1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cho hoi ve "Ki thuat suy tuong cua Phuong Dong"

Chủ đề trong 'Học thuật' bởi arch_tieungaogiangho, 29/04/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. arch_tieungaogiangho

    arch_tieungaogiangho Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2003
    Bài viết:
    10
    Đã được thích:
    0
    Tại hạ xin có lời chào các vị cao nhân ẩn sĩ ở đây. Tại hạ chẳng may đọc một cuốn sách, trong đó có đoạn đề cập đến cái gọi là "kĩ thuật suy tưởng của phương Đông" . Tại hạ quen sử dụng các chiêu thức suy nghĩ của phương Tây, nên không hiểu ẩn ý của khái niệm đó. Có vị nhân huynh nào kiến văn rộng rãi xin chỉ giáo cho vài chiêu để tại hạ có dịp mở rộng tầm mắt.
    Hiểu biết có hạn, không thể dùng lời nói để diễn đạt hết ý nghĩ, thôi thì có sao nói vậy.
  2. nihilism

    nihilism Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/12/2003
    Bài viết:
    56
    Đã được thích:
    0
    Thế thì mời tiên sinh cứ trình bày "các chiêu thức suy nghĩ của phương Tây " mà tiên sinh có kinh nghiệm trước đi đã.
  3. luuthuy

    luuthuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/06/2002
    Bài viết:
    2.109
    Đã được thích:
    1
    Cách suy nghĩ và suy luận của Phuơng Đông thuờng đi vào bề chìm và nặng duy tâm hơn là cách suy nghĩ của phuơng Tây hơn.
    Nếu bạn chú ý thì 3 tôn giáo chính luôn ảnh huởng tới nhau trong lịch sử phát triển phuơng Đông, mặc dù đôi khi nó rất mâu thuẫn với nhau là Nho-Lão-Phật.
    Cách suy nghĩ Nho tạo cho cách tề quốc trị gia.
    Lão tạo nên cách suy nghĩ mang tính chất nhiều khi hư ảo.
    Phật thì tạo cách nghĩ về thế giới Phật và cuộc sống luơng thiện.
    Nếu bạn xem phim Tây Du Kí cũng vậy, sẽ thấy rất rõ sự pha trộn của cả ba cái đó. Một thế giới Phật Pháp có tôn tị trật tự giống hệt triều đình Nho giáo, và các cách diễn giải thì khó hiểu và vòng vo theo cách Đạo Lão.
    Tuy nhiên bạn nên trình bày "các chiêu thức suy nghĩ của phương Tây " của bạn để mọi nguời có thể hiểu hơn câu hỏi của bạn.
    Thân ái.
  4. arch_tieungaogiangho

    arch_tieungaogiangho Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2003
    Bài viết:
    10
    Đã được thích:
    0
    Một cách đặt ngược lại vấn đề rất thông minh. Không biết bằng hữu có định hàm ý rằng điều tại hạ muốn hỏi và điều bằng hữu yêu cầu có phải là hai mặt của một vấn đề như hai mặt của một đồng tiền mà chỉ cần lật được một mặt sẽ biết được mặt còn lại không? Một phương cách hỏi để trả lời chăng? Với tại hạ, dù hai điều này có liên quan mật thiết như ngày và đêm, như đông và tây, như mặt trời và sự sống trên trái đất, thì xin được nói rằng, điều tại hạ muốn tìm hiểu vượt ra khỏi sự liên quan có tính hai mặt đó. Chính vì vậy tại hạ muốn chắc chắn một điều là ý nghĩ phải bắt đầu từ chỗ mà không có gì liên quan đến cái cách mà tại hạ đã và vẫn đang dùng để suy nghĩ. Ai đã từng đọc Ỷ Thiên Đồ Long hẳn còn nhớ đoạn Trương Tam Phong dạy Thái Cực Quyền cho Trương Vô Kỵ trước đông đảo quần hùng. Mọi người đều thấy rõ những chiêu thức mà Trương Tam Phong trực truyền cho Vô Kỵ, nhưng duy nhất có Trương Vô Kỵ lĩnh hội và sử dụng được. Những người còn lại biết cũng như không, dù họ có trí tuệ tuyệt đỉnh và võ công cái thế đi chăng nữa. Cái đạo lý của sự truyền thụ nằm ở chỗ Trương Vô Kỵ phải quên hết những gì mình đã học trước kia, đi đến chỗ vô niệm hoàn toàn. Chỉ với điều kiện đó mới triển khai đúng đắn phẩm chất của Thái Cực quyền. Cái lối tư duy này, có vẻ hơi ngược đời, sẽ rất khó quan niệm nếu dựa trên tinh thần học thuật phương Tây, cái tinh thần đòi hỏi phải xác tín tri thức dựa trên những tiền đề nhất định. Tư duy phương Tây dựa vào tinh thần đó phải có điểm bắt đầu hữu hình và hữu hạn, không cần biết điểm hữu hình và hữu hạn đó dựa trên niềm tin hay quan sát thực tế, tôn giáo hay khoa học. Lối tư duy đó cũng dạy rằng tri thức đáng chiêm ngưỡng là kết quả của sự tích luỹ kinh nghiệm thực chứng và suy nghĩ có nguyên tắc một cách ít nhiều tuần tự tuyến tính theo thời gian, một sự tích luỹ về lượng để đi tới sự quá độ về chất. Tại hạ cho rằng những ai từng đi vào con đường học thuật đều mang trong mình một niềm tin như thế, nhiều khi là vô ý thức về niềm tin đó. Từ niềm tin này, sẽ nảy sinh thêm một hình dung tâm lý khác là những gì mà chúng ta chưa biết, chúng ta sẽ biết theo thời gian, khi sự tích luỹ tri thức đạt đến ngưỡng nhân quả nhất định. Tại hạ có ý định muốn làm gián đoạn cách hình dung đó, thậm chí đảo ngược cách hình dung đó, rằng không có cái gì là điểm bắt đầu hữu hình và hữu hạn như giả lập của tư duy phương Tây, rằng nếu có điểm bắt đầu thì đó là chỗ không có gì cả, Trống rỗng hoàn toàn. Tri thức sẽ không còn đi theo trình tự tuyến tính dựa vào thời gian thực mà có thể đi ra từ chỗ bất kỳ vì mọi điểm đều trống rỗng không có gì.
    Nếu chúng ta có thời gian quan sát suy nghĩ của mình, chúng ta sẽ thấy đầu óc chúng ta suy nghĩ không ngừng không nghỉ, và phần lớn suy nghĩ xuất phát như thể từ chỗ không có gì, vượt ra khỏi khả năng kiểm soát của cái mà chúng ta nghĩ là bản thân chúng ta, thường đồng nhất với ý thức theo cách hiểu của phương Tây. Những suy nghĩ như thể chúng ta gọi là vô ý thức, và điều này thường được hiểu là vô nghĩa. Chỉ có ý thức mới có nghĩa đối với chúng ta, mới đạt đến tri thức. Vì sao vậy? Tại hạ chưa gặp được một lý giải nào thoả đáng, hầu hết đều dựa trên kinh nghiệm hạn chế hay sự hữu ích. Nếu nhìn lại toàn bộ đời sống tinh thần của con người, thì cái phần ý thức là rất ít, cái phần vô ý thức là rất nhiều, cái phần ý thức thì khô khan nghèo nàn, cái phần vô ý thức lại phong phú vô tận. Dường như cái phần vô ý thức mới là đời sống đích thực, mới là nền tảng của đời sống, thậm chí là sự sống. Ý thức xem ra chỉ là những mũi khoan thăm dò vào tầng sâu của vô ý thức. Sự nghèo nàn của ý thức chính là bởi nó phải bắt đầu một cách hữu hình và hữu hạn, đồng thời phải được triển khai một cách tuần tự logic. Tại sao chúng ta lại phải bấu víu vào nó khi nó chỉ là cái phần rất nhỏ trong tinh thần chúng ta? Tại sao chúng ta lại không thể hình dung vô ý thức như chúng ta hình dung ý thức, khi đó là phần lớn đời sống tinh thần của chúng ta? Điều khác biệt là gì? Phải chăng vì chúng ta hình dung vô ý thức đi ra từ chỗ trống rỗng, không có gì xác thực? Câu chuyện Trương Tam Phong truyền thụ Thái Cực Quyền cho Trương Vô Kỵ chẳng phải đã cho ta hình dung một cách có ý thức về một sự kiện có tính chất của vô ý thức đấy là gì? Tất cả là do cách hình dung sự việc của chúng ta mà thôi. Tại hạ không cho rằng ý tưởng mà Trương Tam Phong truyền cho Trương Vô Kỵ là kết quả của sự tưởng tượng mang tính sáng tạo văn học, mà chắc chắn dựa trên một tư tưởng triết học. Phải có những cách thức nhất định khiến chúng ta có thể hình dung về những tư tưởng đó một cách rõ ràng dưới ánh mặt trời giống như những gì chúng ta hình dung về tư tưởng duy lý và minh triết của phương Tây khởi nguồn từ triết học Hy Lạp. Tại hạ muốn hiểu về những cách thức đó như hiểu về một tam đoạn luận chẳng hạn.
    Bây giờ xin nói một chút về cách thức suy nghĩ của tại hạ. Một điều chắc chắn là những gì tại hạ đang trình bày về bất cứ vấn đề gì ở đây theo như tại hạ nhận biết phải là một cách hiểu được gọi là khoa học, trong đó lập luận của tại hạ phải chính xác, rõ ràng, trôi chảy và chặt chẽ. Bất cứ ý kiến nào của tại hạ đi chệch khỏi những tiêu chí đó đều gây nên sự mơ hồ, khó hiểu, hoài nghi, thậm chí bị coi là lố bịch, là điên rồ hay đại loại thế. Tại sao tại hạ phải tuân thủ những tiêu chí đó, và tại sao đó lại là tiền đề để chúng ta hiểu nhau? Để trình bày suy nghĩ của mình, tại hạ phải dựa vào một loại ngữ ngôn và ngôn ngữ nhất định và phải tuân thủ những quy tắc, quy phạm và hình thức biểu kiến của ngôn ngữ đó. Những suy nghĩ của tại hạ sau khi tuân thủ quy tắc ngôn ngữ, tuân thủ quy tắc lôgic, sẽ diễn đạt những gì tại hạ suy nghĩ, tư tưởng. Nó diễn đạt được bao nhiêu điều mà tại hạ muốn diễn đạt? Nhất là dưới sự diễn tiến tinh vi của ngôn ngữ sau một loạt hành vi tư tưởng, liệu tại hạ còn giữ được sự thực trực cảm dưới lớp vỏ ngôn ngữ, hay là đã xa rời sự thực đó để cuối cùng chỉ còn là sự suy diễn tự biện thuần tuý duy lý và mục đích luận? Mặc dù sự tự biện đó có vẻ hợp lý và gây nên một sự cảm hiểu nào đó ở người khác, một điều hết sức nguy hiểm. Phải có cách thức nhất định để chúng ta biểu đạt suy nghĩ và hiểu nhau. Nhưng có nhất thiết phải là duy lý và logic như thứ tư duy ống nghiệm của phương Tây? Những người nguyên thuỷ của thời xa xưa, khi trình độ vận dụng ngôn ngữ có hạn, dẫn đến trình độ tư duy có hạn, phải chăng họ không hiểu được nhau? Hơn nữa tuy ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong việc phát triển tri thức thì nó cũng không phải là phương tiện duy nhất để biểu đạt tư duy ý tưởng. Và nó có phải là phương tiện hiệu quả nhất cho mục đích đó không? Tại hạ đang tự hỏi như vậy? Liệu có một thế giới nào, một nhân loại nào có thể diễn đạt tư tưởng của mình mà không cần đến lớp vỏ ngôn ngữ không? Một hình thức kiểu truyền âm nhập mật hay như lời Chúa nói với Noah bằng chính ý nghĩ của Noah. Một cái gì đó thực sự Vô hình. Chữ nghĩa vẫn là những phương tiện Hữu hình. Chính điều đó, theo tại hạ, khiến cho những gì chúng ta có thể tư duy được thuộc về Hữu hình, hay chính xác hơn những gì chúng ta tư duy và được chấp nhận bởi số đông phải là Hữu hình. Làm sao để đứng từ chỗ không có gì nghĩ về cái đã có?
    Cái cách mà nihilism hỏi tại hạ, thực chất là từ một cái có để diễn đạt về một cái có khác. Và nếu không có cái này thì không có cái kia. Cái nghệ thuật hỏi thông minh đấy sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu? Nếu tại hạ cũng đặt trở ngược vấn đề rằng, tiên sinh nihilism có thể tìm thấy câu trả lời về "chiêu thức suy nghĩ phương Tây" của tại hạ ngay trong chính cái cách mà tiên sinh hỏi tại hạ về chiêu thức đó, và điều này thì tiên sinh rõ hơn tại hạ. Một câu trả lời như vậy hẳn cũng thông minh chẳng kém và chắc là gần sự thật. Nhưng sự thông minh đó dẫn chúng ta đi tới đâu? Khỉ thật! Nó chỉ là sự khôn vặt, và kết quả to lớn nhất của nó là dẫn chúng ta đi vòng quanh chủ đề cho đến khi nào thoả mãn những nhu cầu tâm lý mới thôi. Theo tại hạ cũng chính bởi những sự thông thái rởm tương tự đã dẫn dắt suy nghĩ của nhân loại suốt mấy nghìn năm qua chạy vòng quanh khái niệm vật chất và ý thức.
    Chân lý sinh ra trong tranh luận. Ít nhiều chúng ta có thể đồng ý về chuyện này. Nhưng nếu chúng ta thừa nhận nó mà không tranh luận thì chính nó không phải là chân lý, nghĩa là nó không đúng hoàn toàn. Có những điều mà chúng ta chỉ có thể thừa nhận chứ không tranh luận đến tận cùng được. Có cách nào để chúng ta hiểu về những điều "chỉ có thể thừa nhận" đấy không?
    Tranh luận là một cách để tiếp cận chân lý. Tại hạ không biết hiệu quả của phương pháp này đến đâu, nhưng cảm tưởng của tại hạ là nó mất thời gian. Tại hạ thích tranh luận nhưng không có thời gian. Vì thế tại hạ đưa chủ đề này ra không phải để tạo ra một cuộc tranh luận mà là tạo ra một cuộc chơi có tính ngẫu nhiên. Tại hạ hy vọng có một vị cao nhân nào đó đi trước vấn đề học thuật này có thể nói đúng được điều băn khoăn không rõ hình thù đang ẩn trong suy nghĩ của tại hạ. Nói hình ảnh hơn là điểm chỉ điều băn khoăn đó từ vô hình dung thành hữu hình theo đúng cách hiểu "khoa học", vì tại hạ chưa đủ năng lực cảm nhận bản chất sự việc theo một cách khác. Trong khi chờ đợi nhân vật như thế, một sự kỳ vọng đúng hơn, thật thú vị nếu sự tranh luận của các vị anh hùng hào kiệt ở đây có thể đem đến một hướng đi nào đó. Nếu có thời gian tại hạ sẽ tham gia cùng chư vị. Điều tại hạ hỏi là rất rõ ràng và phải thừa nhận rằng nó không mang tính học thuật mấy. Tại hạ hỏi về kỹ thuật chứ không bàn đến vấn đề tư tưởng như cách mà vị đại nhân luuthuy tiếp cận, mặc dù từ tư tưởng có thể lần ra kỹ thuật. Không có nhiều thời gian cho tại hạ đi theo hướng này, nên tại hạ muốn hỏi thẳng một nhân vật nào đó đã từng nghiên cứu qua, một cách tiếp cận như vậy dĩ nhiên bỏ qua tranh luận. Tại hạ thành thực xin lỗi vì có thái độ vị kỷ như vậy.
    P/s: Khi nào thong thả, tại hạ xin luận chứng và luận cứ cụ thể về cái gọi là chiêu thức suy nghĩ của phương Tây để tránh những sự khôn ngoan không cần thiết.
    Goodbye
  5. lamannghiemtuc

    lamannghiemtuc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2004
    Bài viết:
    71
    Đã được thích:
    0
    Hic!
    Bác arch_tieungaogiangho có vẻ hiểu biết nhỉ!
    Theo em nghĩ trên ttvnol này chỉ có một đại lão ma đầu là có thể đáp ứng được yêu cầu đó của bác thôi! nhưng lão ta đã bỏ ttvnol rồi! bây guờ lão ta chỉ trụ ở vnequation thôi.
    Nếu bác thích đàm đạo về vấn đề này thì hãy đem nó qua vnequation ấy!
  6. changfeng

    changfeng Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/06/2004
    Bài viết:
    306
    Đã được thích:
    0
    Câu hỏi của tiên sinh arch _tieungaogiangho hơi hiểm hóc. Vả lại cái gọi là "kĩ thật suy tưởng của phương Đông " kia là do tác giả nọ đưa ra thôi chứ không hẳn một chân lí. Nó như định đề mà tác giả ấy tạm đưa ra nhằm vạch ra sự khu biệt ở góc độ nào đấy về phương thức tư duy của phương Đông và phương Tây thôi.
    trong trường hợp này mỗ đây không biết ông ấy đang nói về học thuyết nào, phương thức tư duy của ai, thời nào,, trong hệ thống nào.........chịu thôi. Tiên sinh có thể bật mí cho một vài thông tin chăng?
    còn câu trả lòi như của bạn luuthuy thì mỗ thấy không ổn đâu.
    Mỗ đang chờ sự biện bác, kiến giải của chư hữu gần xa. Mỗ trộm nghĩ vạch ra được sự khu biệt về phương thức tư duy giữa phương Đông và phương Tây một cách thuyết phục là vấn đề nhớn. Bản thân mỗ tự tin rằng mình bó tay thôi. Nhung mỗ sẽ cố học hỏi và suy nghĩ, biết đau một ngày kia mỗ cũng lờ mờ nhận ra được ít nhiều chăng?
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.602
    Đã được thích:
    49
    HL xin chào các vị cao nhân ẩn sĩ.
    Chủ đề "kĩ thuật suy tưởng của phương Đông" này
    nên cho là ''LốiTư duy Đông Phuơng '' & ''LốiTư duy Phuơng Tây".
    Các lối tư duy này HL xin tặng các bạn một bài viết lý thú:
    Phương Đông và Phương Tây
    1.1.1990
    Nguyễn Huệ Chi
    Về tác phẩm ?zChủ toàn và chủ biệt, hai ngã rẽ trong triết học Ðông - Tây?o của Cao Xuân Huy *
    Tiếp theo bài viết ?zVề đặc sắc văn hoá Việt Nam?o của Trần Ðình Hượu, lần này Talawas trích đăng bài khảo cứu của Nguyễn Huệ Chi về tác phẩm của Cao Xuân Huy. Gợi ý cho việc giới thiệu văn bản này là bài viết ?oSuy nghĩ tản mạn về chủ toàn Ðông và Tây?o của Nguyễn Anh Cơ, trong đó tác giả đã đề cập đến công trình ?zTư tưởng phương Ðông - Gợi những điểm nhìn tham chiếu" của Cao Xuân Huy và chủ yếu đã nhận định về các tư tưởng triết học được trình bày trong chuyên luận ?zChủ toàn và chủ biệt, hai ngã rẽ trong triết học Ðông - Tây?o. Phần dẫn luận của Nguyễn Huệ Chi, Giáo sư tại Viện Văn học ở Hà Nội, một trong những nhà nghiên cứu cổ văn hàng đầu của Việt Nam và là người biên soạn, chú giải và giới thiệu công trình ?zTư tưởng phương Ðông...?o, theo thiển ý của chúng tôi, đã trình bày một cách khúc chiết quá trình hình thành và nội dung các quan điểm triết học của Cao Xuân Huy. Một điều thuận tiện nữa cho phần lớn bạn đọc chưa có điều kiện trực tiếp đọc tác phẩm của Cao Xuân Huy là trong phần dẫn luận này tác giả đã chọn lọc và trích dẫn một cách chi tiết những đoạn có lẽ là quan trọng nhất từ văn bản gốc của Cao Xuân Huy mà do khuôn khổ và tính chất của diễn đàn đáng tiếc không thể giới thiệu toàn văn ở đây. Cuối cùng, một lí do quan trọng nữa để giới thiệu bài viết này là tác giả Nguyễn Huệ Chi, trong khi phân tích tư tưởng học thuật của Cao Xuân Huy, một cách gián tiếp cũng đã bày tỏ thiên hướng triết học của bản thân ông. Vượt ngoài phạm vi tìm hiểu những vấn đề chuyên sâu của lịch sử tư tưởng, hy vọng việc tiếp xúc với quan điểm học thuật của một đại diện khoa học nhân văn Việt Nam đương đại sẽ mang đến cho diễn đàn nhiều gợi ý bổ ích.
    [...] Trong khoảng hai năm 1957-1958, ông bắt tay vào viết công trình triết học của mình. Công trình này đến nay vẫn chưa được đặt tên, có độ dày dưới 100 trang, không rõ viết trong bao lâu, và hình như cũng chưa ở đâu công bố trọn vẹn. Hiện gia đình còn giữ được 4 xấp bản thảo, đều là cảo bản của các lần viết khác nhau, nhưng không một bản nào đầy đủ. Có bản thiếu phần đầu, có bản thiếu phần cuối. Có bản chỉ mới xong một chương. Song nếu gộp tất cả lại, tham bác, bổ sung cho nhau, cũng có thể lần ra được một diện mạo tương đối ổn định của tập luận văn của Cao Xuân Huy, với 7 đề mục chính:
    I. Cái bi kịch của sự đồng nhất hóa;
    II. Phương thức "chủ toàn" và phương thức "chủ biệt? của tư tưởng;
    III. Thiết vấn pháp của bản thể luận;
    IV. Bản thể và nguyên lý đồng nhất tính;
    V. Vận động, phát triển và không gian thời gian;
    VI. Tri giác và thế giới;
    VII. Do lai của ý thức.
    Nhìn vào tựa đề của các thiên cũng có thể thấy ngay cái đích mà Cao Xuân Huy muốn nhắm tới không phải là những vấn đề triết học sơ giản. Cả 7 thiên là một đề xuất có tính hệ thống về phương pháp luận triết học nói chung. Nhưng Cao Xuân Huy không bó hẹp mục tiêu phương pháp luận của mình vào việc vận dụng và thực hành các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Theo dõi khá sát sóng các trường phái triết học phương Tây từ cuối thế kỷ XIX cho đến mấy chục năm đầu thế kỷ XX, ông muốn góp phần lý giải cuộc khủng hoảng tư tưởng của triết học châu Âu hiện đại, sau khi Engels đã qua đời. Ðó là sự ngự trị của ?otâm lý học độc tôn?o (psychologisme) kéo dài trong nhiều thập kỷ. Mặc dù chủ nghĩa duy vật biện chứng với Marx và Engels đã đạt được một thành tựu rực rỡ, vẫn không ngăn nổi chiều hướng của cuộc khủng hoảng trầm trọng đó. Vì sao? Phải chăng là bên cạnh những ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa duy tâm, còn phải tìm ra ở đây một nguyên nhân khác nữa, thuộc về cái gọi là ?ođường mòn?o trong nếp tư duy của nhân loại? Vì thế Cao Xuân Huy đã lần ngược về quá khứ, xem xét một cách tổng quát các trào lưu triết học từ Âu sang Á, từ cổ chí kim, ngõ hầu có thể rút ra một số đặc trưng chung nhất đã khu biệt nên các phương thức tư duy điển hình mà đến nay con người vẫn còn lấy làm khuôn phép. Có thể gọi đó là loại hình học về phương pháp luận triết học. Phương pháp loại hình này giúp cho Cao Xuân Huy tránh được cách tập hợp các trào lưu tư tưởng theo hai dòng phổ biến là tâm và vật, mà tập hợp chúng trong hai hệ thống mới, dựa trên hai phương pháp tư duy khác biệt nhau về loại: phương thức ?chủ biệt?o và phương thức ?ochủ toàn?o. Ông nêu ra một nhận xét: do điều kiện sinh hoạt khác nhau, trên các vùng đất khác nhau của loài người đã sản sinh ra hai hệ quy chiếu để nhìn thế giới. Một bên, luôn luôn duy trì thói quen phân tích, chia cắt thế giới thành vô số sự vật cá biệt. Ðó là phương thức ?ochủ biệt?. Một bên ngược lại, xem xét thế giới như một thể thống nhất, toàn vẹn, không thể chia tách thành những sự vật cá biệt hoàn toàn đối lập với nhau. Ðó là phương thức ?ochủ toàn?. Nếu phương thức ?ochủ biệt? dựa trên nền tảng của tư duy lý tính, dùng phương pháp thực nghiệm để giúp con người nhìn ra vô vàn đặc tính khác nhau của một vũ trụ ngày càng phân hoá dến cùng cực, thì phương thức ?ochủ toàn? lại lấy tư duy tuệ tính làm nền tảng, dùng trực quan để cảm thức về tính đồng nhất và toàn vẹn của vũ trụ, tìm ra giữa vô vàn hiện tượng phức tạp của vũ trụ một bản thể giống nhau.
    Nhưng theo Cao Xuân Huy, tiến trình ?otổng-phân-hợp?o vốn là đặc điểm chung của tư duy loài người. Ðể nhận thức, con người vừa ?odị biệt hóa?o các khái niệm, lại vừa ?ođồng nhất hoá? các khái niệm đi liền theo đó. Chính ở đây, phương thức ?ochủ biệt?o bộc lộ những mâu thuẫn lúng túng mà kết quả là dẫn đến những cuộc khủng hoảng tư tưởng gay gắt . Ðã nói đồng nhất hoá thì tất yếu phải xoá bỏ sự khác nhau giữa các vật cá biệt để đặt chúng trong những mối liên hệ hợp lý. Song đầu óc duy lý đã không còn cho phép nhà ?ochủ biệt?o thực hiện sự xoá bỏ ấy. Họ đã đi quá sâu vào những đặc tính khác biệt giữa mọi sự vật. Xóa bỏ chúng đi là vi phạm mâu thuẫn lôgich, là đánh đồng số lượng và chất lượng, thời gian và không gian, chủ thể và khách thể, vô sinh và hữu sinh... Khủng hoảng của mọi triết học bắt nguồn từ đây:
    "Trong quá trình dị biệt hoá và đồng nhất hóa đi kèm nhau thì tư tưởng loài người đi đến chỗ thấy rằng trong thế giới có hai hiện thực bao quát nhất là ?otâm? và ?ovật?. Khuynh hướng đồng nhất hoá bắt buộc người ta phải quy hai cái đó vào một, do đó sinh ra nhất nguyên luận duy tâm hoặc duy vật; nhưng cả hai đều vi phạm lôgich, vì đã biết ''tâm'' và ''vật'' chỉ là những bộ phận cấu thành của thế giới, dù là những bộ phận rất bao quát, thì tại sao lại nói ''tâm'' là toàn thể, là bản thể của vũ trụ? Hay là nói ''vật'' là toàn thể, là bản thể của vũ trụ? Nói như thế chẳng phải lấy bộ phận làm toàn thể là gì? Lấy A làm phi A là gì??o (Thiên I; tr. 80).
    Vậy thì, một cách nhìn vũ trụ không rơi vào mâu thuẫn phải là phương thức ?chủ toàn?o. Nhờ năng lực phi thường của một sự giác ngộ bằng ?trực quan?o và ?otĩnh quan?o (xem xét bằng trực giác và bằng sự tĩnh lặng), các nhà triết học cổ đại phương Ðông như Lão Tử, Trang Tử, Mã-minh, Long-thụ, và phương Tây như Parménide, đã xây dựng được quan điểm "chủ toàn?o đó. Nó kết tinh từ tư tưởng duy vật tự phát thời tối cổ: ?oThiên địa vạn vật nhất thể?o, hoặc đã pha trộn với tư tưởng tôtem( totémisme) nguyên thủy: ?oThiên nhân hợp nhất?o. Nó được chưng cất thành những mệnh đề tinh túy trong Ðạo đức kinh của Lão Tử: ?oÐạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh vạn vật. Vạn vật cõng âm ôm dương, hai khí âm dương xung đột mà hài hoà?o (Chương 42). Hoặc một mệnh đề khác xuất hiện muộn hơn, và cũng phần nào rút ra từ Lão Tử - đó là cái mệnh đề của thiên Hệ từ trong Kinh dịch: ?oThái cực sinh lưỡng nghi; Lưỡng nghi sinh tứ tượng; Tứ tượng sinh bát quái?o. Ðạo hayThái cực đều chính là ?ocái Ðại toàn thể, cái Ðại hữu, cái ?oCó?o làm điều kiện, làm cơ sở chung cho tất cả mọi vật?o (Thiên III; tr. 99). Ðó là bản thể trường tồn của vũ trụ.
    Tiến thêm một bước, Cao Xuân Huy đặt lại ?omột câu hỏi thiết cốt?o về vai trò của ?obản thể luận?o: vậy thì bản thể luận với tư cách một công cụ khái quát của triết học, có cần nữa hay không? Ông trả lời rằng, đối với phương thức ?ochủ biệt?o quá nặng tinh thần duy lý, và quen nhìn sự vật dưới những phần tử mang đặc tính cá biệt thì việc không coi trọng đúng mức bản thể thống nhất của tự nhiên chẳng có gì là lạ. Bản thể đối với họ là một khái niệm trừu tượng, vô nghĩa. Nhưng đối với phương thức ?ochủ toàn?o bắt buộc phải xem xét tự nhiên từ cái Một bao trùm nhất, thì bản thể lại là một phạm trù hết sức quan trọng. Ở đây, bản thể luận sẽ khắc phục được mọi nhược điểm của triết học cũ như tính trống rỗng, thần bí, và trở thành một công cụ tư duy tối ưu. Có đứng trên nền tảng của bản thể luận đúng đắn này mới vạch ra được những giới hạn (máy móc, siêu hình, gián đoạn) và cái giá trị hết sức tương đối của các cặp phạm trù được quy nạp lại từ phân tích thực nghiệm: nguyên nhân - kết quả, số lượng - chất lượng, thời gian - không gian, khách thể - chủ thể, v.v . . . Chẳng phải học thuyết tương đối của Einstein đã cho thấv các khái niệm thời gian, không gian, dung tích vật thể v.v... đều chỉ là những quy ước tạm thời đấy là gì? Ðại lượng của chúng sẽ hoàn toàn đổi thay khi ta xuất phát từ phương vị vũ trụ mà quan sát tồn tại. Mặt khác, một bản thể luận triết học đúng đắn cũng giúp ta trừu xuất được những cặp phạm trù hợp lý, có thể dùng để nhận thức bản thể của vũ trụ, chẳng hạn các cặp phạm trù âm - dương, nhất - đa, động - tĩnh của Lão Tử. Khác với các cặp phạm trù của tư tưởng ?ochủ biệt? chứa đầy nhược điểm như trên vừa nói, các cặp phạm trù sau này đều hữu cơ, năng động, liên tục, biến hóa, đều phản ánh được đặc trưng chung nhất của bản thể, nó vừa ?ochí nhất? vừa ?ochí đa?, vừa ?ochí động? vừa ?ochí tĩnh?, nó luôn luôn hài hòa và mất hài hòa, thăng bằng và mất thăng bằng kế tiếp, xen kẽ nhau không bao giờ dứt. Nó đạt đến nguyên lý đồng nhất tính tuyệt đối (trong khi mọi vật chỉ có đồng nhất tính tương đối), nên nó bao gồm được vào trong nó cả chủ thể lẫn khách thể, tâm và vật, hữu sinh và vô sinh. Như vậy, đối với nhận thức luận duy vật, một bản thể luận của phương thức ?ochủ toàn?o vẫn là một trong những chìa khóa không thể loại trừ:
    ?oThử hỏi những cái tế phần gọi là nguyên tử, nếu là những cái tuyệt đối vô điều kiện, tức là hoàn toàn độc lập đối với nhau, không có quan hệ tùy thuộc lẫn nhau, thì làm sao chúng lại có thể kết hợp, tổ hợp lại với nhau để trở thành vạn vật, để tạo thành một Vũ trụ có tổ chức hợp lý, có trật tự, có quy luật (cosmos)? Chỉ có hai khả năng: hoặc chúng là dị chất, hoặc chúng là đồng chất. Nếu chúng là dị chất thì phải có một lực lượng gì ở bên ngoài chúng, có tác dụng bắt buộc chúng phải cộng tác với nhau. Cái lực lượng ấy chỉ có thể là Thượng đế mà Leibniz đã ví như người thợ đồng hồ lên dây cho tất cả mọi cái đồng hồ đơn tử (monade), để chúng chỉ giờ phút cho giống nhau. Còn nếu nói chúng là đồng chất thì phải có một lực lượng nội tại làm cho chúng có tác dụng tương hỗ, và như thế thì mỗi nguyên tử không còn phải là một cái tuyệt đối, một cái vô điều kiện (như quan điểm ''chủ biệt'') nữa, mà chúng chỉ là những cái tương đối, bị quyết định bởi lực lượng nội tại ấy - chúng là những sản phẩm của lực lượng nội tại. Mà cái gọi là lực lượng nội tại, thì chỉ có thể là cái Toàn thể, cái Ðại hữu, cái Ðại nhất, cái Ðại toàn. Ðấy là Bản thể thực hữu của vũ trụ. Bản thể này chứa đựng tất cả những gì tồn tại hay có khả năng tồn tại? (Thiên VII; tr. 164-165).
    Sau khi đã vạch rõ mối liên quan giữa bản thể luận và nhận thức luận khăng khít ra sao, Cao Xuân Huy bắt đầu phác họa cội nguồn của ý thức. Ông lần lượt phân tích cặn kẽ sự lúng túng, mâu thuẫn của các trường phái triết học phương Tây trong vòng hai ba thế kỷ, kể từ Descartes, do bị giam hãm vào phương thức ?ochủ biệt? nên không thể nào giải thích được một điều đơn giản là ý thức từ vật chất mà ra. Cho đến Husserl, Heidegger, sự đòi hỏi phải thoát khỏi vòng tù túng của tâm lý học độc tôn đã đặt ra như một yêu cầu bức bách, nhưng rốt cuộc họ vẫn để mình rơi vào cái bẫy ?o''vật tự nó? mà Kant đã giăng sẵn, mặc dù từ đó đến cánh cửa của chân lý khoảng cách không phải là dài:
    ?Husserl chủ trương phải dẫn thoái thế giới, tạm gác thế giới lại một bên, để chứng minh tồn tại thực sự của thế giới, và Husserl cũng như Heidegger đã đi đến chỗ nhận ra rằng không thể tách rời con người (ý thức) và thế giới được; có con người là có thế giới, đến nỗi Heidegger gọi con người là ''vật-tồn-tại-trong-thế-giới''. Như thế thì ý thức là ở trong tồn tại, tồn tại là cơ sở của ý thức chứ không phải ngược lại. Vấn đề là đơn giản rõ ràng như vậy, người nào có lương thức cũng phải thừa nhận, chỉ có những nhà triết học bị mê hoặc nặng nề bởi tư tưởng ''chủ biệt'', nó tuyệt đối hóa sự đối lập giữa ''chủ thể'' và ''khách thể'' đến cái mức có thể nói là hôn ám, mới đặt thành vấn đề bất-khả-giải một cái không có vấn đề gì cả?'' (Thiên VII; tr. 16l).
    Cũng vì tư tưởng ?ochủ biệt?o tức là tư duy phân tích đã chi phối lâu dài hết thảy mọi trường phái triết học phương Tây cổ điển nên theo Cao Xuân Huy, ngay các nhà duy vật biện chứng cũng chưa nhận ra hết những mặt nhược điểm của phương thức này. Cao Xuân Huy cho rằng khi đặt vấn đề sự sống là một đột biến về chất của vật chất, hay khi nói thời gian và không gian là phương thức tồn tại của vật chất, thì về cách nói, vẫn có ý tuyệt đối hoá những phạm trù vốn chỉ có ý nghĩa tương đối (thời gian, không gian...), vẫn coi thế giới như là vô vàn bộ phận tuyệt đối khác biệt nhau về chất hợp lại; do đó mặc dù về nội dung, các định nghĩa đó là chí lý, về hình thức chúng vẫn còn hàm chứa ?omột vấn đề cần được lý giải?o:
    (co`n tiep)
    ____________
    (22) Xem thêm Ðào Duy Anh, Nhớ nghĩ chiều hôm, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, tr. 245, 1989.
    (*) Ðầu đề do biên tập đặt.
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.602
    Đã được thích:
    49

    1.1.1990
    Nguyễn Huệ Chi
    Về tác phẩm ?zChủ toàn và chủ biệt, hai ngã rẽ trong triết học Ðông - Tây?o của Cao Xuân Huy *

    (Tiếp theo)
    ......?oTừ khoáng vật lên thực vật quả có một cái gì mới, không có mặt ở trong khoáng vật. Nếu nói rằng cái mới - cái sinh khí ấy là một thực chất, do sự tiến hóa của bản thân khoáng vật tạo thành, thì chính là đã cắt nghĩa cái cao bằng cái thấp, cái nhiều bằng cái ít, cái giàu bằng cái nghèo, điều đó lý trí con người không thể chấp nhận được, mà kinh nghiệm khoa học cũng sẽ không bao giờ chứng minh được?o (Thiên VII; tr. 165).
    Chỉ có thể cắt nghĩa được bước nhảy vọt giữa vật vô sinh và vật hữu sinh một cách hợp lý bằng quan điểm ?ochủ toàn?, tức là nhìn thấy vũ trụ là một thể thống nhất ngay từ đầu, và trong bản thể của nó đã chứa sẵn cái mầm của sự sống:
    ?oVậy thì cái sinh khí được thêm vào những yếu tố khoáng vật để tạo thành sinh vật không phải là một thực chất do khoáng vật sinh ra, mà là một khả năng đã có sẵn ở trong Toàn thể, trong Bản thế''? (Thiên VII; tr. l65).
    Từ đây, Cao Xuân Huy mạnh dạn đề nghị gạn lọc lấy hạt nhân hợp lý của mục đích luận mà ông gọi là ?onguyên lý cứu cánh tính?o:
    ?oNguyên lý cứu cánh tính (hay mục đích tính) đã bị các nhà khoa học loại trừ ra khỏi phạm vi phương pháp luận vì họ cho rằng nó ám hàm khái niệm Thượng đế và nó gắn liền với khái niệm ý thức; họ tưởng rằng nêu những hiện tượng tự nhiên đều có mục đích thì tức là có một Thượng đế tổ chức thế giới hay ít ra tự bản thân thế giới có ý thức (phiếm thần luận), điều đó khoa học không chấp nhận được. Thật ra, nguyên lý cứu cánh tính không có quan hệ nội tại với thần học, với duy thức luận mà trái lại, nó là cái nguyên lý cơ bản nhất, cần thiết nhất của khoa học tự nhiên, chính vì nó là cơ sở của nguyên lý nhân quả tính. Vì vậy cho nên, hiện nay có những nhà sinh vật học, những nhà sinh thành học đã phải tuyên bố rằng nếu không có nguyên lý cứu cánh tính thì sinh vật học không đi được một bước? (Thiên VII; tr. 167- 168).
    Tóm lại, công trình triết học ngắn gọn, giàu ý vị đối thoại của Cao Xuân Huy là một luận văn chứa chất nhiều luận điểm có giá trị gợi mở mới mẻ. Là người nắm vững cả hai nền triết học Ðông và Tây, ông có nhiều ưu thế để đưa ra những so sánh, phân loại xác đáng, nhằm nêu bật hai khuynh hướng ?ochủ biệt? và ?ochủ toàn? hay là tư duy phân tích và tư duy trực quan trong tiến trình tư tưởng nhân loại. Những luận giải của ông về bản thể luận mới nghe tưởng chừng không khỏi còn phần nào mang màu sắc siêu hình, song thực tế lại có một sức kích thích rất mạnh đối với suy nghĩ và tưởng tượng của giới khoa học tự nhiên cũng như xã hội. Và những trang viết của ông về nhận thức luận, về ?ovai trò của cứu cánh tính?, về ?oý thức như một chức năng của cơ thể? thật phong phú ý nghĩa (22). Tất nhiên, ông chỉ giới hạn việc so sánh trong phạm vi triết học mà không mở rộng sang các lĩnh vực khác, nên không có dịp nói đến những ưu điểm nổi bật của tư duy phân tích (tức tư duy lý tính) và ngược lại, những nhược điểm căn bản của tư duy trực quan (tức tư duy tuệ tính), trong các ngành khoa học thực nghiệm. Mặt khác, cách tập hợp triết học theo hệ thống "chủ biệt" và "chủ toàn" khiến ông chưa nhấn mạnh được đến mức cần thiết ranh giới giữa duy vật - duy tâm. Có điều không thể nghi ngờ là luôn luôn, ông đứng vững trên mảnh đất duy vật, mảnh đất của ?otồn tại như một thực hữu? mà đề xuất ý kiến của mình, và các ý kiến sâu sắc đó đều được khái quát từ cơ sở của những hiểu biết triết học và khoa học tự nhiên đương đại. Các dẫn liệu trong công trình chứng tỏ ông đã đọc thuyết tương đối của Einstein, đã biết đến các bùng nổ có tính chất cách mạng về sinh vật học, nhất là thuvết di truyền ở Ðại học Harvard của Mỹ, ở Học viện khoa học Collège de France của Pháp trong những năm 30, 40 và 50 (trong khi đông đảo giới trí thức ở Việt Nam đương thời chưa hề biết đến những nguồn thông tin mới lạ này, hoặc có biết sơ qua cũng xuất phát từ những luồng ý kiến một chiều của giới sinh vật học Xô-viết thuở ấy vốn chưa chấp nhận di truyền học).
    Ngày nay, khoa học tự nhiên trên thế giới đang phát triển đến giai đoạn rất cao, trong đó đối tượng và chức năng của nhiều ngành khoa học gần như xâm nhập vào nhau. Vật lý lý thuyết siêu thống nhất, toán học tập mờ (fuzzy sets) và nhiều ngành khoa học khác đều quay trở về với phương Ðông, tìm thấy trong Lão-Trang những chỉ dẫn thiên tài để khám phá thêm các bí ẩn của vũ trụ; và sinh thái học hiện đại cũng thừa nhận con người là một thành tố hữu cơ của Tồn tại vô chung vô thủy. Cái ?oThái cực mà vô cực? của Lão Tử hoàn toàn ứng với hình ảnh cái ?oChân không tuyệt đối? (vacuum) mà vật lý học hiện đại mới phát hiện. Cái quan niệm ?oCon người là một tiểu vũ trụ? của phương Ðông cũng thống nhất với hình ảnh khoa học về ?otoán đồ? (hologramme) của vật lý học hiện đại. Ngay cả sự bác bỏ quan điểm ?obài trung? trong công trình của Cao Xuân Huy (khi đứng trên phương thức ?ochủ toàn?) cũng đã được L.A. Zadeh vô tình thừa nhận trong lý thuyết tập mờ của ông (23).
    Ðiều đó chứng tỏ những đề xuất triết học của Cao Xuân Huy chứa đựng một tầm nhìn vượt lên phía trước rất xa, đến nay vẫn chưa hề lạc hậu.
    [... ...]
    ____________
    23) Tất cả những chú dẫn về khoa học tự nhiên trên đây, chúng tôi dựa theo Giáo sư Hoàng Phương trong Một số suy nghĩ về Ðông và Tây, Người Hà Nội, số 6 (139), 10-11-1990; và trong cuốn Ðông y học dưới ánh sáng của lý thuyết tập mờ, Licosaxuba, Hà Nội, 1990.

Chia sẻ trang này