođiên rồ? đó. Việc vận chuyển xe pháo trong mùa mưa là rất khó khăn, song quân Nga đã được người dân Triều Tiên hết sức giúp đỡ. Có những đoạn đường từ làng này sang làng khác họ đã kéo xe tăng bằng tay, lăn mình trong mưa và bùn đất. Không ai bắt buộc họ làm như vậy, song nhân dân đã giúp đỡ quân đội Xô-viết vì lòng căm thù của họ đối với quân Nhật và sẵn sàng làm tất cả để đánh đuổi quân xâm lược tàn bạo.
    Còn một câu chuyện liên quan đến tù binh. Về sau chúng tôi nhận được không ít lời trách cứ rằng tại sao không thả hết tù binh Nhật mà lại đưa về vùng Viễn Đông của Nga? Khi ấy tôi làm đội trưởng tác chiến cánh quân phía bắc Mãn Châu Lý và chịu trách nhiệm kiểm tra những trại tù binh Nhật tại đây. Khi quân Nga chuẩn bị rút về năm 1945 chúng tôi đã chuyển giao vài trại cho phía Trung Quốc. Song họ lấy hết thực phẩm của trại và dự định bắn hết tù binh Nhật. Bây giờ có người coi việc giải tù binh về Nga là vi phạm luật quốc tế, nhưng khi ấy biết làm gì với 650 nghìn người ấy? Phương tiện đâu để đưa họ về Nhật, lại còn tình thế lúc đó đâu đâu cũng là bãi mìn, để họ lại thì người dân Trung Quốc chắc chắn sẽ giết hết. Chính tù binh Nhật đã van nài quân Nga dẫn họ đi...
    T.H. (theo RIA ?oNovosti?)
  2. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    To chiangsan: cái này tớ vừa sưu tập được và là cái cuối cùng về Chiến dịch Manchuria.
    Dmitrii Krutskikh, Deputy of the Chief of Headquarters of Engineer Troops of the 1st Far Eastern Front
    While the planning of the Manchurian operation Marshal Meretskov, appointed the Commander of the 1st Far Eastern Front asked to give him some officers of the 2nd Byelorussian Front who had the experience of the actions in forests and mountains. I was in that group. In the April of 1945 we went to Far East. For camouflage we ?olost? our awards and our ?oranks? colonel generals had become colonels, lieutenant colonels had become senior lieutenants, and Marshal Meretskov had become ?oGeneral Maksimov?.
    Of course, it was a pity that Berlin would be captured without our participation. But the war in the West was finishing and nobody had doubts in it. A new war ?" the war against Japan ?" was ahead. It had to be my third war (I fought also in Finnish Campaign in 1939-40). And when we arrived in Ussuriisk we immediately began to plan Manchurian operation in the con***ions of the highest secrecy.
    We were working in June, 24th when there was Victory Parade in Moscow. We heard the report about the parade by a radio without going out from our headquarters. I remember that I was thinking in that moment: ?oThey celebrate the Victory there but a new war would begin here soon.? But in any case it was necessary to beat the Samurais. They recalled about the neutrality only in the end of Great Patriotic War when they have understood that Germany is doomed to lose.
    Being the Chief of Intelligence Department of the Headquarters of Engineer Troops of the 1st far Eastern Front I was responsible for the preparing of the special assault and airborne detachments that were assigned to capture railroads tunnels in the region Grodekovo-Pogranichnaia and to land in deep Japanese rears. It was still at the spring when Marshal Meretskov had set a task ?oto capture tunnels of KVZhD railroad, main bridges through the rivers and the road junctions in Mudantsia direction with detachments of sappers-assault soldiers.? From the May special groups of experienced sappers got special day and night training in mountain and sharp cross-country, similar to the area of the future operations. In July they got parachute training and a special training course of the capturing of hydroelectric power stations, bridges, airfields and so on. The personnel of those detachments was from the 20th Assault Engineer Brigade of Reserve of Main Command which contained 3 sapper battalions and a company of special minelaying.
    The the August, 5th all the units have occupied the initial positions. In the night of August, 9th when the order to advance had been got there was a large thunderstorm with a downpour over the border. It helped to the actions of our recon groups which got an order to destroy the Japanese wire communications and railroad in the rears of the Hutou Fortified Region.
    At the same time we had to prevent the Japanese from the destruction of railroad tunnels in the region of Grodekovo. If they did it our advance could be slowed down because our troops had to go a roundabout way, through almost impassable hill region, losing time, rate and element of surprise, and to drive all the supplies with trucks on the distance about 200 km through lack of roads mountain region.
    So the capturing of those tunnels - they had lengths 253, 108 and 87 meters ?" was our main task and we accomplished it successfully. It was not in vain that we spent so much time for the planning and preparation of that operation. We explored in details air photo schemes, counted different variants of our actions, played our actions some dozen times on models and then in the real terrain (we had a similar tunnel in our territory on which we trained the schemes of the capturing, mine clearing and keeping of the objects).
    The operation was done with two engineer-sapper battalion reinforced with a company of pack flamethrowers and some sub-machine gunners, an artillery group and an armoured train. Our guides were frontier guards who knew the local terrain very well. And our scout groups have eliminated in silence the Japanese sentinels nearly the tunnels and barracks still before the arriving of the sappers. Also our scouts have mined the railroad behind the tunnel #3 to prevent the incoming of Japanese reinforcements and armored trains. Then according a common sign our battalions attacked all the objects and captured them after short violent combats. Especially stubborn resistance was shown by Japanese fire points disposed on the hills covering the tunnels. The entrances to those fire points were protected with reinforced concrete fortifications and the terrain nearly them was mined. But my sappers overcame the minefields, outflanked the fortifications, approached to them from rear direction and exploded the 5 most powerful pillboxes. Furthemore a Japanese frontier post Tsinhutai disposed on the hill 524.4 was encircled and practically completely eliminated. Fortunately, the tunnels were not mined although shafts and explosives were ready to the mining but we had began our advance before the Japanese expected it and took them by surprise.
    After that our assault group moved further cleaning way of our troops to the Pogranichnenskii Fortified Region which was captured by our troops to the end of August, 10th. I remember that in that day I met some two-wheeled carts carrying wounded to our rears. One of the had very heavy wound. He was wounded in his left shoulder-blade and most probably his wound was mortal. But he was only 18 years old guy. I asked him: "Does it hurt?" And he answered: "It hurts, commander, but I''ll still fight more!" I remember his voice and his eyes even now, 60 years after those events...
    So that war was not easy like some suppose now. Even after we had broke the Samurais'' defense and moved quickly inside of Manchuria they tried to counter attack some times and continued to resist in their fortified regions which stayed ion our rears. We had to use troops from the second echelons and even from the first echelons of our battle order to eliminate those fortified regions. The combats were exclusively desperate and the casualties were very high especially from the Japanese side.
    So in the August of 1845 Japan was forced *****rrender not with Atomic weapon (about which the Japanese Command practically didn''t know anything in that time) but with rash movement of Soviet troops inside of Manchuria. It was already to August, 15th when main forces of Quantung Army had appeared under the threat of complete encirclement after the destruction of Japanese border troops group. But in the spite of the fact that the Japanese government decided *****rrender it didn''t give any order to the troops about it and the Japanese troops continued to fight at that the combats were very desperate. When in August, 17th General Yamada, the Commander of Quantung Army, addressed at last to the Soviet Command with the offer to stop military actions that doffer had no any word that Quantung Army is ready to lay down arms. The Samurais obviously played along trying to take away their troops inside of Manchuria. To hasten the surrender and to prevent the meaningless bloodshed, the destruction of the plants and factories, the taking away and the destruction of wealth it was decided to land by air groups of our soldiers in the largest cities and key points of enemy disposition.
    Of course, the enterprise was bold and risky. Relatively small Soviets detachments had to land in deep enemy rears in the face of superior enemy forces. Though the Japanese Army was demoralized some of its units refused *****rrender and continued to show resistance. There was no a guarantee that some fanatics afflicted with a Samurai''s spirit, wouldn''t use weapon against those detachments.
    In my case it really happened.
    I commanded the air landing in Girin. According the first plan we had to be air dropped at night in August, 16th. But Marshal Meretskov canceled the night drop and ordered to make an ordinary landing in August, 18th. To that moment we already had a preliminary agreement with the Japanese about their surrender.
    At the morning of that day General Khrenov took me the plan of Girin with the marked objects that had to be captured by us. The general said that we had to reduce the amount of the first echelon because the command could give us only 7 Li-2 planes. Then the general said that the Colonel Lebedev, the Deputy of the Chief of the Operational Department, would be the representative of the stuff of the Front.
    Major Chetverikov, the commander of the 281st Air Transport Regiment, and I calculated the amount of the first echelon of our landing group. We decided that we were able to take only 30 men of the stuff personnel and specialists and 145 men of field troops including 88 men of a separate company of pack flamethrowers, a scout platoon (26 men), two platoons of sappers (32 men), 5 officers of the headquarters, 6 radio operators with 3 radio sets from Intelligence Department of the Stuff of the Front, 5 specialists ?" sappers-electricians who also were drivers, 2 mortar specialists, 5 artillerymen, 2 interpreters from Japanese and Chinese. The second echelon had to contain field troops, specialists in weapon, medics, finance specialists, specialists of hydroelectric power stations, river shipping and airfield service.
    But we didn''t fly in the 18th because the situation was difficult in that region ?" the Japanese troops continued to resist. We had flown only in the next day, in 12 AM. We were covered with 4 fighters and 3 bombers.
    The first plane still hadn''t stopped but our soldiers already jumped out and run to the preliminary planned positions around the airfield. Soon a Japanese soldier and two gendarmes were brought to me. During the interrogation they said about an enemy ambush on a hill covered with kaoliang. We heard some single shots from the hill direction. Colonel Lebedev decided to send the captured Japanese to carry a short letter to the chief of the local garrison: "I offer you to arrive in the airfield and to bring the representatives of local military and civil administrations." Here the second plane landed, then the third one landed but the Japanese didn''t come. They obviously played along. Our patrols which were sent to capture wheeled transport also didn''t return. At last, a bus with a few representatives of the Japanese command approached. The Japanese officers had white bandages on their hands, they were armed with sabers but had no other weapon. The first of the Japanese bowed his head before Colonel Lebedev. After a short talking the Japanese returned in the Japanese headquarters to report about our ultimatum. Meanwhile Lieutenant Bakhitov''s scout platoon captured and disarmed the guard of the airfield ?" their weapon was placed in some bags and the disarmed Japanese were sent in their barracks in Girin.
    The Samurais continued to play along, it is obviously that they were waiting something. The intensity increased. And now one of the previously captured Japanese ?" the officer who informed us about the ambush, - took from his pocket a handkerchief and waved with it. Immediately we were under Japanese machine gun fire from the kaoliang hill. We were forced to lay right nearly the plane. Here already four our guys were wounded and splinters of concrete hit my face. The Japanese officer is silent on my demands to stop the fire. And I ordered to my soldiers to attack. The Japanese forces were about a company. After a short desperate fight we captured 8 machine guns, captyred 4 officers and more than 40 soldiers! And the more Japanese were killed... We were very angry! We had got an agreement but they shot! During the interrogation the company''s commander lied that he had not known about the surrender and it was the reasonof the opening of the fire.
    The planes which flew to the second echelon took our wounded. I remember how Major Chetverikov and I embraced and wished good luck to each other. I didn''t know in that time that I would never see him more. Major Chetverikov died during the second flight ?" his plane collided with a hill because of a fog and the major burnt alive... But it would happen in the next morning.
    At the evening of August, 19th we left a small team to guard and to maintain airfield and we with 3 platoons went in Girin on a few commandeered trucks to disarm the remaining Japanese and Manchurian units. At first we rushed into the Japanese headquarters, neutralized the resistance of a few single soldiers and officers and captured 3 generals. Firstly the generals declared that they had no any orders about the surrender from their command. But then Colonel Lebedev declared them an ultimatum (to the point, he introduced me as "the commander of an airborne division") and threatened them with "toughening of corresponding actions effluent from the situation and the laws of a war". After that Lieutenant General Kuan ordered to his troops to lay down arms and showed to us the disposition of his garrison''s units on a map.
    For the night of August, 20th my soldiers rushed in the city like the wind. They captured important objects, disarmed whole battalions of the Japanese and guarded their barracks. In some places some groups of Samurais tried to resist or to run away. For example, in the railroad department they changed their clothes on civilian ones and wanted to steak away. When they were found they began to shoot from rifles but they were immediately suppressed with sub-machine gun fire in response.
    Accepting the surrender of Japanese soldiers (to the morning their amount was already 12,000) we widely used Russian emigrants mainly youth as interpreters (there were 3,500 Russians in Girin). For the night we captured and organized the guard 18 important objects ?" the bridges across the Sungari, the barracks, the railroad station, the military hospital, the banks, the store of military equipment, the military school, the gendarme and police stations, the post office, the prisons.
    At the same night the operation to capture the hydroelectric power station on the Sungari was made. The station was in about 35 km from Girin. It was guarded with a sapper battalion and a separate chemical company. The height of the dam was 96 meters, the head of water was 76 meters so if the Japanese exploded it all we sank. Everything was ready to explode it but we didn''t let them to do it. We used the element of surprise. We moved from two directions and attacked suddenly the sentinels and the barracks. The Japanese didn''t expect our attack and didn''t show any serious resistance in the spite of the fact that our forces were only two platoons. Our amount was so little that we were not able to guard the object and the captured Japanese simultaneously. So we only disarmed the Japanese and ordered them to go in the town in their barracks. Later I got an Order of Kutuzov for that operation.
    In the spite of the fact that there were 100 Japanese on every soldier of my landing detachment the Japanese were very quiet POWs. They were afraid to go out in the streets as the hatred of the Chinese to them was very large. It was some times when large crowds of the Chinese came to our commandant''s office and asked us to deliver them up the Japanese for immediate savage punishment but we didn''t let them to make a lynch law.
    Already at the evening of August, 19th the local radio informed about the large Soviet landing in Girin and about the finishing of Japanese rule there. The local population was asked to organize people institutions of local governing in coordination with People Revolutionary Army of China and now to carry out the orders of the Soviet commandant.
    Spontaneous meetings began in the city, red banners flew everywhere. The People Committees that were organized soon offered us their help. For example, they patrolled on important objects,
    guarded the barracks with Japanese POWs and the prisons. The Chinese everywhere began to speak with our soldiers and soon we understood the words "Chiso" and "Shango" ("Good", "Russians"). For some reasons they called every of us a Captain ("Captain Rus!"). They asked a lot of questions about the life in USSR and what would be their life and rule now. Many old Chinese knew Russian and operated like interpreters. It was necessary to keep from our new friends the red stars from our sided caps, epaulets and stars from epaulets. Any Soviet things were like hot cakes, especially newspapers, books, spoons, mess kits. The local population offered their service and presents to our soldiers ?" fruits and vegetables, red paper lanterns, birds which were considered symbols of friendship and love.
    In August, 23rd the Stuff of the Front ordered me to pass the Japanese arsenals, captured in 6 large stores (weapon, explosives and other military equipment) to our Chinese comrades. It later was one of the reasons of the victory of revolutionary forces. At that I was ordered to have no any meeting with the representatives of Chinese People Army but only to remove the stores'' guard in 1.00 AM and to look myself secretly what would happen later. I did like I was ordered to do.
    The removal of the weapon was made in high rate, at a run and in a silence, with a lot of lamps. The boxes with weapon the Chinese carried with hands and especially heavy cargo was taken away with trucks. When my soldiers and I returned in the stores it was clean there (the Chinese even swept the floor) and absolutely empty ?" the Chinese took away even all the shelves.
  3. tanlangtu

    tanlangtu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/07/2002
    Bài viết:
    213
    Đã được thích:
    0
    Bác danngoc dịch 2 hồi ức của phi công chưa nhỉ ? của YURII MIKHAILOVICH KHUKHRIKOV và VYACHELAV IVANOV ấy ! Nếu chưa thì báo em trước nhé, em đang định dịch phần này trên trang Iremember.
    Những nữ anh hùng Xô viết 1941-1945
    Mariya Ivanovna Dolina - Nữ phi công anh hùng
    Mariya Ivanovna Dolina được xem là "Mẹ đẻ của Máy bay ném bom Xô Viết". Cô sinh ngày 18-12-1922 ở Omsk vùng Siberia và là chị cả trong gia đình nông dân nghèo khó có đến mười người con. Khi cha bị tàn phế, cô nghỉ học học lớp 8 để xin vào làm trong một xưởng máy.
    Tại đây, cô có điều kiện tham gia một lớp học về máy bay và trở nên xuất sắc vượt trội. Do thiếu hai tuổi để được vào học trường Hàng không nên lãnh đạo trường đã khai thêm cho cô 2 tuổi nữa, và giữ nguyên trong các giấy tờ sau này. Cô tốt nghiệp trường bay Kherson trước chiến tranh và mang hàm trung úy của 9ơn vị quân Dự bị, sau đó tham gia đơn vị vận tải hàng không.
    Khi chiến tranh bắt đầu, nhiệm vụ đầu tiên của Dolina là hỗ trợ đưa máy bay ra khỏi sân bay và phá hủy khu chứa máy bay cũng như khu nhiên liệu để tránh mọi thứ rơi vào tay giặc. Sau đó, cô được nhận vào phục vụ quân đội. Sau khóa huấn luyện, cô được bổ nhiệm vào trung đoàn Máy bay ném bom kiểu bổ nhào (Dive-bomber) 587. Dlina lái chiếc Petlyakov Pe-2 hạng trung hai động cơ (3 phi công) và ban ngày, nhiệm vụ của cô là hỗ trợ chiếc chỉ huy của phi đội bay. Sau này đổi tên là Phi đoàn máy bay tiêm kích phòng vệ M.M.Raskova Borisov 125.
    Ngày 2-6-1943, máy bay của Dolina bị trúng đạn sau trận ném bom ở Kuban. Ban đầu bị bắn bởi hỏa lực phòng không mạnh mẽ của địch, cô vẫn hoàn thành nhiệm vụ và điều khiển máy bay quay về. Nhưng trên đường trở về, máy bay bị tấn công bởi một chiến đấu cơ của Đức và bùng cháy. Tay súng trên máy bay của Dolina bắn hạ một chiếc và họ lao xuống một đồng cỏ. Chiếc phi cơ bắt đầu bốc cháy ngùn ngụt. Tay súng máy, người nam duy nhất, tuy bị thương ở chân nhưng vẫn cố gắng mở nắp máy bay, đưa 2 nữ phi công, Dolina và người kia là Galina Dzhunkovskaya ra ngoài. Cả ba cố gắng thoát ra khỏi đám lửa đang thiêu rụi tất cả. Một tay pháo binh đưa họ trở về và Dolina phải trải qua 1 tháng trong bệnh viện với chấn thương sụi cột sống, mà vẫn kéo dài dai dẳng đến sau này.
    Chiến đấu trực diện với kẻ thù trên mặt đất là vô cùng gian truân. Chỉ có 5 nữ phi công của phi đội Pe-2s còn sống và đã trở thành anh hùng. Phi đội trưởng Mariya Dolina hoàn thành 72 chuyến bay và được phong anh hùng Xô Viết ngày 18 tháng 8-1945. Cô đã bắn hạ 3 máy bay của kẻ thù và thả 45000 kg bom trong sự nghiệp.
    Sau chiến tranh, Dolina làm ở nhiều cục khác nhau. Bà được phong anh hùng lần thứ hai khi phát biểu tại Hội nghị Cựu chiến binh tại Moskva trong Ngày chiến thắng năm 1990.Bài nói của Dolina khiến mọi người xúc động về cảnh ngộ khốn khổ của một cựu chiến binh về già. Bài phát biểu kéo dài hơn 5 phút so với dự định, nhưng mọi người vẫn chia sẻ và chăm chú lắng nghe. Quay sang phía Mikhail Gorbachev hai lần, bà đòi hỏi phải tăng thêm nữa tiền trợ cấp cho cựu chiến binh. Gorbachev cũng hai lần đứng dậy, gật đầu với bà và vỗ tay đồng tình. Ngay hôm sau đó, tiền trợ cấp đã được tăng lên 1 bậc.
    Tổng thống Leonid Kuchma của Ukraine, trong Lễ kỉ niệm lần thứ 50 kết thúc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, đã hết lòng tôn vinh Dolina. Hiện giờ, bà sống với con trai tại Kiev.
    (Heroines of the Soviet Union - Henry Sakaida - NXB Osprey)
    Người dịch : Trần Quốc Tân
  4. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Mấy hồi ức này tớ đã post, hình như ở trang 6 hay 7 gì đó.
    Được danngoc sửa chữa / chuyển vào 22:47 ngày 17/03/2006
  5. tanlangtu

    tanlangtu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/07/2002
    Bài viết:
    213
    Đã được thích:
    0
    Em có nghe nói về một phi công tiêm kích Liên Xô, bị thương gãy chân, lắp chân giả, là 1 trong những trường hợp phi công khuyết tật duy nhất trên thế giới , hình như tên là Masaev ,bác danngoc có thể check lại giùm em đc ko ạ
  6. tanlangtu

    tanlangtu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/07/2002
    Bài viết:
    213
    Đã được thích:
    0
    Những hình ảnh về cuộc chiến tranh Vệ quốc :
    http://www.schicklerart.com/exhibitions/sovietwar/index.html
    http://www.schicklerart.com/auto_exh/MTra_001
    Mặt trận phía Đông
    http://www.schicklerart.com/auto_exh/War%20Exhibition
    thành phố Stalingrad
    http://www.schicklerart.com/auto_exh/Stalingrad
    http://www.schicklerart.com/auto_exh/GZel_001
    Những hình ảnh khác về nước Nga :
    http://www.russianphotographs.com/exhibitions/index.html
  7. likeweapon

    likeweapon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/12/2005
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Là phi công Alecxây Mêrêxép ,nhân vật chính trong tiểu thuyết "Một người chân chính " của Boris Polevoi. Và sau bị cưa cả hai chân,lắp chân giả vào vẫn lái máy bay tiêm kích ,lập nhiều chiến công ,được phong danh hiệu Anh hùng.
  8. tanlangtu

    tanlangtu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/07/2002
    Bài viết:
    213
    Đã được thích:
    0
    cám ơn bác nhiều.
    Đây là câu chuyện thứ hai về những nữ phi công Xô Viết anh hùng.
    Galina Ivanovna Dzhunkovskaya

    Galina Dzhunkovskaya sinh ra trong một ngôi làng tại Kiev - Ukraine, cha cô là nông dân làm việc đồng áng. Năm 1938, cô chuyển đến Grozny tại vùng Chechen-Ingush để học về ngành thuốc. Sau đó, cô đến Moskva để học về cơ khí hàng không vì cảm thấy phù hợp với mình hơn.
    Chiến tranh nổ ra, Dzhunkovskaya tình nguyện làm ý tá và tham gia bảo vệ thành phố cùng với các bạn học của trường Đào tạo Hàng không Moskva. Nhưng cô không thích việc đào công sự mà muốn trực tiếp tham gia chiến đấu. Hưởng ứng lời kêu gọi của Marina Raskova huy động các nữ sĩ quan tình nguyện gia nhập phi đòan của mình, cô gái trẻ ngay lập tức tham gia không chút đắn đo. Cô được huấn luyện thành phi công tại Engels gần Stalingrad, và được gửi điều tới Phi đoàn máy bay ném bom bổ nhào 587 mới được thành lập. Đơn vị này phụ trách máy bay ném bom hạng trung Petlyakov Pe-2, có hai động cơ và bay nhanh.
    Phi đoàn 587 ban đầu được chỉ huy bởi Marina Raskova, nhưng cô bị hy sinh trong tai nạn máy bay năm 1943. Maj Valentin Markov trở thành người kế nhiệm, một vị trí mà ban đầu anh cho là đáng ê mặt. Tình hình càng tồi tệ hơn khi các nữ phi công không tuân lệnh người chỉ huy mới. Không muốn mình bị hạ thấp, Markov ngày càng trở nên nghiêm khắt và gắt gỏng. Anh được họ gán một biệt danh là "Lưỡi lê".
    Khi nhận ra tài năng của các nữ chiến sĩ, thái độ của Maj Markov thay đổi hẳn. Anh trở nên mềm mỏng hơn, đặc biệt là với Dzhunkovskaya, cô gái mà anh yêu. Và Dzhunkovskaya cũng dần nhận ra và chấp nhận tình cảm của anh, gọi anh bằng cái tên thân mật "Bố" (Daddy).
    Người chỉ huy phải lái máy bay thả bom và cần người phi công giỏi nhất của phi đoàn đi cùng mình hỗ trợ; lại không ai khác ngoài Dzhunkovskaya. Do vị trí của mình, dù muốn, Maj Markov không thể có sự ưu tiên đối với phụ nữ, kể cả các nữ phi công của mình. Chàng trai đành chấp hành kỷ luật cấp trên mà chưa kịp thổ lộ tình yêu.
    Trong thời gian đó, Kzhunkovskaya như phải đối mặt với cái chết. Máy bay của cô bị chặn bởi tiêm kích Đức và một cuộc đọ súng khốc liệt đã diễn ra. Khi chiếc Pe-2 vừa kết thúc làn đạn súng máy của mình, hai chiến đấu cơ địch đã nhào tới hòng tiêu diệt. Cô nhanh chóng chộp lấy khẩu súng bắn pháo tín hiệu, phát một quả pháo sáng qua khe cửa mở. Quả pháo phát nổ và ánh chớp lóe lên khiến 2 gã phi công địch nhầm tưởng chiếc máy bay đã phát nổ trong khôn
    Mùa thu năm 1944, Dzhunkovskaya thành lập phi đội số 2 cùng với Klavdiya Fomicheva. Trong chiến dịch đầu tiên cùng nhau ở Belorussia, máy bay bị bắn bởi súng phòng không và động cơ bốc cháy. Họ cố gắng quay trở về, nhưng máy bay bị bốc cháy ở độ cao 150m. Người ta trông thấy máy bay lao xuống và tin rằng các cô gái đã hy sinh.
    Hai phi công đều bị thương, còn Dzhunkovskaya bị bỏng ở vùng mặt. Máy liên lạc vô tuyến đã bị hỏng khi máy bay rơi. Cuối cùng họ được cũng cứu, đưa đi chữa trị và trở về hàng ngũ. 5 ngày sau đó, khi máy bay vận tải đưa Fomicheva và Dzhunkovskaya, người ta thấy Maj Markov chồm đến và đưa hai cô gái ra.
    Tính đến háng 12 năm 1944, Dzhunkovskaya đã hoàn thành 62 nhiệm vụ bay, tham gia 5 trận chiến trên không và 2 lần bị máy bay địch bắn hạ. Ngay sau chiến tranh kết thúc, Dzhunkovskaya đã lập gia đình với thủ trưởng của cô, Valentin Markov, điều mà các nữ đồng nghiệp của cô đều đã đoán trước. Ngày 18-8-1945, cô được phong Anh hùng Liên Xô (HSU - Hero of the Soviet Union).
    Bà tiếp tục phục vụ cho quân đội Xô Viết vùng Viễn Đông và về hưu sớm năm 1950 do sức khỏe giảm sút và hậu quả những vết thương thời chiến. Sau đó, Dzhunkovskaya và Markov cùng tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Kirovgrad và trở thành giáo viên Tiếng Anh. Bà mất ngày 12-9-1985.
    (Heroines of the Soviet Union - Henry Sakaida - NXB Osprey)
    Người dịch : Trần Quốc Tân
    Đôi điều về tác giả cuốn sách "Heroines of the Soviet Union"
    Henry Sakaida sinh tại Santa Monica, California vào tháng 10 năm 1951. Anh bắt đầu yêu nền văn hóa Nga Xô và cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại sau khi tham dự một khóa học tiếng Nga và du lịch đến Ukraine và Nga 2 lần để nghiên cứu. Anh là một tác giả giàu kinh nghiệm và đã xuất bản một số sách thuộc lĩnh vực mình quan tâm, như Lịch sử những trận chiến trên không của Nhật, 3 cuốn của NXB Osprey. Henry hiện sống với vợ và 2 con ở thành phố Temple, cách Los Angeles 15 dặm.
  9. tanlangtu

    tanlangtu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/07/2002
    Bài viết:
    213
    Đã được thích:
    0
    Klavdiya Yakolevna Fomicheva
    Klava Fomicheva là nữ phi công ném bom xuất sắc nhất trong Chiến tranh Vệ quốc. Cô sinh ra tại Moskva nhưng trải qua tuổi thơ ở vùng quê Znamenka, Lipetsk. Gia đình cô rơi vào cơ cực sau khi cha và anh cả mất. Cô học hết cấp hai và đến Moskva tập sự làm trông nom sách ở kho lưu giữ. Trong khoảng thời gian đó, với số tiền nhờ tập sự, cô tham gia và hỗ trợ một câu lạc bộ tàu lượn, từ đó gắn bó với máy bay. Cô gái trẻ ngày càng xuất sắc và được mời gia nhập một hội bán quân sự về máy bay.
    Fomicheva được chứng nhận phi công năm 1937, và làm huấn luyện một năm sau đó. Tài huấn luyện của cô được bộc lộ khi chỉ trong ba năm, 65 học sinh của cô đã được nhận vào các trường hàng không quân sự.
    Khi trung đoàn phi công toàn nữ được lập ra bởi Marina Raskova, Fomicheva cũng tình nguyện tham gia. Dù sao, Raskova cũng bị thuyết phục bởi tài năng của cô và sớm đưa cô vào trung đoàn máy bay ném bom. Những tân phi công được huấn luyện ở Engels và được gửi tới trung đoàn máy bay ném bom bổ nhào 587, vốn được chuyển từ máy bay cũ một động cơ SU-2 sang loại mới hai động cơ Pe-2, khó sử dụng hơn.
    Hai phi vụ đầu tiên đầu năm 1943, Fomicheva bay cùng với phi đội phi công nam ngay khi Trận Stalingrad bước vào giai đoạn cuối. Cô nhanh chóng nắm được trách nhiệm của mình, không cần người giám sát nữa để hỗ trợ phi đội bay của mình. Thay mặt phi đội trưởng, cô thành thục huấn luyện cấp dưới. Suốt trận đánh ở Kuban mặt trận Bắc Caucasus, phi đội của cô không có bất kì thương vong nào.
    Đáng chú ý nhất là trận đánh ngày 2-6-1943, phi đội của Klava Fomicheva nhận được sự động viên khen ngợi từ Chỉ huy không quân. Chiếc Pe-2 xuất kích tới Kuban trong một phi vụ ném bom, được hỗ trợ bởi máy bay tiêm kích. Trước khi họ bị đánh chặn, phi đội tiêm kích bay cùng máy bay ném bom để truy kích máy bay địch. Tám chiến đấu cơ Đức cố gắng xoay chuyển tình thế. Chiếc ném bom thoát khỏi đội hình, bắt đầu cuộc giao tranh tàn khốc bằng việc bắn hạ bốn máy bay địch. Trong khi đó, năm chiếc máy bay ném bom cũng bị bắn hạ, nhưng toàn bộ phi công đều sống sót. Trận chiến đã đặt những dòng tít lớn lên các tờ báo Xô viết sau đó.
    Ngày 17-9-1943, máy bay của Fomichave bị bắn bởi pháo phòng không khi quay về sau một phi vụ ném bom. Một động cơ bị cháy, một người lái bị thương, nhưng cô phi công dũng cảm vẫn nỗ lực đưa máy bay hạ cánh an toàn xuống một sân bay của quân Liên Xô vừa bị trút bom. Chiếc máy bay bật tung lên khi nhào xuống một hố bom và bắt đầu bốc cháy. Cô và phi công đi cùng đã thoát chết với chấn thương khá nặng, còn người xạ thủ ngồi sau thì hy sinh. Fomicheva dưỡng bệnh trong bệnh viện đến đầu năm 1944.
    Trước khi chiến tranh kết thúc, máy bay của Fomicheva còn bị bắn hạ lần nữa vào ngày 23-6-1944, khiến cô bị thương ở chân và bị bỏng. Cô và phi công của mình, Galina Dzhunkovskaya buộc phải nhảy dù khỏi máy bay ở 150m. Cô dừng bay khoảng 2 tháng và tiếp tục nhận nhiệm vụ mới vào tháng 8.
    Klavdiya Fomicheva đã hoàn thành 55 phi vụ tính đến tháng 9-1944. Cuối chiến tranh, cô được tung hô với 11 phi vụ thành công. Ngày 18-8-1945, người nữ phi công xuất sắc nhận danh hiệu anh hùng Liên Xô.
    Sau chiến tranh, Fomicheva huấn luyện ở trường đào tạo Không quân, nhưng về hưu năm 1956 do sức khoẻ yếu, là hậu quả chiến tranh để lại. Bà mất ngày 5-10-1958 và được chôn cất ở Moskva.
  10. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Hồi ức Lính Xô viết trong Chiến dịch Mãn Châu 1945
    Grigorii Kalachev - Lính trinh sát

    Tôi nhớ rất rõ cái đêm ngày mùng 8 và 9 tháng Tám. Chúng tôi, những lính trinh sát, nhận được lệnh phải băng qua biên giới, xác định những ụ hỏa lực địch và bắt sống một tù binh nếu có thể. Trước đó chúng tôi đã bí mật nhiều ngày quan sát quân địch. Lính tuần tra Nhật Bản vẫn đi tuần dọc theo đường biên giới, chúng có cả các đồn biên phòng và đài quan sát. Thế nhưng khi chúng tôi bắt đầu tấn công vào tối mùng 9 tháng 8 thì không gặp bất kì sự kháng cự nào. Vài giờ đồng hồ sau chúng tôi mới gặp toán lính tuần tra, lúc đó đã vào buổi sáng. Cuộc chám trán đáng gờm đầu tiên là khi chúng tôi vào lãnh thổ Nhật Bản 120 km. Quân Nhật dần lấy lại tỉnh táo ở mức độ nào đó và gửi một trường hạ sĩ quan chặn chúng tôi lại, như là đơn vị dự bị sau cùng của chúng. Mọi thứ không như chúng tôi mong đợi và thực sự bất ngờ. Ít ra là khi đó, sức kháng cự của mũi chúng tôi thấp hơn nhiều so với mũi của quân đoàn 36, đơn vị tấn công quân tiếp viện vùng Khalun-Arshan, hay đơn vị số 1 mặt trận Viễn Đông, nơi mà bọn "samurai" (quân Liên Xô gọi lính Nhật là những "samurai") quyết bảo vệ thành phố Mudantsian cho đến người cuối cùng. Nhưng đối với chúng tôi kẻ thù số một không phải lính Nhật mà là thời tiết. Một lực lượng không lớn lính Nhật bảo vệ dãy Đại Khingan, có khả năng chống chọi vũ khí hạng nặng, quyết không để bị chiếm lĩnh.
    Thật ra mà nói, cả thời tiết lẫn địa hình đều chống lại chúng tôi. Quân lính phải tiến công 500 km qua vùng bán sa mạc khô cằn và vượt qua một ngọn núi lớn mà không thấy bóng dáng một con đường hay làng mạc nào cả. Anh tin hay không cũng được, nhưng vũ khí của chúng tôi tốt hơn của phương Tây. Về xe tăng thì không nói làm gì. Không kể đến loại T-34 vốn đã quá nổi trội, mà ngay cả những chiếc BT trước kia vốn được xem là cũ. Những chiếc BT đã không được sử dụng ở mặt trận Xô-Đức trong thời gian dài, nhưng các đơn vị Viễn Đông vẫn còn sử dụng, và chúng vẫn chạy rất tốt : tốc độ, thao tác đơn giản và đáng tin cậy. Ở trong điều kiện sa mạc và đồi núi, các phương tiện của Liên Xô vẫn vượt trội so với của phương Tây ở một vài điểm. Những chiếc Studebeckers và Dodges chiếm số lượng lớn trong các đơn vị của chúng tôi là những loại xe tải tuyệt vời, nhưng vẫn mắc vài khuyết điểm. Thùng xe quá rộng nên không thể chạy qua những con đường hẹp ở hẻm núi. Thêm nữa, khi ở dãy Grand Khingan với độ cao 2000 mét so với mực nước biển, xe tải của Mỹ hay bị nguội máy và nhiều khi bị điếc đặc ở trên núi. Xe của chúng tôi thì không bị chết máy. Nhưng lính bộ và lính bộ cơ giới, tất nhiên, vẫn thường phải đẩy và kéo xe.
    Tình thế trở nên thật sự khó khăn khi mưa đến. Mà ở Mãn Châu, tháng tám lại là mùa mưa. Chúng tôi chưa từng thấy điều này ở Nga : trời mưa cả ngày lẫn đêm và kéo dài suốt nhiều tuần lễ. Một khi hết mưa, không khí trở nên rất ẩm và như muốn bóp nghẹt chúng tôi. Tất cả những con đường đều trở nên bùn lầy. Bùn lấm vào chân chúng tôi đến tận đầu gối. Đường rất trơn và chúng tôi băng xuống dãy Grand Khingan như trên đường trợt băng. Và bọn "samurai" bắt đầu phục kích chúng tôi. Khó khăn vô cùng ! Nhưng khi chúng tôi vượt qua những con đường của dãy Grand Khingan và nổ súng về phía đồng bằng Mãn Châu thì coi như đã hoàn thành mục tiêu : chúng tôi đã bỏ xa quân Nhật phía sau. Quân Nhật không nghĩ rằng chúng tôi đã có mặt ở đó. Chúng không nghĩ chúng tôi lại nhanh đến vậy và chúng không thể làm được gì khác. Lúc đó không gì có thể cản chúng tôi lại. Những gì quân Nhật nói bây giờ (tức thời điểm hiện nay - chú thích của Andrey) là bọn họ đầu hàng một cách cưỡng bức và không tự nguyện. Thực ra thì nếu hoàng thân Mikado của họ không ra lệnh đầu hàng, thậm chí lệnh cho các thần dân chiến đấu đến binh sĩ cuối cùng thì sự kháng cự của họ cũng không thể thay đổi điều gì. Quân đội Kwantung vẫn sụp đổ.
    Chúng tôi kết thúc chiến tranh ở Porth Arthur. Thật không ngờ, quân lính đã chiến đấu hăm hở đến thế, chúng tôi muốn dạy cho bọn "samurai" bài học về thất bại của chúng tôi trong cuộc chiến Nga-Nhật lần thứ nhất (năm 1904-1905 Porth Arthur là một căn cứ hải quân hùng mạnh của hải quân Nga, đồng thời là một pháo đài. Cuộc chiến bắt đầu sau khi quân Nhật bất ngờ tấn công một tàu Nga trong đêm đậu ở Porth Arthur, tương tự như trận Trân Châu Cảng. Porth Arthur bị bao vây bởi quân Nhật và đầu hàng sau thời gian dài bị vây hãm. - chú thích của Andrey). Tôi nhớ đã từng đọc cuốn Porth Arthur rất nhiều lần (Porth Arthur là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nga Stepanov về cuộc vây hãm Porth Arthur- chú thích của Andrey) khi đang đi xe lửa ở Viễn Đông. Mà các phương tiện truyền thông quân đội cũng nhắc nhiều về nó nữa. Chính trị viên của chúng tôi nhắc đi nhắc lại sau đó, ngay cả trong cuộc tiến công, rằng chiến dịch của chúng tôi là đúng đắn, rằng đó là sự trừng phạt đích đáng cho những tội ác của quân Nhật trước kia, rằng công bằng lịch sử phải được lặp lại. Stalin cũng phát biểu trong tuyên bố thắng trận của ông : Chúng ta đã đè bẹp quân phiệt Nhật và rửa sạch được nỗi ô nhục đen tối trong tâm tưởng của chúng ta.
    Riêng tôi cũng có lý do riêng để giành chiến thắng trước quân Nhật, đúng hơn là lý do gia đình. Bốn mươi năm trước khi ông nội tôi chiến đấu ở Porth Arthur và tôi còn là một cậu bé, ông thường kể tôi nghe về cuộc chiến. Làm thế nào lính Nga đánh bại được bọn Nhật, đó là một chiến công, và làm thế nào tướng Tsaras lại phản bội họ và dâng pháo đài cho quân thù. Và khi chúng tôi ở cuối tháng tám năm 1945, trở lại Porth Arthur nơi ông nội tôi từng chiến đấu và gục ngã trước kia thì điều đầu tiên là chúng tôi kính cẩn cúi mình trước nghĩa trang của lính Nga.
    Chúng tôi đến nơi mà trận chiến xảy ra nhiều năm về trước và có thể tìm thấy những thùng đạn đã úa màu theo thời gian cùng những mảnh áo choàng còn lem vết máu.
    Đại tướng Vasilevskii lệnh cho chúng tôi đặt những vòng hoa để thể hiện lòng thành kính, sau khi chúng tôi giành thắng lợi.
    Người dịch: tanlangtu
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này