1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cho hỏi về phật giáo Tây Tạng

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi pootree, 21/07/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. pootree

    pootree Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/07/2003
    Bài viết:
    571
    Đã được thích:
    0
    Cho hỏi về phật giáo Tây Tạng

    Mình có xem một số phim về Tây Tạng trên truyền hình, thấy rất thú vị.Tuy nhiên, những phim này chỉ giới thiệu một số nét đặc trưng của vùng đất này mà không đi sâu vào lịch sử.Mình muốn hỏi về lịch sử nói chung cũng như lịch sử phật giáo của Tây Tạng.Phật giáo truyền vào Tây Tạng qua con đường nào, phật giáo tây tạng có giáo lý khác với phật giáo Trung Hoa hay các nước Đông Nam Á như thế nào.Nói chung là mình muốn hỏi tất cả các chi tiết liên quan đến lịch sử của Tây Tạng, bạn nào biết xin chỉ giúp, xin cảm ơn!!!!
  2. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Có 1 số sách nói vè văn hóa, phong tục và tín ngưỡng của người Tây Tạng như Hành trình về phương Đông, Đường mây qua xứ tuyết...rất là hay.
    Còn dưới đây là 1 vài thông tin ngắn có liên quan (Nguồn: Xihua, CRI)
    Phật giáo Tạng với chu?a Lạt-ma
    =========================
    Phật giáo Tạng lưu truyê?n ơ? các vu?ng dân tộc Tây Tạng , Mông Cô? v.v , được gọi la? Đạo Lạt-ma , la? phật giáo Tạng đậm đa? mâ?u sắc địa phương tư? Ấn Độ cô? va? nội địa TQ truyê?n va?o , đô?ng thơ?i hội nhập với tôn giáo cô? cu?a địa phương .
    Do chịu sự a?nh hươ?ng cu?a phật giáo dân tộc Hán va? phật giáo Ấn Độ , đa số chu?a chiê?n phật giáo Tạng đê?u xây dựng theo hi?nh thức cung điện cu?a dân tộc Hán , nhưng lại só sự phát triê?n , nói chung quy mô hoa?nh tráng hu?ng vif , rươ?ng cột chạm trô? , hết sức tinh xa?o đẹp mắt . Ví dụ như cung Pu-đa-la va? chu?a Chiết Bạng ơ? La-sa , chu?a Ta-ơ cu?a Thanh Ha?i v.v đê?u la? nhưfng kiến trúc ưu tú thơ?i cô? TQ .
    Chu?a chiê?n ơ? Tây Tạng co?n đặc biệt chú trọng tô đậm mâ?u sắc thâ?n bí cu?a phật giáo Tạng . Nói chung phật Điện cu?a các chu?a chiê?n đê?u rất cao va? sâu rộng , đâu đâu cufng la? cơ? phan mâ?u , cột phật Điện trang trí bă?ng tha?m len mâ?u , ánh sáng tối mơ? , khiến ngươ?i ta ca?m thấy thâ?n bí va? đe? nén .Bê? ngoa?i phật Điện chú trọng hiệu qua? so ánh vê? mâ?u sắc , ví dụ như tươ?ng đo? thi? sef trang trí mâ?u trắng hoặc mâ?u nâu ; Kinh Đươ?ng va? tháp quét mâ?u trắng , tươ?ng trắng thi? lắp cư?a sô? khung mâ?u đen , như vậy đaf nêu bậc ca?m giác thâ?n bí cu?a kiến trúc
    Tập tục tôn giáo cu?a nguời Tây Tạng
    ============================
    Phâ?n lớn người Tạng thuộc các cộng đô?ng : Môn-pa , Lô-pa va? Na-xi đê?u theo phật giáo Tạng , trong khi đó co?n có rất nhiê?u nhóm theo đạo I-slam va? đạo Thiên Chúa . Hiện nay , khu tự trị Tây Tạng tô?ng cộng có hơn 1700 chu?a chiê?n tô? chức hoạt động phật giáo Tạng , có khoa?ng 46 nghi?n tăng ni ; 4 chu?a I-slam với quâ?n chúng theo đạo khoa?ng 3000 ngươ?i ; 1 chu?a Thiên chúa giáo với ngươ?i theo đạo hơn 700 ngươ?i .
    Phong tục tập quán cu?a người Tạng được tôn trọng va? ba?o hộ . Dân tộc Tạng va? các dân tộc thiê?u số khác đê?u tiến ha?nh hoạt động tôn giáo theo phong tục tập quán truyê?n thống cu?a mi?nh . Trong khi giưf gi?n phong cách va? phương thức truyê?n thống vê?Tại khu tự trị Tây Tạng , một số hoạt động truyê?n thống như : năm mới lịch Tạng , tết Sa-cơ-đa-va , tết Vọng Qua? , tết Xue-tơn cufng như hoạt động tôn giáo cu?a nhiê?u chu?a chiê?n đaf được giưf gi?n va? kế thư?a
  3. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Sặ LặỏằÂC Vỏằ? T,Y TỏNG
    (Chú ẵ; NỏằTi dung do Tàu viỏt nên có nhiỏằu chỏằ- bỏằ'c thặĂm hoỏãc xuyên tỏĂc, bà con 'ỏằc tham khỏÊo thôi)
    1=======
    Khu tặèÊ trièÊ TÂy TaèÊng laè? môèÊt trong 5 khu tặèÊ trièÊ cuè?a TQ , goèÊi tfèt laè? TÂy TaèÊng , laè? nặĂi tặèÊ trièÊ DÂn TôèÊc lÂèy dÂn tôèÊc TaèÊng laè? chiènh . TÂy TaèÊng nfè?m ặĂè? phièa TÂy Nam thuôèÊc miêè?n biên cặặĂng TÂy Nam TQ . Phièa Nam vaè? phièa TÂy giaèp ranh vặĂèi caèc nặặĂèc : Mi-an-ma , ,èn ĐôèÊ , Bu-tan , Xièch-kim , Nê-pan v.v , 'ặặĂè?ng biên giặĂèi daè?i caè? thaè?y gÂè?n 4000 ki-lô-meèt . Toaè?n khu tặèÊ trièÊ rôèÊng hặĂn 1.22 triêèÊu ki-lô-meèt vuông , chiêèm khoaè?ng 12.8 tôè?ng diêèÊn tièch caè? nặặĂèc TQ .
    Khu tặèÊ trièÊ TÂy TaèÊng biè?nh quÂn cao trên 4000 meèt so vặĂèi mfèÊt biêè?n , laè? môèÊt phÂè?n chuè? thêè? cuè?a cao nguyên Thanh TaèÊng , 'ặặĂèÊc goèÊi laè? õ?~ noèc nhaè? thêè giặĂèi õ?T . Tôè?ng dÂn sôè cuè?a khu tặèÊ trièÊ TÂy TaèÊng laè? hặĂn 2.6 triêèÊu , trong 'oè coè 2.5 triêèÊu 'ôè?ng baè?o TaèÊng , chiêèm 96 o/o tôè?ng dÂn sôè , TÂy TaèÊng laè? môèÊt khu tặèÊ trièÊ cÂèp tiè?nh vặĂèi dÂn sôè ièt nhÂèt vaè? mÂèÊt 'ôèÊ dÂn sôè thặa thặĂèt nhÂèt TQ , biè?nh quÂn môèfi ki-lô-meèt vuông chặa tặĂèi 2 ngặặĂè?i
    2. Lich sỏằư========
    Ngay tặè? trặặĂèc công nguyên , tôè? tiên cuè?a dÂn tôèÊc TaèÊng sinh sôèng trên cao nguyên Thanh TaèÊng 'aèf coè liên hêèÊ vặĂèi dÂn tôèÊc Haèn sinh sôèng trong nôèÊi 'ièÊa TQ . Traè?i qua nhặèfng nfm thaèng daè?i dfè?ng dfèÊc , nhiêè?u bôèÊ tôèÊc vôèn sôèng raè?i raèc trên cao nguyên TÂy TaèÊng dÂè?n dÂè?n thôèng nhÂèt laèÊi vaè? trặĂè? thaè?nh dÂn tôèÊc TaèÊng hiêèÊn nay .
    Thêè kyè? thặè 7 công nguyên , TQ 'aèf chÂèm dặèt cuèÊc diêèÊn rôèi loaèÊn vaè? chia reèf keèo daè?i hặĂn 300 nfm taèÊi khu vặèÊc Trung Nguyên . Trong khi 'oè , Song-chan-can-bu , vièÊ anh huè?ng cuè?a dÂn tôèÊc TaèÊng cuèfng chiènh thặèc thaè?nh lÂèÊp VặặĂng Triêè?u Tu-phan , kiêèn Đô taèÊi La-sa . Trong nhặèfng nfm nfèm quyêè?n , Song-chan-can-bu 'aèf thu huèt nhặèfng kyèf thuÂèÊt saè?n xuÂèt tiên tiêèn vaè? thaè?nh quaè? chiènh trièÊ vaè? vfn hoèa cuè?a ĐặĂè?i ĐặặĂè?ng , duy triè? quan hêèÊ hêèt sặèc hặèfu nghièÊ vặĂèi ĐặĂè?i ĐặặĂè?ng vêè? caèc mfèÊt chiènh trièÊ , kinh têè , vfn hoèa v.v .
    Giặèfa thêè kyè? 13 , khu vặèÊc TÂy TaèÊng chiènh thặèc 'ặa vaè?o baè?n 'ôè? TQ , sau 'oè , mfèÊc duè? TQ 'aèf traè?i qua mÂèy 'ặĂè?i vua vaè? nhiêè?u lÂè?n thay 'ôè?i chiènh quyêè?n Trung ặặĂng , song TÂy TaèÊng luôn luôn dặặĂèi sặèÊ cai quaè?n cuè?a chiènh phuè? Trung ặặĂng .
    ĐặĂè?i nhaè? Thanh sau khi thaè?nh lÂèÊp vaè?o nfm 1644 'aèf tiêèn haè?nh viêèÊc quaè?n lyè nghiêm khfèc hặĂn 'ôèi vặĂèi TÂy TaèÊng , 'Âè?y maèÊnh chêè 'ôèÊ hoèa vaè? luÂèÊt phaèp hoèa viêèÊc thặèÊc thi chuè? quyêè?n vaè? cai quaè?n cuè?a chiènh phuè? Trung ặặĂng 'ôèi vặĂèi TÂy TaèÊng . Nfm 1727 , ĐặĂè?i nhaè? Thanh 'aèf cặè? ngặỏằi 'êèn thặặĂè?ng truè taèÊi TÂy TaèÊng , thay mfèÊt chiènh phuè? Trung ặặĂng tiêèn haè?nh viêèÊc giaèm saèt haè?nh chiènh cuè?a 'ièÊa phặặĂng TÂy TaèÊng .
    Nfm 1949 , NặặĂèc côèÊng hoè?a nhÂn dÂn Trung Hoa ra 'ặĂè?i . Cfn cặè tiè?nh hiè?nh lièÊch sặè? vaè? hiêèÊn traèÊng cuè?a TÂy TaèÊng , chiènh phuè? nhÂn dÂn Trung ặặĂng quyêèt 'ièÊnh aèp duèÊng phặặĂng chÂm giaè?i phoèng hoè?a biè?nh . ThuÂèÊn theo nguyêèÊn voèÊng cuè?a nhÂn dÂn TÂy TaèÊng , chiènh phuè? nhÂn dÂn Trung ặặĂng 'aèf tiêèn haè?nh cuôèÊc caè?i caèch dÂn chuè? taèÊi TÂy TaèÊng , phêè boè? chêè 'ôèÊ nông nô phong kiêèn , khiêèn haè?ng triêèÊu nông nô vaè? nô lêèÊ 'ặặĂèÊc vặặĂn miè?nh giaè?i phoèng , không coè?n bièÊ buôn baèn , chuyêè?n nhặặĂèÊng , trao 'ôè?i vaè? gaèn nặĂèÊ nhặ laè? taè?i saè?n caè nhÂn cuè?a chuè? nông nô nặèfa , không coè?n bièÊ chuè? nông nô cặặĂèfng bặèc lao 'ôèÊng nặèfa , tặè? 'oè 'aèf 'ặặĂèÊc tặèÊ do vêè? con ngặặĂè?i , trặĂè? thaè?nh ngặặĂè?i chuè? cuè?a xaèf hôèÊi mặĂèi . Qua phaèt triêè?n ôè?n 'ièÊnh trong mÂèy nfm , khu tặèÊ trièÊ TÂy TaèÊng cuèfng 'ặặĂèÊc chiènh thặèc thaè?nh lÂèÊp vaè?o thaèng 9 nfm 1965 .
    2. Ngặỏằi TỏĂng=========
    Nguỏằi TaèÊng laè? cặ dÂn chuè? yêèu cuè?a TÂy TaèÊng . Ngôn ngặèf laè? chi nhaènh TaèÊng Ngặèf cuè?a ngặỏằi TaèÊng vaè? Mi-an-ma thuôèÊc ngặèf hêèÊ Haèn TaèÊng . Ngặỏằi TaèÊng lÂèy nghêè? nông nghiêèÊp vaè? chfn nuôi laè? chiènh , cặ dÂn thaè?nh thièÊ phÂè?n lặĂèn laè?m nghêè? thuè? công , công nghiêèÊp vaè? thặặĂng maèÊi .
    Ngặỏằi TaèÊng theo phÂèÊt giaèo TaèÊng , tiènh tiè?nh sôi nôè?i phoèng khoaèng , haèt hay muèa gioè?i . Nhặèfgn khuèc haèt cuè?a hỏằ nghe rÂèt êm tai , thặặĂè?ng thặặĂè?ng theo hiè?nh thặèc vặè?a haèt vặè?a muèa . Ngặỏằi TaèÊng phÂè?n trên mfèÊc aèo ngfèn daè?i tay dêèÊt bfè?ng luèÊa vaè? vaè?i , nam giặĂèi mfèÊc thêm chiêèc aèo daè?i rôèÊng , nặèf giặĂèi mfèÊc aèo daè?i côèÊc tay , eo buôèÊc dÂy ; phuèÊ nặèf 'aèf lÂèy chôè?ng noèi chung buôèÊc chiêèc taèÊp dêè? trên coè 'ôè? aèn giôèng nhặ cÂè?u vôè?ng . Nam nặèf 'êè?u têèt toèc , thièch 'eo trang sặèc ; TaèÊi caèc khu vặèÊc khaèc nhau , trang phuèÊc vaè? 'ôè? trang sặèc cuèfng coè sặèÊ khaèc nhau . ThặèÊc phÂè?m cuè?a ngặỏằi TaèÊng lÂèy Chan-pa laè? chiènh , tặèc duè?ng quaè? Thanh Qua vaè? 'ÂèÊu Haè? Lan rang nghiêè?n thaè?nh bôèÊt , thièch uôèng cheè? bặĂ , cheè? sặèfa , rặặĂèÊu Thanh Qua vaè? thièch fn thièÊt boè? vaè? thièÊt cặè?u . ThặĂè?i xặa nhặèfng ngặặĂè?i sinh sôèng trên cao nguyên Thanh TaèÊng thặèÊc haè?nh mai taèng , ngặỏằi TaèÊng hiêèÊn nay vỏôn theo thiên taèng, hoè?a taèng vaè? thuè?y taèng
  4. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Tây Tạng là địa phương tuy nhân khẩu không nhiều, nhưng địa vị quốc tế vô cùng quan trọng. Để tránh nước ngoài nhúng tay vào và Tây Tạng đòi độc lập, khi đại quân Lưu, Đặng sắp kết thúc chiến sự giải phóng Đại Tây Nam, Mao Trạch Đông kịp thời đưa ra lời kêu gọi ?oTiến quân vào Tây Tạng nên sớm, không nên muộn?.

    Cử ai phụ trách công việc quan trọng này? Lúc đầu, Mao dự định lấy Cục Tây Bắc làm chủ giải quyết việc Tây Tạng?. Bành Đức Hoài là người chủ trì Cục Tây Bắc cho rằng theo đường đó tiến vào Tây Tạng rất khó khăn, không thể hoàn thành trong thời gian ngắn. Để có thể tiến quân vào Tây Tạng sớm, Mao Trạch Đông liền giao cho Cục Tây Nam đảm đương nhiệm vụ lịch sử quan trọng đó. Đặng Tiểu Bình là bí thư Cục Tây Nam kiêm chính ủy dã chiến quân hai, đương nhiên trở thành người trực tiếp ra quyết sách và đặt kế hoạch cụ thể cho việc giải quyết vấn đề Tây Tạng.
    Các binh gia cổ đại Trung quốc thường nói: Binh mã chưa xuất động, lương thảo phải đi trước. Tiến quân vào Tây Tạng, theo dự tính của Đặng, không những lương thảo phải đi trước, mà quan trọng hơn là chính trị phải đi trước.
    Giỏi xét vấn đề từ góc độ chính trị là phong cách nhất quán của Đặng. Ngay từ trên đường tiến quân của dã chiến quân hai vào Ba Thục, qua các vùng dân tộc thiểu số ở vùng giáp giới Hồ Nam - Quý Châu, Đặng từng nói, ở những vùng dân tộc thiểu số thế này, cần chú trọng giải quyết vấn đề từ góc độ chính trị, có thể thành lập những vùng dân tộc tự trị, để lợi cho sự phát triển của họ. Tình hình Tây Tạng lại càng đặc biệt và nhạy cảm, rất nhiều đế vương, quan tướng trong lịch sử đã dùng binh nhiều lần, nhưng người thì bị lật thuyền, hao binh tổn tướng, người thì không đánh mà phải lui; sau khi phân tích, so sánh lịch sử và hiện thực, chính trị và quân sự, tôn giáo và thần quyền ở Tây Tạng, Đặng nêu ra kết luận là vấn đề Tây Tạng có ?oý nghĩa chính sách rất sâu sắc?.
    Ông nói: Giải phóng Tây Tạng, cần có một lực lượng quân sự nhất định. Xét về lịch sử, nhiều lần dùng binh vào Tây Tạng mà chưa giải quyết được. Lần này phải dựa nhiều vào chính trị, phải đoàn kết hai phái Lạt Ma và Ban Thiền, phải dựa vào chính trị mà hành quân, dựa vào chính sách mà có cơm ăn.
    Căn cứ vào đó, Đặng đề ra mưu lược cơ bản khi tiến quân vào Tây Tạng là: ?oChính trị trọng hơn quân sự, cung cấp trọng hơn chiến đấu.
    Giải phóng Tây Tạng đương nhiên cần một số quân, nhưng Đặng thấy nếu nhiều quân quá sẽ khó giải quyết vấn đề về sau, vì vậy, bộ đội vào Tây Tạng cần tinh nhuệ, Đặng cho rằng quân chủ lực chỉ cần ba vạn là đủ, còn tuyến cung cấp ít nhất cũng cần tới 1 vạn người dể lập tuyến binh trạm. Về sau còn tổ chức một bộ tư lệnh chi viện với quy mô lớn, bao gồm bộ đội hậu cần và Bộ Tư lệnh quân khu Tây Nam, thống nhất giải quyết vấn đề sửa đường và vận tải. Những biện pháp đó là để giải quyết khi tiến quân không phải dùng lương thực của địa phương, để tạo nên hình tượng đội quân nhân nghĩa, mở đường cho việc giải quyết bằng chính trị.
    Bộ đội vào Tây Tạng cần tinh nhuệ, vậy cử ai đi là thích hợp? Qua cân nhắc nhiều lần, Đặng quyết định cử Trương Quốc Hoa lúc đó mới 38 tuổi dẫn quân đoàn 18 đi làm nhiệm vụ này. Vì quân đoàn 18 có cán bộ tốt, đã có nhiều thành tích trong xây dựng khu mới. Quân đoàn trưởng Trương Quốc Hoa trẻ tuổi, có năng lực, có lợi cho việc ở lâu xây dựng Tây Tạng.
    Một đội quân ba vạn người đơn độc đi vào cao nguyên Tây Tạng bát ngát, nếu không làm tốt, có thể rơi vào nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Lưu, Đặng không thể không suy nghĩ tới điều đó. Do đó, trong khi quyết định để quân đoàn 18 vào Tây Tạng, Trung ương đã ?obố trí các quân đội anh em ở Tân Cương, Thanh Hải và Vân Nam yểm hộ hai bên sườn? để khi cần có thể giúp đỡ. Bố trí được hình thành như sau: Quân đoàn 18 từ tây Tứ Xuyên tiến đến Đặng Kha, Đức Lạc, Ba Đường ở bờ phía đông sông Kim Sa; trung đoàn 126 của quân khu Vân Nam tiến đến Cống Sơn, chi đội kỵ binh Thanh Hải tiến đến Ngọc Thụ; sư đoàn kỵ binh độc lập của Tân Cương tiến đến Vu Điền; ngoài ra, còn một trung đoàn tinh nhuệ tiến theo Đức Khâm, Khoa Mạch, theo sông Ra Lu Chang Pu tiến về phía tây, phối hợp và chi viện cho quân đoàn 18. Có một trận thế như vậy, ?oquân? tiến vào Tây Tạng tuy không nhiều, nhưng ?olực? lại không nhỏ.
    Đặng để đại quân ở ngoại vi mà cho một ít lực lượng tiến vào là xuất phát từ sự suy xét về chính trị, đồng thời có thể đối phó với mọi hành động quân sự lớn, đề phòng không xảy ra thất lợi.
    Quân sự chỉ là hậu thuẫn, chính trị vẫn đi trước. Đặng chỉ thị cho bộ đội vào Tây Tạng thành lập ?oPhòng nghiên cứu Chính trị? chuyên nghiên cứu những vấn đề chính sách khi tiến quân vào Tây Tạng. Ông nhắc nhở bộ đội: chính sách là sinh mạng cần phải liên hệ chặt chẽ, dựa vào quần chúng, dùng chính sách đúng đắn để dẹp tan những lời đồn đại hoang mang do bọn ********* trong và ngoài nước tung ra, xoá bỏ những ngăn cách và thành kiến tích luỹ trong lịch sử, đoàn kết mọi giới tăng lữ và nhân dân yêu nước dưới lá cờ yêu nước chống đế quốc. Ông còn cho soạn thảo ?onguyên tắc và kỷ luật tiến quân?, yêu cầu bộ đội phải gương mẫu chấp hành chính sách dân tộc của đảng, nghiêm chỉnh tuân thủ kỷ luật, tôn trọng phong tục tập quán của dân Tạng. Bộ đội dù có phải hành quân trong gió tuyết, cũng chỉ được ở lều bạt mà không được vào ở các đền chùa, cấp trên không chấp nhận thì không được vào nhà dân, không xâm phạm cái kim sợi chỉ của dân. Theo nói lại, có một chiến sĩ trên dường hành quân đã dùng chân đá một con chim ưng nằm ngang giữa đường, lập tức bị xử lý kỷ luật vì không tôn trọng phong tục đồng bào Tạng, vi phạm chính sách dân tộc và kỷ luật quân đội. Yêu cầu nghiêm khắc đó đã khiến dân Tạng gọi bộ đội là ?ongười Hán mới? và ?oquân Bồ Tát?.
    Tôn giáo là vấn đề rất nhạy cảm của Tây Tạng, cũng là then chốt quyết định việc thành bại của việc giải quyết bằng chính trị. Đặng nhiều lần nhắc nhở bộ đội phải chú ý giữ gìn chùa chiền Lạt Ma, tôn trọng tín ngưỡng của tăng lữ và nhân dân. Sau này, bộ đội đi trước chuẩn bị vào La Sa, Đặng tự mình nhắc nhở: Sau khi đến La Sa, khi hội kiến Đạt Lai Lạt Ma, nếu ông ta đề xuất việc xoa đầu, thì có thể không giữ sự gò bó của quân kỷ, mà để ông ta xoa đầu, còn cần thay mặt cán bộ, chiến sĩ tặng lễ vật cho ông ta.
    Ngày 25.2.1950, Trung ương đánh điện chỉ thị cho Cục Tây Nam: ?oKế hoạch tiến vào Tây Tạng của chúng ta là kiên quyết không thay đổi, nhưng có thể dùng mọi biện pháp đàm phán với Đạt Lai Lạt Ma, để Đạt Ma ở lại Tây Tạng hòa giải với chúng ta?. Căn cứ chỉ thị đó, Đặng quyết đoán đưa biện pháp giải quyết vấn đề Tây Tạng ngả sang hướng hòa bình. Ông tự mình soạn ra 10 chính sách làm điều kiện đàm phán hòa bình với nhà đương cục Tây Tạng. Nội dung chủ yếu là: Nhân dân Tây Tạng đoàn kết lại, đuổi thế lực xâm lược Anh, Mỹ khỏi Tây Tạng; thực hiện quyền tự trị của dân tộc Tây Tạng; giữ nguyên trạng mọi chế độ hiện hành ở Tây Tạng, địa vị và chức quyền của Phật sống Đạt Lai không hề thay đổi, các quan chức giữ nguyên chức vụ; thực hiện quyền tự do tôn giáo, giữ nguyên chùa chiền Lạt Ma, tôn trọng tự do tín ngưỡng và phong tục tập quán của nhân dân Tây Tạng; duy trì chế độ quân sự hiện hành của Tây Tạng, quân đội hiện có của Tây Tạng trở thành một bộ phận của quân đội nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; phát triển ngôn ngữ, văn tự và trường học của Tây Tạng; phát triển nông nghiệp, chăn nuôi và buôn bản của Tây Tạng, cải thiện đời sống nhân dân; toàn bộ việc cải cách ở Tây Tạng phụ thuộc vào ý chí của nhân dân, do nhân dân Tây Tạng và những người lãnh đạo Tây Tạng bàn bạc giải quyết; với những quan chức trước kia thân Anh, Mỹ và thân Quốc dân Đảng, chỉ cần họ cắt đứt quan hệ với Anh, Mỹ và Quốc dân đảng, không phá hoại và chống đối, thì đều để giữ chức, không xét chuyện cũ; Trung quốc Nhân dân Giải phóng quân tiến vào Tây Tạng là để củng cố quốc phòng.
    Sau này, Chính phủ nhân dân Trung ương và Chính phủ địa phương Tây Tạng ký kết hiệp nghị hòa bình giải phóng Tây Tạng gồm 17 điều là căn cứ vào 10 điều đó mà phát triển lên. Điều càng thú vị là, một số nội dung của chính sách đó có nhiều điểm tương tự với chính sách do Đặng đề ra để giải quyết vấn đề Đài Loan, Hương Cảng vào những năm 80.
  5. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Mười chính sách đó xuất phát từ sự suy xét đầy đủ đối với lịch sử và hiện tình xã hội Tây Tạng, chiếu cố đến lợi ích của mọi tầng lớp. Có nhân sĩ đại biểu dân tộc Tạng sau khi xem có cảm giác là những chính sách đó rộng rãi quá. Đặng nói: ?oCần phải rộng rãi một chút. Đó là thực chứ không phải là giả, không phải là lừa đối các ông đâu. Vì vậy, chính sách này có ảnh hưởng rất lớn, sức mạnh của nó không nên đánh giá thấp?
    Đề phòng bộ đội vào Tây Tạng mang theo quan điểm đấu tranh giai cấp, không quen nhìn cảnh bọn chủ nô áp bức bóc lột nô lệ, phạm vào bệnh nôn nóng, vi phạm chính sách, Đặng nhắc nhở cán bộ chiến sĩ, gặp trường hợp đó, nên một mắt mở một mắt nhắm. Đó không phải là vấn đề giác ngộ giai cấp hay không mà ?oNhiệm vụ trung tâm trong công tác dân tộc của chúng ta là giữ vững đoàn kết, xoá bỏ ngăn cách?
    Vậy cử ai đi làm sứ giả hòa bình? Cục Tây Bắc trước cử hai tốp, một tốp bị đuổi về, một tốp bị giữ lại. Cục Tây Nam có một người rất lý tưởng, là ủy viên chính trị quân khu Tây Nam, phó chủ tịch tỉnh Tây Khang, một bạn người Tạng mà Chu Đức kết giao trên đường trường chinh, là Phật sống Cách Đạt ở chùa Cam Tư Bạch Lợi. Khi Cách Đạt tình nguyện vào La Sa khuyên hòa, Đặng tán dương tinh thần yêu nước của ông, nhưng cho ông biết tình hình La Sa rất phức tạp, khuyên ông không nên vội đi. Nhưng Cách Đạt kiên quyết xin đi, Đặng phải tôn trọng ý nguyện của ông và viết một bức thư đề nghị Cách Đạt chuyển giao cho Đạt Lai Lạt Ma, nói rõ quyết sách sáng suốt và lòng thành thực của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng muốn hòa bình thống nhất Tổ quốc. Đáng tiếc là Phật sống Cách Đạt chưa hoàn thành sứ mạng hòa bình thì đã bị ám hại tại Xương Đô. Đặng hết sức tiếc thương, đã tổ chức đại hội truy điệu, viết lời điếu, gọi Cách Đạt là ?oQuang vinh tuẫn quốc, vĩnh thùy bất hủ?. Để biểu dương hình tượng ?obất hủ? đó. Ngày nay ở Cam Tư có dựng một bức tượng hữu nghị giữa tổng tư lệnh Chu Đức với Phật sống Cách Đạt.
    Khuyên hòa không thành, tiên lễ hậu binh. Chính trị đi trước, nhưng có lúc cũng cần mở đầu bằng quân sự. Nhà đương cục Cát Độ do nhiếp chính Đạt Trát cầm đầu đã ép Đạt Lai đời 14 chạy đến A Đông, với ý đồ đưa Đạt Lai ra nước ngoài, và điều động hơn một nửa số quân Tạng khoảng 9 đại bản (tương đương trung đoàn) cộng thêm 3000 dân quân bố phòng dọc sông Kim Sa phía đông Xương Đô và ở khu vực phụ cận Xương Đô, hòng dùng vũ lực chống lại Quân giải phóng vào Tây Tạng. Trong tình hình đó, Đặng quyết định lấy đánh để thúc đẩy đàm cho nhà đương cục biết sức mạnh để họ biết vương sư là không thể ngăn được.
    Trận đánh diễn ra rất đẹp. Lưu, Đặng chỉ dùng một lực lượng nhỏ dương công để thu hút địch, và dùng bộ đội chủ lực tiến hành bao vây vu hồi hai bên nam bắc Xương Đô. Qua 20 ngày chiến đấu, quân ta tiêu diệt hoàn toàn 6 đại bản quân Tạng và một phần của 3 đại bản còn lại, tranh thủ động viên một đại bản khởi nghĩa, tổng cộng tiêu diệt 5.700 người là quân chủ lực của Tây Tạng, giải phóng hoàn toàn Xương Đô, mở toang cánh cửa vào Tây Tạng.
    Trước thế tiến công quân sự mạnh mẽ, tầng lớp trên của Tây Tạng phân hóa mạnh mẽ, lực lượng yêu nước lâu nay bị kiềm chế (phái Ban Thiền) nay phát triển càng vững vàng; còn những phần tử thân đế quốc (phái Lạt Ma) bị đả kích nặng nề, bắt đầu dao động. Sau thắng lợi Xương Đô, việc giải quyết vấn đề Tây Tạng lại trở lại biện pháp hòa bình. Chính phủ trung ương yêu cầu nhà đương cục dịa phương Tây Tạng nhanh chóng cử đại biểu về Bắc Kinh đàm phán, đồng thời tỏ ý trước khi đạt được hiệp nghị hòa bình, tạm thời không tiến quận về La Sa. Bộ đội và nhân viên công tác tiến vào Xương Đô, tuân theo chỉ thị của Đặng đẩy mạnh công tác tuyên truyền dùng hành động thực tế để gây ảnh hưởng tới nhân dân Tạng. Chu Ân Lai thông qua ấn Độ, tác động với chính phủ địa phương Tây Tạng, thúc đẩy tầng lớp trên phân hóa thêm một bước. A Bây, A Oang Dịch Mê và một số quan chức địa phương ở Xương ĐÔ hai lần đưa thư lên Lạt Ma xin đàm phán hoà bình. Dưới sức ép nhiều mặt, Đạt Lai Lạt Ma buộc nhìn thẳng vào hiện thực, cử đoàn đại biểu địa phương Tây Tạng do A Bây, A Oang Dịch Mê cầm đầu đi đàm phán.
    Đoàn của A Bây đến Trùng Khánh, được tổ chức đảng và Chính quyền, quân đội ở Tây Nam nhiệt tình tiếp đãi. Đặng tán dương cao độ A Bây, A Oang Dịch Mê vào giờ phút then chốt đã hiểu rõ đại nghĩa, tiến hành sự lựa chọn lịch sử, trình bày với họ 10 chính sách để giải phóng hoà bình Tây Tạng và đề nghị Đạt Lai từ A Đông trở về đàm phán, hết sức nhấn mạnh rằng những chính sách trên là chân thành, mong họ xoá bỏ mọi hiềm nghi, thúc đẩy hòa đàm đi tới thành công.
    Tháng 5.1951, Chính phủ nhân dân Trung ương ký kết với Chính phủ địa phương Tây Tạng bản hiệp nghị về biện pháp giải quyết hoà bình vấn đề Tây Tạng. Tháng 7, Quân Giải phóng nhân dân chia nhiều đường tiến vào La Sa. Ngày 9-10, bộ đội đi trước đến La Sa, ngày 26-10, bộ đội chủ lực tiến vào La Sa. Đặng đã không phụ lòng mong đợi đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lịch sử tiến quân vào Tây Tạng.
    Vấn đề còn lại là làm thế nào để quản lý Tây Tạng, một khu vực có tình hình đặc biệt này. Năm 1952, Đặng được điều lên trung ương công tác, nhưng luôn luôn chú ý tới vấn đề Tây Tạng: ?oThí dụ như thực hiện khu tự trị dân tộc chúng ta có cử cán bộ không? Cử là cần thiết, nhưng nhất định phải ít mà tinh?. Ông nói với Trương Quốc Hoa: mỗi huyện nhiều nhất cử 5, 6 người tới bồi dưỡng cán bộ người Tạng, tìm hiểu tình hình, làm tốt việc đoàn kết. Cơ cấu ở Tây Tạng cần hết sức tinh giản, phương thức công tác phần nhiều dùng lời, hạn chế dùng giấy tờ. Cơ quan các cấp đều tiếp nhận cán bộ người Tạng vào làm việc. Đặng chủ trương bồi dưỡng cán bộ người Tạng bằng ba nguồn: Một là, chọn trong nông nô một số có khổ lớn thù sâu bồi dưỡng tại chỗ thành cốt cán. Hai là, lập các trường dạy người Tạng ở Thiểm Tây, Hàm Dương. Ba là, đưa một số ưu tú về học viện dân tộc ở Thành Đô, Bắc Kinh đào tạo lâu dài. Những biện pháp đó nằm trong mưu lược ?oDùng người Tạng quản lý người Tạng?.
    Mục tiêu cuối cùng của việc tiến quân vào Tây Tạng là thực hiện chính sách dân chủ. Đặng hiểu rõ vấn đề này rất nhạy cảm: ?oChúng ta xác định, trong dân tộc thiểu số, do trước kia có mâu thuẫn rất sâu với người Hán, tình hình rất phức tạp, nên không thể dùng lực lượng bên ngoài để áp đặt và phát động đấu tranh giai cấp, không thể bằng biện pháp bên ngoài để tiến hành cải cách?, ?ocải cách là cần thiết, không tiến hành cải cách thì không xóa bỏ được tình trạng nghèo nàn trong dân tộc thiểu số, không xoá bỏ nghèo nàn thì không xóa bỏ được lạc hậu. Nhưng chính sách đó cần đợi tới khi điều kiện nội bộ của dân tộc thiểu số có đủ đã mới tiến hành được?. Đặng nói, vấn đề này có ?ochậm một chút cũng không có quan hệ gì?.
    Năm 1956, các tỉnh khác trên đại lục đua nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội, chính sách dân chủ ở Tây Tạng đã nên làm chưa? Hiệp định về hoà bình giải phóng Tây Tạng có mấy điểm ghi rõ là ?okhông thay đổi?, nếu ngày nay thay đổi, sẽ có quan hệ đến sự ổn định của đại cục. Đặng chủ trì hội nghị Ban bí thư, nhiều lần thận trọng thảo luận vấn đề này, nhận thấy thời cơ cải cách ở Tây Tạng vẫn chưa chín muồi, xác định kỳ hạn 6 năm chưa cải sách. Nhằm vào những ý kiến khác nhau về chính sách trong các cán bộ tây Tạng, Đặng nói rõ: Sáu năm nữa, chưa cải cách ở Tây Tạng là điều khẳng định. Mọi việc từ nhân viên, bộ máy, sự nghiệp, tài chính đều đình chỉ, đình chỉ càng nhanh càng tốt, nhân viên điều về càng nhanh càng tốt. Phương châm thu lại đó là căn cứ vào tình hình chính phủ địa phương Tây Tạng không muốn thay đổi hiện trạng, và đã có một vài nơi phản loạn bài xích người Hán. Phản loạn đã phát sinh thì cần có quyết sách đối phó. Đối với việc phản loạn ở Tây Khang đến Tây Tạng, ngoài lực lượng thời kỳ đầu, Đặng chỉ thị ?oNhà đương cục Tây Tạng vẫn giữ nguyên bản chất cũ. Hiện nay không phát động quần chúng, chỉ chỉnh đốn đội ngũ, kết bạn và học tập. Trong xã hội, cũng không nên tuyên truyền chủ nghĩa xã hội. Bộ đội vũ trang phản loạn ở Tây Khang đến Tây Tạng, ngoài lực lượng của bản thân chính quyền Tây Tạng, chúng ta không cần cử người đi đánh. Bộ đội ở Tây Tạng tuân theo chỉ thị, co về các tuyến giao thông và cứ điểm, có một số lui về nội địa.
    Bọn phản loạn hiểu sai sự kiềm chế và nhân nhượng của Đặng, chúng càng lấn tới, khiến cuộc phản loạn không ngừng leo thang, đến 1958 diễn biến thành cuộc phản loạn vũ trang mang tính toàn cục. Lúc đó, Đặng trao đổi sách lược với Trương Quốc Hoa: Nếu bọn phỉ uy hiếp cơ quan đảng chính quyền và tuyến giao thông thì phải đánh, chắc thắng thì đánh, không chắc thắng không đánh. Giao thông cần được bảo vệ. Hai biện pháp đồng thời tiến hành, trước hết chú trọng dường giao thông, đồng thời bảo vệ lực lượng. Sáu năm không thay đổi, nhưng xuất hiện rối loạn do họ chịu trách nhiệm.
    Mấy hôm sau, Trương Quốc Hoa và một số cán bộ về Tây Tạng để bố trí việc quân sự. Đặng lại trực tiếp dặn việc quyền biến với họ: ?oNgươi không phạm đến ta thì ta không phạm đến ngươi. Củng cố trận địa của mình, bảo đảm giao thông. Nếu bị uy hiếp giao thông và chắc thắng thì đánh, Giải phóng quân không nên khinh xuất khi chiến đấu, không nên khinh suất sử dụng bộ đội, Còn thời gian bốn năm nữa, còn dài lắm.
    Co về là để giành chủ động, chủ động về chính trị, lấy thoái làm tiến. Không lâu sau, Đặng lại có chỉ thị quan trọng về vấn đề Tây Tạng: Sáu năm không thay đổi, phương châm co về không thay đổi, co về là đúng. Nếu bọn thống trị muốn thay đổi thì là việc khác, không quan hệ đến ta. Nếu họ muốn thay đổi, chúng ta sẽ phát động quần chúng. Phương châm cải cách hòa bình không thể thay đổi, nhưng khó có thể hoàn toàn giải quyết bằng hòa bình. Chúng ta cần phải chuẩn bị.
    Co về và nhân nhượng đến đầu năm 1959, lực lượng vũ trang phản loạn tiến công toàn diện vào bộ đội ở Tây Tạng. Kỳ hạn sáu năm chưa hết, nhưng ?ongươi đã phạm đến ta?, điều đó chứng tỏ rằng nhà đương cục Tây Tạng đã xé bỏ hiệp nghị và họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Thế là từ 20-3, bộ đội đã co về các tuyến giao thông tiến hành cuộc đấu tranh dẹp loạn toàn diện từ La Sa. Lúc này, vấn đề cải cách cũng dễ giải quyết, bộ đội dẹp loạn theo chỉ thị vừa đánh trận vừa cải cách. Khí thế như gió quét lá khô, chỉ trong một thời gian ngắn, đã xoá bỏ chế độ nông nô phong kiến ở Tây Tạng. Đến tháng 3.1962, vừa hết kỳ hạn 6 năm, toàn bộ cuộc nổi loạn trong nội địa Tây Tạng đã được dẹp yên. Đồng thời, thời đại chuyên chế của quý tộc và tăng lữ trên cao nguyên Tây Tạng cũng vĩnh viễn kết thúc, thay vào đó là một Tây Tạng mới xã hội chủ nghĩa.
    Tướng âm Pháp Đường, người năm đó theo Đặng Tiểu Bình tiến quân vào Tây Tạng nhớ lại: Tuy năm tháng qua đi tang thương biến đổi, nhiều chuyện lịch sử đã dần dần phai nhạt, nhưng việc đồng chí Đặng Tiểu Bình tiến quân vào Tây Tạng, dẹp cuộc phản loạn ở Tây Tạng, đóng góp công lao và có sự cống hiến đặc biệt với việc hoàn thành cải cách dân chủ ở Tây Tạng thì sẽ vĩnh viễn được ghi khắc trên nóc nhà của thế giới.
  6. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Sau này, năm 1964, Tất cả các quan chức, lãnh đạo tôn giáo của Tibet thân phương Tây ở lại hoặc nếu không kịp trốn chạy sang India đều bị bắt giữ, đày đi cải tạo lao động tại Tân Cương sau đó 2 năm và không còn một mống sống sót.
    Các chùa chiền, kinh sách , tượng Phật ...đã bị lũ Hồng Vệ Binh tàn phá không thương tiếc.
    Trung Quốc đã nhanh chóng tạo dựng ra một Thánh sống "giả" chỉ biết nhai lại lời Mao để tiếp tục cai trị Tibet.
    Để củng cố quyền cai trị, khai thác triệt để du lịch Tibet, Trung quốc đã cho dựng con đường sắt dài nhất Trung quốc đến Tibet. Có lẽ sau khi con đường sắt này hoàn thành, dân Tibet sẽ dần dần sẽ bị Hán hoá hoàn toàn.
    Được dilac sửa chữa / chuyển vào 10:57 ngày 22/07/2007
  7. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Liệu Tây Tạng Có Thể Giành Lại Được Quyền Tự Quyết Từ Trung Quốc Không?
    Ngày tháng: 11/11/2005
    Nhân dịp Đức Dalai Lama viếng thăm Thủ Đô Washington, DC, Hoa-Kỳ (12/11/2005)
    Nguyễn Quốc Khải
    (Trích Talawas và Vietnam Review)
    Tổ chức Liên hiệp quốc hiện nay có 191 nước hội viên, nhưng Tây Tạng (Tibet) không ở trong danh sách này. Cuốn bản đồ Rand McNally World Atlas chỉ chú thích Tây Tạng là một cao nguyên (Plateau of Tibet) trong vùng Nam Á rộng lớn. Gần 7 triệu dân Tây Tạng vẫn còn hiện diện trên trái đất, nhưng trên thực tế nước Tây Tạng đã biến mất trên chính trường quốc tế. Ngày 6.7 vừa qua đánh dấu sinh nhật lần thứ 70 của Đức Dalai Lama thứ 14, vị nguyên thủ và một nhà lãnh đạo tinh thần của nhân dân Tây Tạng, linh hồn của cuộc đấu tranh dành lại quyền tự chủ từ Trung Quốc. Đây là cuộc tranh đấu cam go và là đề tài cho bài phân tích này.
    Vài nét về địa dư của Tây Tạng
    Tây Tạng thường được gọi là ?onóc nhà của thế giới? vì ở độ cao trung bình 4.900 thước (16.000 bộ). Sáu con sông lớn của châu Á bắt nguồn từ Tây Tạng: sông Dương Tử (Yangtse), Hoàng Hà (Huang He), Ấn Hà (Indus River), Mekong, Brahmaputra, và Ganges. Tây Tạng chia sẻ ranh giới với nhiều nước. Về phía bắc và phía Đông có Trung Quốc. Về phía nam có Ấn Độ, Bhutan, Nepal, Miến Điện, và Trung Quốc. Về phía tây có Ấn Độ và Kashmir. Phần lớn rặng núi Himalaya nằm trong lãnh thổ Tây Tạng, còn ngọn Everest thì nằm trên ranh giới của Tây Tạng với Nepal.
    Tất cả hay hầu hết (tùy theo định nghĩa) lãnh thổ Tây Tạng đặt dưới quyền kiểm soát của Trung Quốc. Đối với người dân và Chính phủ Lưu vong Tây Tạng, xứ này là vùng có cùng một nền văn hoá trong nhiều thế kỷ vừa qua. Nó bao gồm ba tỉnh truyền thống Amdo, Kham và U-tsang, nhưng không kể những lãnh thổ cũng có cùng văn hóa Tây Tạng bên ngoài nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, như Bhutan (nước độc lập), Sikkim và Ladakh (thuộc Ấn Độ), Arunachal Pradesh (hiện thuộc sự kiểm soát của Ấn Độ nhưng Trung Quốc đòi một phần lớn).
    Đối với Trung Quốc, Tây Tạng gồm Vùng Tây Tạng Tự trị (TAR, Tibet Autonomous Region) và Arunachal Pradesh. TAR bao gồm tỉnh U-tsang và khu phía tây của tỉnh Kham. Những vùng khác còn lại (theo định nghĩa cổ truyền của Chính phủ Lưu vong Tây Tạng) nay được Trung Quốc sát nhập vào các tỉnh lân cận của Trung Quốc, là Thanh Hải (Qinghai), Cam Túc (Gansu), Vân Nam (Yunnan), và Tứ Xuyên (Sichuan). Chủ quyền về đất đai ở vùng này là nguyên nhân tranh chấp giữa Trung Quốc với Tây Tạng, và giữa Trung Quốc với Ấn Độ.
    Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng
    Vào ngày 1.10.1949, sau khi quân Trung Cộng đánh bại Trung Hoa Quốc Dân Đảng, đài phát thanh Bắc Kinh bắt đầu truyền đi một tuyên cáo rằng quân đội nhân dân phải giải phóng tất cả những phần đất thuộc Trung Quốc còn lại, bao gồm Tây Tạng (Xizang), Tân Cương (Xinjiang), Hải Nam (Hainan), và Đài Loan (Taiwan). Trước sự đe dọa này, Bộ Ngoại giao Tây Tạng gửi thư cho Mao Trạch Đông (Mao Tse-tung) đề nghị giải quyết tranh chấp biên giới giữa Trung Quốc và Tây Tạng. Cuộc thương thuyết thất bại vì Chính phủ Tây Tạng không chấp nhận hai đòi hỏi của Trung Quốc: (1) Vấn đề quốc phòng của Tây Tạng do Trung Quốc phụ trách, (2) Tây Tạng là một phần đất của Trung Quốc.
    Hậu quả là vào ngày 7.10.1950, 40.000 quân Trung Quốc đã tấn công Chamdo, thủ đô của miền đông Tây Tạng, đánh bại 8.000 quân Tây Tạng trong hai ngày. Ấn Độ, Hoa Kỳ, Anh quốc, và một số nước phản đối. Quân Trung Cộng chiếm thêm phần đất miền bắc Tây Tạng. Thiếu sự ủng hộ cụ thể của quốc tế, Đức Dalai Lama và chính phủ Tây Tạng quyết định gửi phái đoàn đi Bắc Kinh. Dưới sự đe dọa và áp lực của Bắc Kinh, phái đoàn Tây Tạng bị cưỡng bức ký một thỏa hiệp giữa chính phủ trung ương và chính phủ địa phương của Tây Tạng vào ngày 23.05.1951 về những biện pháp giải phóng hòa bình Tây Tạng (Hiệp định 17 điểm) mà không hỏi ý kiến của Chính phủ Tây Tạng. Đức Dalai Lama và Chính phủ Tây Tạng công khai lên tiếng bác bỏ thoả hiệp này.
    Vào ngày 9.9.1951, khoảng 3.000 quân Trung Cộng tiến vào thủ đô Lhasa. Theo sau là một đoàn quân thứ hai gồm 20.000 người. Các thành phố chính khác và toàn thể lãnh thổ của Tây Tạng dần dần bị chiếm đóng. Phong trào kháng chiến Tây Tạng bắt đầu hoạt động và ngày càng mạnh vì chính sách hà khắc và không thuận lòng dân của Trung Cộng. Chủ nghĩa cộng sản là một ý thức hệ ngoại lai được Trung Quốc nhập cảng vào Tây Tạng, không phù hợp với đầu óc và trái tim của nhân dân Tây Tạng. Họ vốn sùng đạo Phật trong khi cộng sản chủ trương vô thần. Các tôn giáo bị cộng sản coi như một thứ mê tín dị đoan dùng để ru ngủ con người.
    Hai cuộc nổi dậy lớn nhất xẩy ra vào 1956 và 1959 nhưng đều thất bại. Trong cả hai trường hợp, Khi tình thế trở nên nguy ngập, Đức Dalai Lama đã phải lánh nạn qua Ấn Độ. Mao Trạch Đông đã thuyết phục Đức Dalai Lama trở về nước sau lần nổi dậy thứ nhất. Cuộc tổng nổi dậy thứ hai xẩy ra vào tháng 3.1959. Kết quả vài chục ngàn người Tây Tạng bị giết, 80.000 người trốn qua các nước láng giềng tị nạn. Từ đó đến nay, các cuộc biểu tình vẫn xẩy ra ở Tây Tạng. Thủ Tướng Chu Ân Lai (Zhou Enlai) ký sắc lệnh giải tán Chính phủ Tây Tạng. Ba tháng sau, vào ngày 20.06.1959, Đức Dalai Lama lập Chính phủ Lưu vong tại Dharamsala, một thị trấn ở miền bắc Ấn Độ và long trọng bác bỏ Thỏa hiệp 17 điểm mà Trung Quốc áp đặt lên Tây Tạng. [1] Từ đó đến nay ngài chưa bao giờ trở về quê hương.
    Trong hai thập niên tiếp theo dưới quyền cai trị của Trung Quốc, khoảng 1,2 triệu người Tây Tạng, tức là khoảng 20% dân số, đã chết trong tù hoặc các công trường lao động, hoặc bị thủ tiêu. Hơn 6.000 đền đài, tu viện, các cơ sở văn hóa và tôn giáo đã bị tàn phá. Sự vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo của chính quyền Trung Quốc lan rộng tại Tây Tạng. Nhiều tù nhân bị để cho chết đói hoặc chết rét. Dân Tây Tạng trải qua hai nạn đói. Lần thứ nhất vào năm 1958-1961, do hậu quả của kế hoạch Nhảy vọt. Lần thứ hai vào măm 1966-1976, do hậu quả của cuộc *****************. Thêm vào đó, một số lượng đáng kể lương thực mà người dân Tây Tạng sản xuất bị thu mua để nuôi Quân đội Giải phóng Nhân dân. Kể từ năm 1979, khi Trung Quốc bắt đầu chương trình cải tổ kinh tế, mức độ tàn bạo của chính sách cai trị tương đối bớt đi đôi chút.
    Mục tiêu của Cộng sản Trung Quốc là tiêu diệt ý niệm chủ quyền của nhân dân Tây Tạng. Điều này được thực hiện bằng ba cách:
    (1) Đối xử phân biệt chính trị và vẽ lại ranh giới các vùng trong chiến thuật chia để trị.
    (2) Thực hiện một số cải tổ về xã hội và kinh tế để thay đổi cấu trúc xã hội Tây Tạng dù trái với nguyện vọng của dân Tây Tạng.
    (3) Thiết lập các cơ sở của chính phủ Trung Quốc và một số cơ sở mới song song với những cơ sở của Tây Tạng.
    Để củng cố vị thế quân sự tại Tây Tạng, Trung Quốc đã cho xây cất những xa lộ chiến lược nối liền Tây Tạng với Hoa lục. Một đường xe lửa được thiết lập với tốn phí khoảng 20 tỉ dân tệ (Yuan) để có thể chuyên chở nhanh chóng binh sĩ trong trường hợp xẩy ra phản loạn hoặc chiến tranh với Ấn Độ. Trung Quốc cũng đã sửa sang và mở rộng những phi trường có sẵn tại Tây Tạng và xây thêm những căn cứ không quân mới cho các chiến đấu cơ. Trung Quốc thiết lập những cơ sở nghiên cứu nguyên tử tại hai tỉnh Kham và Amdo. Điều này chứng minh một toan tính của giới chức quân sự Trung Quốc ?oHỏa tiễn đặt trên nóc địa cầu có thể tấn công bất cứ nơi nào trên trái đất.? [2]
    Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) thời dưới quyền của Mao Trạch Đông, đã trực tiếp điều khiển mọi chiến dịch tại Tây Tạng trong thời gian từ 1949 đến cuối thập niên 1950, từ đánh chiếm đến dẹp các cuộc nổi dậy, loại trừ những nhà lãnh đạo Tây Tạng, thành lập chính phủ bù nhìn tại Lhasa và thủ tiêu cả những viên chức cộng sản cao cấp phụ trách Tây Tạng không theo chính sách cứng rắn của Đặng Tiểu Bình. [3] Trong thời gian Cách mạng Văn hoá, Đặng Tiểu Bình tỏ vẻ nương tay với Tây Tạng ở ngoài mặt. Trước đây, Đặng Tiểu Bình từ chối mọi cuộc thương thuyết với Dalai Lama. Nay ông thay đổi thái độ và bằng lòng đồng ý với bất cứ điều gì ngoại trừ một nước Tây Tạng độc lập.
    Đặng Tiểu Bình cũng buộc Hồ Diệu Bang (Hu Yaobang), Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Trung Quốc, phải từ chức vì Hồ Diệu Bang không ngăn chặn được sinh viên biểu tình vào năm 1986 và còn hỗ trợ nhân quyền và quyền tự chủ của Tây Tạng. Khi đến thăm Vùng tự trị Tây Tạng, Tổng Bí thư Hồ Diệu Bang tuyên bố ?oĐảng Cộng Sản đã thất bại tại Tây Tạng.? Cái chết của Hồ Diệu Bang vào 15.4.1989 vì bệnh tim đã khiến sinh viên tự động kéo nhau đến Thiên An Môn biểu tình cho đến khi Cộng sản Trung Quốc dùng võ lực đàn áp vào 4.6.1989. [4]
    Một trong những người thi hành chính sách của Đặng Tiểu Bình tại Tây Tạng lúc đó là Hồ Cẩm Đào (Hu Jintao). Là Bí Thư của Đảng Cộng Sản thuộc TAR, ông Hồ Cẩm Đào đã ra lệnh thiết quân luật trên toàn vùng Tây Tạng trong thời gian sinh viên biểu tình tại Thiên An Môn. [5]
  8. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Tình trạng hiện nay tại Tây Tạng
    Tây Tạng hiện nay hoàn toàn vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Trung Quốc và được điều khiển từ Bắc Kinh. Chính phủ do Cộng sản Trung Quốc lập ra vào năm 1959 hoàn toàn phụ thuộc vào đảng. Cũng kể từ đó đến nay không một người dân Tây Tạng nào được giữ một chức vụ nào trong chính quyền địa phương. Cộng sản Trung Quốc duy trì một lực lượng quân sự khoảng 300.000 binh sĩ và công an ở Tây Tạng.
    Ngoài ra, Cộng sản Trung Quốc chủ trương di dân Trung Hoa ồ ạt đến vùng Tây Tạng. Dân địa phương nay trở thành thiểu số ngay trên quê hương của họ so với số dân di cư tới. Theo con số của Chính phủ Lưu vong Tây Tạng, vào cuối năm 1995, đã có 7,5 triệu dân Trung Quốc được đưa đến định cư tại vùng Tibet ở ngoài TAR. Công ước Geneva Thứ tư được ban hành vào năm 1949 cấm việc di dân vào những vùng chiếm đóng. Do đó không những Tây Tạng bị Trung Quốc ngự trị về mặt quân sự, chính trị, và kinh tế mà ngày nay còn bị ngự trị cả về mặt xã hội và văn hoá. Mặc dù ngôn ngữ địa phương là Tây Tạng, nhưng ngôn ngữ chính thức là tiếng Trung Hoa. Điều này mâu thuẫn ngay chính với Điều 4 của Hiến Pháp Trung Quốc và Điều 37 của Luật Dân tộc thiểu số ban hành vào năm 1984. Theo đó, ở nơi nào dân thiểu số chiếm đa số, ngôn ngữ của dân thiểu số sẽ là ngôn ngữ chính trong chính quyền và các trường học. Tại Tây Tạng, 95% dân số Tây Tạng không nói hoặc không hiểu tiếng Trung Hoa. Sắc dân Hán của Trung Quốc chiếm 44% của tổng số dân và phần còn lại là thuộc 55 sắc dân thiểu số sinh sống trong ranh giới Trung Quốc, gồm Tây Tạng, Mông Cổ và nhóm theo Hồi giáo Uighurs. [6]
    Trên thực tế, việc kiểm soát của Cộng sản Trung Quốc đã bắt đầu yếu đi. Tham nhũng, phung phí tài nguyên và thiếu sự hiệu năng đang lan rộng. Những mục tiêu lý tưởng của cuộc cách mạng như cải tiến xã hội, văn hoá và con người không còn nữa. Bất mãn, chống đối và kinh miệt tăng dần trong quần chúng. Chính phủ địa phương chỉ còn bám vào quyền hành nhờ võ lực nhưng có dấu hiệu suy yếu.
    Theo tổ chức Ân xá Quốc tế, tự do tôn giáo, ngôn luận và lập hội tiếp tục bị giới hạn nghiêm trọng. Việc bắt bớ tùy tiện và xét xử bất công ở tòa án vẫn xảy ra. Trên 100 tù nhân lương tâm người Tây Tạng, phần lớn là nam và nữ tu sĩ còn bị giam giữ. Mặc dù từ năm 2002 đến nay, có sự liên lạc giữa chính phủ Bắc Kinh và Chính phủ Tây Tạng Lưu vong, nhưng Ân xá Quốc tế cho biết tình trạng vi phạm nhân quyền ở Tây Tạng không cải thiện. [7]
    Tổ chức Ký giả không Biên giới tại Paris nói rằng Trung Quốc tiếp tục hạn chế tự do báo chí tại Tây Tạng, như cấm phổ biến những bài do Đức Dalai Lama viết. Tổ chức Ký giả không Biên giới nhận xét: ?oNhững giới chức có thẩm quyền Trung Quốc cương quyết cố gắng loại bỏ ý niệm về bản chất dân tộc, theo dõi kỹ lưỡng và thường trừng phạt những tu viện được xem như những trung tâm văn hóa hỗ trợ quyền tự chủ và sự lãnh đạo của Đức Dalai Lama.?
    Theo thống kê chính thức, hiện nay có khoảng 200.000 người dân tị nạn Tây Tạng đang sống tại Ấn Độ. Và mỗi năm vài ngàn người Tây Tạng vẫn tìm cách bỏ nước ra đi.
    Cuộc tranh đấu đòi tự quyết của nhân dân Tây Tạng
    Kể từ khi Chính phủ Lưu vong của Tây Tạng đươc thành lập vào năm 1959, Đức Dalai Lama đã cho thực hiện một số biện pháp để dân chủ hoá chính phủ. Một cơ quan đại diện cho nhân dân Tây Tạng do dân bầu lên và được gọi là Hội đồng Đại biểu Nhân dân Tây Tạng (còn gọi là Hội đồng Quốc gia, hay Quốc hội). Bản dự thảo Hiền pháp cho Tây Tạng tương lai sẽ được ban hành. Theo đó, quyền hành pháp của Dalai Lama có thể giới hạn bởi 2/3 trong tổng số 46 đại biểu. [8]
    Vào năm 1990, Hội đồng Đại biểu Nhân dân Tây Tạng được mở rộng và quyền hạn đươc tăng cường. Hội đồng Đại biểu Nhân dân bây giờ bầu ra Hội đồng Bộ trưởng. Trước đây, thành viên trong Hội đồng Bộ trưởng do Đức Dalai Lama chỉ định. Đức Dalai Lama tuyên bố ngài sẽ không nhận một vai trò nào trong chính phủ tương lai của Tây Tạng. Theo Thủ tướng Samdhong Rinpoche của Chính phủ Lưu vong Tây Tạng, ?oĐức Dalai Lama không là một vấn đề. Trái lại, ngài là chìa khoá dẫn đến giải pháp cho những vấn đề của chúng tôi.? [9]
    Mặc dầu nhân dân Tây Tạng bị đàn áp tàn bạo bằng võ lực, Đức Dalai Lama chủ trương giải phóng Tây Tạng bằng những biện pháp bất bạo động. Ngài nói về giải thưởng Nobel Hòa bình trao cho ngài vào năm 1989 rằng ?oGiải thưởng này tái xác nhận niềm tin vững chắc của chúng ta là với võ khí của chúng ta là sự thật, lòng can đảm, và quyết chí, Tây Tạng sẽ được giải phóng. Cuộc tranh đấu của chúng ta phải bất bạo động và không thù hận.?
    Trong những năm 1979-1985, Trung Quốc và phái đoàn Tây Tạng đại diện Đức Dalai Lama đã có một vài cuộc tiếp xúc tại Tây Tạng và tại Bắc Kinh để tìm giải pháp cho vấn đề Tây Tạng, nhưng đã không đạt được kết quả nào. Trong 8 năm kế tiếp có vài cuộc tiếp xúc lẻ tẻ. Nhưng đến năm 1993, liên lạc trực tiếp giữa Đức Dalai Lama và Bắc Kinh hoàn toàn bị cắt đứt. Kể từ 2002 đến nay chính phủ Bắc Kinh và đại diện của Đức Dalai Lama có những cuộc tiếp xúc chính thức trở lại và rộng rãi hơn. Hai bên chưa thật sự thương thuyết (negotiation) mà mới chỉ đối thoại (dialogue). Vòng đối thoại đầu tiên chỉ để chào hỏi. Vòng đối thoại thứ hai nửa du lịch nửa nói chuyện. Trong vòng thứ ba, nhiều thì giờ dành cho thảo luận và giúp giảm bớt nỗi lo sợ của Trung Quốc. Vòng thứ tư được tổ chức ở toà Đại sứ Trung Quốc tại Berne, Thụy Sĩ, dùng để trả lời những câu hỏi nêu ra tại vòng thứ ba tại Bắc Kinh. [10]
    Lập trường của Đức Dalai Lama thay đổi đáng kể trong 10 năm vừa qua, phản ảnh thay đổi của tình hình thế giới. Ngài không đòi một nước Tây Tạng độc lập hoàn toàn với Trung Quốc mà chỉ đòi ?oquyền tự chủ thật sự? (genuine autonomy). Vào tháng 12.1987, tại Quốc Hội Hoa Kỳ, Đức Dalai Lama đưa ra một đề nghị 5 điểm trước Nhóm Đặc nhiệm về Nhân quyền tại Quốc hội Hoa Kỳ (U.S. Congress Human Rights Caucus). Trong đó ngài coi Tây Tạng là một nước độc lập bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp. Năm 1992, trong lễ kỷ niệm cuộc nổi dậy của dân Tây Tạng vào năm 1959, Đức Dalai Lama đòi hỏi ?otự do hoàn toàn? cho Tây Tạng, Nội Mông, và Đông Turkistan. Hai năm sau, Đức Dalai Lama yêu cầu tổ chức cuộc trưng cầu dân ý để hỏi ý kiến nhân dân Tây Tạng về tương lai quê hương của họ. Lập trường tương tự của ngài được lập lại vào năm 1995 khi Đức Dalai Lama tuyên bố rằng Tây Tạng là một quốc gia bị thực dân chiếm đóng.
    Năm 2004 chứng kiến thay đổi lớn về lập trường của Đức Dalai Lama về tương lai của Tây Tạng. Tại một cuộc hội thảo tại Ottawa, Canada vào tháng 4.2004 Đức Dalai Lama tuyên bố rằng ngài không đòi độc lập cho Tây Tạng hay tách Tây Tạng khỏi Trung Quốc mà chỉ muốn ?otự trị thực sự? trong thành phần của Trung Quốc. Ngài sẽ không muốn có một quyền hành chính trị nào trong tương lai tại Tây Tạng và Trung Quốc toàn quyền kiểm soát về ngoại giao và quốc phòng. Trong những dịp nói chuyện tại Mexico vào tháng 10.2004 hay tại Bangalore, Ấn Độ vào tháng 12.2004 Đức Dalai Lama tiếp tục lập lại những lời tuyên bố như ở Ottawa. Ngài cho rằng Tây Tạng có lợi nếu là một phần của Trung Quốc, với điều kiện là văn hoá và môi trường của Tây Tạng được bảo vệ. Ngoài ra, Đức Dalai Lama cũng không nhắc tới vùng Đại Tây Tạng (Greater Tibet) nữa mà chỉ đề cập tới ba tỉnh cổ truyền của Tây Tạng là Amdo, Kham, và U-tsang. [11]
    Người ta thấy Đức Dalai Lama đã nhượng bộ khá nhiều vì lập trường một nước Tây Tạng độc lập không phải là một giải pháp thực tiễn, và vì vậy không được thế giới ủng hộ. Chính phủ Lưu vong Tây Tạng không được nước nào công nhận. Mặc dù vậy, Trung Quốc vẫn giữ một lập trường cứng rắn. Mặt khác, Trung Quốc vẫn đồng ý tiếp tục đối thoại với đại diện của Đức Dalai Lama. Sách trắng của Trung Quốc về Tây Tạng phát hành ngày 22.05.2004 loại bỏ bất cứ vai trò nào của Đức Dalai Lama tại Tây Tạng trong tương lai, đồng thời chỉ trích đòi hỏi của ngài cho Tây Tạng hưởng chính sách một nước hai chế độ và nhiều quyền tự chủ, theo hai mô hình Hồng Kông và Macao, là không có thể có được.
    Phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố vào dịp có buổi đối thoại giữa chính phủ Bắc Kinh và đại điện của Đức Dalai Lama vào ngày 13.07.2004, đặt những điều kiện tiên quyết của Trung Quốc cho cuộc đối thoại giũa hai bên là: (1) Đức Dalai Lama phải thực sự từ bỏ việc hỗ trợ một nước Tây Tạng độc lập; (2) Chấm dứt những hoạt động ly khai, và (3) Công khai ghi nhận rằng Tây Tạng và Đài Loan là phần đất thuộc Trung Quốc. Những đều kiện tiên quyết này lại được phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc lập lại vào tháng 10.2004.
    Vòng đàm phán mới đây nhất được tổ chức tại tòa Đại sứ Trung Quốc tại Berne, thủ đô của Thụy sĩ trong những ngày cuối tháng 6.2005. Phái đoàn Tây Tạng được lãnh đạo bởi các ông Lodi Gyaltsen Gyari và Kelsang Gyaltsen. Hai người này đã đại diện Đức Dalai Lama trong ba vòng đàm phán trước tại Bắc Kinh. Ba thành viên còn lại là ông Tsegyam Ngaba, sứ giả của Đức Dalai Lama tại Đài Loan, và ông Bhuchung Tsering, một thành viên trong nhóm đặc nhiệm về việc thành lập Chính phủ Lưu vong Tây Tạng và là Giám đốc của tổ chức International Campaign for Tibet, và ông Samdhong Rinpoche, Thủ tướng của Chính phủ Lưu vong Tây Tạng.
    Lập trường của hai bên còn có một số khác biệt mà một vấn đề căn bản là định nghĩa ranh giới của Tây Tạng. Vùng Tây Tạng tự trị do Trung Quốc thiết lập là một vùng rộng khoảng 1,2 triệu cây số vuông (khoảng 460.000 dặm vuông). Trong khi đó Vương quốc Tây Tạng cũ rộng lớn hơn nhiều, gồm hầu hết phần đất nay sát nhập vào hai tỉnh Thanh Hải và Tứ Xuyên.
  9. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Thế giới hỗ trợ chính nghĩa của Tây Tạng
    Khi quân Trung Cộng bắt đầu tràn vào Tây Tạng vào năm 1949, Chính phủ Tây Tạng cầu cứu Liên hiệp quốc để giúp chống lại cuộc xâm lăng. Nhưng Đại Hội đồng Liên hiệp quốc không có hành động nào theo sự khuyến cáo của Anh quốc và Ấn Độ, để tránh không khiêu khích Trung Quốc mở cuôc tấn công toàn diện vào Tây Tạng. Sau đó, vấn đề Tây Tạng đã được ra thảo luận tại Đại Hội đồng Liên hiệp quốc vào các năm 1959, 1960, 1961 và 1965. Đa số các nước xem việc tấn công vào Tây Tạng của Trung Quốc là một cuôc xâm lăng.
    Vào năm 1961, Đại Hội đồng Liên hiệp quốc đã chấp thuận nghị quyết 1723 (XVI), theo đó quyền tự quyết của nhân dân Tây Tạng được thừa nhận. Liên hiệp quốc cũng kêu gọi Trung Quốc chấm dứt việc vi phạm các quyền căn bản và tự do của dân Tây Tạng. Bốn năm sau, vào năm 1965, Đại Hội đồng Liên hiệp quốc tái thừa nhận nghị quyết 1723 bằng nghị quyết 2079 (XX).
    Vào năm 1992, Tòa án Dân tộc Thường trực (Permanent Peoples?T Tribunal) nhóm họp tại Strasbourg, Pháp quốc đã phán quyết rằng nhân dân Tây Tạng có đầy đủ đặc tính của một dân tộc với đầy đủ quyền tự quyết. Tòa án Dân tộc Thường trực cũng kết luận rằng ?osự hiện diện của chính quyền Trung Quốc trên lãnh thổ Tây Tạng phải được xem là một thống trị ngoại quốc. Sau cùng, bản án phán xét rằng ?oDân tộc Tây Tạng đã bị tước đoạt quyền tự quyết liên tục kể từ 1950.? [12]
    Cũng vào cuối năm 1992, 30 luật gia quốc tế nổi tiếng và chuyên về quyền tự quyết từ Âu châu, Phi châu, Á châu và Mỹ châu đã nhóm họp tại London. Sau 4 ngày cứu xét đã kết luận trong một văn bản rằng:
    (1) Theo luật quốc tế, dân tộc Tây Tạng có quyền tự quyết và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hay một quốc gia hoặc một tiểu bang nào không có thể phủ nhận quyền tự quyết này của nhân dân Tây Tạng.
    (2) Kể từ biến cố quân sự vào năm 1949-1950, Tây Tạng đã bị chiếm đóng và đặt dưới sự thống trị của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và đã bị quản lý theo tính chất của một chính quyền thực dân.
    (3) Trong trường hợp đặc biệt của Tây Tạng và sau khi cứu xét lịch sử lâu dài về sự hiện hữu riêng biệt, việc đòi hỏi quyền tự quyết của dân tộc Tây Tạng, kể cả nền độc lập, là phù hợp với nguyên tắc thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia. [13]
    Một trong những lý do khiến Chính phủ Lưu vong Tây Tạng không được nước nào công nhận là vì các nước này ủng hộ quyền tự trị của Tây Tạng nhưng vẫn coi Tây Tạng là một phần đất của Trung Quốc. Điều này không dựa vào lịch sử của Tây Tạng mà dựa vào thực tại bởi vì không quân đội nào đủ mạnh để đánh đuổi quân Trung Cộng và bảo đảm sự độc lập của Tây Tạng. Hiển nhiên Tây Tạng là một nước có một nền văn hoá riêng biệt, một ngôn ngữ riêng biệt, một tôn giáo đặc biệt là Phật giáo Tây Tạng, và một câu trúc chính trị lâu đời từ thế kỷ thứ 7. Tây Tạng có một chính phủ gồm Đức Dalai Lama làm Quốc trưởng, Hội đồng Nội các (the Kashag), Quốc hội (the Tsongdu), một hệ thống tư pháp, quân đội riêng, một hệ thống tiền tệ và thuế riêng biệt. [14]
    Ấn Độ là quốc gia đón nhận Chính phủ Lưu vong Tây Tạng vì đây là nước ủng hộ cuộc tranh đấu của nhân dân Tây Tạng. Từ khi Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng, Ấn Độ mất một vùng đệm và nay tiếp giáp thẳng với Trung Quốc. Vào đầu năm 1959, thủ tướng đầu tiên của nước Ấn Độ độc lập Jawaharlal Nehru bày tỏ sự ủng hộ của ông đối với quyền tự quyết của nhân dân Tây Tạng: ?oTiếng nói sau cùng về Tây Tạng phải là tiếng nói của nhân dân Tây Tạng và không của ai khác.? Những năm gần đây bang giao giữa Ấn Độ và Trung Quốc được cải thiện. Trước khi Thủ tướng Ấn Độ Shri Vajpayee viếng thăm Trung Quốc vào giữa năm 2003, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố: ?oTây Tạng không là một vấn đề khó khăn trong mối quan hệ Ấn-Hoa.? [15] Ngày nay Tây Tạng không có một giá trị cao đối với Ấn Độ như vài thập niên trước đây.
    Nepal là một nước láng giềng với Tây Tạng và là nơi tá túc cho 20.000 dân tị nạn Tây Tạng. Vào đầu năm 2005, Nepal quyết định đóng cửa hai trung tâm trợ giúp dân tị nạn Tây Tạng vì sợ làm phật lòng nước lớn Trung Quốc. Nepal thừa nhận quyền cai trị của Bắc Kinh trên phần đất Tây Tạng.
    Đài Loan có một quan hệ thân thiện với Tây Tạng vì hai lãnh thổ này cùng chịu một số phận trước chủ trương bành trướng của Hoa lục. Đài Loan đã đón tiếp Đức Dalai Lama lần thứ nhất vào năm 1997. Sáu tháng sau đó văn phòng đại diện của Đức Dalai Lama được thiết lập tại Đài Loan dưới hình thức một tổ chức tôn giáo, Quỹ Tôn giáo Tây Tạng của Đức Dalai Lama (The Tibetan Religious Foundation of His Holiness the Dalai Lama). Bốn năm sau Đức Dalai Lama viếng thăm Đài Loan lần thứ hai. Vào năm 2003, ngài từ chối lời mời viếng thăm Đài Loan của Tổng Thống Trần Thuỷ Biển (Chen Shui-bian) vì ngại làm phật lòng Trung Quốc. Năm 2005, nhân dịp sinh nhật lần thứ 70 của Đức Dalai Lama và khánh thành triển lãm hình ảnh về văn hoá của Tây Tạng, Tổng Thống Trần Thuỷ Biển một lần nữa mời ngài thăm viếng Đài Loan.
    Mối bang giao giữa Hoa Kỳ và Tây Tạng rất đáng chú ý. Kể từ Thế chiến thứ II, Hoa Kỳ mới để ý đến Tây Tạng vì vùng đất này là ngã sau dẫn vào Hoa lục đang bị Nhật chiếm đóng. Tuy nhiên, Tây Tạng duy trì vị thế trung lập, từ chối lời yêu cầu của Mỹ. Hoa Kỳ không công nhận và cũng không phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc trên phần đất Tây Tạng vào giai đoạn đó. Dù vậy, Hoa Kỳ thoả thuận cho Tây Tạng quy chế tối huệ quốc về phương diện thương mại. Khi Trung Quốc chiếm đóng Tây Tạng, Hoa Kỳ chấm dứt quy chế này vào tháng 7.1952. Trong hai thập niên 1950 và 1960, Hoa Kỳ và cả Canada, ủng hộ các nghị quyết của Liên hiệp quốc lên án cuộc xâm lăng Tây Tạng của Trung Quốc và ủng hộ cuộc đấu tranh dành độc lập của Tây Tạng.
    Qua thập niên 1970, gió đổi chiều. Hoa Kỳ bình thường hóa bang giao vớí Hoa lục, bỏ rơi Đài Loan và Tây Tạng cũng như sau này là Nam Việt Nam. Đến cuối thập niên 1980, Hoa Kỳ mới ủng hộ Tây Tạng trở lại. Kế hoạch 5 điểm được Đức Dalai Lama trình đến Uỷ ban Nhân quyền của Quốc hội Hoa Kỳ nhằm biến Tây Tạng thành một khu vực hòa bình. Vào năm 1991, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua một đạo luật (tại Public Law, 102-138), trong đó có điều khoản viết rằng:
    ?oTây Tạng, bao gồm những vùng sát nhập vào những tỉnh của Trung Quốc như Tứ Xuyên, Vân Nam, Cam Túc, và Thanh Hải, là một nước bị chiếm đóng - chiếu theo các nguyên tắc của luật pháp quốc tế.?
    Đức Dalai Lama viếng thăm tòa Bạch ốc cả thảy năm lần, qua ba đời tổng thống: George H. W. Bush, Bill Clinton, và George W. Bush. Theo chính sách ngoại giao, Hoa Kỳ công nhận Tây Tạng là một phần đất của Trung Quốc, nhưng các chính phủ liên tiếp của Hoa Kỳ khuyến khích cuộc đối thoại giữa Đức Dalai Lama và Trung Cộng.
    Vào ngày 5.3.2002, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua một nghị quyết (107th Congress, H. Res. 357) nhằm thúc đẩy hành pháp Hoa Kỳ công nhận Chính phủ Lưu vong Tây Tạng tại Dharamsala, Ấn Độ nếu Trung Quốc và Chính phủ Lưu vong Tây Tạng không đạt được một thỏa hiệp đem lại cho Tây Tạng quyền tự trị về chính trị. Ngoài ra, Quốc Hội Hoa Kỳ đã thông qua một đạo luật mang tên Đạo luật năm 2002 về Chính sách đối với Tây Tạng (The Tibetan Policy Act of 2002) (tại Public Law, 107-228) vào ngày 30.09.2002. Mục đích của luật này là để cung cấp viện trợ nhân đạo cho những người tị nạn Tây Tạng đang sinh sống tại Ấn Độ và Nepal, phát triển văn hoá Tây Tạng, theo dõi những biến chuyển tại Tây Tạng, chấm dứt sự can thiệp của Trung Quốc vào sinh hoạt tôn giáo của nhân dân Tây Tạng, và thúc đẩy Trung Quốc và Đức Dalai Lama cùng các đại diện của ngài tiến tới một thỏa hiệp về quyền tự chủ của Tây Tạng.
    Kết luận
    Tây Tạng vận hành như một quốc gia độc lập qua bao nhiêu thế kỷ với quan hệ ở những mức độ khác nhau với nhiều quốc gia láng giềng, đặc biệt với Mông Cổ và triều đình Mãn Châu, mà các vua của họ đã cai trị Trung Quốc dưới cả một triều đại. Lịch sử xa hơn nữa đã chứng kiến Đế quốc Tây Tạng trong một thời gian đã cai trị một phần lớn Trung Quốc.
    Cuộc xâm lăng một đất nước nhỏ bé như Tây Tạng, với vỏn vẹn dưới 7 triệu dân, bởi một nước khổng lồ như Trung Quốc, với 1,3 tỉ người bằng võ lực là một việc không thể bào chữa được. Chính sách cho di dân ồ ạt vào Tây Tạng rõ ràng là một âm mưu đồng hoá dân Tây Tạng. Những vi phạm nhân quyền, và tự do tôn giáo, cùng vấn đề hủy hoại môi sinh và văn hoá của Tây Tạng gây ra bởi lực lượng chiếm đóng Trung Quốc trong nửa thế kỷ vừa qua là một bằng chứng cho thấy rằng Tây Tạng cần được có quy chế tự trị.
    Cuộc tranh đấu bất bạo động, bền bỉ và khôn khéo của nhân dân Tây Tạng, dưới sự lãnh đạo của Đức Dalai Lama thứ 14 đã thức tỉnh được lương tâm nhân loại và thu hút được sự hỗ trợ của hầu hết các nước lớn, kể cả Liên Bang Nga. Trung Quốc ngày càng bị cô lập trên lãnh vực ngoại giao quốc tế về vấn đề Tây Tạng, dù đang trở thành một cường quốc kinh tế và quân sự, khiến họ mang thêm trách nhiệm đối với cộng đồng nhân loại. Là một nước từng bị các cường quốc Tây Phương và Nhật Bản xâu xé, Trung Quốc biết thế nào là bị đàn áp. Trung Quốc cần phải hành sử tốt đẹp hơn và nên mau chóng trả lại quyền tự chủ thực sự cho dân tộc Tây Tạng, một dân tộc vốn có một lịch sử lâu dài, có một nền văn hóa, một ngôn ngữ và một tôn giáo đặc biệt.
    15.07.2005
    © 2005 talawas
    Chú thích:
    [1] Vajradhara ?oTibet and China,? Dharamsala: December 11, 2003.
    [2] Dawa Norbu, ?oChina?Ts Tibet Policy,? Routledge/Curzon Press, 2002 as summarized by Sreeram Chaulia in ?oTibet". Yesterday, Today, and Tomorrow?. Asia Observer, 2002.
    [3] Gồm Tashi Wangchung, phó thống đốc Tây Tạng và tỉnh Qinghai, và Phuntsog Wangyal, đảng viên cao cấp nhất của Cộng Sản Tây Tạng căn cứ vào Michael Sawyer, ?oTibet,? Lesson Plan and Research Papers, 1999.
    [4] Michael Sawyer, ?oTibet,? Lesson Plan and Research Papers, 1999.
    [5] D.S. Rajan, ?oBeijing and the Dalai Lama: Ice Melting ??, South Asia Analysis Group, New Delhi, Paper No. 1271, February 28.2005.
    [6] Lbsang Sangay, ?oChina in Tibet: Forty Years of Liberalization or Occupation?? Harvard Asia Quarterly, Summer 1999.
    [7] Amnesty International, ?oAI Report 2005, the State of the World?Ts Human Rights,? London, 2005.
    [8] AFP, ?oTibet Settlement Hopeful in Dalai Lama?Ts Lifetime: Exile Prime Minister,? July 5, 2005.
    [9] AFP, ?oTibet Settlement Hopeful in Dalai Lama?Ts Lifetime: Exile Prime Minister,? July 5, 2005.
    [10] AFP, ?oTibet Settlement Hopeful in Dalai Lama?Ts Lifetime: Exile Prime Minister,? July 5, 2005.
    [11] D.S. Rajan, ?oBeijing and the Dalai Lama: Ice Melting ??, South Asia Analysis Group, New Delhi, Paper No. 1271, February 28.2005.
    [12] Session on Tibet, Verdict, Permanent Tribunal of Peoples, Strasbourg, 20 November, 1992, pp. 15 and 23, resp. as described in the Government of Tibet in Exile?Ts document entitled ?oThe Status of Tibet,? February 2, 1996.
    [13] International Lawyers?T Statement on Tibet ?" London 1993, London, 10 Jan. 1993, pp. 6-8 as described in the Government of Tibet in Exile?Ts document entitled ?oThe Status of Tibet,? February 2, 1996.
    [14] The government of Tibet in Exile, ?oThe Status of Tibet,? Dharamsala: 1996.
    [15] D.S. Rajan, ?oBeijing and the Dalai Lama: Ice Melting ??, South Asia Analysis Group, New Delhi, Paper No. 1271, February 28.2005.
  10. pootree

    pootree Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/07/2003
    Bài viết:
    571
    Đã được thích:
    0
    Một lần nữa xin cảm ơn các bác!

Chia sẻ trang này