1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chính quyền và tôn giáo, lịch sử và hiện tại

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi fddinh, 16/09/2008.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. doandonga

    doandonga Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/09/2008
    Bài viết:
    1.353
    Đã được thích:
    6
    Bác fddinh làm bài tổng hợp từ khi Thiên Chú giáo du nhâph vào VN đê, mình đang thiếu tài liệu về cái giai đoạn "Bình Tây, sát tả"
  2. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1

  3. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Hồi học trường ĐH KHXHNV Hà Nội, tôi có mua được cuốn sách về lịch sử công giáo VN photo (vì sách này ko tái bản), tiếc là có người mượn mà ko trả. Đọc phê lắm,
    Bạn fddinh tập hợp tư liệu, nhớ kiếm ảnh minh hoạ cho sinh động nhé
  4. doandonga

    doandonga Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/09/2008
    Bài viết:
    1.353
    Đã được thích:
    6
    Mời bác doandonga (hay dongadoan nhỉ) xem qua một chút trong khi em tập hợp tài liệu...
    ----------------------------------------------
    Cám ơn bác, tớ xem đây!
  5. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Thể theo yêu cầu của một số bạn, tôi tập hợp một số tài liệu về quan hệ giữa chính quyền Việt Nam (xưa) với Công giáo Tây phương, kể từ khi Công giáo lén lút truyền vào Ninh Cường (nơi chôn rau cắt rốn của tác giả Charlie Nguyễn - mà tôi có đăng một số tác phẩm của ông ở đây) cho đến thời kỳ Bình Tây, Sát Tả mà Công giáo gọi là Thời Kỳ Bách Hại Công Giáo.
    Tài liệu được tổng hợp từ các nguồn Công giáo
    Đầu tiên là một niên biểu rút gọn về lịch sử Công giáo Việt Nam từ năm 1533 đến năm 1954:
    1533.   Theo dã sử, vào tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ I (1533), một người Âu Châu tên Inêkhu (Ignatius ?) lén đến truyền giáo ở làng Ninh Cường, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ thuộc giáo phận Bùi Chu, tỉnh Nam Định ngày nay (Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, q. XXXIII, tập II, tr.301, Viện Sử học, NXB Giáo dục 1998).
    1591.   Lm. Pedro Ordođez de Cevallos ban phép Thánh Tẩy cho công chúa Mai Hoa (Maria Flora). Bà là chị của vua Lê Thế Tông.
    1620.   Lm. Borri truyền giáo tại Nước Mặn, Bình Định. Ngài rất thông thạo toán học, thiên văn học và gặt hái nhiều thành quả truyền giáo; ngài nghiên cứu môi trường xã hội, văn hoá, tôn giáo. Vì thế, năm 1622, khi trở về Âu Châu, ngài đã cho ấn hành tập Ký sự về Trung Việt bằng tiếng Ý, một tài liệu nghiên cứu giá trị về lịch sử Đại Việt thế kỷ XVII.
    1624.   Lm. Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), Girolamo Majorica, Gaspar Luís, Gabriel de Mattos, Melchior Ribeiro và Mathias Machida đến Hải Phố để học tiếng Việt với lm. F. de Pina. Ngài cũng chứng kiến lễ ban phép Thánh Tẩy cho bà Minh Đức Vương Thái Phi (1568-1648), vợ lẽ của chúa Nguyễn Hoàng. Bà mang tên thánh là Maria Madalena.
    1625.   Tháng 12, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên ra sắc chỉ cấm người Công giáo Việt Nam không được mang trên mình hoặc treo trong nhà thánh giá và các ảnh tượng. Lm. F. de Pina bị chết đuối tại Cửa Hàn khi đi thăm các thuỷ thủ Bồ Đào Nha. Đây là một thiệt thòi rất lớn, vì ngài rất thông thạo phong tục và ngôn ngữ Việt Nam.
    1626.   Tháng 3, lm. Giuliano Baldinotti, dòng Tên, đến Đàng Ngoài thăm dò tình hình, rồi trở về Macao. Tháng 7, lm. Đắc Lộ rời Đàng Trong trở về Macao.
    1627.   (19-3) Cha Đắc Lộ tới Cửa Bạng trong đoàn truyền giáo do lm. Pedro Marques dẫn đầu. Ngày 2-7-1627, họ tới Thăng Long và dâng tặng lễ vật lên chúa Trịnh Tráng.
    1628.   Ngày 18-6, Trịnh Tráng ra lệnh cấm người Việt Nam không được tiếp xúc với các thừa sai (Tây Dương đạo trưởng). Lúc này tại Đàng Ngoài (miền Bắc), đã có hơn 1.600 Kitô hữu.
    1629.   Tháng 3, hai lm. Đắc Lộ và Marques bị dẫn độ vào Nam để tìm thuyền trả về Macao. Vì tàu buôn Bồ Đào Nha không đến buôn bán, nên Trịnh Tráng ra lệnh trục xuất các giáo sĩ. Cha Đắc Lộ chọn và huấn luyện Thầy giảng, nhận lời khấn của 3 thầy giảng tiên khởi Việt Nam là: Phanxicô Đức, Inhaxiô Nhuận và Anrê Tri trong thánh lễ tạm biệt.
    1630.   Tháng 4, lm. Đắc Lộ và các thừa sai dòng Tên bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài.

    - Một giáo hữu tên thánh Phanxicô, phu khiêng cáng ở triều đình, bị chém đầu vì tội chôn xác người chết. Ông là chứng nhân đức tin đầu tiên của Đàng Ngoài.
    - 5.000 tín hữu Bắc Việt đệ trình Tâm thư tỏ lòng trung thành với đức tin và với Đức Thánh Cha Urbanus VIII bằng chữ Hán. Cha Đắc Lộ đã chuyển dịch bức thư này sang tiếng La Tinh và năm 1633, được cha Mutio Vitelleschi, bề trên tổng quyền dòng Tên, đệ trình lên Đức Thánh Cha.
    1639.   Miền Bắc đã có 82.000 tín hữu (căn cứ trên hồ sơ Rửa tội). Miền Trung có khoảng 15.000 giáo dân (theo cha Cardim).
    1642.   Lm. Đắc Lộ mạo hiểm trở lại Hải Phố, dâng nhiều tặng phẩm lên chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan, 1638-1648), nên được giữ lại để trình bày về thiên văn cho chúa Thượng ban ngày; ban đêm cha lén đào tạo các thầy giảng. Nhưng không được bao lâu, cha lại bị trục xuất. Trong thánh lễ từ biệt, cha nhận lời khấn giữ luật độc thân phục vụ dân Chúa của hơn 10 thầy giảng.
    1643.   Tất cả các thừa sai đều bị trục xuất.
    1644.   (26-7) Thầy giảng Anrê Phú Yên tử đạo tại Quảng Nam. Thầy là chứng nhân đầu tiên của Đàng Trong. Lm. Đắc Lộ mạo hiểm cứ ở lại miền Trung, bị bắt, cầm tù và sau đó bị trục xuất. Ngài đã hoàn thành các tài liệu về giảng dạy giáo lý và ban các phép bí tích.
    1645.   (3-7) Lm. Đắc Lộ bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam, cha trở về Macao. Ngày 20-12, trên đường về châu Âu, ngài vận động Toà Thánh gửi giám mục sang Việt Nam, ngài đem theo chiếc sọ của thầy giảng Anrê Phú Yên.
    1646.   Lm. Gaspar d?TAmaral từ Macao trở lại Việt Nam với 3 lm.: Pedro Alberto, Ignace Leviski, Francesco Ascanio Ruida. Lúc này miền Bắc đã có 100.000 Kitô hữu.
    1650.   (2-8) Tại Roma, cha Đắc Lộ yết kiến Đức Thánh Cha Innocens X (1644-1655) để trình bày về công cuộc truyền giáo tại Việt Nam và thỉnh cầu Toà Thánh đặt hàng giáo phẩm để công cuộc truyền giáo được tiến triển tốt đẹp. Toà Thánh chấp nhận và chọn ngài lên hàng giám mục, gửi ngài trở lại Việt Nam, nhưng ngài khiêm nhường từ chối.
    1651.   Tại Roma, lm. Đắc Lộ cho xuất bản 3 tác phẩm quốc ngữ đầu tiên, do chính cha biên soạn và nhà xuất bản Đa Ngữ Thánh Bộ Truyền giáo ấn hành:

    - Tự điển Việt Bồ La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, 5-2-1651)
    - Sách văn phạm Việt Nam (Linguae Annamiticae seu Tuchinensis Brevis Declaratio, 5-2-1651).
    - Sách giáo lý song ngữ Phép giảng tám ngày (Cathechismus pro iis qui volunt suscipere Baptismum in octo dies divisus, 2-10-1651).
    1652.   Lm. Đắc Lộ đến Paris, Pháp, vận động hàng giáo sĩ Pháp tình nguyện đi truyền giáo tại Á Đông. Ngài trình bày về công cuộc truyền giáo và ước nguyện của Đức Thánh Cha Innocens X muốn đặt hàng giáo phẩm tại Việt Nam. Một số các giáo sĩ Pháp tình nguyện và Hội Thừa sai Paris bắt đầu manh nha.
    1653.   Vào tháng 7, kiến nghị xin thiết lập các giáo phận tại Việt Nam được gửi tới Toà Thánh.
    1659.   (9-9) Đức Thánh Cha Alexander XII ban sắc lệnh thiết lập 2 giáo phận truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam:

    - Giáo phận Đàng Trong: từ sông Gianh trở vào Nam bao gồm Chiêm Thành và Cao Miên (Cambodia) do Đức giám mục Pierre Lambert de la Motte làm đại diện tông toà.
    - Giáo phận Đàng Ngoài: từ sông Gianh trở ra Bắc và miền Nam Trung Hoa do Đức cha François Pallu cai quản.
    Tài liệu: ?oLịch sử Nước Annam? được viết tay do thầy giảng Bentô Thiện biên soạn, gồm 12 trang khổ 20x29cm. Đây là một tài liệu quý giá về chữ quốc ngữ do chính người Việt sáng tác vào thời phôi thai, minh chứng sự đóng góp to lớn của người Việt với các giáo sĩ Âu Châu trong việc hình thành chữ quốc ngữ. Tài liệu này hiện được lưu trữ tại văn khố dòng Tên ở Roma.
    - Ngày 10-11, thành lập Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, một hội giáo sĩ thuộc quyền giáo hoàng, không có lời khấn, không có đặc ân miễn trừ.
    1660.   Lm. Đắc Lộ đã thành công, nhưng giấc mơ trở lại Việt Nam của ngài bất thành. Cuối năm 1654, cha được sai đi truyền giáo tại Ba Tư và đã an nghỉ vĩnh viễn tại Ispahan ngày 5-11-1660. Ngài là một nhà truyền giáo, nhà văn hoá, ngôn ngữ học và có công đầu trong việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ của người Việt Nam.
    1663.   (12-11) Những thừa sai dòng Tên cuối cùng bị trục xuất, chấm dứt thời kỳ khai phá của dòng Tên tại Đàng Ngoài. Trong đó có thừa sai Joseph Tissanier là người có công đã ghi chép về công cuộc truyền giáo của dòng ở Đàng Ngoài.
    1665.   Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) duy trì lệnh cấm đạo.

    Chỉ còn 3 giáo sĩ dòng Tên: Domenico Fuciti tại triều đình (Thuận Hoá), Pedro Marques tại Hải Phố và F. Ignace Baudet tại Cửa Hàn. Nhưng tháng 2, tất cả các thừa sai dòng Tên bị trục xuất khỏi Đàng Trong, chấm dứt thời kỳ khai phá của dòng Tên ở đây. Tháng 3, cha Chevreuil cũng phải lên tàu về Macao. Tháng 8, linh mục tổng đại diện của Giám mục Lambert de la Motte tới Đàng Trong, bắt đầu thời kỳ của các đại diện tông toà.
    1675.   Giám mục Lambert de la Motte thăm giáo phận Đàng Trong lần II, ban phép Thêm sức cho 10.000 tín hữu; tình hình bắt đạo nghiêm trọng. Ngài để lại 3 giáo sĩ: lm. Bénigne Vachet tại Thuận Hoá, lm. Jean de Courtaulin ở Quảng Ngãi và lm. Gabriel Bouchard tại miền Nam Trung Việt. Ngài trở về Thái Lan và mất tại đây năm 1679, thọ 55 tuổi.
    1685.   Hai giám mục rời Phố Hiến đến sống tại Thăng Long. Chúa Trịnh Căn (1682-1707) không gây trở ngại cho việc truyền giáo của các ngài, vì chúa đã nhận tặng vật của vua Pháp Louis XIV.
    1691.   Chúa Ngãi băng hà. Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) nối nghiệp, áp dụng chính sách cấm đạo.
  6. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1

    1704.   Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) đình chỉ việc cấm đạo vì quý mến một giáo sĩ dòng Tên Tây Ban Nha, lm. Juan Antonio Arnedo, ngài là nhà thiên văn giỏi và là thầy thuốc riêng của chúa tại kinh đô.

    1712.   Các thừa sai Pháp, với tư cách là các thương gia đại diện Công ty Đông Ấn Pháp ở Phố Hiến, bị trục xuất.
    1723.   Ở giáo phận Tây Đàng Ngoài, hai linh mục dòng Tên người Ý Johann Baptist Messari và F.M. Buccharelli bị bắt: lm. Messari chết trong tù (23-6-1723) và lm. Buccharelli bị chém đầu (11-10-1723). Đây là hai linh mục thừa sai ngoại quốc đầu tiên bị hành quyết ở Việt Nam.
    1724.   Dưới thời chúa Minh, Giáo hội Đàng Trong được tạm thời bình an. Giáo phận có khoảng 300 nhà thờ với hơn 70.000 tín hữu. Riêng kinh đô Phú Xuân có 29 thừa sai ngoại quốc: 12 cha dòng Tên, 9 cha dòng Phanxicô, 6 thừa sai Pháp và 2 thừa sai Ý. Giáo phận còn có hơn 200 thầy giảng hoạt động hăng say trong cánh đồng truyền giáo.
    1737.   (12-1) Thêm bốn linh mục dòng Tên bị hành quyết, tại Đồng Mơ, ngoại thành Thăng Long: cha E. d?TAbreu, Bart. Alvarez, Vicenté da Cunha (người Bồ Đào Nha) và cha Gaspar Cratz (người Đức).
    1745.   (22-1) Hai thừa sai dòng Đa Minh người Tây Ban Nha tử đạo: Francesco Gil de Federich Tế và Matteo Alonso Liciniana Đậu bị xử trảm thời Trịnh Doanh.
    1748.   Khi chúa Trịnh Sâm đi xem các chiến lợi phẩm, gặp chữ Hà Lan trên một ống súng, nhà chúa ra lệnh đi tìm các giáo sĩ ngoại quốc để giải nghĩa cho chúa. Giáo sĩ dòng Tên Wenzel Paleczeck Đẩu (người Đức) hiểu tiếng. Lúc này, cha đang còn đang lẩn trốn trên đất Bắc, được tìm thấy, đã đọc và cắt nghĩa cho chúa Trịnh. Nhà chúa hiểu và hài lòng nên ra lệnh đình chỉ việc cấm đạo.
    1750.   (27-8) Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1750) trục xuất tất cả các thừa sai ngoại quốc ra khỏi Đàng Trong, chỉ trừ một hai tu sĩ dòng Tên được phép ở lại phục vụ trong triều đình.
    1773.   (7-11) Hai giáo sĩ: Jacinto Casteđada Gia (Tây Ban Nha) và Vinh Sơn Lê Quang Liêm bị xử trảm theo lệnh chúa Trịnh Sâm.
    1777.   Anh em nhà Tây Sơn chống chúa Nguyễn vì đại thần Trương Phúc Loan tại kinh đô Phú Xuân lạm quyền và tàn ác. Ông Loan đã đổi di chiếu, lập con thứ 16 của chúa Võ Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) là chúa Định Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) mới 12 tuổi lên nối ngôi, để dễ bề chuyên quyền. Ông bắt giam Hiếu Khương Vương, con thứ 2 của chúa Võ, theo di chiếu sẽ lên nối ngôi. Hiếu Khương Vương đã chết trong tù, để lại hai người con là Nguyễn Phúc Đống và Nguyễn Ánh.

    Nguyễn Ánh chạy trốn vào Nam, chiêu mộ binh lính nhằm tái lập vương nghiệp.
    Lm. Pigneau de Béhaine được tấn phong giám mục năm 1774, tại Madras, Ấn Độ. Đức cha đến Macao năm 1775 và tìm cách vào Nam Việt. Được lời mời của trấn thủ Hà Tiên, Mạc Thiên Tứ, người Trung Hoa, ngài đã lập một họ đạo trong phần đất mà quan trấn thủ tặng. Nguyễn Ánh đã ẩn trốn trong ngôi nhà quan trấn thủ.
    1779.   Nguyễn Ánh sinh được một người con trai là hoàng tử Cảnh. Ông xin giám mục Pigneau de Béhaine làm Thái phó.

    Dưới thời Tây Sơn, tình hình Giáo hội Việt Nam rất khó khăn, do có nhiều biến động và bất ổn. Vì tình thế đòi hỏi, Đức cha Pigneau đã cố gắng gửi 4 thừa sai vào Trung Việt. Ngài đã chọn và phong thừa sai Jean Labartette làm giám mục phó. Đồng thời, ngài cũng dời toà giám mục từ Hà Tiên về Biên Hoà.
    Nguyễn Ánh không muốn trở lại đạo Công giáo, nhưng thường tham dự thánh lễ do giám mục dâng và nhờ có nhiều dịp tiếp xúc với ngài, nên chúa cũng bỏ được nhiều thành kiến không hay về đạo Công giáo.
    1780.   Nguyễn Ánh xưng vương và nhất tâm trấn giữ Gia Định.
    1782.   Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ đem quân từ Quy Nhơn vào đánh và chiếm lại Gia Định. Nguyễn Ánh bỏ Gia Định trốn ra đảo Phú Quốc. Đức cha Pigneau và các thừa sai phải trở lại Hà Tiên.
    1783.   Quân Tây Sơn trấn thành Gia Định, rồi đem quân đuổi theo Nguyễn Ánh tại đảo Phú Quốc. Nguyễn Ánh thua, phải rút quân ra đảo Côn Sơn, đợi dông bão để trốn chạy vào vịnh Thái Lan. Giám mục Pigneau đề nghị Nguyễn Ánh cầu viện với vua Pháp, Louis XVI, sau khi nhận thấy không thể cầu viện với Bồ Đào Nha và Anh được.
    1784.   Giám mục Pigneau đem hoàng tử Cảnh và phái đoàn của chúa Nguyễn sang Pháp cầu viện. Chúa Nguyễn cũng giao quốc ấn và uỷ toàn quyền cho Đức cha Pigneau thương nghị với Pháp. Còn Đức cha, vì hy vọng về sau Nguyễn Ánh sẽ dễ dàng chấp thuận cho các thừa sai được tự do truyền giáo nên ngài cũng tha thiết, tận tình giúp chúa Nguyễn.
    1787.   (28-11) Giám mục Pigneau, đại diện uỷ quyền của Nguyễn Phúc Ánh, ký hiệp ước Versailles.
    1788.   Nhờ sự tận tâm của tướng Võ Tánh, Nguyễn Ánh đã chiếm lại được thành Gia Định.
    1789.   Tháng 7, chiến thuyền Méduse tiến vào Vũng Tàu, trên đó có Giám mục Pigneau, hoàng tử Cảnh và còn kèm theo mấy chiến thuyền, đạn dược do Đức cha vận động ở Pondichéry gửi giúp chúa Nguyễn Ánh. Ngoài ra, còn có các ông: Chaigneau, Vannier, Forçant và Olivier là những cố vấn quân sự đi theo.
    1798    Ở kinh đô Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh chính thức ra lệnh cấm đạo, vì năm 1797 triều đình Tây Sơn đã bắt được mật thư của Nguyễn Ánh gửi cho giám mục Labartette tại Huế. Do thư này, vua Cảnh Thịnh nghi ngờ người Công giáo có âm mưu nổi loạn chống Tây Sơn. Hậu quả của lệnh cấm đạo này: ngày 17-9, lm. Emmanuel Nguyễn Văn Triệu và ngày 28-10, lm. Gioan Đạt bị xử trảm do lệnh vua Cảnh Thịnh.
    1798-1800. Ngày 9-10-1799, Giám mục Pigneau từ trần tại Quy Nhơn. Thời vua Cảnh Thịnh là một thời kỳ gian khó của Giáo hội Công giáo: cấm cách, bắt bớ và bách hại. Giáo dân đã chạy vào La Vang, là nơi rừng hoang, nước độc, cách Quảng Trị khoảng 6 cây số để trốn tránh. Với tất cả lòng tin tưởng, tín hữu nguyện cầu cùng Trinh Nữ Maria, Mẹ đã hiện ra an ủi, nâng đỡ đoàn con đau khổ trong thử thách vì đức tin. Từ đây, Linh địa La Vang đi vào lịch sử Giáo hội Việt Nam.
    Tóm lại:
    Thời các chúa Trịnh, từ Trịnh Tạc (1657-1682) đến Trịnh Sâm (1767-1782) tại đất Bắc; chúa Nguyễn, từ Nguyễn Phúc Lan (1635-1648) đến Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) và vua Cảnh Thịnh (1782-1802): có ước chừng hơn 30.000 chứng nhân đã anh dũng lấy máu đào tuyên xưng đức tin.
    1802.   Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn, lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, 1802-1820, thống nhất sơn hà, đặt quốc hiệu là Việt Nam, chọn Phú Xuân (Huế) làm kinh đô. Vì nhớ công Giám mục Pigneau, vua Gia Long không bách hại đạo, nhưng nhà vua cũng không nâng đỡ đạo. Do đó, Giáo hội Việt Nam được một thời gian ngắn bình an và phát triển.
    1803.   Giám mục Labartette họp tất cả các giáo sĩ tại Huế, thảo luận phương thức hoạt động truyền giáo. Thống kê lúc đó ghi nhận:

    - Giáo phận Đông Đàng Ngoài: l giám mục, 41 linh mục Việt Nam, 4 thừa sai và 140.000 tín hữu.
    - Giáo phận Tây Đàng Ngoài: 1 giám mục, 65 linh mục Việt Nam, 5 thừa sai và 120.000 tín hữu.
    - Giáo phận Đàng Trong: 1 giám mục, 65 linh mục Việt Nam, 5 thừa sai và 60.000 tín hữu.
    1820.   Vua Minh Mạng (Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, 1820-1841), nối nghiệp Gia Long. Ông chịu ảnh hưởng các vua Trung Hoa và Nhật Bản, nên cai trị nước bằng chính sách bế quan toả cảng.
    1822.   Nhân kỷ niệm sinh nhật nhà vua, Đức cha Labartette đến Huế, xin yết kiến, dâng lễ vật mừng. Vua Minh Mạng nhận lễ vật, nhưng từ chối gặp Đức cha.
    1825.   Vua Minh Mạng ra chỉ dụ cấm đạo gồm 2 điểm:

    - Cấm tất cả các giáo sĩ ngoại quốc theo tàu buôn vào Việt Nam.
    - Tập trung tất cả các giáo sĩ ngoại quốc vào những địa điểm chỉ định để kiểm soát.
  7. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    1833.   (6-1) Chỉ dụ cấm đạo của vua Minh Mạng.

    (5-7) Lê Văn Khôi khởi binh tại Gia Định.
    1835.   Ngày 8-9, thành Phiên An bị quân triều đình đánh chiếm, lm. Joseph Marchand Du bị bắt đem về Huế và lm. Giuse Phước, cha sở Chợ Quán, bị hành quyết tại chỗ.
    1838.   Đây là lần thứ tư vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo (1825-1833-1836).

    * Lúc này, Trung Hoa thất trận với các cường quốc châu Âu, vua Minh Mạng đổi đường lối chính trị, ngoại giao, nên cử phái bộ Phan Thanh Giản sang Pháp thương thuyết, nhưng vua Pháp, Louis Philippe, từ chối tiếp phái bộ.
    1840.   Giáo phận Đàng Trong, dù trong 10 năm cấm cách, bách hại, số tín hữu vẫn tăng lên đến 75.000 (năm 1830 là 60.000).

    Phái bộ ngoại giao Phan Thanh Giản thất bại trở về nước, vua Minh Mạng duy trì cấm đạo tàn khốc vào cuối đời.
    1841.   (21-1) Vua Minh Mạng băng hà (1820-1841). Vua Thiệu Trị (Hiến Tổ Chương Hoàng Đế, 1841-1847) lên nối ngôi và ban lệnh ân xá cho tất cả các tù nhân không Công giáo cũng như Công giáo đều được trở về quê hương. Nhà vua không bắt đạo gắt gao, nhưng cũng không huỷ bỏ những chỉ dụ cấm đạo. Nhà vua cai trị một thời gian ngắn ngủi, rồi băng hà lúc 37 tuổi.

    Giám mục Etienne Théodore Cuénot Thể họp Công đồng các linh mục tại Gò Thị, Bình Định. Ngài chú tâm tới việc truyền giáo, huấn luyện và nâng cao trình độ cho hàng giáo sĩ.
    1843.   (15-3) Năm thừa sai Pháp bị giam giữ ở Huế được dẫn độ vào cảng Đà Nẵng trao trả cho tàu L?THéroine gồm: thừa sai Berneux và Galy bị bắt ở Phúc Nhạc (11-4-1841), thừa sai Charrier ở Bàu Nọ (5-10-1841),  thừa sai Duclos Lộ và J.C. Miche Mịch ở Phú Yên (2-5-1842).
    1844.   (31-10) Giám mục Lefèbvre bị bắt tại Cái Nhum và bị giải về Huế.
    1845.   (15-4) Giám mục Lefèbvre được trao trả cho tàu Alemène.
    1846.   (7-6) Thuyền chở Giám mục Lefèbvre, từ Singapore về, bị bắt tại cửa Cần Giờ: ngài được giải về Sài Gòn. Thừa sai Duclos chết trong khi bị giam. Chủ thuyền Lê Văn Gẫm và những người cùng đi bị bắt và bị tống giam tại Sài Gòn.
    1847.   (15-4) Tàu Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng.

    (3-5) Vua Thiệu Trị ban hành lệnh chống Công giáo.
    (4-11) Vua Thiệu Trị băng hà. Tự Đức, hiệu Dục Tông Anh Hoàng Đế (1847-1883) lên nối ngôi, bắt đầu một trang sử mới.
    1848.   Giáo phận Đông Đàng Ngoài được chia thành hai giáo phận: Giáo phận Đông Đàng Ngoài và Trung Đàng Ngoài (Bùi Chu) gồm hai tỉnh Nam Định và Hưng Yên, do Đức cha Domingo Marti Gia chăm sóc.

    Vua Tự Đức ra chỉ dụ cấm đạo Giatô lần I. Chỉ dụ truyền khắc hai chữ ?otả đạo? vào má các tín hữu trung kiên, rồi đẩy họ vào những nơi rừng thiêng nước độc.
    Tháng 3, Hồng Bảo, anh cả của vua Tự Đức, âm mưu chiếm đoạt ngai vàng.
    Tháng 7, vua Tự Đức ban hành chỉ dụ truy lùng các đạo trưởng ngoại quốc.
    1851.   Cuối tháng Giêng, Hồng Bảo bị bắt quả tang lên thuyền nước ngoài trốn thoát, được ân giảm.
    1852.   Do chiếu chỉ của vua Tự Đức, các thừa sai và giáo sĩ bị truy lùng gắt gao, giam cầm, tra tấn?

    Nhưng vì thiên tai, đại hạn, bão lụt? nhà vua tạm thời ngưng cuộc bách hại tại miền Bắc (1852-1855).
    1853.   Tại miền Nam, tình hình bắt đạo vẫn gay gắt.
    1854.   Tháng 3, âm mưu trốn ra nước ngoài của Hồng Bảo lại bị bại lộ. Ông bị bắt và thắt cổ chết trong tù.

    (18-9) Chỉ dụ chống Công giáo được ban bố với những hình phạt nặng nề hơn.
    1855.   Tháng 9, vua Tự Đức ra lệnh cấm đạo lần III. Chỉ dụ này ra án: các Tây Dương đạo trưởng, bị bắt sẽ phải chịu chém, bêu đầu ba ngày ở những nơi công cộng và bị quăng xác xuống biển.
    1856.   (25 đến 26-9) Tàu Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng làm vua Tự Đức nổi giận.
    1857.   Vua Tự Đức ra chiếu chỉ cấm đạo lần IV vào ngày 7-5-1857.
    1858.   Chiến tranh giữa Pháp, Tây Ban Nha và Việt Nam bùng nổ. Hải quân của liên quân chiếm Cửa Hàn. Tình hình chính trị và tôn giáo càng thêm khó khăn.
    1859.   Liên quân Pháp-Tây Ban Nha tiến vào cửa Cần Giờ, bắn phá và tiến chiếm Gia Định (Sài Gòn) ngày 17-2.
    1860.   Tháng 4, các nữ tu dòng Saint Paul de Chartres từ Hồng Kông đến Sài Gòn.
    1861.   Pháp chiếm thành Kỳ Hoà, mở rộng vòng kiểm soát tới Biên Hoà, Tây Ninh, Mỹ Tho, Vĩnh Long. Triều đình cử phái bộ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Nghiệp vào Gia Định để nghị hoà. Trong tình hình nội trị bất ổn, ngoại giao không mấy kết quả, triều đình càng căm thù và ra tay giết hại các tín hữu.

    Vào cuối tháng 3, các tín hữu tại Ba Giồng và Hữu Đạo bị sát hại tập thể.
    Tháng 7, nhà vua ban hành lệnh phân tháp (phân sáp) người Công giáo vào các làng không Công giáo.
    Tháng 12: những vụ sát hại tập thể các giáo hữu tại Biên Hoà và Bà Rịa.
    1862.   Hoà ước Nhâm Tuất có khoản quy định về tự do tôn giáo, nhưng vua Tự Đức vẫn duy trì việc cấm đạo.

    Những vụ sát hại tập thể ở Nam Định và Hưng Yên. Ở Biên Hoà: những vụ hỗn loạn, đốt phá, sát hại tại Long Thành, Tân Triều, Búng, Thủ Ngữ, Trảng Bàng, Trảng Thơm và Gò Sầm.
    Tổng kết: Ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức có hơn 40.000 nhân chứng đức tin.
    1863.   Tháng 4, tại kinh đô Huế cử hành lễ trao đổi các bản văn của hoà ước Nhâm Tuất. Giám mục J.H. Sohier Bình, đại diện tông toà Bắc Đàng Trong (giáo phận Huế ngày nay), lần đầu tiên xuất hiện tại sứ quán ở kinh thành Huế.

    Vào tháng 5, các nữ tu dòng Kín Carmel Lisieux, Pháp, đến Sài Gòn.
    Tháng 6, triều đình cử phái bộ Phan Thanh Giản sang Pháp nghị hoà lần II về việc chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ đã nhượng cho Pháp theo hoà ước Nhâm Tuất. Trong phái bộ, có chủng sinh Phaolô Nguyễn Hoàng (giáo phận Nam Đàng Ngoài) là thông dịch viên của triều đình, Petrus Trương Vĩnh Ký là thông dịch viên do Thống soái Pháp ở Sài Gòn cử đi.
    Nguyễn Trường Tộ, một nhân sĩ Công giáo, quê ở Bùi Chu (xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An ngày nay) dâng lên triều đình ba bản điều trần đầu tiên: Trần tình khải, Thiên hạ đại thế luận, Giáo môn luận và Tế cấp bát điều.
    1866.   Tháng 9, Giám mục Gauthier Ngô Gia Hậu, đại diện tông toà Nam Đàng Ngoài, và Nguyễn Trường Tộ được vua Tự Đức cử đi Pháp mời thầy dạy và mua trang thiết bị xây trường kỹ thuật.
    1867.   Tháng 6, Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Bộ. Phong trào Văn Thân bắt đầu ở Nghệ An và Nam Định.
    1868.   Tháng 3, Đức cha Gauthier, Nguyễn Trường Tộ và các giáo sư được mời về tới Huế.

    Tháng 4, phong trào Văn Thân chống Pháp và bài Công giáo hoạt động mạnh.
    1869.   Vua Tự Đức ra hai chỉ dụ tha việc cấm đạo:

    - Chỉ dụ 1: cho phép lập làng Công giáo.
    - Chỉ dụ 2: người Công giáo được tự do hành đạo và cử hành các nghi thức tôn giáo.
    1873.   Tháng 11, quân Pháp chiếm Hà Nội lần I với một số tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng. Ngày 21-12, Francis Garnier tử trận.
    1874.   Tháng Giêng, Pháp bắt đầu rút quân. Phong trào Văn Thân hoạt động mạnh trở lại ở Nam Định, Ninh Bình, rồi Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh.

    Hoà ước Giáp Tuất (15-3-1874) chấp nhận nhượng sáu tỉnh Nam Kỳ cho Pháp. Hoà ước gồm 20 khoản, mà 9 khoản đề cập đến vấn đề tự do tôn giáo.
    1882.   Tháng 4, đại tá Henri Rivière được lệnh đem quân ra Bắc Kỳ lần II: ngày 25-4, quân Pháp chiếm Hà Nội. Tổng đốc Hà Nội là Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn. Sau đó, Henri Rivière đem quân vào chiếm đóng kinh thành Huế.
    1883.   (22-2) Rivière chiếm đóng Hòn Gai.

    (27-3) Rivière chiếm Nam Định.
    (19-5) Rivière tử thương. Phong trào Văn Thân lại trỗi dậy mạnh mẽ.
    (19-7) Vua Tự Đức băng hà.
    (23-7 âl.) (25-8 dl.) Hoà ước Quý Mùi: khâm sai Trần Đình Trực và Nguyễn Trọng Hợp, thay mặt triều đình Huế, ký với toàn quyền, đại diện Pháp, Jules Harmand, nhận sự bảo hộ của Pháp và việc ngoại giao của Việt Nam phải chịu sự chi phối của Pháp. Hoà ước gồm 27 khoản, không nhắc tới vấn đề tôn giáo.
    Toà Thánh thiết lập giáo phận Bắc (Bắc Ninh), tách từ giáo phận Đông (Hải Phòng), gồm các tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Cao Bằng, do Đức cha A. Colomer Lễ đảm trách.
    Vua Hiệp Hoà lên nối ngôi được 4 tháng. Ông bị ép uống thuốc độc chết.
    (7-10) Vua Kiến Phúc, 15 tuổi, lên nối ngôi. Mọi quyết định đều nằm trong tay hai đại thần: Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết.
    1884.   (6-6) Hoà ước Giáp Thân được ký giữa Nguyễn Văn Tường và Patenôtre: bổ túc cho hoà ước Quý Mùi. Điểm chính của hoà ước này là Chính phủ Pháp bảo hộ Bắc Kỳ, lục tỉnh Nam Kỳ là thuộc địa Pháp và Trung Kỳ thuộc quyền cai trị của triều đình Huế. Nhưng thực chất, triều đình chỉ còn hư vị. Hoà ước này cũng huỷ bỏ hiệu lực của hoà ước 15-3-1874, nhưng vẫn giữ lại những cam kết của triều đình liên quan đến mặt tôn giáo.

    Vua Kiến Phúc nối ngôi được 6 tháng, thì nhuốm bệnh và băng hà. Vua Hàm Nghi mới 12 tuổi được đặt lên kế vị.
    1885-1886. Phong trào Văn Thân nổi lên khắp nước vì phẫn nộ với người Pháp xâm chiếm Việt Nam. Người Công giáo lại bị bắt bớ, tàn sát dã man vì bị coi là theo thực dân Pháp.

    - Binh lính triều đình Huế tấn công đồn Pháp thất bại.
    - Vua Hàm Nghi và một số triều thần rời kinh thành, vào rừng lập chiến khu, kêu gọi Cần Vương. Sĩ phu khắp nơi hưởng ứng, đứng lên chống Pháp và chống Công giáo. Nhiều cuộc tàn sát lẫn nhau giữa người Việt với người Việt, nhất là trong những vùng hoạt động của phong trào Văn Thân như: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Trị Thiên, Nghệ Tĩnh, Thanh Hoá, Nam Định, Ninh Bình?
    1890.   Việt Nam có 708.000 tín hữu.
    1909.   (12-6) Ba linh mục của giáo phận Vinh bị mật thám Pháp bắt, đày đi Côn Đảo vì tham gia chống Pháp: Đậu Quang Lĩnh, Thư ký toà giám mục; Nguyễn Thần Đồng, quản xứ nhà thờ chính toà Vinh; Nguyễn Văn Tường, quản lý nhà chung Xã Đoài.
    1925.   (20-5) Lập toà Khâm sứ Toà Thánh tại Việt Nam (gồm cả Thái Lan, Cam Bốt và Ai Lao); trụ sở trước hết đặt tại Huế, (1951) dời ra Hà Nội và (1959) chuyển vào Sài Gòn.

    1945.   (19-8) Cách mạng Tháng Tám thành công.


    (2-9) Tuyên ngôn độc lập và thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
    (23-9) Nam Bộ kháng chiến.
    1954.   (21-7) Hiệp định đình chiến tại Genève chia đôi nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17; cuộc di cư của gần 1 triệu người miền Bắc vào miền Nam; các giáo phận miền Nam phát triển nhanh chóng.
  8. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Sau đây là chi tiết một số vụ việc được sách vở nhà thờ ghi lại:

    1. Những Sắc Chỉ Cấm Đạo

    Kể từ năm 1627, sắc chỉ thứ nhât do Chúa trịnh ban hành cấm đạo cho đến triều đại Tự Đức nhà Nguyễn, tổng cộng có 53 sắc chỉ do các Chúa Nguyễn cũng như nhà Tây Sơn và các vua nhà Nguyễn, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức
    2. Chúa Nguyễn Đàng Trong (1615-1778):

    Ban hành 8 sắc chỉ:


    Chúa Sãi (Nguyễn Phước Nguyên, 1615-1635) Sắc Chỉ năm 1625.

    Chúa Thượng (Nguyễn Phước Lam, 1635-1648) Sắc Chỉ năm 1639 và 1644.

    Chúa Hiền Vương (Nguyễn Phước Tần, 1648-1687) Sắc Chỉ năm 1663 và 1665.

    Chúa Ngãi Vương (Nguyễn Phước Trân, 1687-1691) Sắc Chỉ năm 1691.

    Chúa Minh Vương (Nguyễn Phước Chu, 1691-1725) Sắc Chỉ năm 1700.

    Chúa Võ Vương (Nguyễn Phước Khoát, 1725-1765) Sắc Chỉ năm 1725.
    Cuộc bách hại dữ nhất vào năm 1665 là vì có người vu khống cho rằng tượng ảnh Thánh Giá là hình ảnh vua Bồ Đào Nha, do đó người theo đạo tức khắc là con dân của Đế Quốc Bồ. Chúa Hiền Vương nổi giận trục xuất hết mọi vị Thừa Sai và sát hại dân lành, nhất là vào tháng Giêng và tháng Hai năm 1665. Đây là lần đầu tiên tung ba thiếu nữ (Gioanna, Maria và Luxia) cho voi giầy!
    3. Ngoài Bắc Dưới Thời Các Chúa Trịnh (1627-1786):

    Có 17 Sắc Chỉ dưới thời Chúa Trịnh Tráng (1627-1658): 5 Sắc Chỉ vào năm 1629 lần đầu tiên tại Bắc Việt và các năm 1632, 1635, 1638, 1643.


    Chúa Trịnh Tạc (1658-1682): 3 Sắc Chỉ vào năm1658, 1663, 1669.

    Chúa Trịnh Căn (1682-1709): 1 Sắc Chỉ vào năm 1696.

    Chúa Trịnh Cương (1709-1729): 4 Sắc Chỉ vào năm 1709, 1712, 1721, 1722.

    Chúa Trịnh Giang (1729-1740): 1 Sắc Chỉ vào năm 1736.

    Chúa Trịnh Doanh (1740-1767): 2 Sắc Chỉ vào năm 1754, 1765.

    Chúa Trịnh Sâm (1767-1782): 1 Sắc Chỉ vào năm 1773.
    Trong thời các Chúa Trịnh Cương và Trịnh Giang, Dòng Tên đã đóng góp xương máu vào dòng giống Tử Đạo Việt Nam. Cha Messari chết rũ trong tù ngày 15-6-1723, và ngày 11 tháng 10 cùng năm đến lượt Cha Bucharelli bị hành quyết tại Đồng Mơ cùng với 9 Thầy Giảng và Giáo dân. Năm 1736 bốn Linh Mục Dòng Tên khác là Alvarez, Cratz, D''Abreu, và Da Cunha bị trảm quyết; hai Thầy Việt Nam bị đánh giập đầu gối; một Thầy chết trong tù, còn Thầy kia bị đày chung thân biệt xứ.
    4. Nhà Tây
    Sơn (1775-1800):
    Năm 1775, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, và Nguyễn Huệ khởi nghĩa ở ấp Tây Sơn, chiếm được thành Qui Nhơn làm căn cứ khởi phát của phong trào mà sau này sử gia gọi là Phong Trào Tây Sơn hay Nhà Tây Sơn.
    Sau khi lấy xong Phú Xuân, dứt Nhà Nguyễn, Nguyễn Nhạc lên làm vua lấy đế hiệu là Thái Đức, xưng Trung Ương Hoàng Đế, đóng đô ở Qui Nhơn.
    Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi, xưng là Quang Trung Hoàng Đế. Sau khi đánh tan quân Nhà Thanh Trung Hoa, Quang trung đóng đô ở Phú Xuân, bãi ngôi vua của Thái Đức Nguyễn Nhạc, chỉ cho Nhạc hưởng thuế một vùng Bình Định.
    Dưới Nhà Tây Sơn, có 5 Sắc Chỉ cấm đạo:


    Dưới Thái Đức Nguyễn Nhạc, ban hành 2 Sắc Chỉ Cấm Đạo năm 1779 và 1785.

    Dưới Triều Cảnh Thịnh, trong tay Thái Sư Bùi Đắc Tuyên, ban hành 2 Sắc Chỉ Cấm Đạo cùng một năm 1795.

    Dưới thời quyền thần Ngô Văn Sở ở miền Bắc, Cảnh Thịnh ban hành Sắc Chỉ năm 1799.
    Đặc biệt, vua Quang Trung không ban hành một Sắc Chỉ nào. Quan Thái Phó Trần Quang Diệu là người chống lại việc cấm đạo. Ông chống đối lại việc bắt bỏ tù và đày đoạ các Giáo Sĩ và giáo dân. Vợ chồng Thái Phó (Phu nhân là nữ tướng Bùi Thị Xuân) rất có cảm tình với các Giáo Sĩ Thừa Sai.
    Cuộc tàn sát năm 1798 ghê gớm hơn cả, với những màn tra tấn dã man như tẩm dầu vào các đầu ngón tay, hay đổ vào rốn, trước khi châm lửa, hoặc treo ngược đầu "tội nhân" xuống... Các cơ sở Công Giáo tại Bố Chính, Nghệ An, Thanh Hoá: nhà thờ, nhà xứ, tu viện, trường học, đều bị cướp phá, dân chúng chạy vào rừng trú ẩn lánh nạn.
    5. Vua Minh Mạng (1820-1840):

    Riêng đời Minh Mạng, nhà Vua ban hành 7 Sắc Chỉ Cấm Đạo.
    Các sử gia Âu Châu khi viết về những cuộc bách hại tôn giáo tại Việt Nam thường tặng vua Minh Mạng danh xưng: "Néron của Việt Nam", vì Hoàng Đế Néron hồi xưa khét tiếng tàn bạo hung dữ trong những cuộc lùng bắt đạo Công Giáo tại thủ đô Rôma và trong đế quốc La Mã.
    Trong tổng số 117 vị hiển Thánh Tử Đạo, một nửa (58 vị) đã bị hành quyết trong vòng 20 năm vua Minh Mạng cầm quyền, đặc biệt vào các năm 1838 và 1839.
    Là một ông Vua thông minh nhất triều Nguyễn, Minh Mạng đã sáng chế và áp dụng nhiều biện pháp cấm đạo tinh vi, tàn nhẫn và độc ác.
    Với các Giáo Sĩ ngoại quốc, Nhà Vua cho lệnh tập trung tất cả về Huế. Bề ngoài nói tránh đi là nhà Vua cần đến các vị để dịch sách ngoại ngữ ra tiếng Việt, nhưng thực ra là để cầm chân các nhà truyền Đạo, không cho họ hoạt động và liên lạc với giáo đoàn. Trong khi đó chờ cơ hội có tàu ngoại quốc cập bến là đẩy số Thừa Sai này về nước, đồng thời không cho vị Thừa Sai mới nào được phép nhập cảnh vào Việt Nam. Chính sách "phân sáp" để tát nước bắt cá nhằm tiêu diệt các cơ sở, các tổ chức Công Giáo địa phương, nhất là giăng màn lưới kiểm soát gắt gao để lùng bắt các Đạo Trưởng người bản xứ.
    Nhà vua đã ký 7 Sắc Chỉ vào những năm 1825, 1826, 1830, 1833, 1834 1836 và 1838. Biết trong Giáo Lý Công Giáo có "Điều Răn" và nhiều lễ cử hành trong năm, Minh Mạng cho soạn 10 điều răn gọi là Thập Điều ban hành ngày 15-7-1834 được coi như một biện pháp tinh thần nhằm ngăn chặn "Tà Đạo". Nhà vua ra lệnh Hương Lý phải tập trung dân ở Đình Làng để dạy Thập Điều Huấn Dụ:
    1. Giữ luân lý
    2. Chính tâm thuật
    3. Chăm bản ngiệp
    4. Chuộng tiết kiệm
    5. Hậu phong tục
    6. Dạy con em
    7. Học đạo chính
    8. Răn gian dâm
    9. Giữ theo pháp luật
    10. Làm điều thiện

    Điều thứ 7 "Học đạo chính" nhằm chống lại Công Giáo. Quan chức địa phương bắt cả người Công Giáo phải học Thập Điều và được niêm yết trên khắp các nẻo đường bắt dân chúng phải học tập và tuân hành. Chủ ý của nhà vua là để cho đầu óc người dân khỏi bị tiêm nhiễm các thứ Giáo Lý ngoại bang. Riêng đối với người Công Giáo, là để thay thế cho 10 điều răn đạo Chúa.
    Ngoài ra các quan trong nước dâng sớ lên vua vào năm 1826-1830 xin nhà vua thẳng tay tiêu diệt đạo trưởng Thiên Chúa Giáo bằng án tử hình, viện cớ rằng các vị Thừa Sai tổ chức từng xứ đạo, có nghĩa là chia nước ra nhiều đại hạt chỉ huy như một chính quyền và giáo dân triệt để tuân theo. Những vụ tàn sát ở Nghệ An, ở làng Dương Sơn: linh mục, giáo dân bị bắt, bị xử! Nhất là tại Nam Định do bàn tay khát máu của tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Cuối năm 1837 ông bị nhà vua triệu về Kinh khiển trách nặng lời, vì chưa thẳng tay với cộng đoàn Công Giáo miền Trung Châu và Duyên Hải Bắc Việt là hai địa điểm từ xưa đến nay vẫn là trung tâm Công Giáo phồn thịnh. Từ Huế trở về Nam Định, Trịnh Quang Khanh mang theo món quà 40 ảnh Thánh Giá cỡ lớn, quà của Vua trao tặng, và 6 ngàn quân binh. Ảnh Thánh Giá được mang đặt tại khắp các cửa ngõ trong thành phố, và các làng xóm trong các xứ Đạo mỗi khi có những cuộc hành quân bách đạo, trong khi đó từng ngàn quân mới được tiếp viện chạy đi bao vây khắp nơi, xua hết mọi gia đình Công Giáo ra ngoài, ép buộc họ phải bước lên ảnh Thập Giá. Bước lên Thập Giá có nghĩa là từ bỏ Đạo Thánh. Ba năm cuối đời Minh Mạng là những năm đau khổ nhất cho Giáo Hội Bắc Việt thời đó. Đức Giám Mục Retord thuộc Hội Thừa Sai Paris diễn tả: "Không thể trốn thoát được nữa, vì không còn chỗ nào đủ tối để lẩn tránh trước hàng trăm nghìn con mắt rình rập"!
  9. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
     6. Vua Thiệu Trị (1840-1847):
    Có 2 Sắc Chỉ.
    Sang đời Thiệu Trị, cuộc bách hại vẫn tiếp tục, nghĩa là vua vẫn để cho thi hành những Sắc Chỉ đã được công bố đời vua Minh Mạng, mặc dầu trong một vài địa phương đã có phần giảm độ gắt gao. Tại Phúc Nhạc (Ninh Bình), Thánh Nữ Inê Lê Thị Thành, tức bà Thánh Đê - vị thánh nữ duy nhất mới được tôn phong - bị bắt, vì can tội chứa chấp Đạo Trưởng, đó là hai cha Thừa Sai Berneux và Galy. Bà đã anh dũng xưng Đạo và cam chịu các cuộc tra tấn dã man đến chết trong tù. Cũng như Linh Mục Phêrơ Khanh bị trảm quyết năm 1842 và thánh Mathêu Lê Văn Gẫm bị xử năm 1847. Đế năm 1847, sau khi thất bại trong cuộc tranh chấp với đoàn tàu Pháp tại cửa Hàn, vua phản ứng bằng cách đổ hết tội lỗi trên đầu người Công Giáo, và ngày 3-5-1847 vua ban hành sắc lệnh lùng bắt các Linh Mục Thừa Sai ngoại quốc.
    7. Vua Tự Đức (1847-1883):

    Có 13 Sắc Chỉ
    Nếu tính số Sắc Chỉ bắt đạo, dưới thời Tự Đức lên tới 13 Sắc Chỉ ban hành vào những năm 1848, 1851, 1855. Riêng trong năm 1857 có 4 Sắc Chỉ, năm 1859 có 2 Sắc Chỉ, và năm 1860 có 4 Sắc Chỉ cuối cùng. Nhiều lệnh như thế minh chứng quyết tâm nhà vua muốn tận diệt Đạo Thiên Chúa bằng mọi giá, và tận diệt suốt trong 36 năm chấp chính. Chúng ta sẽ thấy nội dung những sắc lệnh đó khủng khiếp tới mức độ nào!


    Đạo Công Giáo được định nghĩa không những như một Tả Đạo mà còn tệ hơn nữa, như một tôn giáo xấu xa, "một dịch tể". (Sắc Chỉ 7-6-1857)

    Lệnh cho các xã uỷ, cai tổng (Sắc Chỉ tháng 5 năm 1857): Ai không tuân theo sẽ bị cách chức (sắc Chỉ 7-6-1857)

    Lệnh cho Triều Đình và các Quan địa phương (Sắc Chỉ 24-8-1860).
    Theo các sắc lệnh trên đây, phải bắt tất cả mọi thành phần Công Giáo.


    Hết mọi thanh niên trên 15 tuổi phải trình diện thường xuyên theo thời gian nhất định (lệnh 17-1-1860). Người Công Giáo, dù học giỏi, có khả năng, cũng không được giữ chức vụ nào (lệnh 19-9-1855).

    Đặc biệt nhắm vào giới ngư phủ, vì họ luôn luôn di chuyển và thường là chỗ ẩn náu cho các Đạo Trưởng (lệnh 18-9-1855).

    Những người chứa chấp Đạo Trưởng sẽ bị phân thân và buông sông (lệnh 30-3-1851).

    Giáo dân không chịu đạp Thánh Giá sẽ bị khắc hai chữ Tả Đạo trên mặt và đi đầy biệt xứ (lệnh 18-9-1855). Ai cố chấp xưng đạo: Đàn ông sẽ bị cưỡng bách tòng quân, đàn bà bị tuyển làm nô tì cho các quan (lệnh 7-6-1857)

    Bắt các thành phần trong Hội Đồng Giáo Xứ (lệnh tháng 10 năm 1959)

    Binh sĩ Công Giáo không đạp ảnh Thánh Giá sẽ bị giải ngũ, bị khắc hai chữ Tả Đạo và bị đầy chung thân (lệnh tháng 12-1859).

    Giới Quan Lại Công Giáo: cả những ai đã chối Đạo cũng bị cách chức. Những ai trung kiên sẽ bị trảm quyết (lệnh 15-12-1859).

    Các nữ tu, không được cấp giấy thông hành để di chuyển ngoài địa phương mình đang ở. Vì họ là những liên lạc viên đắc lực. Ai không tuân lệnh sẽ bị tù chung thân, hay làm nô tì cho các Quan (lệnh 17-1-1860 và lệnh tháng 7-1860).

    Các Linh Mục Việt Nam, đạp Thánh Giá hay không đều bị phân thân để nêu gương. Linh Mục ngoại quốc thì bị trảm quyết, đầu phải treo luôn 3 ngày, rồi buông sông hay ném xuống biển (lệnh 15-9-1855).

    Các cơ sở Công Giáo, bị đốt phá và tiêu huỷ (lệnh 18-9-1855 và 8-12-1857). Nhất là cơ sở tại Vĩnh Trị, phải phá huỷ bình địa (lệnh 1-12-1857).
    8. Những Cuộc Bách Hại Do Nhóm Văn Thân (1885-1886):

    Chính lý ra những cuộc bách hại đã chấm dứt dưới thời Tự Đức, vì theo khoản 9 của hiệp ước Giáp Tuất ký giữa Việt Nam và nước Pháp ngày 15-3-1874, vua Tự Đức đã ký nhận "quyền tự do theo Đạo và hành Đạo của người Công Giáo". Tuy nhiên lịch sử còn ghi chép là sau vua Tự Đức, sự bắt bớ cộng đoàn Công Giáo Việt Nam vẫn tiếp tục, không kém phần dữ dội tàn bạo, và diễn tiến trong hoàn cảnh rối ren khác biệt. Các vua kế vị Tự Đức là:


    Hiệp Hoà
    , lên ngôi chấp chính được 4 tháng rồi sau đó bị ép buộc phải uống thuốc độc quyên sinh.


    Kiến Phúc, lên ngôi lúc mới 15 tuổi.
    Hàm Nghi, lên kế vị lúc 12 tuổi.
    Do đó, mọi quyền hành điều khiển quốc sự, giữa lúc đang phải đương đầu với ngoại xâm lại nắm trong tay các vị đại thần: Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Kết quả đưa đến chỗ đại bất hạnh cho đất nước: Qua hai hiệp ước 1883 và 1884, Việt Nam mất nước về tay Thực Dân. Lãnh thổ chia làm 3, Nam kỳ và các thành phố Qui Nhơn, Đà Nẵng, Vinh, Hải Phòng và Hà Nội trở thành thuộc địa Pháp. Từ Thanh Hoá vào đến Bình Thuận thuộc Nam Triều, từ Ninh Bình ra Bắc do Khâm Sai Bắc Kÿ nhưng cả Trung và Bắc đều đặt dưới quyền Bảo Hộ của Pháp. Quyền thần Tôn Thất Thuyết mưu đánh úp Pháp ở thành Mang Cá nhưng thất bại, kinh thành Huế chìm trong biển lửa và chết chóc. Vua Hàm Ngi bỏ kinh thành chạy về Tân Sở, xuống chiếu Cần Vương kháng Pháp. Như một cục than hồng ném vào biển dầu, phong trào Văn Thân Cần Vương bùng lên khắp nơi, tự động tự phát, với khẩu hiệu "Bình Tây Sát Tả" lan rộng trên khắp ba miền Bắc Trung Nam, và con vật hy sinh, một lần nữa, cũng lại là người Công Giáo rải rác trên khắp toàn quốc! Cuộc bách hại tàn ác vì lợi dụng hoàn cảnh "đục nước béo cò": chỉ trong mấy năm Văn Thân, số người Công Giáo bị tàn sát vì tín ngưỡng đã lên cao gần bằng tổng số tín hữu đã hy sinh trong hơn hai thế kỷ bách hại, từ đời các Chúa Trịnh Nguyễn cho tới hết đời Tự Đức.
    Những cuộc tàn sát thật ác liệt rùng rợn, từng lớp người, kể ra từng trăm từng ngàn, cứ mỗi lần phải qua một cơn bách hại là cứ tiếp tục ngã xuống , như những trái sung rụng trước cơn gió lộng! Người ta ước lượng, dưới thời các Chúa Trịnh Nguyễn và Tây Sơn có chừng 30.000 giáo dân bị giết. Dưới thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức có chừng 40.000 giáo dân bị xử tử hay chết trong lao tù. Nhưng dưới thời Văn Thân có tới trên dưới 60.000 người Công Giáo bị sát hại, chỉ vì là thành phần trong dân Thiên Chúa. Linh Mục Trần Văn Phát nguyên là Tổng Quản Giáo Phận Huế, cho biết những chi tiết rùng rợn "độ 100.000 đấng Tử Đạo: khoảng 58 vị Giám Mục và Linh Mục ngoại quốc, 150 vị Linh Mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 1 Chủng Sinh, 270 nữ tu Dòng Mến Thánh Giá và 99.182 giáo dân".
    Hồi đó vua cảnh Thịnh (1798) ra lệnh tàn sát các họ đạo, dân chúng, trên đường thoát nạn, bồng bế con cái chạy và ẩn nấp trong rừng La vang, và nơi đây theo tục truyền, đã được Đức Mẹ hiện ra an ủi và bảo vệ. Thời kÿ này phong trào Cần Vương đang tung hoành với khẩu hiệu "Bình Tây Sát Tả", tức là đuổi quân Tây Phương, diệt Tả Đạo, đem từng ngàn binh đội đến vây hãm tứ phía làng Trà Kiệu, nhất là từ hai ngọn đồi Bửu Châu và Kim Sơn liên tục bắn phá...Họ Đạo Trà Kiệu khác nào một hòn đäo bé nhỏ nằm dưới thung lũng, làm mồi cho những cuộc tấn công liên tiếp 21 ngày đêm, từ mồng 1 tới 21 tháng 9 năm 1885. Nhưng Trà Kiệu đã được một "Bà mặc áo trắng" từ trên ngọn tháp đền thờ, bồng con đỡ đạn cho đám dân Công Giáo đang cầm cự bên trong. (Xem thêm tại đây: http://www.dongcong.net/MeMaria/TuDienDucMe/108.htm)
    Người thời nay đọc lại những trang sử hào hùng đó vẫn còn tự hỏi: với sức lực nào Giáo Đoàn Việt Nam hồi xưa đã lướt thắng những cơn đại hoạ như thế? Họ chỉ có một bí quyết thần diệu, đó là:
    Niềm tin sắt đá vào lời Chúa đã tiên báo: "Người ta sẽ điệu các con ra trước pháp trường. Các con sẽ bị đánh đập trong các hội đường, bị truy tố trước mặt vua quan vì danh Thầy, như thế các con sẽ làm nhân chứng trước mặt các chức quyền và các dân ngoại" (Mat. 10,1718). "Nếu họ đã bắt bớ Thầy , rồi cả các con cũng bị bắt bớ" (Gioan 15,20).
    Niềm cậy nơi Thiên Chúa quan phòng công minh và nhân hậu: "Đức Giêsu, con Thiên Chúa, đã biểu lộ tình thương đến mức độ hy sinh mạng sống vì ta. Do đó, không ai có thể yêu thương hơn người đã thí mạng sống mình vì Chúa và vì anh em" ( I Gioan 3,16. Gioan 1,13). Nói cách khác, bắt chước gương Chúa, hy sinh bản thân cho đến chết, tức là minh chứng rõ rệt mình mến Chúa và theo Chúa một cách hoàn hảo nhất. Tử Đạo là con đường thẳng, và ngắn hơn cả, đưa chúng ta vào đời sống hạnh phúc trường sinh.
    Nhất là cảm mến, vừa sâu xa vừa nồng nàn dành cho Chúa Kitô, vị Tử Đạo tối cao và là phần thưởng bền bỉ muôn đời: "Các con hãy vui mừng vì phần thưởng dành cho các con ở trên trời rất lớn lao" (Mat. 5,12).
    Tiêu biểu cho cả đại đoàn hơn 130.000 tín hữu đã hy sinh mạng sống vì Đức Tin, ngày nay Giáo Hội Việt Nam nhìn lên tấm gương cao vượt của 117 Hiển Thánh Tử Đạo của mình, các Ngài đã Tử Đạo trong các thời vua chúa:


    2 vị đã bị xử dưới thời chúa Trịnh Doanh (1740-1767)

    2 vị đã hy sinh dưới thời chúa Trịnh Sâm (1767-1782)

    2 vị đã chết vì sắc lệnh của vua Cảnh Thịnh (1781-1782)

    58 vị đã chết trong thời vua Minh Mạng (1820-1840)

    3 vị đã chết dưới thời Thiệu Trị (1840-1847)

    50 vị đã chết bởi bàn tay hung ác Tự Đức (1847-1883)

    Các Ngài, theo thị kiến của Thánh Gioan, tác giả cuốn Khải Huyền, là những người "tay đang cầm ngành lá chiến thắng... là những người từ những cơn đại hoạ trở về. Họ giặt áo mình trong máu Con Chiên" (Khải Huyền 7,9 và 13,14). Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã hiên ngang lãnh cái chết bằnh nhiều hình khổ dã man như:


    75 vị đã bị xử trảm quyết (bị chém rơi đầu),

    22 vị bị xử giảo (bị giây từng thắt cổ),

    9 vị bị tra tấn và chết rũ tù,

    6 vị bị thiêu sống,

    5 vị bị lăng trì (bị phân từng mảnh thân thể và bị xẻo từng miếng thịt)!
    Kiên cường chịu đựng như trên, có nghĩa là ân sủng Chúa hoạt động trong linh hồn các Thánh trong giờ Tử Đạo đã lên tới mức tột độ: "Tình yêu hùng mạnh như tử thần, lòng ganh tị của tình yêu mãnh liệt như âm phủ, ngọn lửa tình yêu là ngọn lửa hào hùng nung nấu. Tình yêu, dù thác lũ cũng không thể dập tắt, dù hồng thuỷ cũng không thể nhận chìm" (Diệu ca 6,67).
    Tổng hợp từ HĐGMVN  Giáo hội Việt Nam, Martyrs of Vietnam - History of the Vietnamese Catholic Church và một số nguồn khác
    Được fddinh sửa chữa / chuyển vào 22:45 ngày 16/09/2008
  10. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Vấn đề ?osát tả? có nguồn gốc sâu xa từ chính sách cấm đạo, giết đạo của các vua nguyễn từ Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Đến cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai ở Nghệ Tĩnh năm 1874, việc giết hại người theo đạo Thiên Chúa được gắn với công cuộc chống Pháp xâm lược và khẩu hiệu ?oBình Tây sát tả? lần đầu tiên được đưa ra và thực thi quyết liệt. Khi phong trào Cần Vương bùng nổ, phần lớn các tỉnh ở phía Nam Huế việc ?osát tả? thực hiện khá mạnh mẽ và đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc đoàn kết các lực lượng để chống xâm lược lúc bấy giờ.
    Các tài liệu của Công giáo đều lên án ?oBình Tây sát tả?, tuy nhiên, khi đề cập đến vấn đề này, các giám mục người Pháp như Pugienier và Camelbek vẫn nhận xét: ?oCuộc chiến đấu này mang tính dân tộc thật sự chứ không phải là tôn giáo? (Charles Fournia ?" Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Bình Định ?" Phú Yên (1885-1887) theo những nguồn tài liệu Pháp ?" tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 6 tháng 11+12/1982 trang 37.)
    Các bạn quan tâm, xin xem tiếp tại các link dưới đây:
    http://www.honque.com/HQ007/tBut_ttDao007.htm
    http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/ghvienam/tudaovn4.htm
    http://www.dongcong.net/MeMaria/TuDienDucMe/108.htm
    http://www.lavangshrine.net/cacnienky_velavang_200nam.html     
    http://www.viettidemagazine.net/index.php?option=com_content&task=view&id=1162&Itemid=64
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này