1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại của nhân dân Liên Xô

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi danngoc, 04/09/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Còn có một trường hợp như thế này nữa. Một cậu hạ sĩ của quân ta, Kostia Martưnov, một chàng trai rất tốt quê ở Krasnoyarsk. Khi cậu ta trực ban thì luôn luôn nhấp vài ngụm ở thùng rượu. Ngoảnh qua ngoảnh lại đã thấy cậu ta say. Tôi bảo cậu ta: ?oNày, lấy súng của cậu và đi khỏi đây, nhớ đừng để ai thấy nhé?, rồi phân công một cậu lính thông tin khác gác thay. Thế nhưng mà cái cậu Martưnov ấy, cậu ta lang thang trong nhà hát thế nào lại tìm ra được đường lên phía trên và cậu ta trèo lên mái nhà. Mái nhà ở đấy thì cũng có с заго?одкой, giống nhú ở những chỗ khác. Ở đó có những bao ме^о?ки б?езен,ов<е với cát, khối lượng mỗi bao khoảng mười kg. Cậu ta còn đang say lang thang ở đó thì thấy có xe hơi đi tới: ai vậy nhỉ, liệu có phải kẻ địch không? Cậu ta bèn lấy một bao quăng xuống. Cái bao rơi từ độ cao 18-20 m xuống đất, vỡ tung như là lựu đạn. Một bao, hai bao. Thế là các cậu cầm súng trường ở dưới chạy lên, tìm thấy cậu ta đang say xỉn. Họ hỏi: ?oChiến sĩ của các anh đấy à??. Chạy đi đâu được, trong người cậu ta có thẻ Hồng quân mà. Đành phải nói ?oVâng, chiến sĩ của chúng tôi?. Thế là cậu ta bị giáng cấp.
    Chúng tôi đi tiếp. Đầu tiên thì đi cùng Quân đoàn 8, Quân đoàn này đi từ Poznan sang phía tây, sau đó thì chúng tôi được lệnh chuyển hướng, và chúng tôi dừng lại ở thôn Germzforph. Không phải làng, mà là thôn thật sự, ở làng thì còn có nhà thờ, ở đây thì không. Ở đó chẳng có ai là người Đức cả. Nhưng có rất nhiều người Nga và người dân Liên Xô, từ nhiều nơi khác, chủ yếu là từ Đôn bass. Còn tôi thì nhập ngũ ở Đô nhets, và bạn bè tôi cũng chủ yếu là người Đô nhets. Hóa ra là đồng hương ?" chủ yếu là phụ nữ. Họ bị bắt làm việc ở các trại chăn nuôi gia súc. Họ đã được giải phóng, nhưng người ta vẫn chưa cho họ đi khỏi nơi đó, vì không biết mặt trận đang tiến về phía nào và nên đưa những người đi đâu. Họ vắt sữa bò và đem sữa cho các chiến sĩ của chúng tôi, thậm chí có một lần tôi còn uống thẳng từ xô sữa ấy.
    Chúng tôi đóng quân trong làng đó khoảng gần tháng. Sau đó chúng tôi được lệnh hành quân tới Quynstegen (?). Tôi vẫn còn giữ được một tấm bản đồ thời gian đó. Ở đó thì thành phố này tên là Quysten. Một thành phố nho nhỏ kiểu như Mozaisk, một pháo đài cổ. Ở đó có sông Oder chảy, rồi sau nữa thì các sông khác đổ vào sông Oder, hình như có cả sông Varta nữa. Thành phố không lớn lắm, có khoảng 20 -30 ngàn dân sinh sống thôi. Nhưng chúng tôi phải vất vả lắm mới chiếm được nó ?" có rất nhiều trở ngại: sông với lại đường giao thông. Nó như một cái nút trên đường tới Berlin. Chúng tôi đóng ở cách thành phố khoảng 60 km. Trên cái bản đồ này những đường màu xanh là tuyến trước đấy, sâu khoảng 3 km, còn tuyến mặt trận là khoảng 7 km. Yла?да?м không lớn lắm, nhưng đầy quân. Ở đó còn có làng Raitvain. Mép làng nằm ở góc này của bản đồ, chỗ tam giác màu đỏ ấy, đó là đài quan sát của chúng tôi ở đó. Còn từ chỗ này thì dốc xuống thoai thoải. Ở chỗ này là đường sắt, ngay cạnh đường sắt cùng độ cao với chúng tôi là Chỉ huy sở của Nguyên soái Giukov. Ở đây là một chỗ khá bằng phẳng, thỉnh thoảng có chỗ cao hơn xung quanh khoảng 3-5m thôi, không hơn. Còn ở đây là đường nhựa, rồi những đường sá khác có trồng cây. Rồi thì làng xóm. Thôn Altuhedan. Chúng tôi bị máy bay bắn ở đó, nhưng không ai việc gì. Ở đây là một điểm cao, đây là đường trước làng ấy. Tiểu đoàn trưởng hôm đó uống cũng kha khá, anh ta quyết định chiếm điểm cao ấy chỉ bằng đơn vị chúng tôi thôi, thế là anh ta điều các trinh sát tới đó. Chúng tôi chẳng bao giờ muốn làm điều đó, nhưng vẫn phải làm. Thế là chúng tôi được nêm mùi đạn пfлеме,<, đối phương chặn ngay hướng tiến công của chúng tôi, may mà không ai bị sao, và chúng tôi quay lại. Tiểu đoàn phân bố các điểm lửa như thế này, chúng tôi bắn vào thôn vào các điểm tập trung đông lính Đức, vào các nút đường. Sau đó quân Đức rút về các cao điểm Zeelov nổi tiếng. Ở đây là nơi tiểu đoàn của chúng tôi đã đi qua một trong số các con đường. Ở đây là thành phố Quystenvalden. Quân Đức tập hợp dọc theo đường phòng tuyến này, còn chúng tôi đã chọc thủng phòng tuyến ấy ở đây. Từ đây là đường thẳng tới Berlin. Trung đoàn bắn vào các vị trí hỏa lực, chủ yếu là bên kia kênh. Sau đó, khi cuộc tấn công đã bắt đầu thì các trật tự chiến đấu thay đổi, từ đây chúng tôi đi theo hướng này sang phía Tây. Ở đây là các vụ trí tiền tiêu của quân Đức dọc theo đường sắt và theo chiều sâu. Còn đây là vị trí tiền tiêu của chúng tôi. Cuộc tiến công nổ ra vào ngày 16 tháng 4 năm 1945. Từ đây chúng tôi tiếp tục tiến theo lịch trình, còn sa đó thì theo đường cái tới Shustenvald và tới Berlin theo trục đường đi về phía Frankfurt-on-Oder. Chúng tôi ở đây, cách đó khoảng 25 km về phía nam là thành phố Frankfurt-on-Oder. Phần lớn binh lính của Mặt trận Belorussia đã tấn công từ đây.
  2. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Vào khoảng 4 giờ sáng, hoặc muộn hơn một chút, các đèn pha chiếu sáng được bật lên. Tôi nhớ theo tài liệu sách vở là có 140 đèn pha một triệu nến (1 nến = 1W?). Chiếu sáng trưng cả các vị trí tiền tiêu. Và trận đánh bắt đầu. Chúng tôi bắn sâu vào đây. Đối với quân Đức, việc chúng ta sử dụng đèn pha là hoàn toàn bất ngờ. Tất nhiên là đèn pha đã giúp chúng tôi nhiều.
    - A.D. Cũng giúp các bác ư? Bây giờ có nhiều người nói rằng những chiếc đèn pha ấy còn làm mù quân ta nhiều hơn.
    - Ồ không đâu. Chúng giúp quân ta nhiều chứ. Dĩ nhiên khi bộ binh tấn công thì là chuyện khác, những chiếc đèn pha này chiếu từ phía sau. Mỗi người lính bị đèn chiếu từ phía sau thì đều giống như chúa Jesu ấy, tức là bị thấy rất rõ ràng. Dĩ nhiên như thế là nguy hiểm và khó khăn, nhưng mặt khác thì đối phương cũng không thể nào bắn vào những người lính bộ binh ấy được khi họ bị những ngọn dèn pha hàng triệu nến chiếu vào mắt. Vì vậy mà quân ta đã vượt qua phòng tuyến của đối phương, chọc thủng phòng tuyến ?" mọi chuyện bình thường. Có lẽ là các cựu chiến binh ?" bộ binh thì thấy khác, nhưng tôi là lính pháo binh mà. Cánh quân của chúng tôi tiến đến bao vây Berlin vào đêm 23 rạng ngày 24. Các cánh khác thì còn đến đó từ đêm 21, 22. Chúng tôi chiến đấu dành từng căn nhà, từng phố. Đến nỗi nếu không thể vượt qua phố, pháo bắn cũng không được ?" toàn nhà với nhà, thì chúng tôi tháo các đạn phản lực định hướng khỏi các ?oCachiusa?, để các Cachiusa chúng ở cửa sổ rồi bắn về phía ngôi nhà ngược lại. Chính tôi thấy điều đó. Các trận chiến đường phố là việc còn xa lạ đối với chúng tôi, trước đó chúng tôi luôn luôn ở trong điều kiện tác chiến, nếu không kể cái pháo đài ở Poznan. Các đài quan sát của chúng tôi luôn luôn là nơi nào đó trên cánh đồng, trên đồi, trong rừng, như là ở Varsava. Còn chuyện lầy lội, không được ngủ - là chuyện đáng sợ.
    Chúng tôi bắn vào Berlin theo các điếm hỏa lực, vào các nút tập trung chống cự, nơi tập trung rất nhiều quân Đức, không thể chọc thủng được. Bắn vào các cây cầu, những ngôi nhà lớn, nhà ga. Sau đó bắn vào Bộ Chỉ huy của Hitler, vào Nhà Quốc hội Đức, rồi bắn cả vào các cây cầu ở ngoại ô thành phố, khi quân Đức rút đi. Ngày 27 tháng 4 tôi có vinh dự được chỉ huy tiểu đoàn. Tức là thế này. Lúc đó chúng tôi đã gần Nhà Quốc hội rồi, còn cách khoảng hai cây số, cây số rưỡi gì đó. Nhưng thường thì chúng tôi bắn dựa vào quan trắc dấu hiệu đứt gẫy?" một thuật ngữ pháo binh; còn ở đây thì chúng tôi không hề trông thấy kẻ địch, kể cả ở chỗ vị trí hỏa lực cũng như ở chỗ đài quan sát. Đài quan sát của chúng tôi thì ở số 3 phố Shlezingerstrasse. Đó là một ngôi nhà chung cư lớn có cả thang máy, còn phía trên có cái tháp thang máy, anh em chúng tôi đã biến nó thành đài quan sát. Nhưng từ chỗ đó chúng tôi chẳng thấy gì, vì trước chỗ đó là các ngôi nhà đã bị bắn phá, một số chỗ bị sập, đang cháy. Chúng tôi bắn theo diện tích. Rồi đến ngày 27 thì tiểu đoàn trưởng nhận được lệnh đẩy hàng ngũ chiến đấu lên trước. Các đài quan sát thì phải đặt thật gần Nhà Quốc hội Đức, hoặc là gần Sở chỉ huy Không quân, hay là Bộ Tổng tham mưu của Hitler. Tiểu đoàn trưởng cùng với đồng chí chỉ huy pháo binh, trung đội trưởng của tôi, và hai chỉ huy khẩu đội đi tìm chỗ đặt đài quan sát. Bấy giờ là khoảng 6 giờ chiều. Bỗng có chuông điện thoại: ?oYêu cầu chỉ huy đến chỗ sở chỉ huy nghe điện thoại?. Người cao cấp nhất ở đây bấy giờ là tôi. Thế là tôi nhấc ống nghe. ?oSố 18 ra lệnh phát hỏa theo mục tiêu 21?. Mà mục tiêu 21 tức là Nhà Quốc hội Đức. ?oTuân lệnh phát hỏa!?. Làm gì tiếp theo bây giờ? Tôi biết rằng chúng tôi có một khẩu đội pháo đang ở vị trí, ở khu vực sân bay Tempelhoph, còn những khẩu đội khác đang di chuyển trên chiến trường. Có một số khẩu đội đang ở vị trí. Tôi truyền lệnh tới đó: ?oChuẩn bị bắn theo mục tiêu 21?. Lúc đó tôi có một bản đồ tỷ lệ 10 cm, rất tiện lợi, ở đó vẽ rõ đến từng ngôi nhà trên bản đồ, có cả Nhà Quốc hội Đức lẫn Bộ Tổng tham mưu của Hitler. Trên bản đồ của chúng tôi mọi mục tiêu đã được ký hiệu rành rọt. Tôi truyền lệnh chuẩn bị. Trong lúc các khẩu đội còn đang đứng một chỗ thì các trinh sát pháo binh, hay khẩu đội trưởng với tư cách người thành thạo nhất đã chuẩn bị xong số liệu. Ví dụ, điểm hỏa lực ở đây, tất cả các khoảng cách đã biết, thế thì chúng tôi наводим о?fдия по ,о?кам наводки э,о, ví dụ một nhà thờ hay ngôi nhà nào đó, từ đó cách ra sang trái, sang phải theo khoảng cách như thế nào, góc bao nhiêu, hoặc по бfссолям, theo kim địa bàn, nhưng như thế thì không chính xác bằng. Tôi gấp rút chuẩn bị số liệu, tôi có план^е,, bản đồ, tôi bắt đầu ký hiệu trên bản đồ, cái gì ở đâu, tổng hợp so sánh số liệu của tôi và của những người khác ?" mọi chuyện đều ổn cả. Chúng tôi đã sẵn sàng. Tôi ra lệnh: ?oPhát hỏa!? và nghe thấy tiếng ?os-s-s-s?, cứ y như là có một đoàn tàu chạy trong không khí ấy ?" đó là đạn của chúng tôi bay đấy. Đạn nổ ở đâu đó gần đích. Chúng tôi bắn 42 phát đạn vào Nhà Quốc hội Đức. Rồi có lệnh từ đó truyền tới. Tôi nhấc ống nghe, nghe thấy ai đó hét rất ghê: ?oNgừng bắn!?. Tóc trên đầu tôi dựng đứng cả lên ?" chắc là chúng tôi bắn vào quân mình rồi. Quân ta đang vây Nhà Quốc hội, chỉ còn cách đó khoảng 300 mét thôi. Chúng tôi thì bắn theo diện tích, ngộ nhỡ có viên đạn nào không bay đến đích thì sao. Sởn gai ốc hết cả người, tôi ra lệnh mà. Đâu có ai ra lệnh cho tôi, ngoài cái anh kia, mà số 18 là ai thế nhỉ? Thậm chí tôi còn không biết họ của anh ta nữa mà. Thế là tôi sẽ phải chịu trách nhiệm. Mà cũng có thể là không, ai mà biết được. Nói tóm lại là tôi hết sức lo lắng. Sau một khoảng thời gian lại nghe thấy lệnh: ?oChuẩn bị bắn vào mục tiêu 20?. Tất cả những chuyện đó đều xảy ra trong ngày 27 tháng 4 cả. Sau đó thì đến loạt bắn phá Bộ Tổng tham mưu của Hitler đầu tiên của chúng tôi. Chúng tôi gửi đi 18 phát đạn. Lại được lệnh ngừng bắn. Sau một khoảng thời gian nữa thì nghe thấy ?" giỏi lắm, các cậu bắn tốt đấy. Chuyển lời cám ơn của các đơn vị tấn công đến anh em nhé?" mà lúc đó thì trung đoàn số 151 đang tấn công. Ừ thì tôi chuyển lời cám ơn. Rồi còn trong khi chúng tôi đang bắn vào Bộ Tổng tham mưu của Hitler thì tham mưu trưởng chạy đến chỗ sở chỉ huy của chúng tôi. Trong suốt cả cuộc chiến tranh đấy là lần thứ hai anh ta đến đây. Lần thứ nhất là ở chỗ đèo Kareli, lần thứ hai là lần này đây. Anh ta chạy đến, tôi báo cáo: ?oBáo cáo đồng chí thiếu tá, chúng tôi đang bắn vào mục tiêu số 20 ?" Bộ Tổng tham mưu của Hitler?. ?oCác cậu đã bắn bao nhiêu phát rồi??. Hai hay là ba gì đó. Mà lúc đó tôi đã vẽ bảng bắn, chuyển lửa như thế nào. Tức là bắn sang trái 20, sang phải 20, с,олOко-,о далOноме? менO^е. Và các khẩu đội cũng thế: chúng tôi tổng hợp, hội ý mà. Cứ hai phút thì bắn một phát. Không thể nhanh hơn được ?" nòng nóng bỏng lên mất?
  3. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    - A.D. Không thể bắn nhanh hơn vì nòng súng nóng lên nhanh quá ấy ạ?
    - Đúng thế đấy. Lại còn nạp đạn nữa chứ, mất 18-20 giây. Chúng tôi nạp đạn như thế này này: khoảng hai chiến sĩ pháo binh dùng tời nâng đạn lên, nòng thì chúc xuống dưới một chút. Такими, банники наз<ваZ,ся, сна?яд с ло,ка в с,вол. ? đạn vào nòng. Yо,ом ме^ок по?о.f сZда, спе?иалOн<й, он из ,аки. как б< гале, сделан, с^и, из за?ядов, полн<й за?яд - ме^ок во, какой здо?ов<й. Sau đó thì một bao thuốc súng đặc biệt, bao thuốc súng ?.- bao to đùng. Ở đây thì thường thường người ta nạp không đầy thuốc súng ?" tùy thuộc vào khoảng cách ấy mà. -ак?<вае,ся за,во?. Sau đó thì đóng ? lại. Tất cả mọi người tránh ra, chỉ còn lại người cuối cùng навод?ик ?Anh ta kéo sợi dây ?" thế là đạn được bắn đi. Chúng tôi không để nòng súng ở vị trí như hồi ở đèo Kareli, ở đây chúng tôi để nòng súng góc 50 ?" 60 độ, bởi vì cần phải để đạn rơi tù trên xuống cho trúng.
    ? Tham mưu trưởng chạy đến, nhìn vào cái bảng của tôi. Aha, đã tổng hợp, so sánh với khẩu đội đnag bắn. Và anh ta bắt đầu ra lệnh, còn tôi thì đứng ra một bên ?" nhìn. Chúng tôi đã bắn 18 phát, và lại nhận được lệnh ngừng bắn. Và họ còn nói rằng Larin khá lắm, sẽ nhận được huy chương Cờ đỏ. Sau đó mấy ngày thì chúng tôi đã thôi bắn, thôi chiến đấu ở Berlin (mà cuối cùng thì tôi cũng không nhận được huy chương Cờ đỏ), người ta đưa chúng tôi ra khỏi Berlin ngày 3 tháng 5 (ngày mùng 2 là chúng tôi đã ngừng chiến đấu rồi), đã là lúc hòa bình trong thành phố. Sau mỗi lần bắn thì lính pháo binh chúng tôi phải làm báo cáo: bắn bao nhiêu phát, bao nhiêu phát trúng đích, còn lại bao nhiêu, bao nhiêu người chết. Tức là báo cáo chiến đấu, rồi sau đó báo cáo được đi tiếp lên trên, còn chúng tôi thì lưu lại tài liệu. Tôi cùng hai trinh sát được giao nhiệm vụ xem xét các mục tiêu 20 -21 và ghi lại, có bao nhiêu phát trúng, và trúng vào đâu. Mà ngoài Nhà Quốc hội ra chúng tôi còn bắn vào các điểm chống cự nữa, và các điểm này cũng được đánh số. Có các vết lõm, đổ vỡ bên trong tòa nhà, đó là vết đạn của chúng tôi. Trước nhà Quốc hội có chôn hai chiếc xe tự hành Đức, chỉ còn tháp pháo nhô lên khỏi mặt đất. Chỗ trước cửa chính được ký hiệu là điểm 97. Chúng tôi bắn vào đó, bắn vào các khu khác, và người Đức đã phải chịu đựng đáng kể. Mà đạn của chúng tôi mà nổ thì to phải biết nhé. Độc thuốc nổ không đã là 50 kg rồi. Tôi đã quan sát thấy một bức tranh như thế này. Nhưng không phải là khi chiếm nó, mà là ngày hôm sau.
    Chúng tôi chui vào đó ?" trời đất ạ, - trong đó không thể nào đi nổi. Bên trong nhà có đến hàng ngàn người. Ở phía kia thì tường đổ, tất cả sập xuống cầu thang, trong đố rất nhiều xác, cả quân ta lẫn quân Đức. Chúng tôi đi vòng quanh nhà, đếm được nhiều phát đạn trúng đích, lập biên bản những phát đạn ấy. Sau đó đi vào Bộ Tổng tham mưu của Hitler ngang qua metro, cũng xem metro của họ được chút ít. Nhưng khi chúng tôi đi sang Bộ Tổng tham mưu của Hitler lúc rạng sáng thì một kẻ cuồng tín nào đó nhằm bắn từ súng máy vào chúng tôi từ trên mái nhà. Đó đã là mùng 3 tháng 5 rồi. Chúng tôi vừa chạy vừa ẩn giữa các tòa nhà qua phố, bắn vào phía này thì chúng tôi chạy sang phía kia. Việc vô hiệu hóa kẻ bắn phá này không phải là việc của chúng tôi. Ngoài chúng tôi ra còn hàng trăm người nữa, ở chỗ nào đó có ai đó bị trúng đạn, thế là ai đó bắn trả lại chàng thiện xạ này, nghe tiếng súng rất rõ. Nhưng chúng tôi chẳng có hơi sức đâu để ý đến việc đó ?" nhiệm vụ chiến đấu của chúng tôi là phải đi tới đó và đếm những phát đạn. Chúng tôi chạy qua phố và vào trong một tòa nhà. Hóa ra đó là Bưu điện thành phố. Cũng có thể không phải là Bưu điện thành phố mà chỉ là bưu cục thôi, ai mà biết được, nhưng tôi cho rằng đó là Bưu điện thành phố, vì tòa nhà ấy lớn lắm. Chúng tôi chạy vào trong nhà. Trong đó có một người đàn ông đứng tuổi, chắc khoảng 60 tuổi rồi, ông ta mặc đồng phục nhân viên bưu điện. Cùng đi với tôi là trung sĩ Strenchenko, anh ta hồi trước học ở trường Đại học Ngôn ngữ nước ngoài ở Kiev. Anh ta nói tiếng Đức rất trôi chảy, và là phiên dịch của chúng tôi. Tôi thì nghe hiểu, nhưng nói thì kém. Mặc dù cũng có học tiếng Đức đấy. Anh ta hỏi: ?oĐây là cái gì thế nhỉ?? ?" người ta trả lời là bưu điện thành phố. Trong khi họ nói chuyện thì tôi nghe thấy những tiếng súng trong nhà ở góc xa. Cái gì đấy nhỉ? ?oĐó là supô- supô, thưa ngài sĩ quan, supô?. Hóa ra là có một sĩ quan người Đức cùng với gia đình đang ở một góc trong nhà bưu điện. Đó là một sĩ quan cảnh sát, hay là gần như NKVD ởLiên Xô, không phải là sĩ quan quân đội. Chúng tôi xách súng tới đó, mở cửa ra, xông vào thì thấy viên sĩ quan ngồi trên ghế, tay buông thõng, máu chảy từ thái dương. Còn trên giường là một người phụ nữ và hai đứa trẻ, anh ta đã bắn họ rồi ngồi vào ghế và tự bắn vào đầu, lúc đó thì chúng tôi vừa đến. Khẩu súng lục còn ở ngay bên cạnh.
    Chúng tôi đi tiếp, ghé vào metro. Hóa ra là có cửa vào đấy, nhưng sau đó là nước. Ga metro đầy nước. Trước đó chúng tôi có nghe nói là metro đã bị nổ. Từ đường tàu điện ngầm có các kênh đi khắp thành phố, nhiều kênh lắm. Khi nổ metro thì nước tràn ra khắp những chỗ kênh đi trên đường tàu điện ngầm. Mà cũng không nhất thiết là người Đức cho nổ metro, cũng có thể là quân ta. Nhưng tôi đã đi xa quá rồi. Cần phải kết thúc với Nhà Quốc hội.
    - A.D. Các bác đi xem xét văn phòng?
    - Phải rồi. Chúng tôi đi xem ở Bộ Tổng Tham mưu của Hitler. Chúng tôi tìm ra theo bản đồ - đến gần đó và thấy một tòa nhà lớn màu xám hai tầng, các cửa sổ rất lớn. Một phần diện tích (khoảng nửa khu phố) là một vườn hoa, hay là một cái sân gì đó, chúng tôi đi tới đó. Gặp hàng rào, người ta không cho chúng tôi vào. Thế là thế nào nhỉ, quân ta, mà lại không cho quân mình vào. Lúc đó có một sĩ quan đi tới. Tôi nói: ?oChúng tôi cần xem có bao nhiêu phát đạn bắn trúng đích ?" chúng tôi làm báo cáo tổng hợp các kết quả chiến đấu của chúng tôi?. Anh ta hỏi: ?oThế các anh là ai?? ?"?oLà chiến sĩ pháo binh siêu nặng, đơn vị chúng tôi đã bắn vào Bộ Tổng Tham mưu của Hitler. Bây giờ chúng tôi có nhiệm vụ xem xem kết quả chiến đấu ra sao?. Vào đúng lúc ấy thì thật không may cho chúng tôi là Nguyên soái Giukov cùng các sĩ quan tùy tùng đang ở đó xem xét Bộ Tổng Tham mưu của Hitler. Thế là các cậu trực gác không cho chúng tôi vào. Vậy là chúng tôi đi vòng vòng xung quanh, đếm: chúng tôi thấy các vết gẫy ở tường, mái bị sập, ở trong sân có những phễu đất. Ở trong sân thì có những mái vòm. Hóa ra đó là cái boong-ke của Hitler. Lúc đó chúng tôi đã biết là Hitler đã tự tử chết rồi, nhưng hắn có phải tự tử ở đó không nhỉ? Chúng tôi ghi chép tất cả rồi về lại chỗ đóng quân thì thấy người ta đi đâu đó vào tầng hầm. Họ đi vào đó, chứ không thấy đi ra. Cái gì thế nhỉ, không lẽ họ đi vào metro à? Không, không phải metro, không giống. Chúng tôi đi cùng với họ, hóa ra là có một lối vào bên kia phố, còn đó là lối ra. Tầng hầm của tòa nhà ấy là một kho rượu. Ở đó rất nhiều loại rượu, с,оя, ^,абели, дf. ,акой винн<й mùi rượu đầy. Trời đất ạ! Chúng tôi thấy các đồng đội của chúng tôi đang uống. Thế thì chúng tôi cũng phải thử một chút chứ. CHúng tôi có đèn pin chiến lợi phẩm, bật lên: có một chiến sĩ đang ngồi xã xượi bên một cái hòm. Chẳng rõ cậu ta có vũ khí hay không, mà rượu thì tràn ra một lớp dày, phải đến vài trăm chai rượu bị vỡ. Chúng tôi dẫm lên chai ?" bị trượt. Lúc đó có ai đó tới gần ^,абели , và d-r-r-r, bắn một tràng vào mấy cái hòm rượu ?" thế là rượu chảy ra?tất cả đều cười. Tôi nói ?ocho chúng tôi thử với?. Chúng tôi lấy một chai, chả biết rượu gì, vì nhãn toàn là tiếng Đức. Anh chàng trung sĩ bèn cầm lấy chai, đọc, hóa ra đó là sâm-panh. Cái chai đó to lắm. Thế là anh ta đập cái cổ chai vào súng. Chúng tôi chẳng có thời gian, mà cũng chẳng có cái gì để mở chai cả mà. Anh ta nói, anh uống thử đi, đây là rượu sâm-panh, tuyệt lắm. Những người khác thì nói là rượu mạnh, nhưng cái này thì lại chua. Chúng tôi uống thử rồi đi tiếp, qua khỏi khu phố ấy.
    Người phỏng vấn: Archôm Drabkin
    Biên tập: Igor Solodov
    Dịch ra tiếng Việt : Lưu Hải Hà (nuocnga.net)

  4. MrHaiLua

    MrHaiLua Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/03/2006
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    hehe , nghe giống VN nhà mình ghê
  5. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Hôm nay mới có điều kiện hồi sinh lại topic này. Bài viết dưới đây là tư liệu quý của Mr. Sơn đóng góp cho topic. Nội dung của nó, cũng như tinh thần của topic là hòan tòan không pro vũ khí Nga, Đức hay Đồng Minh, mà chỉ là kỹ thuật và thực tế chiến trường. Do điều kiện có hạn, mong các bạn bổ sung thêm hình ảnh minh họa, vốn rất cần thiết cho bài viết này.
    T-34 chống lại ?oPanther?: cuộc đối đầu trí tuệ​
    Để đáp trả tốc độ sản xuất xe tăng Xô viết, người Đức đã tự ký bản án cho mình bằng cách đi vào chế tạo một loạt các mẫu xe tăng phức tạp, và số lượng ít.
    Bắn cháy ?oPanther? hay là ?oCon Báo? không phải là đơn giản, nhưng những người lính tank Sô-viết đã làm được điều này.
    Tác giả: Alekxei Alekxeievich Kilichenkov- Tiến sỹ Lịch sử.
    Trong hàng loạt các ấn phẩm (sách báo, phương tiện thông tin đại chúng) đã xảy ra nhiều tranh cãi nhau về một quan điểm vẫn còn nóng cho đến nay trong những trang lịch sử của nước Nga ?" đó là ?oT-34- xe tank tốt nhất trong chiến tranh thế giới lần 2?. Mặt khác, tôi vẫn không muốn bị lôi quấn vào cái gọi là ?ophát hiện ra chân lý một lần nữa ?. Chúng ta ý thức tiến đến sự giải thích rất đơn giản cho các hiện tượng phức tạp nhất của lịch sử khi coi sự đơn giản đó là chức năng mang tính chân lý. Kết quả là thay vào một sơ đồ giản dị ?o Vũ khí Xô viết- có nghĩa là tốt hơn, vì đã chiến thắng? là một sơ đồ khác không kém phần giản đơn ?oVũ khí Xô viết ?" tồi hơn, nhưng số lượng nhiều hơn, và chiến thắng bằng số lượng?.
    Trong mối tương quan này (tôi) muốn bổ sung thêm một khía cạnh đánh giá đáng kể cho phép nhìn lại và đánh giá bức tranh của sự đối đầu kỹ thuật Nga-Đức từ một phía không ngờ đến và (cho phép) nhận thức được rằng bản chất đích thực của quá trình này cực kỳ phức tạp và khó khăn hơn rất nhiều so với sự đơn giản kiều diễm của sơ đồ chúng ta đã có. Đó chính là cuộc so tài trí tuệ trong chiến tranh thế giới lần 2.
    TỔ CHỨC CỖ MÁY TRÍ TUỆ
    Chiếc xe tank cũng như bất kỳ một đối tượng ( sản phẩm) kỹ thuật nào đó, là sản phẩm vật chất của trí tuệ, phản ánh các quan niệm của nhà chế tạo về các chức năng của chính nó. Chính vì thế thành phần trí tuệ của một đối tượng ( sản phẩm) kỹ thuật được biểu hiện như là một tổ hợp ( tập hợp) được tổ chức xây dựng một cách tôn ty trật tự từ những đặc tính cơ bản của nó. Và bất cứ một sản phẩm kỹ thuật nào đều là kết quả của sự thỏa hiệp giữa việc chọn lựa các yêu cầu kỹ thuật. Có nghĩa là, nhà thiết kế xe tank ngay từ đầu đã phải lựa chọn, khi nào thì phải xác định cái gì cần thiết và cái gì phải loại bỏ, cái gì phải được ưu tiên hàng đầu: khả năng bảo vệ của vỏ thép hay là tính linh động, hay là hỏa lực ?

    Và chính tại thời điểm lựa chọn này thì ?ocỗ máy trí tuệ? bắt đầu khởi động, vì nhà thiết kế ( người đặt hàng) khi đó được định hướng những giá trị cơ bản -, cái gì tốt và cái gì tồi, cái gì quan trọng, và cái gì không quan trọng, cái gì cho phép và cái gì không cho phép. Thêm vào đó, như lịch sử đã cho thấy, những thỏa hiệp này ở những trường phái thiết kế khác nhau trên thế giới là khác nhau rất nhiều, và nó là kết quả trực tiếp của sự khác nhau giữa các sự tổ chức cỗ máy trí tuệ của các dân tộc để xác định các giá trị căn bản.
    MẠNH HƠN, ƯU THẾ HƠN NHƯNG LÀ ƯU THẾ VƯỢT TRỘI VÔ ÍCH
    Đến năm 1941, T-34 là chiến tank hạng trung hoàn thiện hơn cả, cô đọng những tinh hoa các thành tựu của các ý tưởng thiết kế và nền công nghiệp Xô viết, và đối thủ của nó có cùng hạng cân là chiếc Pz-IV của Đức. Nếu so sánh các đặc tính của chúng, cho là của Pz-IV là 100%, thì tới đầu chiến tranh xe tank Xô-viết có ưu thế tuyệt đối so với Pz-IV về vỏ thép bảo vệ- hệ số 219,3, hơn hẳn ưu thế về độ linh động ?" hệ số 136,1, hơn đáng kể về hỏa lực- 121,4, và thua tuyệt đối về độ tiện nghi làm việc cho tổ lái và qua trình vận hành - hệ số 48,3.
    Khi Chiến tranh Vệ quốc nổ ra, tank chủ yếu của Đức trên chiến trường là các lọai sau :
    [​IMG]
    Panzer-II
    [​IMG]
    Panzerkampfwagen III Ausf A
    [​IMG]
    Lính tank Nga đang nghiên cứu con tank PzKpfw 38(t) thuộc Sư đòan 20th bắt được tại gần Smolensk tháng Bảy 1941
    [​IMG]
    Panzerkampfwagen IV Ausf A.
    Trong khi đó, T-34 đời đầu:
    [​IMG]
    Nếu thêm vào những con số so sánh trên bằng sự phân tích sơ đồ bố trí của T-34 và Pz-IV thì nhận thấy rõ ràng rằng làm như thế nào mà các nhà thiết kế tank Xô-viết đạt được nhiều ưu thế trước địch thủ và giá của ưu thế đó là như thế nào.
    Ưu thế chính của T-34 là khả năng bảo vệ của vỏ thép đạt được là do thiết kế vỏ thép nghiênh 60o phía trước mặt tháp pháo và 45o ở hai bên sườn. Nhưng cũng chính vì nghiêng như thế mà thể tích bên trong thân xe và tháp pháo bị nhỏ lại. Kết quả là chiếc xe tank T-34 ( nặng 26 tấn serie sản xuất năm 1940, còn serie năm 1941 nặng tới 28 tấn) trở nên chật chội thậm chí là cho cả 4 người, còn chiếc Pz-IVD của Đức thì cho 5 người thoải mái.
    Trong chiếc tháp chật chội của T-34 chỉ bố trí được có 2 người- nạp đạn và chỉ huy xe, làm luôn nhiệm vụ ngắm bắn. Trong điều kiện thực tế trên chiến trường, nó làm phân tán nhiệm vụ chính của người chỉ huy - đó là điều khiển chiếc tank của mình và các đơn vị trực thuộc như tiểu đội, trung đội, đại đội. Việc bố trí trên chiếc tank T-34 pháo F-34 76 mm và động cơ diezel công kềnh cũng ?onuốt? thêm một phần không gian của xe.
    Ưu thế về vỏ thép bảo vệ T-34 được đảm bảo thêm bằng số lượng ít các nắp cửa làm việc và vận hành- 5 của T-34 so sánh với 12 của Pz-IVD. Mỗi một thành viên trong xe tank Đức đều có nắp cửa riêng của mình, trong khi đó trên chiếc T-34 chỉ có 2 chiếc cho toàn bộ tổ lái 4 người. Không cần nói thêm, cái đó có ý nghĩa như thế nào trong điều kiện chiến trận. (Khi xe bị bắn cháy thì khả năng thóat hiểm rất thấp ?" LTD).
    Những nhược điểm này của T-34 lại được bổ sung thêm chất lượng tồi và những thiếu sót thiết kế của các thiết bị quan sát với trình độ kỹ thuật của những năm đầu thập kỷ 30. Tất cả những cái đó T-34 đã thừa kế lại từ những đời series tank trước như BТ-5 và BТ-7. Những sự kiện được ít biết đến này ngược hẳn với những thông tin khá phổ biến trong các tài liệu mà theo đó T-34 được coi như là tank của thế hệ mới. Thực chất là T-34 là kết quả kế thừa của của việc cải tiến và hiện đại hóa triệt để BТ-7.

    Kết quả là tất cả các ưu thế của T-34 về khả năng bảo vệ của vỏ thép và hỏa lực được ?omua ? bằng giá của sự lạc hậu khủng khiếp về các đặc tính về vận hành, mà trước tiên là tính tiện nghi của công tác tổ lái. Lựa chọn giữa độ bảo vệ, hỏa lực và tiện nghi thì các nhà thiết kế tank Xô Viết khác với địch thủ của mình đã bỏ qua tiện nghi.
    Tank T-34 cũng có thể được coi như là dạng ?oTank Volswagen ?" tank cho nhân dân?, trong tư tưởng phát triển nó có phản ánh trí tuệ không những của kỹ sư mà còn của những người lính xe tank. Các thiết bị quan sát, liên lạc, điều kiện làm việc của tổ lái không được cả lính xe tăng lẫn kỹ sư thiết kế xem như là một thành phần quan trọng như là vỏ thép bảo vệ, hỏa lực và tính cơ động.
    Còn một điểm nữa của chiếc tank T-34 về sự kết hợp giữa ưu nhược điểm - đó là việc ưu tiên về cấu tạo đơn giản và kết cấu rẻ tiền làm tổn hại đến các chất lượng khác về đặc tính kỹ thuật của xe. Điển hình nhất là việc thiết kế máy móc thiết bị cho xe T-34 là thừa kế từ dòng tank BТ, đó là việc bố trí phần động cơ và hộp truyền động cùng nhau ngay phần đằng sau của chiếc xe. Người Đức sử dụng sơ đồ riêng biệt hoàn toàn cho tất cả các dòng xe tank của mình- động cơ ở phần sau, còn hệ thống truyền động, thì ở đằng trước xe. Sơ đồ T-34 có ưu thế của mình. Cái chính là sự đơn giản cho máy móc thiết bị và bảo trì. Nhược điểm là hệ thống điều khiển phải được bố trí xuyên suốt qua cả gầm chiếc xe, từ chỗ người lái-thợ máy đến bộ li hợp làm cho người lái mất rất nhiều sức lực điều khiển và gây cản trở rất nhiều khi sang số.

    Và cũng y như thế, việc áp dụng trên xe tank Sôviết hệ thống giảm xóc độc lập lò xo treo với các trục lăn đường kính lớn so với hệ thống của Pz-IV thì của T-34 rất đơn giản và rẻ tiền khi chế tạo, nhưng lại to, cồng kềnh chiếm chỗ và cứng (xóc) khi xe chạy. Hệ thống này của T-34 cũng thừa kế từ dòng BТ. Chế tạo rất đơn giản nhưng vì kích thước cồng kềnh của các trục lăn, có nghĩa là sẽ ít các gối đỡ trên xích xe hơn (5 gối đỡ của T-34 so với 8 gối đỡ của Pz-IV), và hệ thống phanh bằng lò xo dẫn đến việc xe lắc rất mạnh khi đi chuyển dẫn đến việc vừa chạy vừa bắn là gần như không thể thực hiện được. Ngoài ra, so sánh với hệ treo xoắn thì hệ treo lò xo chiếm hơn 20% thể tích.
    Đánh giá chung cho thành phần trí tuệ (chất xám) của thiết kế xe T-34 là sự ưu thế về khả năng bảo vệ của vỏ thép, tính cơ động và hỏa lực đạt được thay cho sự tiện nghi và hiệu quả. Hậu quả của nó thể hiện ngay thời gian đầu chiến tranh khi vì sự mệt mỏi của người chỉ huy, các thiết bị quan sát quá tồi tệ, và những nhược điểm của hệ truyền động làm T-34 không thể phát huy được hết những ưu thế của mình trước xe tank địch thủ. Những đặc tính ưu việt của T-34 được các tướng Đức phát hiện ra chỉ sau khoảng 4 tháng chiến tranh, mặc dù vào tháng 6 tháng 7 có rất nhiều mẫu xe tank Nga bị bắt được chuyển về Đức để nghiên cứu. Nói chung, nhìn nhận lại toàn bộ bức tranh thì mùa hè năm 1941 các chuyên gia Đức không thể đánh giá đúng khả năng của T-34 chính là vì trình độ hoàn thiện về kỹ thuật vẫn còn thấp.
    CÂU TRẢ LỜI ĐỨC
    ?oCâu trả lời? ngay lập tức cho ?othách thức T-34? là sự hiện đại hóa các xe tank Đức. Và trong câu trả lời này xuất hiện đặc thù trí tuệ giải quyết vấn đề tăng cường hiệu quả của xe tank như là một đối tượng văn hóa kỹ thuật dân tộc.
    Mùa xuân năm 1942 trong hàng ngũ quân đội Wermarcht xuất hiện Pz-IV đời ?oF? và ?oG?, mà trong đó ta có thể tìm thấy dấu vết của các kinh nghiệm giao chiến với tank Sô-viết. Các nhà thiết kế xe tank Đức đã thay đổi đáng kể hỏa lực bằng cách lắp pháo tank mới KwK40 với chiều dài nòng lên đến 48 calibres thay cho chiều dài nòng cũ là 24 calibres làm cho khả năng xuyên vỏ bọc thép tăng lên 1,6 lần. Gia tăng đáng kể vỏ thép xe tank- 66% phía trước của thân xe và tháp, 50% bên sườn thân xe và tháp. Sự cải tiến đó làm tăng trọng lượng xe Pz-IV lên 3,5 tấn, kết quả là giảm đi ít nhiều độ linh động của xe. Nhưng tuy vậy, điểm chính vẫn là giữ nguyên điều kiện làm việc của tổ lái như trước khi cải tiến. Nói một cách khác là các nhà thiết kế xe tank Đức vì sự tăng cường hỏa lực và khả năng bảo vệ của vỏ thép mà sẵn sàng hy sinh độ linh động chứ không phải độ tiện nghi.
    Trong thời gian đầu của chiến tranh T-34 cũng được cải tiến và hiện đại hóa. Các nhà thiết kế đã cố gắng loại bỏ các nhược điểm của xe. Đã cải tiến bộ phận chuyền động, hệ thống lọc khí bụi, tăng thêm đạn dự trữ ?. Sự thay đổi đáng kể nhất của T-34 là tháp pháo mới. Tuy vậy vẫn không có sự cải thiện nào về điều kiện làm việc của tổ lái cũng như làm tháp pháo cho 3 người, mà chỉ cải tiến về kỹ thuật. Tháp pháo mới chế tạo đơn giản hơn tháp pháo cũ- bây giờ nó có thể đúc trong các khuôn, dập bằng các máy dập công suất lớn và sử dụng qui trình hàn tự động khi lắp ráp. Nói một cách khác là T-34 được cải tiến, thay đổi theo cách khác Pz-IV, ở đây sự ưu tiên là sản xuất đơn giản và rẻ. Bài toán tăng cường hỏa lực hoặc ít nhất là giữ nguyên ưu việt về hỏa lực của T-34 trước xe tank cải tiến Đức thậm chí cũng không đặt ra.

    So sánh T-34 với tank Pz-IVG cải tiến cho thấy xe tank Sô-viết vẫn giữ nguyên lợi thế về bảo vệ vỏ thép nhưng hệ số về ưu thế giảm từ 219,3 xuống 179,6. Độ linh động tương đối của xe tank Sô-Viết thậm chí còn tăng lên- từ 130 lên 137,9, nhưng lại có sự thay đổi đáng kể tương quan giữa độ hỏa lực- từ 121,4 xuống còn 93,2. Tank Pz-IV cải tiến có thể so sánh với T-34 ở các cuộc đấu súng có hiệu quả từ xa, và ở khoảng cách 900-100m đạn của nó có thể xuyên thủng lớp vỏ bọc thép phía trước của thân và tháp pháo T-34. Giữ nguyên tất cả độ tiện nghi cho tổ lái, chiếc Pz-Iv được cải tiến đã có lợi thế rõ ràng hơn T-34 về hỏa lực trong khi các cuộc đọ súng tầm xa.
    Kết quả là đến mùa xuân năm 1942 các nhà thiết kế tank Đức chỉ giới hạn bằng những thay đổi nhỏ : kết cấu Pz-IV đã giải quyết được ?ovấn đề T-34?. Tank Đức cải tiến đã rất thành công khi đánh nhau với Sô viết T-34 trong thời gian này.
    Được danngoc sửa chữa / chuyển vào 07:05 ngày 10/12/2006
    Được danngoc sửa chữa / chuyển vào 07:06 ngày 10/12/2006
    Được danngoc sửa chữa / chuyển vào 09:21 ngày 10/12/2006
    Được danngoc sửa chữa / chuyển vào 09:31 ngày 10/12/2006
  6. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    CHẠY ĐUA CHO SỰ ƯU VIỆT TUYỆT ĐỐI
    Có lẽ là bộ chỉ huy quân đội Đức có đầy đủ mọi cơ sở để hướng những nỗ lực cho việc mở rộng sản xuất các xe tank được hiện đại hóa, và đồng thời vẫn đảm bảo tất cả các ưu thế kỹ thuật đã đạt được. Nhưng mùa hè năm 1942 đã quyết định cho ra đời lọai tăng mới Pz-V ?oPanther? và Pz-VI ?oTiger?, hay là ?oCon Báo? và ?oCon Cọp?. Nguyên nhân ra đời hai loại tank này tuyệt nhiên không phải là do tính chiến lược tác chiến hay tính kỹ thuật quân sự vì thời gian này quân đội Đức đang đạt được những kết quả ngoạn mục trên chiến trường.
    Sự xuất hiện của ?oTiger? và ?oPanther? nổi tiếng hơn với tên gọi ?oCon Cọp? và ?oCon Báo? là ước muốn duy của Ban Lãnh Đạo Đức nhằm hồi phục lại ưu việt kỹ thuật khủng khiếp của vũ khí Đức. Mùa thu năm 1941 tính ưu việt này đã bị tranh cãi với những hoạt động hiệu quả của những chiếc T-34 Xô-viết, và khi đó nhiệm vụ Đức đặt ra là phải lấy lại ?osự ưu việt kỹ thuật trước người Nga?. Sự ưu việt của T-34 được người Đức xem như là vấn đề hết sức nhức nhối, và được coi như ?omột lời thách đấu?, một cái gì đó đối kháng lại quan niệm về những đặc tính thuộc về của dân tộc Đức, văn hóa Đức, trong đó bao gồm cả kỹ thuật Đức. Nói một cách khác sự ưu việt của T-34 được xem như là một ?olời thách đấu trí tuệ?.

    So sánh các đặc tính kỹ thuật của T-34 và ?oPanther?cho thấy rằng với sự xuất hiện của loại tank mới của Đức tất cả các chỉ số của T-34 giảm một cách thảm hại. Về hỏa lực giảm từ 93,2 ( so tương đối với Pz-IVG) xuống còn 70,3, độ tiện nghi của Sô-viết T-34 giảm từ 52,7 xuống 39,4. Mặc dù ?oPanther? đã rất nặng ký và to (đối với T-34 - 20% ít hơn), các nhà thiết kế xe tăng Đức đã thành công khi làm cho độ linh động của ?oPanther? gần bằng của T-34. Thật là khó tin, nhưng đó là sự thật, với chiếc ?oPanther? 45 tấn chỉ thua chiếc T-34 28 tấn có 6% về độ linh động, trong khi đó Pz-IV thua T-34 đến 38%. Thậm chí độ ưu việt về khả năng bảo vệ của vỏ giáp của T-34 cũng bị giảm đến tối thiểu ?" tới 111,4. Và T-34 chỉ giữ được ưu thế của vỏ thép trước ?oPanther? chỉ do lớp thép dầy ở những vùng không quan trọng thứ cấp (bậc 2) như nắp, thân và phần hậu của tháp pháo, thân và gầm xe. Trong khi đó ?oPanther? có ưu thế kép (gấp đôi) của lớp bọc thép ở vùng nguy hiểm nhất- phần trước của xe và tháp xe.
    Cũng giống như dòng Pz-IV hiện đại hóa, chiếc ?oPanther? có hỏa lực mạnh hơn rất nhiều. Việc cải tiến ?oPanther?cũng giống như ở Pz-IV, đó là tăng độ dài nòng lên đến 70 calibres mà vẫn giữ nguyên cỡ nòng làm tăng thêm khả năng xuyên thép của ?oPanther? lên 1,6 lần.
    Lớp vỏ thép phía trước của ?oPanther? dầy 80 mm được thiết kế nghiêng một góc 55o làm tăng khả năng chống đạn lên 2 lần. Trong trường hợp tương tự đối với T-34 thì việc giải bài toán kỹ thuật đó làm giảm đáng kể thể tích làm việc bên trong tháp xe, buộc các nhà thiết kế Xô-viết phải bố trí nắp cửa cho người lái tăng ở lớp bọc thép phía trước mặt. Nhưng ở ?oPanter? thì ngược lại- thể tích bên trong xe hơn hẳn tất cả các xe tăng Xô viết và phần lớn các xe tank Đức.

    Bí quyết rất đơn giản, các nhà thiết kế Đức không thiết kế lớp vỏ thép nghiêng uốn vào phía bên trong làm giảm thể tích như của T-34 mà đẩy nó ra phía bên ngoài, làm tăng thể tích xe lên. Một dấu âm (-) lớn ở đây là làm tăng đáng kể kích thước và trọng lượng xe lên. Khối lượng của Pz-V là 45 tấn bỏ xa T-34 là 28 tấn và gần đuổi kịp các ?ohạng nặng? Xô-viết như KV (47,5 tấn) và IS (46 tấn).
    Kết quả là các tác giả của dự án ?oPanther? đã thành công trong việc tăng khả năng bảo vệ của lớp vỏ thép, tăng hỏa lực, độ linh động và đồng thời cải thiện tốt hơn điều kiện làm viếc của tổ lái, trong khi đó chỉ ?ohy sinh? 2 chỉ số là làm tăng kích thước và trọng lượng xe.
    CÂU TRẢ LỜI XÔ -VIẾT
    Chất lượng đích thực của xe tank Đức được trình diễn rất hòanh tráng vào mùa hè năm 1943 tại vòng cung Kursk. ?oPanther? và ?oTiger? thản nhiên xử bắn T-34 và KV từ khoảng cách không tưởng tưởng nổi đối với chúng ta (tức người Nga): 1,5 tới 2 km mà không bị trừng phạt và (chúng) trở nên gần như không có điểm yếu. Để có được chiến thắng tại vòng cung Kursk binh chủng xe tank Xô-viết phải trả giá bằng những tổn thất vô cùng nặng nề. Theo con số chính thức, tại chiến dịch phòng thủ Kursk 1614 tank và pháo tự hành bị mất trong tổng số 5130 chiếc từ đầu chiến dịch. Tính ra tổn thất mỗi ngày lên đến 85 chiếc. Tỷ lệ tổn thất trên bãi chiến trường là 1:3 nghiêng về địch thủ.

    Và trong ?ocâu trả lời? của chúng ta (phía Nga) cho ?olời thách đấu? lần này cũng là ví dụ rực rỡ của câu trả lời trí tuệ. Đối lại sự xuất hiện của ?oPanther? là T-34-85. Chiếc T-34 đời mới đạt được bằng ?oPanther? về chỉ số hỏa lực - 102,7 và tăng không đáng kể chỉ số bảo vệ của vỏ thép-118,3, cải thiện lên nhiều điều kiện làm việc của tổ lái- đến 83,7. Tất cả những cải thiện về kỹ thật đó được làm trong khi khi độ linh giảm đi không đáng kể- 103,5. Làm thế nào mà người ta đã đạt được những kết quả khả quan như thế?

    Chúng ta nhớ lại rằng người Đức để tăng cường hỏa lực của ?oPanther? thì vũ trang cho nó pháo Kwk42 chế tạo mới tinh hoàn toàn, thêm vào đó đường kính cỡ nòng cũng vẫn là 75mm như của Pz-IV. Việc giữ nguyên cỡ nòng có một loạt các ưu điểm- đó là tránh được sự gia tăng khối lượng và thể tích, giữ được kích thước cơ số đạn và vận tốc bắn. Nhược điểm của nó là hạn chế độ cơ động của hỏa lực vì nòng dài quá- tới 5m chiều dài, và chế tạo phức tạp. Nhưng cái chính là người Đức đã phải đi theo chịu toàn bộ chi phí cho chế tạo và sản xuất hàng loạt (dây chuyền) loại vũ khí mới hoàn toàn trong chiến tranh.
    Các nhà chế tạo Xô-viết chọn hướng hoàn toàn khác. Hỏa lực của T-34 đời mới được đảm bảo bằng việc tăng cỡ nòng từ 76 tới 85 mm. Lúc đó thì tất nhiên chúng ta (người Nga) mất tất cả những gì gọi là ưu điểm mà cỡ nòng cũ mang lại, nhưng ngược lại lại được lợi gấp 1,7 lần khả năng chống tank của loại pháo mới. Bay giờ thì pháo của T-34 có thể bắng thủng lớp vỏ thép phần đầu của tháp xe Pz-V từ khoảng cách 1000m, và lớp vỏ bên sườn xe và tháp xe từ khoảng cách đến 2000m.
    Nhưng vấn đề chính là ở chỗ khác- thay vào pháo S-53 trên xe T-34 là pháo phòng không cỡ nòng 85mm đời năm 1939, kết quả là phương án cải tiến hết sức rẻ tiền và đồng thời cũng tăng được công suất sản xuất vũ khí cho xe tank lên. Nói một cách khác là các nhà thiết kế Sô viết đã không ?otư duy hiểm hóc?, mà chỉ lấy những cái gì phù hợp theo các đặc tính kỹ thuật. Và những tính chất được ưu tiên trong việc lựa chọn vẫn lại là đơn giản, có nghĩa là rẻ tiền về mặt kết cấu. Kết quả của việc thay đổi tối thiểu trong kết cấu xe T-34 (tháp xe tank to hơn với pháo mới) các nhà thiết kế tank Sô-Viết đã giảm thiểu tối đa sự ưu việt của xe tank Đức trước xe tank Nga, và như vậy là tìm ra ?ocâu trả lời? xứng đáng cho ?olời thách thức? của ?oCon Báo?.
    GIÁ CỦA SỰ HOÀN THIỆN KỸ THUẬT
    Cấu trúc của mô hình trí tuệ Đức cứng nhắc và khốc liệt đưa ra một khả năng duy nhất trả lời cho ?olời thách thức của tank Nga?- đó là phải đạt được tính ưu việt hoàn toàn về kỹ thuật. Nhưng sự cứng nhắc trong tư duy, việc cần thiết phải giữ lại tính tiện nghi (không gian bên trong lớn) đã chỉ cho phép một giải pháp kỹ thuật duy nhất cho nó là tăng khối lượng và kích thước xe lên. Kết quả là kéo theo một lọat các chi phí khổng lồ khi đưa ra sản xuất hàng loạt: tăng cường sự bảo vệ cần thiết của vỏ thép và hỏa lực mà vẫn giữ không gian lớn bên trong xe dẫn đến khối lượng tăng đáng kể, có nghĩa là cần phải làm động cơ mới có công suất phù hợp, hệ giảm xóc mới, hệ truyền động mới, .. và kết quả nói chung là có một chiếc tank mới hoàn toàn. Chính vì vậy trong giai đoạn chiến tranh, tính từ năm 1942, người Đức đã phải buộc phải chế tạo thế hệ xe tank mới.

    Mỗi một chiếc tank Đức mới thực sự là hình mẫu của tiêu chuẩn kỹ thuật Đức hội tụ đủ các thành tựu kỹ thuật trong nó. Trên những chiếc xe tank mới của Đức xuất hiện những kỹ thuật mới như hộp số tự động, hệ dẫn điều khiển xe bằng bánh lái, hệ thống thông thổi nòng sau mỗi lần bắn, thiết bị quan sát ban đêm, hệ thống cứu hỏa tự động ? v.v.
    Nhược điểm đáng kể nhất của phương án ?ogiáng trả? này là công lao động và giá thành của sản phẩm bỏ ra là quá lớn. Công lao động cho một ?oCon Báo? gần như gấp 2 lần cho chiếc Pz-IV. Có nghĩa là thay vì sản xuất một ?oCon Báo? thì có thể sản xuất 2 con Pz-IV. Trên quan điểm về tính phù hợp và tiêu trí về giá thành-hiệu quả thì ?ocâu trả lời Đức? là quá xa xỉ trong điều kiện chiến tranh tổng lực (toàn diện). Nhưng Ban Lãnh Đạo Đức chọn chính phương án này để đáp lại ?olời thách đấu? của xe tank Sô-viết. Tại sao vậy? Có lẽ nguyên nhân chính là mong muốn trình diễn, biểu dương, phô trương sự ưu việt của kỹ thuật Đức, và xe tank có lẽ là đối tượng kỹ thuật phù hợp nhất cho mục đích này. Sự trình diễn ?ođịa chỉ? cho cả địch thủ lẫn quân mình, vì những kiểu trình diễn như thế là một trong những hình thức tác động tâm lý rất lớn.
    Vào đầu cuộc chiến tranh khi mà những thành công của chiến thuật blitzkrieg- chiến tranh chớp nhoáng đã tự nói về nó. Nhưng khi nó (blitzkrieg) bị phá sản, và chiến tranh chuyển sang pha khác - cuộc đối đầu kéo dài của các tiềm năng- thì lúc đó nhu cầu xuất hiện. Thất bại mùa đông năm 1941 và đặc biệt là năm 1942 đã làm suy giảm lỏng tin của Wertmacht vào ưu thế kỹ thuật Đức. Và cuộc biểu diễn sức mạnh cần phải có để hồi phục nó (lòng tin). Ngoài ra, cuộc biều diễn ưu việt kỹ thuật cần phải có để bẻ gẫy lòng tin của quân địch vào sức mạnh chính bản thân chúng. Và chính lập luận đó đã quyết định chính việc phê duyệt phương án chiến dịch ?oCitadel?, hay là ?oPháo đài? tại vòng cung Kursk.

    Model trí tuệ của chúng ta có sự ưu tiên khác, đó là ?ocon bò thần thánh?- đảm bảo khả năng sản xuất hàng loạt, có nghĩa là kết cấu phải đơn giản. Đó là yêu cầu cá nhân và cực kỳ cứng rắn của Xtalin. Chính vì thế mà các nhà thiết kế Xô-viết khi hoàn thiện các lọai xe tank hạng trung hoặc hạng nặng đều đi theo cách chọn phương án rẻ và đơn giản nhất. Tất cả các nhược điểm mà do sự đơn giản của các model mới gây ra đều được bù đắp bằng khả năng sản xuất chúng hàng loạt. (Chúng ta cũng thấy tư duy đó của Xtalin đến tận ngày nay vẫn có ảnh hưởng quan trọng đến tư duy chuẩn bị chiến tranh của Quân đội Việt Nam như thế nào ?" LTD).
    Yêu cầu cứng rắn của Uỷ Ban Phòng Vệ Quốc Gia (GKO) và cá nhân Xtalin là phải tăng không ngừng công suất sản xuất xe tank đã dẫn đến việc phải giảm giá thành sản xuất bằng mọi cách. Đến đầu năm 1945 công lao động bỏ ra sản xuất T-34 hạ xuống so với năm 1940 là 2,4 lần, trong đó vỏ thép giảm 5 lần, động cơ diesel- 2,5 lần. Và trong điều kiện đó, khi mà số lượng xe sản xuất ra không giảm, việc chuyển sản xuất xe T-34 sang T34-85 đã thực hiện thành công. Không có gì đáng ngạc nhiên là trong suốt thời gian chiến tranh nền công nghiệp Xô-viết luôn luôn đảm bảo ưu thế về số lượng xe tank sản xuất.

    Mô hình trí tuệ Xô-viết còn có một ưu điểm đáng kể nữa. Một cải tiến đơn giản nhất, ví dụ như lắp pháo mới cho T-34 cũng làm cho người Đức chế tạo ra mô hình cải tiến mới mà độ khó (phức tạp) và giá thành của nó gấp nhiều lần phương án Nga. Cuối cùng thì tạo nên một cỗ máy vừa đắt tiền lại vừa phức tạp hơn hẳn các loại xe tank khác. Họ (người Đức) đã làm một bản án cho chính họ bằng cách chế tạo ra cỗ máy quá tốn kém và phức tạp hơn, đồng nghĩa với việc là sản xuất được số lượng ít hơn. Trong giới hạn của mô hình ?otrả lời? cho ?othách thức tank? Xôviết thì người Đức không có cơ hội dù chỉ là là tiệm cận đến chỉ số Xô-viết về sản xuất tăng hàng loạt (số lượng lớn).
    Ngoài ra, việc đưa vào biên chế những lọai xe tank hoàn toàn mới và phức tạp hơn trong điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh sẽ dẫn đến chiếc xe tank mới còn ?osống sượng? hay là ?ochưa chín? với hàng loạt các hỏng hóc, nhược điểm về kỹ thuật mà còn được gọi là ?obệnh trẻ em?, mà để khắc phục chúng cần phải có nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện. (Hầu như tòan bộ 200 tank Pz-V ?oPanther? được đưa ra mặt trận Kursk 1943 đã không đi nổi tới chiến trường! ?" LTD).
    Cuối cùng, còn một hậu quả trực tiếp của nỗ lực các nhà thiết kế Đức trả lời cho ?othách thức T-34? trong giới hạn mô hình trí tuệ của mình. Đó là sự gia tăng khối lượng đáng kể của các mẫu xe tank Đức mới, từ 20-22 tấn tới 40-70 tấn dẫn đến giảm đột ngột khả năng linh động tác chiến và chiến thuật của chúng. Ví dụ điển hình là khoảng cách hành quân cho một lần nạp nhiên liệu (fuel distance) của các mẫu xe tank Đức mới là quá ít- đối với ?oCon Cọp? là 150km theo đường giao thông và 60km theo địa hình không có đường xá, đối với ?oCon Báo? khoảnng cách tương ứng này là 200km và 80km có nghĩa là việc hành quân bằng chính ?oCon Báo?, ?oCon Cọp? rất hạn chế và buộc phải xử dụng đường sắt để vận chuyển (phức tạp và khó khăn hơn nhiều).
    Và Pz-V ?oPanther?, Pz-VI ?oTiger?, thực chất là biến thành phương tiện chống tank, vũ khí chống tank hay là ?oTank- Tiêm kích? khác với Pz-III và Pz-IV được thiết kế như vũ khí tấn công cho công nghệ chiến tranh chớp nhoáng. Khả năng của các xe tank mới này được thể hiện rõ trong các trận chiến của vòng cung Kursk. Phần bọc thép phía trước của ?oPanther? gần như là bất khả xâm phạm đối với hỏa lực tank Xôviết và các loại pháo chống tank, trong khi đó phần vỏ thép bên sườn bị bắn thủng thậm chí là đạn pháo 45 mm.
    Mùa hè năm 1944 tướng chỉ huy tank nổi tiếng của Wertmacht, tướng Heinz Wilhelm Guderian buộc phải phát biểu ?oKhông thể đảm bảo được cho các sư đoàn bộ binh số lượng vũ khí chống tank cần thiết, và buộc phải bù đắp sự thiếu hụt này bằng xe tank. Kết quả là mặc dù sức sản xuất hàng tháng trung bình khoảng 2000 xe bọc thép các loại, chúng (xe tank) vẫn không được xử dụng để thực hiện nhiệm vụ chính ?" triển khai để tấn công giáng đòn quyết định?. Việc gia tăng không ngừng sản xuất số lượng xe tank Xô-viết chỉ ******** hình trên trở nên nghiêm trọng hơn, buộc bộ chỉ huy Đức phải sử dụng nhiều hơn nữa tank cho mục đích phòng thủ chống tank. (Có nghĩa là quân đội Đức không còn có khả năng tổ chức các chiến dịch tấn công nữa ?" LTD)
    Nói một cách khác là câu trả lời cho ?othách thức T-34? trong khuôn khổ mô hình trí tuệ Đức đã dẫn đến việc (Đức) buộc phải từ chối quan niệm sử dụng tank trước kia. Kết quả là quân đội Đức đánh mất cái vũ khí mà đã mang lại chiến thắng hoành tráng cho nước Đức trong thời kỳ 1939-1942.
    Người dịch : Mr. Sơn
    Được danngoc sửa chữa / chuyển vào 07:05 ngày 10/12/2006
  7. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    NHỮNG CÂN NHẮC CẦN THIẾT KHI TIẾN HÀNH SO SÁNH CÁC LOẠI XE TĂNG
    Nhìn chung, trong giới đam mê kỹ thuật quân sự luôn tồn tại sở thích so sánh các loại xe tăng với nhau. Nhất là, chúng ta thường cố gắng tìm cách trả lời những câu hỏi sau:
    ? Loại xe tăng nào là tốt nhất Thế chiến thứ hai?
    ? Xe tăng tốt nhất của Wehrmacht là loại nào?
    ? Ta có nên đưa ra những so sánh tương tự như vậy không?
    ? So sánh các loại xe tăng dựa trên những thông số gì?
    ? Những so sánh như vậy nói chung có hợp lý không?
    Trong phần lớn các trường hợp, người ta không so sánh chính những loại xe tăng, mà chỉ là so sánh những tính năng kỹ thuật và chiến thuật (TTCh ?" the tactical and technical characteristics) đơn thuần. Đôi khi chúng ta cần nhớ rằng những tính năng kỹ chiến thuật của bất kỳ loại phương tiện chiến đấu nào, như người ta thường nói, chỉ có nếu xét trong các điều kiện lý tưởng. Chúng có thể sẽ thay đổi đáng kể trong điều kiện thực tế.
    Chất lượng thường lại không được đề cập tới trong những cuộc tranh cãi nói trên, thay vào đó lại là những lời khẳng định quả quyết, kiểu như ?" ?obộ thiết bị truyền động của loại tăng này là tốt hơn? ?" và thế là chấm hết cuộc tranh cãi. Điều này dường như sẽ gây ra rất nhiều ý kiến bất đồng, dù thường là chẳng ai phản đối cả. Nhưng cái thứ ?otốt hơn? đó là thế nào? Và tốt hơn khi so sánh với cái gì?
    Vậy cơ sở nào cho những khẳng định về các vấn đề như khả năng chống xuyên của vỏ thép? Đó là một quá trình khá phức tạp mà tự nó chỉ nói lên một kết quả mang tính định lượng. Điều đó không giải thích được khả năng tiêu diệt mục tiêu; ví dụ như chuyện xe IS-2 có thể hạ gục xe tăng Panther của Đức từ khoảng cách 1.500 mét. Vâng, điều này là thực tế. Nhưng khả năng này chỉ có thể xảy ra khi nào? Ngoài vấn đề hiển nhiên là khả năng chống xuyên của vỏ thép, vẫn còn hai yếu tố rất quan trọng khác, đó là: khả năng quan sát (kính ngắm) và việc sử dụng kính ngắm của xạ thủ. Làm sao ta so sánh được những yếu tố này?
    Mọi người hay nhìn vào tính năng kỹ chiến thuật của một loại tăng qua chiều dày vỏ thép, nhưng ít ai đi tính tới ảnh hưởng của chất lượng vỏ thép. Loại giáp đó làm bằng gì? Thành phần thép ra sao? Sản xuất theo phương pháp kỹ thuật gì? Điều này chỉ có thể do những người có kiến thức kỹ thuật trình bày, thông qua việc dùng cách diễn đạt toán học để tính độ cứng của thép, sử dụng Bảng tính Brinnel. Độ cứng cũng rất quan trọng, nhưng vẫn còn lâu mới đủ! Còn độ gìon thì để đâu? Thép có thể rất cứng, nhưng đồng thời lại lại giòn. Trong thực tế, điều này đã xảy ra với vỏ thép Đức trong thời kỳ 1944-45. Tất cả những yếu tố này hiện vẫn còn bị giấu kín, trong khi thực tế khả năng chịu đựng của vỏ thép lại phụ thuộc vào chất lượng của nó. Lấy ví dụ, vỏ thép rèn của xe Ferdinand có khả năng chịu đạn xuyên tốt hơn nhiều so với vỏ thép cán của tăng Panther.
    Những bình luận tương tự trên có thể thực hiện với những vấn đề liên quan tới đạn pháo tăng, mà thường chuyện này hay bị bỏ qua. Thường người ta quan tâm tới cỡ đạn (caliber), trọng lượng đạn, vận tốc bắn khỏi nòng của một viên đạn cá biệt. Những thông tin đó vẫn còn lâu mới gọi là đủ! Trước tiên, phải xem đó là loại đạn gì: xuyên thép (armor-piercing), xuyên thép đầu nhọn (sub-caliber), v.v.? Và vẫn còn nhiều yếu tố khó xác định khác. Lấy ví dụ, đầu đạn đó có nhồi HE không (APHE) hay chỉ là đầu đạn đặc? Trong vài trường hợp điều này mang tính quyết định, lấy ví dụ như trường hợp vỏ thép ?orỗng? của Đức sử dụng trong một số tăng Pz-III đời cuối. Một lớp vỏ thép dày 20mm được lắp phía trước vỏ thép trước dày 50mm với một lớp khoảng trống ở giữa. Khi một viên đạn APHE bắn trúng vỏ thép loại này, kíp nổ sẽ phát nổ khi chạm với lớp thép 20mm đầu tiên, sẽ làm đầu đạn nổ sớm. Kết quả là vỏ thép chính không hề hấn gì. Lấy ví dụ đại bác dã chiến A-19 122 mm, mà sau này được trang bị cho tăng IS-2 và pháo tự hành tấn công ISU-122, chỉ bắn đạn khoan phá thép (APHE). Với kết quả nêu trên, tăng Pz-III không thể bị hạ với một phát bắn thẳng phía trước thậm chí ngay cả khi dùng pháo 122 mm, trong khi loại tăng nổi tiếng Panther có thể bị xuyên thủng hoàn toàn thậm chí từ khoảng cách 1,000 mét.
    Tương tự như vậy, có sự khác biệt rất lớn giữa hai loại: đạn đầu tù và đạn đầu nhọn. Hiệu ứng "normalization" (tạm dịch: hiệu ứng hiệu chỉnh đường đi của đạn ?" LTD) cho phép đạn đầu tù (chính xác hơn là loại đạn có đầu nhọn bọc một lớp kim loại mềm tạo đầu tù - APCBC) để cho phép tăng khả năng xuyên giáp nghiêng so với đạn đầu nhọn thông thường. Một lần nữa vấn đề quay về chất lượng sản xuất. Xin lấy ví dụ, có một trường hợp phổ biến xuất hiện trong nửa đầu chiến tranh liên quan tới loại pháo chống tăng 45mm của Liên Xô. Theo lý thuyết, đạn của pháo 45 mm phải xuyên được vỏ thép xe tăng Pz-III của Đức, nhưng trong thực chuyện này lại thường không xảy ra. Các thử nghiệm đã được tiến hành để xác định nguyên nhân sai lầm. Thử nghiệm cho thấy trong quá trình sản xuất viên đạn đã bị tăng nhiệt thêm lần thứ hai, gây ra việc làm giảm khả năng xuyên thép (đạn không xuyên qua vỏ thép mà vỡ thành từng mảnh).
    Đọc thêm về hiệu ứng ?onormalization? trong bài dịch của huyphuc_81
    Bây giờ ta đã thấy rằng việc so sánh hai loại xe tăng là hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản như nhiều người vẫn nghĩ. Khái niệm ?obest tank? ?" ?oloại xe tăng tốt nhất? có nghĩa thế nào? Ngày nay rất nhiều người vẫn tin rằng tăng King Tiger của Đức là the best tank. Hãy thử chấp nhận điều này, và đồng thời chấp nhận rằng người Đức (thời WW2 ?" LTD) không phải là ngốc ngếch (và họ còn sản xuất loại ?otăng tốt nhất thế giới? nữa chứ nhỉ? - how else could they have produced the "best tank in the world"?). Thế rồi ta sẽ phải tự hỏi, tại sao người Đức, những người mà ta đã đồng ý rằng không hề ngốch nghếch, lại không ngừng sản xuất tất cả những loại tăng khác và dành tất cả nguồn lực của họ cho việc sản xuất loại ?otăng tốt nhất thế giới?? Câu trả lời là loại tăng ấy sản xuất vô cùng tốn kém. Và bây giờ ta đã phát hiện ra nhược điểm đầu tiên của nó, và đó không phải vấn đề về nhược điểm của xe, về quá trình thiết kế hay điều kiện kinh tế. Chiếc tăng đó quá đắt để sản xuất trong điều kiện nhất định. Sự đơn giản hoá và hiệu quả trong sản xuất là những yếu tố quyết định: lịch sử đã xác nhận điều này. Lịch sử cho thấy rằng ?osố lượng? có tính quyết định, tốt hơn là có 5 chiếc T-34 hay Sherman thay vì chỉ có một chiếc Panther. (Theo riêng tôi, điều này chỉ đúng trong chiến tranh tổng lực, điều kiện của Đại chiến Thế giới. Tức không áp dụng trong chiến tranh cục bộ như tình hình thế giới hiện nay. ?" LTD)
    Cũng có thể nói rằng một yếu tố quyết định nữa là độ tin cậy và khả năng có thể sửa chữa mau chóng chiếc tăng, tức khả năng sửa một chiếc tăng bị bắn hỏng mà không cần chuyển nó về nhà máy. Xét về khía cạnh này, các tăng Đức Panther, Tiger và King Tiger rất kém, theo lời xác nhận của rất nhiều kỹ sư Đức. Thiết kế của tăng Liên Xô T-34 cho phép sửa chữa dễ dàng đặc biệt (ngoài chiến trường). Có rất nhiều trường hợp được xác nhận rằng một chiếc tăng T-34 bị hư được kéo về trạm sửa chữa dã chiến và vài giờ sau đã quay lại chiến đấu. (Quân Đức cho là chiếc tăng đó đã bị phá huỷ hoàn toàn, và anh chàng Wittmans huênh hoang đã đưa nó vào bảng thành tích của mình! Đấy lại là một nguồn truyện huyền thoại nữa)
    Thực ra việc tiêu chuẩn hóa có ý nghĩa đặc biệt đáng kể. Một lượng vô cùng lớn những loại xe thiết giáp khác nhau đã được tạo ra trên khung loại xe T-34. Nhưng thế vẫn chưa hết. Việc chuẩn hoá về cơ bản giúp dễ dàng sửa chữa xe tăng, dễ huấn luyện kỹ thuật viên sửa chữa, thợ lái và cả tổ lái nói chung. Người Đức cũng có loại "T-34" của riêng họ, loại tăng Đức Pz-III, từ bộ khung của nó cũng có thể tạo ra rất nhiều loại xe khác. Các chuyên gia Xôviết đánh giá rất cao chiếc tăng này và đã rất ngạc nhiên khi thấy về cuối chiến tranh người Đức đã hoàn toàn loại bỏ nó để lo xây dựng những quái vật kỳ quặc như King Tiger, Maus và nhiều thiết kế khác nữa. Trong khi đó điều này là hiển nhiên: độ tiêu chuẩn hóa và khả năng tận dụng cao của khung xe ưu việt của Pz-III.
    Xin lưu ý các bạn là người Nga đã đặt khẩu chống tăng 76mm trên khung Pz-III chiến lợi phẩm và tạo ra loại SU-76 (theo hồi ức của Rem Ulanov) ?" LTD)
    Nhiều người cố gắng lý giải tính ưu việt của một loại tăng này hơn loại tăng khác bằng cách đặt chúng vào những ?ođiều kiện lý tưởng?, tức những điều kiện mà trong đó những chiếc tăng kia đã và sẽ không bao giờ được chiến đấu. Lấy ví dụ, trên một sân chơi bằng phẳng, tựa như các hiệp sĩ Trung cổ đâm nhau trên đấu trường. Nếu tăng được thử theo cách đó thì khả năng cơ động, độ tin cậy và khả năng vượt địa hình sẽ chẳng còn cần thiết nữa! Cần gì phải quan tâm tới tới chúng? Cứ làm vỏ thèp dày lên, pháo mạnh hơn và thế là thành công chắc chắn! Tại sao các kỹ sư của mọi phe đều phải thử những loại xe mới trên điều kiện chiến trường thực tế? Tại sao độ tin cậy của từng bộ phận riêng biệt và của toàn xe đều phải bị quan sát theo dõi chăm chú đến vậy? Thêm vào đó, đa số đều quên rằng một số tăng được thiết kế chung không phải để đấu với các tăng khác mà, như ta thường nói, để xông vào các cứ điểm hay để hỗ trợ bộ binh tấn công.
    Một hiểu lầm phổ biến nữa liên quan tới cố gắng so sánh hai loại tăng bằng cách sử dụng thống kê thiệt hại của từng loại trong các chiến dịch khác nhau. Thiêt hại chung của những kiểu tăng riêng biệt được đem ra xác định và và tiếp theo là tính xem số lượng tăng nào là ít hơn. Điều này cơ bản là không đáng tin cậy, do nguyên nhân thiệt hại thường là không rõ ràng. Có thể là chiếc tăng đó chạy vào một bãi mìn hay bị máy bay tiêu diệt. Nhưng chắc chắn nhất là những chiếc tăng đó trở thành nạn nhân của pháo chống tăng. Các thống kê xác nhận điều này, ví dụ có khoảng 80% thiệt hại của thiết giáp Đức ở Kursk và Balaton là do pháo binh Xôviết (thuộc mọi loại: pháo chống tăng, pháo dã chiến, bức kích pháo, pháo phòng không).
    Một chiếc xe tăng là một vật quá đắt nếu để chỉ sử dụng đơn giản là làm phương tiện chống tăng. Trong cả quân đội Xôviết và quân đội Đức, việc diệt tăng đều được giao trước tiên là cho pháo chống tăng, pháo dã chiến và pháo tự hành. Ngược lại, tăng được chỉ thị tránh đối đầu trực tiếp để tránh những thiệt hại không hợp lý. Người ta được khuyên là chỉ hoạt động từ những vị trí được che chắn và từ vị trí phục kích được nguỵ trang, và chỉ trong giai đoạn cuối chiến tranh thì quân Đức, khi đã gần thua trận, mới thay đổi chiến thuật của họ. Điều đó không hề giúp ích mà chỉ làm tăng thiệt hại của họ. Những công trình sư Đức và Xôviết, giống như công trình sư của các quốc gia khác, so sánh xe tăng không phải để xác định ?oloại tốt nhất trong những loại tốt nhất?, mà để tìm ra ưu nhược điểm của chúng và hiểu được đối phương có các khả năng hiển hiện và khả năng tiềm tàng nào. Việc so sánh như vậy sẽ hữu ích cho việc thiết kế và sản xuất xe tăng của quân nhà. Còn mục đích của các cuộc tranh cãi bất tận của đám amatơ, những kẻ mà hầu hết trong số đó chưa bao giờ phải chui vào trong một chiếc xe tăng, và nhiều kẻ trong số đó chưa một lần trông thấy một chiếc tăng đang xông tới gần, là gì?
    Tác giả: Valeriy Potapov
    Dịch từ Nga sang Anh: James F. Gebhardt
    Hiệu đính bản tiếng Anh: Chris Amundson
    Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

  8. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Thế hệ thiết giáp Xô-viết mới đối chọi với tăng Tiger


    Tác giả: Dmitry Pyatakhin
    Hiệu đính: Joe Koss & George Parada
    Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
    Nguồn: www.achtungpanzer.com

    Lần xuất hiện đầu tiên của tăng Tiger tại mặt trận phía Đông không thành công. Những chiếc Tigers đầu tiên được chuyển cho Trung đội 1 của Tiểu đoàn tăng nặng 502 (Schwere Panzer Abteilung 502). Ngày 29 tháng Tám năm 1942, bốn chiếc Tigers đã tới nhà ga M. ở gần khu vực Leningrad. Mờ sáng cùng ngày, những tăng này được xuống tàu và chuẩn bị để sẵn sàng chiến đấu. Tới 11:00 sáng, những chiếc Tiger tiến vào vị trí chiến đấu. Thiếu tá Richard Merker chỉ huy trung đội, bao gồm bốn Tigers, sáu PzKpfw III Ausf. L và J, hai đại đội bộ binh và nhiều xe tải thuộc đội hỗ trợ kỹ thuật. Một đại diện của công ty Henshel, Hans Franke, đi theo đơn vị này trong một chiếc VW Kubelwagen ngay sau chiếc Tiger đi đầu. Sau trận tấn công, một sai lầm khi cố sử dụng xe tăng nặng Tiger trên địa hình đất yếu đã xảy ra, do khả năng cơ động của chúng bị cản trở.
    Bộ binh Nga rút lui, pháo binh của họ trút đạn như mưa để yểm trợ bộ binh. Đơn vị của thiếu tá Merker, chia thành hai nhóm, bắt đầu tấn công dọc hai con đường song song nhau. Ngay lập tức họ đã phải bỏ lại một chiếc Tiger vì lỗi ở bộ truyền động. Chiếc thứ hai bị bỏ lại vài phút sau vì vì hư hỏng ở động cơ. Mặc cho đạn của lính Nga bắn, viên đại diện của Henschel cố gắng kiểm tra chiếc tăng, nhưng ngay sau đó Merker lái chiếc Tiger của mình đi ngang qua và báo rằng chiếc tăng thứ ba đã bất động do bộ phận lái bị hỏng. Trong đêm, cả ba chiếc Tigers bị hỏng đều được chuyển đi nhờ sử dụng những xe kéo xích Sd Kfz 9 ?" cứ ba chiếc kéo một tăng. May cho người Đức là quân Nga không thể làm bất cứ chuyện gì để chiếm lấy những chiếc tăng đã bất động. Sau khi kiểm tra, các bộ phận dự trữ cho mấy chiếc Tiger được chuyển tới bằng máy bay từ xưởng của công ty Henshel đặt tại Kassel và tới 15 tháng Chín tất cả bốn chiếc Tiger đều được sửa xong và sẵn sàng chiến đấu.
    Trận chiến thứ hai của những xe Tiger cũng không thành công hơn lần đầu. Ngày 22 tháng Chín, cả bốn chiếc Tigers, đi kèm là những chiếc tăng nhẹ PzKpfw III, hỗ trợ Sư đoàn bộ binh 170 tấn công Tập đoàn quân Xôviết số 2. Mặt đất rất xấu, đất quá mềm sau những cơn mưa, và Thiếu tá Merker đã phản đối việc dùng xe Tigers trong chiến dịch này. Sau một mệnh lệnh trực tiếp từ Hitler, những xe Tigers tiến vào trận đánh. Ngay sau khi trận chiến bắt đầu, chiếc Tiger đầu tiên bị trúng một phát đạn bắn thẳng vào giáp trước. Viên đạn không xuyên qua, nhưng động cơ bị chết và không có đủ thời gian để khởi động lại. Tổ lái rời bỏ chiếc Tiger và ném lựu đạn vào bên trong xe. Ba chiếc Tiger còn lại tới được chiến hào quân Nga nhưng ngay lập tức bị phá huỷ do đạn pháo Nga bắn chéo sườn khi chúng bị mất cơ động trên mặt đất ướt. Sau đó, ba chiếc Tiger đã được sơ tán, và các công binh Đức phá huỷ chiếc thứ tư để ngăn nó bị chiếm mất.
    Tướng xe tăng Guderian: "Đó không chỉ là thiệt hại nặng mà còn đánh mất tính bí mật và chủ động trong tương lai?.
    Tăng Tigers đã thành công trong trận đánh thứ ba. Ngày 12 tháng Giêng 1943, tiểu đoàn 502 yểm trợ Sư đoàn bộ binh 96 chống lại cuộc tấn công của xe tăng Nga. Bốn chiếc Tiger tiêu diệt 12 tăng Nga T-34/76 và số tăng Nga còn lại bị buộc phải rút chạy.
    Ngày 16 tháng Giêng 1943, quân Nga bắt sống được chiếc Tiger đầu tiên trong một cuộc tấn công của quân Đức diễn ra gần Shlisselburg thuộc mặt trận Leningrad. Chiếc tăng bị chiếm lập tức được chuyển về Bãi thử Kubinka và được kiểm tra bởi các công trình sư Xôviết. Tăng Tiger không còn là thứ vũ khí bí mật nữa.
    Đầu năm 1943, Hồng quân không có thứ vũ khí nào sánh được với hỏa lực của khẩu pháo 8.8cm KwK 36 L/56 của tăng Tiger hoặc có vỏ thép dày bằng. Để đánh cận chiến, bộ binh Hồng quân sử dụng loại súng chống tăng PTRD-41 và PTRS-41 với nòng dài 1,2 mét, bắn đạn chống tăng lõi tungsten. Loại vũ khí này không thể hạ được Tiger, nhưng mặt khác có thể phá huỷ thiết bị quan sát hoặc làm đứt xích xe. Tuy nhiên, nó trở nên vô ích khi chống lại xe tăng hạng nặng của Đức, và về sau bộ binh Xôviết đành sử dụng súng chống tăng Panzerfaust chiếm được của Đức.
    Pháo trở thành thứ vũ khí chủ yếu của Hồng quân. Không phải loại pháo nào của Nga cũng bắn thủng được vỏ thép xe Tiger, nhưng bắn tập trung hỏa lực của tất cả pháo binh có trong tay vào xe tăng có thể làm hư hỏng nặng chúng, thậm chí có thể làm chết động cơ hoặc gây nổ khoang chứa đạn. Pháo 76.2mm ZIS-3, bắn đạn chống tăng, có thể xuyên thủng giáp hông của Tiger từ cách 300-400 mét hay làm hỏng hộp số, nhưng không thể bắn thủng giáp phía trước xe. Do cơ động kém, xe Tiger dễ trở thành mục tiêu của pháo chống tăng phục kích phòng thủ. Chỉ có pháo phòng không 85mm và đặc biệt là đại bác 122mm A-19 là có thể tiêu diệt Tiger ở tầm xa hơn. Cho tới cuối cuộc chiến, Liên Xô đã chế tạo rất nhiều kiểu pháo chống tăng, lên tới cỡ 100mm đường kính nòng.
    Otto Carius: "Thậm chí ngay quân Mỹ, đối thủ mà tôi biết rất rõ sau này trên Mặt trận phía Tây, cũng không thể sánh được với quân Nga. Bọn Ivan bắn vào vị trí chúng tôi bằng tất cả mọi loại pháo, từ súng cối hạng nhẹ cho tới đại bác hạng nặng. Chúng tôi không thể nào chạy ra khỏi hầm trú ẩn để kiểm tra xe Tiger của mình được. Không có gì lạ là quân Nga đã dễ dàng phá vỡ phòng tuyến chúng tôi sau những đợt pháo kích dữ dội như vậy?.
    Otto Carius: "Việc tiêu diệt một khẩu pháo chống tăng thường làm tốn mất một vài xe tăng của ta, bởi chúng rất nhỏ, ngụy trang khéo và chủ động phục kích chờ xe tăng đi qua. Thường thì chúng (pháo chống tăng Nga) là kẻ bắn trước. Nếu tổ pháo thủ có kinh nghiệm, chúng có thể hạ gục được chiếc Tiger. Nếu chúng không tiêu diệt được tăng của anh bằng phát đạn đầu tiên thì anh cũng không có nhiều thời gian để phản ứng trước khi anh phải lãnh phát đạn thứ hai?.
    Michael Wittmann: "Khẩu pháo chống tăng khó bị phát hiện hơn xe tăng [địch]. Khẩu pháo có thể bắn rất nhiều phát trước khi tôi xác định được nó?.
    Pháo binh dã chiến của Hồng quân hỗ trợ hỏa lực chống tăng chính cho bộ binh. Khi chiếc Tiger I đầu tiên xuất hiện tại Mặt trận phía Đông, Hồng quân đang có trong tay loại tăng T-34/76 và rất nhiều kiểu phiên bản của KV-1. Cho tới mùa thu 1943, Hồng quân chỉ có hai kiểu pháo tự hành: chiếc SU-122 pháo tự hành hạng trung và SU-76 pháo tự hành hạng nhẹ. Cả hai loại này đều không hiệu quả khi chống lại tăng Tiger trong khoảng cách trên 500 mét. Tăng Tiger chiếm ưu thế lớn từ tầm xa. Trong trận đấu tăng nổi tiếng gần Prokhorovka, các chỉ huy Xôviết cố gắng khai thác ưu thế cơ động cao của tăng T-34 và pháo tự hành bằng cách áp sát và bắn vào giáp hông của của Tiger. Kết quả của trận đánh là các xe tăng loại mới của Đức trở thành tương đương với xe tăng kiểu cũ của Xôviết nhờ sự lựa chọn nhận định chính xác trên chiến trường. Đó là tài năng thao lược sáng giá của Đại tướng Rotmistrov và Trung tướng Zhadov. Trận đánh kết thúc với thiệt hại hai bên ngang nhau, nhưng phía Xôviết giữ được nhiều xe tăng hơn trong đội hình dự bị để phản công, trong khi quân Đức không thể tiếp tục đợt tấn công của mình.
    Tháng Hai năm 1944, tăng T-34 được gắn khẩu pháo nòng dài loại mới S-53 85mm và tới giữa năm 1944 là pháo ZIS-S-53 85mm. Loại pháo mới này có thể bắn thủng giáp hông của Tiger I từ khoảng cách 800 mét và vỏ hông tháp pháo từ khoảng cách 600 mét. Như thế vẫn chưa đủ - vẫn như trước, tăng Tiger có thể tiêu diệt T-34 từ khoảng cách 1500 cho tới 2000 mét. Pháo phòng không 85mm chỉ là loại pháo phòng không đơn thuần không có cải tiến gì đặc biệt. Khẩu S-53 là bản thiết kế cải tiến do Viện Thiết kế F. F. Petrov thiết kế được gắn trên tháp pháo của T-34-85. Khẩu ZiS-S-53 là phiên bản của S-53 do Viện thiết kế Grabin thiết kế nhằm đơn giản hóa khẩu pháo và giảm giá thành sản xuất, trong khi đạn đạo của cả hai khẩu tương tự nhau.

    Từ đầu năm 1943 cho tới giữa 1944, đối thủ chính của chiếc Tiger tại Mặt trận phía Đông là khẩu pháo tự hành dựa trên phần khung xe T-34 và KV-1. Khi nhận ra rằng kiểu pháo tự hành SU-76 và SU-122 hiện có không thể bắn thủng giáp của Tiger từ khoảng cách trên 1,000 mét, Liên Xô quyết định thiết kế kiểu pháo tự hành mới, SU-85, trang bị một mô phỏng của khẩu pháo phòng không 85mm. Sản lượng SU-122 bị ngưng và SU-85 thế vào chỗ của nó. Sau đó nó được nối tiếp bằng khẩu pháo tự hành hạng trung SU-100. Tới giữa năm 1943, khẩu pháo tự hành hạng nặng SU-152 xuất hiện trên chiến trường. Nó dựa theo chiếc tăng nặng KV-1 và gắn khẩu đại bác 152mm. Nó được đặt biệt hiệu là Zveroboi (Người giết thú). Tới cuối năm 1943, một loại pháo tự hành mới, chiếc ISU-152, dựa trên loại tăng hạng nặng IS-2 được đưa vào sản xuất. Nó trang bị một kiểu đại bác 152mm rất mạnh. Phát đạn từ khẩu pháo này có thể xuyên qua bất cứ bộ phận nào trên vỏ thép xe Tiger và thậm chí có thể bắn tung tháp pháo khỏi thân xe. Khẩu pháo tự hành này có biệt hiệu là "Người Săn thú". Trọng lượng viên đạn xuyên thép AP của nó là 48kg, trong khi đạn phá HE là 41kg. (Xin xem lại hồi ức của Dmitri Loza - LTD)
    Otto Carius: "Viên đạn xé tan phần bên phải của vòm tháp chỉ huy của xe tăng. Tôi không bị đứt đầu chỉ nhờ đã cúi người xuống để châm lửa điếu thuốc lá trên môi. Đột nhiên khẩu pháo tự hành Nga xuất hiện và tôi ra lệnh cho người pháo thủ khai hỏa. Kramer bắn, và phát đạn thứ hai, bắn từ một khẩu pháo tự hành khác, đập trúng vào tháp pháo. Tôi không thể nhớ bằng cách nào mình đã thoát khỏi chiếc Tiger nữa. Chiếc tai nghe là vật duy nhất tôi còn lại được từ chiếc Tiger đã bị phá huỷ của mình?.
    Khai thác tối đa khả năng của pháo tự hành, Hồng quân chiến đấu để giành lấy thời gian cần thiết cho việc phát triển một loại tăng mới sánh được với chiếc Tiger. Tới cuối năm 1943, chiếc tăng mới IS-1 được thiết kế và Hồng quân nhận được những xe tăng đầu tiên thuộc loại này vào tháng Hai năm 1944. Tiếp theo nó là loại tăng hạng nặng nổi tiếng IS-2. Dòng xe tăng IS (tức Iosif Stalin, do bảng chữ cái Kirin (chữ cái Hy Lạp - LTD) không có ký tự ?oJ?, phương Tây phiên thành Joseph Stalin) có tiết diện ngang thấp hơn chiếc Tiger và Sherman. Tháp pháo và giáp trước dày tới 100mm. Giáp hông dày 75mm. Loại tăng này trang bị khẩu pháo đầy uy lực 122mm D25T có nòng dài năm mét. Tăng IS có một ưu thế vượt trội so với Tiger do giáp trước thiết kế với độ nghiêng lớn. Với loại tăng này, Hồng quân cuối cùng đã có loại thiết giáp tốt hơn hẳn xe Tiger I và ngang bằng xe King Tiger (Tiger II) trên rất nhiều phương diện. Tháng Ba năm 1944, những chiếc IS-2 đầu tiên được thử nghiệm trong thực tế và đã chứng tỏ sức mạnh của mình. Hơn 3,000 xe tăng IS-2 được sản xuất cho tới cuối chiến tranh. Theo ý kiến của Hasso von Manteuffel, lính tăng Át của quân Đức, đây là loại xe tăng tốt nhất trong Thế chiến II.
    Trong chiến tranh, Liên Xô sản xuất được hơn 125,000 xe tăng và thiết giáp. Nước Đức sản xuất được 89,000 chiếc và chỉ có 2,000 trong số đó là Tigers và King Tigers. Không có cơ hội nào cho nước Đức để giành chiến thắng trước sức mạnh của Hồng quân trong cuộc chiến tại Mặt trận phía Đông.

    Nguồn:
    H. Guderian: "Memories of a Soldier", Moscow Voenizdat 1962;
    F. Mellenthin: "Panzer Battles 1939-1945", Moscow, AST 1998;
    E. Middeldorf: "Russian Campaign Tactics and Weapons", Moscow, AST 1999;
    D. Crow: "Armored Fighting Vehicles of Germany", Chancellor Press, London 1973;
    J. Ledwoch: "Tiger", Wydawnictwo Militaria, Warsaw;
    B. Culver: "Tiger in Action", Squadron Publication, London 1980;
    M. Svirin: "IS Tanks", Moscow, Armada 1998;
    Dịch từ bản tiếng Anh: Lý Thế Dân
  9. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    OMSBON ?" Lữ đoàn môtô hóa đặc nhiệm độc lập
    Đêm ngày 30 tháng Bảy năm 1943, cư dân thị trấn Osipovichi bị đánh thức bởi một tiếng nổ mạnh khác thường, liền ngay sau đó là vụ nổ thứ hai. Những thùng chứa nhiên liệu lỏng bốc cháy và bùng nổ giữa nhà ga đường sắt. Những lưỡi lửa lan nhanh sang đoàn tàu gần đó đang chở tăng Tiger và bom cho máy bay. Một cơn bão lửa khủng khiếp thổi tung những thùng nhiên liệu và bom đạn lên trời. Ngọn lửa lan qua nhà ga và trong khoảng khắc nó chỉ còn là những bức tường đen xạm. Hốt hoảng, bọn phát xít tưởng nhầm rằng đó là một đợt không kích và báo cáo về Berlin rằng quân Nga đang ném bom dữ dội nhà ga. Chỉ sau đấy quân Đức mới xác định đươc là nhà ga cùng đoàn tàu chở xe tăng, kho xăng dầu và bom máy bay đã bị phá hủy do có phá hoại. Thiệt hại này đối với bọn chỉ huy Quốc xã trở nên càng nặng nề vào thời điểm đó, bởi đang trong thời gian diễn ra những trận đánh lớn tại vòng cung Kursk. Chiến dịch này dẫn tới một kết quả khác không ngờ trước: vào đêm xảy ra vụ nổ, lực lượng canh gác của một trại tập trung gần Osipovichi hoảng sợ bỏ chạy khi nghe tiếng bom nổ, và các tù binh ?" người Nga, người Belorussia, Ba Lan, Hungary và Bulgary ?" nhận thấy mình được tự do, họ liền nhập với đội du kích. Đấy mới chỉ là một trong vô số những hoạt động tài tình của các chiến sĩ của Lữ đoàn xạ thủ môtô hóa đặc nhiệm độc lập (Otdel''''naya Motostrel''''kovaya Brigada Osobogo Naznacheniya- OMSBON) thuộc NKVD, một lực lượng đặc biệt của Quân đội Xôviết, góp phần trong chiến thắng nước Đức phát xít. Những tác phẩm văn học ngày nay viết về OMSBON và các thành viên của nó, theo một quy định, ca ngợi những chiến công của một đơn vị hay một nhóm đặc nhiệm cụ thể, hoặc về một trong những chến sĩ của lữ đoàn. Để xác định ngày tháng, vẫn chưa có một cuộc nghiên cứu khảo sát hoàn chỉnh đầy đủ về điều này. Bài viết dưới đây chỉ là một nỗ lực nhỏ để tóm lược lịch sử của lữ đoàn.
    (còn tiếp)
    Được danngoc sửa chữa / chuyển vào 22:04 ngày 14/12/2006
  10. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Ngày 29 tháng Sáu năm 1941, Ủy Ban Trung Ương Đảng và Sovnarkom (Hội đồng Dân ủy Liên Xô) ban hành một chỉ thị đối với đảng và các tổ chức Xôviết liên quan tới việc phát triển trên khắp đất nước cuộc chiến chống lại quân xâm lược phát xít. Chỉ thị này bao gồm một chương trình tổ chức và tiến hành những hoạt động du kích và bí mật trong vùng bị tạm chiếm. Nhưng sự tổ chức một nhóm đặc biệt của các đơn vị NKVD ưu tiên cho các hoạt động trinh sát và nghi binh trong vùng hậu phương phát xít đã bắt đầu tại Maskva từ ngày 27 tháng Sáu năm 1941. Tháng Chín năm 1941, hai lữ đoàn được thành lập từ các thành viên của nhóm. Những lữ đoàn này về sau được tổ chức thành hai trung đoàn và sau đó hợp nhất thành đơn vị OMSBON. Lữ đoàn hoạt động trong suốt chiến tranh dưới tên gọi này (ngọai trừ thời gian từ mùa thu năm 1943 tới đầu năm 1944, khi nó được gọi tên là Đơn vị đặc nhiệm độc lập [Otdelnyy otryad osobogo naznacheniya]). Lữ đoàn thực hiện những nhiệm vụ như sau: hỗ trợ phát triển họat động du kích quy mô lớn; giúp đỡ các tổ chức đảng họat động bí mật; trinh sát tòan diện; phát hiện các kế họach của bộ chỉ huy phát xít; giúp đỡ Hồng quân bằng mọi biện pháp trinh sát, nghi binh và tham gia chiến đấu; mở rộng họat động phá họai trong hậu phương phát xít; tiến hành các chiến dịch phản gián và các họat động trừng phạt đối với những kẻ hợp tác với bọn Quốc xã hay phản bội Tổ quốc Xôviết.
    (còn tiếp)
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này