1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chính quyền và tôn giáo, lịch sử và hiện tại

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi fddinh, 16/09/2008.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Khà khà, tớ ngần ngại không đang cái này lên hơn tuần nay rồi, may mà bạn đã đăng lên, tớ định đăng nó lên topic Thái Hà bên box Thảo luận nhưng mà đang bị hạn chế ở đó, còn topic thì lãnh cái khóa rồi. Khà khà, thank bạn!
  2. dhlv

    dhlv Guest

    Các cán bộ Công Giáo họ sợ nhất là người ta (bình thường) thờ ơ với Kito, chứ không phải kiếp sợ hay kính trọng huặc đại loại cảm thấy huyền bí, tế nhị không dám nhắc tới .
    Do đó chúng ta phải làm tầm thường hoá Công Giáo, tầm thường đến mức theo Công Giáo như kiểu nghiện nghập , hút chính tức là biết mà chán chả buồn nói .
    Hôm nay, ở ngồi một quán nước vỉa hè có mấy anh em bình dân nói vụ Thái Hà , đại loại nhắc đến từ "bọn nhà Thờ", một số người dân đen có nhắc đến thế lực ở Vatican. Sở dĩ vụ này bây giờ quán nước chè, vỉa hè người ta cũng biết vì ngoài chuyện trên truyền hình thì những người bán báo dạo mang cái loa to tổ bố như kiểu bán thuốc tẩy một dạo trên đường phố HN cũng bán báo đưa tin vụ này .
    Cái thời phong kiến, chiến tranh cũng qua rồi và xét cho cùng những người theo Công Giáo vì nhiều lý do họ cũng là đồng bào Việt Nam của chúng ta. Chúng ta tẩy chay, lên án , tuyên truyền tác hại của ma tuý nhưng chúng ta phải bao dung với những người nghiện . Vì đặt trường hợp ngược lại chúng ta nghiện ma tuý - Công Giáo cũng không cưỡng lại nổi đâu.
    Ví dụ như bác Codep là một ví dụ điển hình trên TTVNOL, ngoài đời cũng thế dù trí thức, học giả nếu nhiễm Công Giáo thì phải cực kì bản lĩnh mới có thể phản tỉnh được. Đây là kinh nghiệm thực tế mà tôi biết !
  3. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Đấy là tôi bị mắc lừa cái trò ăn không nói có của bạn đấy.
    Trò này bạn còn muốn làm với bức thư gửi Toàn Quyền Đông Dương nữa kia.
    Chuyện thề trung thành với hiến pháp là không bao giờ có cả, xin
    đừng dựng trò lên rồi vu vạ rằng người CG không chịu thề.
    Cái trò bức thư cũng vậy. Từ không mà dựng nên cho có .
    Bạn căm thù người Công Giáo đến không từ một thủ đoạn bỉ ổi nào
    mà không nghĩ ra, mà không nhìn thấy mình sao?
    Người đàng hoàng, có đấu tranh, cũng ra người đàng hoàng, đừng
    làm kẻ ti tiện mà đánh người ta như vậy, làm sao còn lòng tự tôn nữa?
    Bây giờ thì bạn lật tẩy ra ai cù nèo chứ hả ?
  4. dhlv

    dhlv Guest

    Tôi không nghĩ bạn fddinh căm thù người theo Công Giáo nhất là người Việt Nam theo Công Giáo.
    Nhưng Công Giáo là loại ma tuý về văn hoá nguy hiểm nhất của nhân loại mà nhiều học giả lớn có tên tuổi đã bình luận, nhận xét rồi . Việc chúng ta tranh luận ở trên TTVNOL này chỉ là một trong những hình thức công khai hoá tuyên truyền cho quảng đại quần chúng VN về ma tuý Công Giáo mà thôi .
    Đây không phải là dạng bút chiến về Công Giáo hay kì thị người theo Công Giáo. Nhưng việc kiên quyết đả phá những cán bộ Công Giáo ( buôn thần bán thánh) và nêu ra những tác hại của ma tuý Công Giáo cho dân tộc Việt Nam là cần thiết .
    Tôi đã từng viết ở đâu đó, ma tuý dùng ở liều lượng thấp có tác dụng trong y học. Ma tuý Công Giáo cũng vậy dùng ít ít thì còn có các tác dụng sùng bái, nghe lời các cán bộ Công Giáo nhất là bên Vatican chỉ gây tai hoạ, khổ đâu cho dân tộc Việt Nam.
  5. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Bác Codep, bác lại chụp mũ em rồi, em không có ý đồ xấu xa thế đâu, vả lại em sao đủ trình để lừa nổi bác chứ, em nghĩ chắc bác tự lừa mình là bị em lừa rồi, bác nghiên cứu lại trong thời kỳ Công giáo bị "bách hại" xem các vua muốn giới lãnh đạo Công giáo và giáo dân làm gì, xem có phải là giống như bên Pháp thời Cách mạng 1789 không nhé, đạp ảnh Chúa, v.v và v.v thì có phải là từ bỏ tôn giáo mà quay về với tín ngưỡng cổ truyền không bác, không làm điều vua muốn, thì là sao nhỉ???
    Bác doandonga , caytrevietnam xin mời tiếp tục với đề tài "Bình Tây sát tả". Bài đăng dưới đây do Cộng đoàn CCCC tại Quận Cam phát hành, từ ngữ không được thuận tai cho lắm, nên chỉ trích đăng phần về các vị tử đạo, bạn nào muốn đọc thêm nữa, xin nhấn vào link ở tên tác giả phía dưới bài viết.
    Kinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam
    Kính lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam/ xưa đã biết dùng ơn Chúa mà lướt thắng mọi khó khăn khổ cực/ để gieo rắc hạt giống Phúc Âm/ và xây dựng Hội Thánh Chúa trên đất nước Việt Nam. Các  Thánh đã can đảm tuyên xưng Đức Tin đến hy sinh mạng sống/ vì lòng yêu mến Chúa và phần rỗi các linh hồn/ nên đáng được hưởng hạnh phúc trên trời.
    Chúng con xin hiệp ý cùng các Thánh mà tạ ơn Thiên Chúa và Mẹ Maria/ Nữ Vương các Thánh Tử Đạo/ đã ban cho các Thánh được hồng phúc như vậy. Chúng con hoan hỉ ca tụng các Thánh là những hoa tươi đầu mùa cao quí của Hội Thánh Việt Nam.
            Xin các Thánh cầu bầu cho chúng con/ là con cháu biết noi gương mà sống đạo Phúc Âm/ thi hành Bác Ái/ trung thành với Hội Thánh và yêu mến Quê Hương.  Và khi chúng con gặp khó khăn nguy hiểm/ xin các Thánh giúp đỡ ủi an/ để chúng con đủ sức vâng theo ý Chúa/ cộng tác vào mầu nhiệm Thập Giá cứu độ của Chúa Giêsu/ tiếp tục con đường các Thánh đã đi hầu đạt tới hạnh phúc muôn đời.  Amen.
    Thánh cốt của Năm vị Thánh Tử Đạo Việt Nam
    Khung kính màu (Stained glass window) biểu trưng Chư Thánh Tử Đạo Việt Nam, trước đây đã được đặt ở vị trí cạnh Nhà Nguyện Thánh Thể; nay phía bên tay phải khung kính màu ấy cũng đã được gắn một Hòm Thánh Cốt  của Năm Vị Thánh Tử Đạo Việt Nam mà Cộng Đoàn Chúa Giêsu Thánh Thể có được,  (từ trái qua phải, từ trên xuống) gồm:
    [​IMG]Giuse Phạm Trọng Tả 
    [​IMG]Luca Phạm Trọng Thìn
    [​IMG]Anê Lê Thị Thành
    [​IMG]Ðaminh Phạm Trọng Khảm
    [​IMG]Ðaminh Vũ Ðình Tước
    SƠ LƯỢC VỂ LỊCH SỬ TỬ ĐẠO TẠI VIỆT NAM
    Việt Nam có 6 tôn giáo chính: Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo , Kitô giáo, Cao Đài và Đạo thờ ông bà.
    Khoảng 80% người Việt theo đạo thờ ông bà. Đạo này phát sinh từ Khổng giáo mà ra, dậy rằng con người ta khi chết thì chỉ có thể xác bị hủy diệt còn linh hồn vẫn ở lại với gia đình và con cháu. Do đó hàng năm con cháu vẫn phải thờ kính tổ tiên.
    Trước khi Khổng giáo từ Trung Hoa được truyền vào Việt Nam, thì đạo Phật đã được nhiều người theo từ thế kỷ thứ 2.  Trong thời trung cổ, đạo Phật đã rất thịnh hành, các Vua Quan đều là Phật tử cả. Khi Khổng Giáo xuất hiện thì người dân theo cả hai đạo, nên họ lẫn lộn về các hình thức thờ cúng. Đó là lý do dân chúng trong làng nhà nào cũng có bàn thờ tổ tiên (gọi chung là đạo thờ ông bà) trong khi làng lại vẫn có một ngôi Chùa chung để thờ Phật. Các vị sư sãi sống trong Chùa cũng có bàn thờ tổ tiên.
    Thiên Chúa giáo được truyền vào Việt Nam tương đối trễ so với các đạo khác. Các vị truyền giáo vào Việt Nam từ thế kỷ thứ 14, bắt đầu với I-nê-khu (I-nha-xiô) vào năm 1533. Ông là một thầy dòng người Âu Châu, ông ghé (có thể bị lạc) vào Việt Nam trên đường đến Trung Hoa. Thực ra mãi đến thế kỷ thứ 16, các nhà truyền giáo từ Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mới thực sự giảng đạo cho người Việt Nam.
    Vì có sự lẫn lộn giữa Đạo thờ cúng ông bà với Phật giáo, nên các thừa sai Công Giáo mới cấm các tín hữu Việt Nam không được thờ cúng tổ tiên. Các vua quan theo Khổng giáo sợ rằng Công Giáo sẽ hủy họai truyền thống tổ tiên nên ra lệnh cấm truyền đạo Kitô Giáo vào năm 1698. Những năm sau đó, nhất là trong những năm 1712, 1723 và 1750, số người Công giáo tử vì đạo đã lên tới 100 ngàn người. Việc cấm cách được đình chỉ một thời gian nhờ sự can thiệp của Giáo Hội đưa đến một thỏa ước được ký kết giữa Pháp và Nguyễn Ánh là người đang muốn Pháp giúp đánh lại quân Tây Sơn để lên ngôi vua năm 1802 lấy hiệu là Gia Long. Tiếc thay, các vua kế vị Gia Long sau này như Minh Mạng và Tự Đức đều ra sức cấm đạo. Vua Minh Mạng đã ra lệnh cấm các thừa sai ngọai quốc vào Việt Nam, còn các tín hữu Công giáo Việt Nam thì phải đạp lên Thánh Giá để chứng minh là bỏ đạo và trung thành với Vua.  Những ai không chịu bỏ đạo thì bị khắc chữ ?otà đạo? trên trán, ngòai ra còn bị lưu đầy. Hiện nay, sau Công Đồng Vaticanô II (1962-1965) , người Công giáo Việt Nam đã được phép tôn kính tổ tiên và các anh hùng dân tộc với điều kiện phải hiểu rằng đây không phải là một tôn giáo hay vì mê tín dị đoan, mà đây chỉ là hình thức kính nhớ và vinh danh ông bà tổ tiên.
    Trong thế kỷ 18 và 19, có từ khoảng 130 ngàn đến 300 ngàn người Công giáo bị giết vì đạo Chúa. Trong 5 năm từ 1857 đến 1862. có khoảng 5 ngàn tín hữu bị giết vì đạo, khoảng 215 giáo sĩ tu sĩ nam nữ cùng khỏang 40 ngàn tín hữu bị bắt và bị tù tội hay bị lưu đầy. Tiếc rằng hầu hết các tài liệu tử đạo đều bị thất lạc, chỉ còn một số trường hợp được ghi chép lại trong đó có 117 vị đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong lên bậc hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988. Ít năm sau đó, Thánh Phú Yên cũng được Đức GH Gioan Phaolô II phong hiển thánh. Trong số 117 vị thánh nói trên, có 96 là người Việt Nam, 11 vị là người Tây Ban Nha thuộc Dòng Đaminh và 10 vị là người Pháp thuộc Hội Truyền Giáo Ba-lê. Trong số 117 vị thánh ấy, có 8 giám mục, 50 linh mục, 1 chủng sinh và 58 giáo dân. Tổng cộng có 76 vị bị chém đầu, 21 vị bị thắt cổ, 9 vị bị tra tấn đến chết, 6 vị bị thiêu sống và 5 vị bị án lăng trì (cắt thân thể ra từng mảnh). Lịch trình phong chân phước của các thánh trên như sau: 64 vị được phong chân phước năm 1900 do Đức GH Lêô XIII; 8 vị năm 1906 do ĐGH Piô X; 20 vị năm 1909 cũng do ĐGH Piô X; và 25 vị năm 1951 do ĐGH Piô XII.
    Sau khi giáo xứ chúng ta có nhà thờ mới, chúng tôi trong cộng đồng Việt Nam ước ao có một nơi trong nhà thờ để tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúng tôi hiện có một số xương thánh, nhưng chỉ chọn ra 5 bộ để lưu kính trong hộp xương thánh được gắn trên tường gần Khung Kính Mầu Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, phía bên mặt cửa chính vào Nhà Nguyện Thánh Thể. Vì Thánh Anrê Dũng Lạc đứng đầu danh sách toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam nên hình ảnh của ngài được phác họa trên Khung Kính Mầu. Chúng tôi rất tiếc đã không sưu tầm được bộ xương của Thánh Dũng Lạc, nhưng tiểu sử của Thánh Dũng Lạc và 5 vị thánh có xương lưu kính trong hộp xương thánh được tóm lược như sau:
    (By Thanh Do & Fr. Tuan Nguyen)
  6. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Thánh Anrê Dũng Lạc sanh năm 1795 trong một gia đình ngọai đạo. Cha mẹ nghèo quá không có tiền cho đi học nên để cho một Thầy Giảng nhận làm con nuôi. Cậu Dũng được bố nuôi gởi vào Chủng Viện Vĩnh Trị và được rửa tội tại đấy. Cậu Dũng là một trong những học sinh đứng đầu lớp không phải vì giỏi giang, nhưng vì cố gắng và chăm chỉ. Cậu ao ước được làm linh mục để phục vụ Chúa và giáo hội, nhất là săn sóc những người bệnh tật nghèo khó. Tại trường, cậu được học tiếng la-tinh và tiếng Tầu. Sau khi học xong Chủng Viện, thầy Dũng đi dậy giáo lý 10 năm để thử thách, và sau đó thầy được chịu chức linh mục vào ngày 15 tháng 3 năm 1823 lúc mới 28 tuổi. Cha Dũng đi coi sóc nhiều giáo xứ trước khi bị bắt vì đạo dưới triều Minh Mạng. Vì lệnh cấm đạo quá gắt gao nên Cha Dũng đổi tên là Lạc và vẫn lén lút đi các xứ làm mục vụ, cho đến ngày 10 tháng 11 năm 1839 khi cha vừa làm lễ buổi sáng xong thì bị quân lính vây bắt. Trong nhà tù, cha Dũng Lạc bị tra tấn rất dã man. Ngày 21 tháng 12 năm 1839, cha Dũng Lạc bị trảm quyết (chém đầu) tại Cầu Giấy gần Hà Nội. Cha Dũng Lạc được Đức GH Lêô XIII phong chân phước ngày 25 tháng 5 năm 1900 và được Đức GH Gioan Phaolô II phong hiển thánh ngày 19-6-1988.


    Thánh Đaminh Vũ Đình Tước sanh năm 1775 tại Trung Lao, Nam Định. Hồi còn nhỏ, cậu Tước siêng năng cầu nguyện bất kể ngày hay đêm. Khi làm Linh Mục, cha Tước có tài giảng thuyết và làm việc hăng say; ngài cử hành thánh lễ rất sốt sắng. Đến năm 36 tuổi, cha Tước xin gia nhập Dòng Đa Minh. Vì lệnh cấm đạo gắt gao của vua Minh Mạng nên cha Tước phải trốn tránh tại các nhà của giáo dân và thay đổi chỗ ở luôn. Ngày 2 tháng 4 năm 1839, cha Tước bị bắt khi đang cử hành thánh lễ buổi sáng. Một số giáo dân cố gắng giải cứu ngài, và đang khi ngài chạy trốn thì quân lính dùng búa bổ vào đầu khiến ngài chết tại chỗ. Cha Tước được Đức GH Piô XII phong chân phước ngày 29-4-1951 và được Đức GH Gioan Phaolô II phong hiển thánh ngày 19-6-1988.


    Thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm ( Án Khảm ) sinh năm 1780 trong một gia đình đạo đức trong làng Quần Cống thuộc tỉnh Nam Định. Đến năm 18 tuổi, ông kết hôn với cô Agnès Phương . Ông bà sanh được 1 người con trai (cũng được phúc tử vì đạo) và 3 người con gái. Ông thành công trên đường hoạn lộ. Sau khi đỗ đạt tại Kinh Đô, ông được cử làm quan Án Sát Tỉnh Nam Định. Ông nổi tiếng là thanh liêm; ông về hưu ở tuổi 60. Tại làng Quần Cống, ông được nổi danh nhờ lòng đạo đức và bác ái đối với dân làng. Ông gia nhập Dòng Ba Đaminh. Khi quân lính về bắt đạo tại làng Quần Cống thì cụ Án Khảm đã gần 80 tuổi và lúc đó là thời kỳ bắt đạo rất gắt gao dưới thời Vua Tự Đức. Cụ ra sức khuyên nhủ dân làng giữ vững đức tin và bảo vệ các giáo sĩ. Cụ cùng với người em họ là ông Cai Tả và mấy hương chức trong làng bị bắt và bị chém đầu ngày 13-1-1859. Cụ được Đức GH Piô XII phong chân phước ngày 29-4-1951, và được Đức GH Gioan Phaolô II phong hiển thánh ngày 19-6-1988.


    Thánh Luca Phạm Trọng Thìn (Cai Thìn) sanh năm 1820, là con trai duy nhất của Thánh Án Khảm. Khi cha là Thánh Án Khảm bị bắt, ông Cai Thìn đang làm Chánh Tổng (Cai Tổng) Trà Lũ, Nam Định. Trong khi làm quan, mặc dầu đã có vợ, ông Cai Thìn cưới thêm người tiểu thiếp và cuộc sống không mấy nề nếp. Vì quân quan nhiều lần về Quần Cống lùng bắt giáo sĩ nên bà Án Khảm sai ông Cai Thìn đem tiền lên tỉnh đút lót các quan để xin các quan nới tay cho dân làng Quần Cống. Ông Cai Thìn lên Nam Định thì quên ngay việc đi đút lót các quan, ông dùng tiền ấy vào các việc ăn chơi cho đến khi nghe tin cha ông và các hương chức bị bắt giam thì đã quá trễ không chạy chọt được nữa. Ông Cai Thìn hối hận vô cùng, ông về nhận tội với mẹ, gia đình và làng xã; ông chia của cải cho bà vợ thứ, ly dị với bà này rồi lên tỉnh xin thú nhận mình theo đạo Công giáo và xin được bị giam vì đạo. Ông bị tù cùng với cha ông và cùng bị trảm quyết vào ngày 13-1-1859. Ông được vào danh sách phong chân phước và hiển thánh với cha ông.


    Thánh Giuse Phạm Trọng Tả (Cai Tả) sanh năm 1800, là em thúc bá với Thánh Án Khảm. Lúc bị bắt cùng với Thánh Án Khảm, ông là cựu Chánh Tổng (hưu). Ông cùng với Thánh Án Khảm và các hương chức luôn bảo vệ các giáo sĩ, người Việt cũng như thừa sai ngoại quốc. Ông cùng được phúc tử đạo, cùng trong danh sách phong chân phước và hiển thánh với thánh Án Khảm.


    Bà Thánh Inê (Anê) Lê Thị Thành (Bà Thánh Đê) sinh năm 1781 tại Thanh Hóa, Miền Trung Việt Nam. Bà lập gia đình năm 17 tuổi, sanh được 2 người con trai và 4 người con gái. Bà rất can đảm trong việc che chở các giáo sĩ trong lúc các vị đi trốn quân của triều đình. Một lần bà bị bắt quả tang đang cho một linh mục Việt Nam trốn trong nhà nên bị bắt và bị tống ngục. Bà bị bắt phải quá khóa (bỏ đạo ), nhưng bà nhất định giữ vững đức tin dù bị tra tấn rất dã man. Bà chết trong tù vào ngày 12-7-1841 lúc 60 tuổi. Bà được Đức GH Piô X phong chân phước ngày 2-5-1909 và được Đức GH Gioan Phaolô II phong hiển thánh ngày 19-6-1988.
    (....lược bỏ)
    (By Thanh Do & Fr. Tuan Nguyen)
  7. 123Sale

    123Sale Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/10/2007
    Bài viết:
    319
    Đã được thích:
    0
    Chú CoDep dựa vào đâu mà phán câu "Thề trung thành với hiến pháp" hay lại hóng hớt được ở mấy vị chống + ở bển. Lại còn phán 1 câu xanh rờn tìm cả thị xã Hưng Yên không tìm được 1 ai "Thề trung thành với hiến pháp", trả có dẫn chứng và lý lẽ gì cả, già mà dại, ăn nói thiếu suy nghĩ, chỉ biết nói suông cho sướng mồm.
    Làm quái gì có khái niệm "Thề trung thành với hiến pháp", toàn đánh bùn sang ao, đánh tráo khái niệm thiếu khoa học. Từ lúc sinh ra đến giờ cháu chưa bao giờ phải làm cái lễ gì gọi là lễ "Thề trung thành với hiến pháp" cả, chỉ có giáo dân Gà-Tồ thề trung thành với Chúa thôi.
  8. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Vài bạn hay lôi ĐCS vào để biện luận cho quan điểm của mình, có điều các bạn biện luận sai lệch với chủ chương của ĐCS, tôi mời các bạn đó phản biện lại tài liệu chính thống của ĐCS dưới đây:
    Tôn giáo cùng tồn tại trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội(Nguyễn Đức Lữ)
    Tôn giáo, tín ngưỡng đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử nhân loại ở mọi quốc gia, qua nhiều thể chế chính trị. Tuy thịnh suy mỗi thời một khác, nhưng vai trò và ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội không như nhau.
    1 - Người Việt Nam, dù là dân tộc thiểu số hay đa số, có tôn giáo hay không có tôn giáo, theo tôn giáo này hay tôn giáo khác, sống trong nước hay định cư ở nước ngoài, trong sâu thẳm của tâm hồn họ vẫn ẩn chứa niềm tự hào về nguồn gốc huyền thoại con Rồng, cháu Tiên của mình. Mọi người đều quý trọng mảnh đất thiêng liêng hình chữ S, mà ở đấy mỗi tấc đất đều thấm máu và mồ hôi của ông cha qua nhiều thế hệ dựng nước và giữ nước. Nơi ấy có hồn thiêng sông núi, có linh hồn ông bà tổ tiên kết đọng ở Đền Hùng - cội nguồn của dân tộc Việt. Vì vậy, việc gắn đạo với đời, tôn giáo với dân tộc để cho "nước vinh đạo sáng" luôn là tâm nguyện của mọi người bao đời nay, dễ gì để cho ai đó có toan tính phân ly, chia tách.
    Ấy thế mà những người không mấy thiện cảm với người c ộng sản và chủ nghĩa xã hội đã đối lập giữa người c ộng sản với tín đồ các tôn giáo. Họ tung ra đủ những luận điệu, nào là vô thần và hữu thần như nước với lửa; chủ nghĩa xã hội không tương dung với tôn giáo; chủ nghĩa xã hội phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế; chủ nghĩa xã hội không phù hợp với nền văn minh Ki-tô giáo. Họ còn gán cho những người c ộng sản đủ thứ xấu xa, đó là những kẻ vô Tổ quốc, vô gia đình và vô đạo. Thậm chí, họ còn đồng nhất người c ộng sản với quỷ dữ..., rằng: c ộng sản diệt công giáo, cố làm cho nhân dân quên thực dân Pháp chính là kẻ tử thù của công giáo, của c ộng sản cũng như của toàn dân...
    Thực tiễn quá trình thực hiện hai cuộc cách mạng: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tự nó đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc trên. Từ trước đến nay và mai sau, những người c ộng sản chưa bao giờ có ý định phủ nhận sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội và cũng chưa khi nào có chủ trương chống tôn giáo mà chỉ chống những kẻ lợi dụng tôn giáo vì mục đích chính trị *********. Ngay từ "Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844", C. Mác đã viết: chủ nghĩa vô thần là phủ nhận Thượng đế và đặt làm định đề cho sự tồn tại của con người thông qua sự phủ định đó: nhưng chủ nghĩa xã hội như chính nó không cần đến cầu nối đó. Ph. Ăng-ghen đã từng phê phán gay gắt những phần tử tả khuynh vô chính phủ khi họ muốn ghi vào cương lĩnh của đảng công nhân việc công khai thừa nhận chủ nghĩa vô thần theo cái nghĩa là tuyên chiến với tôn giáo. Năm 1874, ông đã phê phán tuyên ngôn của phái Blăng-ki và cho rằng: tuyên chiến ầm ĩ của họ với tôn giáo là dại dột; rằng: tuyên chiến như thế là một phương pháp tốt nhất làm kích động thêm sự quan tâm của người ta đối với tôn giáo. Năm 1877, trong tác phẩm "Chống Đuy-rinh", Ph. Ăng-ghen lại lên án tư tưởng cách mạng giả hiệu của Đuy-rinh, khi ông ta chủ trương cấm tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội.
    V.I Lê-nin cũng đã từng tỏ thái độ không đồng tình đối với những phần tử tả khuynh vô chính phủ muốn phủ nhận sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội và những hành vi thô bạo của họ. Ông cho rằng: Đối với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu tranh thực sự cách mạng đó của giai cấp bị áp bức để sáng tạo một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc trên thiên đường. Theo ông, điều mà người c ộng sản cần và có trách nhiệm là: Đoàn kết họ lại vì cuộc đấu tranh thực sự nhằm giành lấy một cuộc đời tốt đẹp hơn trên trần thế.
    Ở nước ta, ngay từ năm 1945, chỉ sau một ngày khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết. Năm 1951, trước luận điệu xuyên tạc của kẻ địch về nguy cơ c ộng sản tiêu diệt tôn giáo, trong buổi kết thúc lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Người khẳng định: "Chúng tôi... xin nói rõ để tránh mọi sự hiểu lầm: ...về vấn đề tôn giáo thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người"(1). Sau khi miền Bắc được giải phóng, một số bà con tín đồ các tôn giáo còn băn khoăn về sinh hoạt tôn giáo trong chế độ mới, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: Đảng C ộng sản chẳng những không tiêu diệt tôn giáo mà còn bảo hộ tôn giáo; Đảng C ộng sản chỉ tiêu diệt tội ác người bóc lột người, vì thế đồng bào có đạo rất an tâm. Ngày 10-05-1958, khi trả lời câu hỏi của các cử tri Hà Nội: tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tôn giáo có bị hạn chế không?, Hồ Chí Minh một lần nữa nhắc lại thái độ của người c ộng sản đối với tôn giáo rằng: ở các nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng hoàn toàn tự do. Ở Việt Nam cũng vậy. Năm 1990, Bộ Chính trị Đảng C ộng sản Việt Nam ra Nghị quyết 24 về công tác tôn giáo, xác định: tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Tiếp theo, Nghị quyết Trung ương 7, khóa IX (năm 2003) khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc"(2). Người c ộng sản không chỉ thừa nhận về sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội, mà còn thấy sự tương đồng nhất định về lý tưởng tôn giáo với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
    2 - Tôn giáo với học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học là hai hệ tư tưởng khác nhau. Chủ nghĩa duy linh và chủ nghĩa duy vật là ngược nhau. C ộng sản vô thần, công giáo hữu thần, nhưng c ộng sản và công giáo vẫn có chỗ giống nhau, cả hai đều phản ánh khát vọng về sự giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, nô dịch và nghèo khổ.
    Những nhà sáng lập ra học thuyết Mác - Lê-nin thừa nhận: "Trong lịch sử đạo Cơ Đốc sơ kỳ có những điểm giống đáng lưu ý với phong trào công nhân hiện đại... Cả đạo Cơ Đốc lẫn chủ nghĩa xã hội công nhân đều tuyên truyền sự giải phóng con người trong tương lai khỏi cảnh nô lệ và nghèo khổ"(3). Thiên quốc chẳng qua chỉ là một chế độ xã hội trong đó không có sự khác biệt về giai cấp, không có tài sản tư hữu, không có chính quyền nhà nước tách biệt, đối lập với mọi thành viên trong xã hội và xa lạ với nó. Phải chăng, những đặc trưng của chủ nghĩa c ộng sản và thiên đường mà một số tôn giáo từng hứa hẹn về cơ bản là giống nhau về mục tiêu vươn tới. Phi-đen Cát-xtơ-rô cho rằng: "Những sự trùng hợp giữa Ki-tô giáo và chủ nghĩa c ộng sản nhiều gấp vạn lần so với những trùng hợp có thể có giữa Ki-tô giáo với chủ nghĩa tư bản"(4).
    Kế thừa tư tưởng của các nhà sáng lập học thuyết Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh rất chú ý khai thác điểm tương đồng giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội, chính điều đó đã thu hút, tập hợp quần chúng có tôn giáo cùng toàn dân tích cực không chỉ trong cách mạng giải phóng dân tộc mà cả trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
    Khi nói với đồng bào có đạo, còn ít hiểu biết về chủ nghĩa xã hội, trong những ngày đầu xây dựng xã hội mới, Hồ Chí Minh giải thích rất cụ thể, thiết thực và rõ ràng: Xã hội ngày càng lớn, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội. Người luôn tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa có trong tín ngưỡng, tôn giáo. Người cho rằng Phật Thích Ca, Chúa Giê-su và Đức Khổng Tử đều là những vĩ nhân của lịch sử, là bậc thầy. Họ đã từng hy sinh, phấn đấu cho hạnh phúc của con người, chống lại áp bức, bất công và luôn mơ ước về một xã hội tốt đẹp. Dù tôn giáo là "hạnh phúc hư ảo của nhân dân", nhưng sự hy sinh của các đấng bậc ấy cho ước mơ của con người là rất đáng trân trọng. Người cho rằng: Nếu Đức Giê-su sinh ra vào thời đại chúng ta và phải đặt mình trước những nỗi khổ đau của người đương thời, chắc Ngài sẽ là một người xã hội chủ nghĩa đi tìm đường cứu khổ loài người. Ý tưởng này cũng giống như đối với Khổng Tử, khi Người viết: Cũng có khả năng là siêu nhân này chịu thích ứng với hoàn cảnh và nhanh chóng trở thành người kế tục trung thành của Lê-nin.
    Trong bài viết đăng trên báo Sự thật năm 1949, đồng chí Trường Chinh - cố Tổng Bí thư Đảng C ộng sản Việt Nam nói rõ: c ộng sản vô thần, công giáo hữu thần, thế nhưng c ộng sản và công giáo vẫn có chỗ giống nhau. Lý tưởng c ộng sản và lý tưởng của Chúa Cơ Đốc không khác nhau mấy. Chúa muốn người ta đừng lừa đảo, bóc lột lẫn nhau, Chúa muốn người ta tương thân tương ái. Người c ộng sản cũng muốn thế. Trong khi đánh đuổi bọn độc tài, bọn ăn bám, bọn bóc lột, người c ộng sản chính đã làm theo ý Chúa Cơ Đốc. Thật ra, có thể nói điểm tương đồng cơ bản giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo là tất cả vì hạnh phúc cho con người. Cùng quan điểm trên, đồng chí Nguyễn Văn Linh - Tổng Bí thư Đảng C ộng sản Việt Nam của thời kỳ đầu đổi mới, cho rằng: Phật Thích Ca khi thấy quần chúng lầm than, đau khổ đã từ bỏ ngôi báu tìm con đường cứu khổ của nhân loại và kết luận: "Mục đích của Giê-su và Thích Ca giống nhau ở chỗ làm việc thiện, việc đạo đức thể hiện lòng thương người nghèo, ghét xa hoa, phù phiếm, bóc lột, áp bức nhân dân lao động". Về đạo Cao Đài, đồng chí nêu, đạo này có nét độc đáo là: "Thờ nhiều vị: Các Mác, Lê-nin, Vích-to Huy-gô, Phật Thích Ca, Tôn Dật Tiên..." và họ: "Đều là những người yêu nước, thương người nghèo khổ, có tư tưởng tiến bộ"(5).
    Ki-tô giáo khởi thủy là tôn giáo của người nghèo, của những người bị áp bức và nô lệ. Tôn giáo ấy phản ánh sự phản kháng của quần chúng cần lao đối với chế độ thống trị, bóc lột. Khởi thủy, đó là phong trào chính trị tiến bộ. Thực tế lịch sử đã chứng minh một số người sáng lập và lãnh đạo các tôn giáo là những người nguyện hy sinh vì người nghèo. Những phong trào mà họ khởi xướng ít nhiều đều phản ánh trào lưu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa c ộng sản không tưởng - một trong những tiền đề tư tưởng cho sự xuất hiện của chủ nghĩa xã hội khoa học sau này.
    3 - Cả người c ộng sản và người có tôn giáo đều có ước mơ về một xã hội tốt đẹp và phấn đấu để đạt được ước mơ đó, nhưng phương pháp để đạt mục đích ấy lại khác nhau. Những người c ộng sản tìm thấy sự giải phóng trước hết trong hiện thực vật chất, thực tế, nhờ tinh thần con người, như V.I Lê-nin từng nói. Họ đem hết sức lực, trí tuệ để xây dựng "thiên đường" ngay trên cõi trần, còn chủ nghĩa cơ đốc đem sự giải phóng đó đặt vào mai sau, đặt trong "đời sống" sau lúc chết, đặt ở trên trời.
    Như vậy, sự khác biệt giữa lý tưởng tôn giáo và chủ nghĩa xã hội cơ bản nằm trong khuôn khổ của thế giới quan cũng như phương pháp và lực lượng thực hiện sứ mệnh giải phóng con người. Tôn giáo hứa hẹn xã hội hoàn thiện ở "thế giới bên kia", trong khi những người c ộng sản chủ trương thay đổi cái nhà nước ấy và xã hội hiện tại ấy bằng một xã hội khác cao hơn, công bằng hơn, trong đó, chế độ người bóc lột người sẽ bị thủ tiêu. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà người c ộng sản phủ nhận nhu cầu hướng tới "thiên đường" của quần chúng - chừng nào đồng bào có đạo còn có nhu cầu ấy. Sự khác nhau về nhận thức không tất yếu dẫn đến sự khác nhau về quan điểm chính trị. Nghĩa là, người có cũng như không có tín ngưỡng, tôn giáo vẫn có thể cùng phấn đấu cho một mục tiêu chính trị nhất định.
    Nhân dân ta trải qua ba thập kỷ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ với bao khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh; trong đó, có không ít tín đồ và chức sắc các tôn giáo. Năm 1975, đánh dấu một trang sử mới của lịch sử dân tộc - nước nhà thống nhất, giang sơn quy về một mối, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Hòa vào niềm vui chung của cả dân tộc với sự kiện lịch sử trọng đại này, đồng bào các tôn giáo cùng toàn dân đang nỗ lực thực hiện sự nghiệp xây dựng chế độ mới trên phạm vi cả nước.
    Theo Hồ Chí Minh: cách mạng là việc chung của dân chúng chứ không phải việc của một hai người, mà đã là việc chung thì phải vận động mọi người cùng đoàn kết tham gia gánh vác. Xây dựng khối đoàn kết dân tộc là trách nhiệm chung của toàn dân ta, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng.
    Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm: tập hợp đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng, tôn giáo cùng nhau xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; có trách nhiệm phản ánh kịp thời những tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân về các vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tuyên truyền, vận động chức sắc, nhà tu hành, tín đồ, người có tín ngưỡng, các tổ chức tôn giáo và nhân dân thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
    Tại Hội nghị lần thứ sáu Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khóa V), Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh khẳng định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không chỉ là biểu tượng của khối đoàn kết toàn dân tộc mà còn là một tổ chức hoạt động đầy sức sống, tập hợp đông đảo nhất, rộng rãi nhất mọi tầng lớp nhân dân, mọi dân tộc, mọi tôn giáo, mọi thành phần kinh tế, mọi cá nhân mong muốn phấn đấu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"(6).
  9. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Hai mươi năm của sự nghiệp đổi mới, nhân dân ta đã thu được những thành công quan trọng trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó, có lĩnh vực tôn giáo. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các tôn giáo được cải thiện, chức sắc và tín đồ các tôn giáo an tâm phấn khởi, ngày càng tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đ ảng, của Nhà nước và cùng toàn dân tích cực tham gia vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
    Là người Việt Nam, dù theo tôn giáo này hay tôn giáo khác; dù theo tôn giáo hay không theo tôn giáo; dù là dân tộc đa số hay thiểu số; dù ở trong nước hay định cư ở nước ngoài; dù có tham gia phong trào giải phóng dân tộc hay đã từng một thời lầm đường lạc lối... hẳn ai cũng đều mong muốn Tổ quốc yêu quý của chúng ta cường thịnh, non sông đất nước ta tươi đẹp, xã tắc bình yên, con người hạnh phúc, làm rạng danh Việt Nam trên trường quốc tế. Khát vọng ấy đã, đang và sẽ mãi mãi là mẫu số chung, là sự tương đồng để đoàn kết mọi người mang dòng máu Lạc - Việt, để "Tăng cường sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo và những người không tín ngưỡng, tôn giáo; giữa những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau". Muốn vậy, một phần rất quan trọng là phải "Tăng cường hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo"(7).
    Chú thích:(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1995, t 6, tr 183 (2) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 48(3) C.Mác-Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 22, tr 663(4) Về tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, t 1, tr 9(5) Nguyễn Văn Linh: Đổi mới công tác quần chúng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 40 và 42(6) Hội nghị lần thứ sáu Ủy Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khóa V), Hà Nội, tháng 3-2004, tr 58(7) Văn kiện Hội Nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 53
    http://www.onthi.com/?a=TV&tv=STR&str=S&hdn_story_id=6974
  10. Freesky

    Freesky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/09/2006
    Bài viết:
    2.442
    Đã được thích:
    0
    Đất Việt Nam do ngàn đời đổ bao xương máu mồ hôi khai khẩn bảo vệ mà có, những kẻ lạc loài có quyền gì mà đòi?
    Xuống âm phủ mà đòi nhé.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này