1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cho hỏi về Triệu Khuông Dẫn và Vĩnh Lạc Đế(1360 - 1424)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi phicong, 05/12/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. phicong

    phicong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/11/2004
    Bài viết:
    855
    Đã được thích:
    0
    Cho hỏi về Triệu Khuông Dẫn và Vĩnh Lạc Đế(1360 - 1424)

    Xin hỏi có ai biết 2 vị này không thì xin cho biết với. Cảm ơn nhiều.
  2. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương:
    http://zh.wikipedia.org/wiki/%E6%9C%B1%E5%85%83%E7%92%8B
  3. dimbag

    dimbag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2005
    Bài viết:
    200
    Đã được thích:
    0
    Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn( Zhao Kuangyin 927-976 )
    http://en.wikipedia.org/wiki/Emperor_Taizu_of_Song_China
  4. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Chủ đề này hay đây. Hình như các bác lầm, niên hiệu Vĩnh Lạc là của vua Minh Thành Tổ chứ đâu phải của Minh Thái Tổ đâu nhỉ.
    Xin bắt đầu với vua Minh Thái Tổ trước, kiếm tư liệu về Tống Thái Tổ viết sau.
    Dù đã Trung Quốc hóa, triều Nguyên vẫn là triều đại của kẻ chinh phục ngoại tộc, do đó trong thời kì này, xã hội Trung Quốc tồn tại hai mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Chính vì thế, trong suốt thời kì thống trị của triều Nguyên, các phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc diễn ra liên tiếp. Ðặt biệt cuối đời Nguyên, người Mông Cổ ngày càng xa xỉ, trong khi đó đê điều hỏng nặng không sửa chữa, các laọi thiên tai thường xuyên xãy ra, dịch bệnh lan tràn, do đó nhân dân càng khốn khổ. Trong hoàn cảnh ấy, các hình thức tôn giáo như đạo Di Lặc, đạo Bạch Liên và Minh giáo đang âm ỉ lưu truyền rộng rãi trong nhân dân, nhất là ở vùng lưu vực sông Hoàng Hà.
    Năm 1351, đê Hoàng Hà sau nhiều lần bị vỡ, nhà Nguyên bất đắt dĩ phải điều 15 vạn dân phu đi đắp đê. Nhân cơ hội ấy, giáo trưởng đạo Bạch Liên là Hàn Sơn Đồng cùng đồ đệ của mình là Lưu Phúc Thông mưu tính viẹc khởi nghĩa. Ðể tranh thủ sự đồngtình của quần chúng, Lưu Phúc Thông phao tin rằng Hàn Sơn đồng là cháu 8 đời của Tống Huy Tông từ Nhật Bản đem quân về đánh đổ triều Ngyuên. Nhưng trong khi chuẩn bị khởi nghĩa thì kế hoạch bị bại lộ. Hàn Sơn Ðồng bị bắt và bị giết chết. Tuy vậy, Lưu Phúc Thông vẫn tiếp tục lãnh đạo khởi nghĩa.
    Ðược tin Lưu Phúc Thông dựng cờ khởi nghĩa, nhân dân nhiều nơi nổi dậy hưởng ứng, trong đó có những nhóm tương đối lớn như lực lượng của Từ Thọ Huy ở Hồ Bắc, Quách Tử Hưng ở An Huy. Quần chúng khởi nghĩa đều chít khăn đỏ làm hiệu nên gọi là quân Khăn đỏ ( Hồng Cân quân ). Khẩu hiệu đấu tranh của họ là đánh đổ nhà Nguyên, khôi phục nhà Tống.
    Lúc đầu lực lượng khởi nghĩa của Lưu Phúc Thông đã giành được thắng lợi to lớn, đã tôn con Hàn Sơn Ðồng là Hàn Lâm Nhi lên làm vua, và đặt tên nước là Ðại Tống. Nhưng đến năm 1363, Lưu Phúc Thông bị Trương Sĩ Thành, một thủ lĩnh nông dân đã thuần phục nhà Nguyên, đánh bại.
    Khi quân khăn đỏ của Lưu Phúc Thông đang tiến quân thuận lợi ở miền bắc thì nghĩa quân do Từ Thọ Huy lãnh đạo cũng thu được nhiều thắng lợi ở vùng lưu vực Trường Giang. Năm 1360, Từ Thọ Huy bị một viên tướng của mình là Trần Hữu Lượng giết chết. Trần Hữu Lượng tự xưng là vua, đặ tên nước là Hán. Năm 1362, một tướng khác của Từ Thọ Huy là Minh Ngọc Trân không phục Trần Hữu Lượng cũng xưng vương ở vùng Tứ Xuyên Vân Nam, đặt tên nước là Hạ.
    Cũng trong thời kì này, lực lượng quân khăn đỏ do Quách Tử Hưng lãnh đạo không ngừng phát triển. Trong hàng ngũ họ Quách có một nhân vật về sau trở nên rất quan trọng, đó là Chu Nguyên Chương.
    Chu Nguyên Chương xuất thân từ một gia đình bần nông, đã từng làm sư khất thực một thời gian. Năm 1352, ông tham gia lực lượng khởi nghĩa của Quách Tử Hưng. Năm 1355, Quách Tử Hưng chết, Chu Nguyên Chương trở thành người lãnh đạo chính của nghĩa quân.
    Năm 1356, Chu Nguyên chương thành lập chính quyền ở Kim Lăng ( Nam Kinh ), tự xưng là Ngô quốc công, rồi đến năm 1364 thì xưng làm Ngô vương. Sau khi lần lượt đánh bại các toán quân của Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành... đến năm 1367, Chu Nguyên Chương đã thâu tóm hết miền Nam Trung Hoa rộng lớn.
    Ngay năm đó, Chu Nguyên Chương sai tướng đem quân đánh miền bắc, đồng thời truyền hịch nói rõ mục đích của việc tiến quân là để đánh đuổi giặc Hồ, khôi phục Trung Hoa, lập lại cương kỉ cứu vớt nhân dân, khôi phục uy nghi cho quan lại người Hán..
    Trong khi quân Bắc tiến không ngừng thu được thắng lợi, năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế ở Kim Lăng, đặt tên nước là Minh. Mùa thu năm đó, quân đội của Chu Nguyên Chương tấn công Ðại Ðô, triều đình nhà Nguyên vội vàng chạy lên phía Bắc, ra khỏi Trường Thành. Nền thống trị của nhà Nguyên ở Trung Quốc kết thúc. Tiếp đó, Chu Nguyên Chương tiêu diệt thế lực cát cứ của Minh Ngọc Trân và các lực lượng còn lại của triều Nguyên, đến năm 1387 thì hoàn toàn thống nhất Trung Hoa.
    Khi nhà Minh mới thành lập, do hậu quả của chính sách cai trị của triều Nguyên và gần 20 năm chiến tranh, nền kinh tế Trung Quốc bị phá hoại nghiêm trọng, đời sống nhân dân rất khốn khổ.
    Trước tình hình ấy, Minh Thái tổ thông cảm được các nổi khổ của nhân dân đồng thời cũng hiểu rỏ sức mạnh của quần chúng. Vì vậy ông nói : Thiên hạ mới định, tài lực trăm họ còn khó khăn, giống như con chim mới tập bay, không thể nhổ lông nó, như cây mới trồng không thể lay gốc nó mà phải nâng niu nuôi dưỡng.. Quán triệt tư tưởng đó, Minh Thái tổ đã thi hành những chính sách sau đây:
    - Trả tự do cho những người bị biến thành nô tì trong thời gian loạn lạc, đồng thời cấm cưỡng bức hoặc mua bán dân tự do làm nô tì.
    - Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp như kêu gọi nhân dân khai khẩn đất hoang, cho họ có quyền sở hữu vĩnh viễn và không đánh thuế; kêu gọi dân lưu tán trở về quê quán, cấp cho họ ruộng hoang đồng thời cấp bò cày, nông cụ, thóc giống, lương thực để gíup họ vượt qua những khó khăn ban đầu. Nhà nước còn chú ý đến vấn đề thủy lợi, giảm nhẹ thuế khóa, cứu tế cho dân những nơi bị mất mùa.
    - Bỏ những hình phạt tàn khốc thời Nguyên như thích chữ vào mặt, cắt mũi, chặt chân, thiến...đồng thời dùng nguyên tắc khoan hồng trong xét xử.
    - Nghiêm trị bọn quan lại tham ôbằng các cực hình như chém bêu đầu, tùng xẻo, giết cả họ...Nhờ những chính sách nói trên, trong vòng 30 năm đầu đời Minh, kinh tế được khôi phục nhanh chóng và bước đầu phát triển, tình hình chính trị được ổn định, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện.
    Song một mặt khác, Minh Thái Tổ rất quan tâm tới việc xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền, vì vậy năm 1380, ông quyết định bỏ chức thừa tướng để tập trung quyền hành vào tay hoàng đế.
    Năm 1398, Minh Thái Tổ chết. Vì người con cả chết sớm nhưng cháu đích tôn ông được lên nối ngôi, nhưng người con thứ Yên vương Chu Ðệ đã từ miền bắcđem quân tấn công Kim Lăng. Cuộc nội chiến giữa hai chú cháu bùng nổ. Năm 1402, Chu Ðệ thắng và giành được ngôi hoàng đế. Ðó là Minh Thành Tổ, một ông vua nổi tiếng của triều Minh.
    (Nguồn lượm lặt xào nấu)
    Từ Sử Trung Quốc của cụ Nguyễn Hiến Lê.
    Thái Tổ. ( 1368 - 1398 ), ông vua độc tài nhất trong lịch sử Trung Hoa.
    Nhà Minh thịnh được trong bảy chục năm đầu nhờ hai ông vua giỏi: Thái Tổ và Thành Tổ.
    Chu Nguyên Chương lên ngôi, quốc hiệu là Minh , niên hiệu là Hồng Vũ, đóng đô ở Kim Lăng ( Nam Kinh ngày nay), gọi là Ứng Thiên Phủ.
    Lúc đó vua Nguyên tuy đã chạy ra khỏi Hoa Bắc mà về Mông Cổ, nhưng vẫn giữ đế hiệu, tự coi vẫn là vua Trung Hoa, vì một dải đất ở phương Bắc : Sơn Tây, Thiểm Tây, Cam Túc vẫn do tướng Mông Cổ chiếm cứ: Thái Tổ phải sai tướng dẹp bọn họ, sát nhập những miền đó vào bản đồ nhà Minh.
    Ở phía Nam, một bọn anh hùng chiếm Thành Đô ( tỉnh Tứ Xuyên) và đất Vân Nam . Dẹp xong phương Bắc, Thái Tổ dẹp nốt bọn đó.
    Sau cùng , năm 1387, quân Minh lại thu được Liêu Đông ở phía Đông Bắc, mà thống nhất Trung Quốc từ Bắc tới Nam, từ Tây qua Đông ( Coi bản đồ trên). Đó là công lớn của Chu Nguyên Chương.
    Ông xuất thân trong giới hạ tiện, nghèo hèn hơn Lưu Bang nhiều, phải vào ở chùa để có cơm ăn, nhờ vậy mà được học ít năm; sau theo nông dân nổi loạn . Ông lãnh đạo họ mà gian nan lập nên sự nghiệp.
    Cũng như Lưu Bang và đa số các ông vua sáng nghiệp, khi thành công, Chu không muốn dùng các bạn chiến đấu nữa, vì họ quá thân với mình, biết tài của họ và sở trường cùng sở đoản của mình ra sao, khó mà trị họ. Sợ nhất là khi mình chết rồi, con mình còn nhỏ, họ chuyên quyền uy hiếp, nên ông tìm cách chia rẽ, vu hãm họ, lần lần họ bị giết hết, làm liên lụy đến mấy vạn người lương thiện nữa. Ông không khôn khéo như vua Thái Tổ nhà Tống, mà tàn nhẩn vô cùng.
    Cũng như Lưu Bang, vì ít học, nên ông nghi kỵ các văn thần, bề tôi đang biểu chương, ông thấy có chữ gì nghi ngờ là có ý nhạo báng mình thì giết hết.
    Sử chép có người khen ông là biết đạo, ông hiểu rằng là mỉa ông làm đạo tặc. Một người khác nịnh ông là làm tăng trí tuệ lên ( tăng trí), ông cho rằng chê ông có cái trí tuệ của bọn tăng (thầy chùa).
    Ông rất cương quyết, không nhượng bộ, tàn bạo tới cái mức đại thần ở triều có điều gì không vừa ý ông thì ông cũng sai nọc ra, đánh trượng. Ông là ông vua Hán độc tài nhất trong lịch sử Trung Hoa, không kém Tần Thủy Hoàng. Năm 1375, một vị thượng thư bị đánh tới chết, và các đời vua sau thỉnh thoảng cũng hành động như ông. Sự tàn bạo đó, chắc ông học được của vua Mông Cổ, nó trái hẳn truyền thống của đạo Nho mà ba đời Hán, Đường, Tống còn giữ.
    Ông biết triều đại nào cũng bị cái nạn ngoại thích và hoạn quan mà mất ngôi, nên ông khuyên mẫu hậu không nên lâm triều, vbà treo một thiết bài( bảng bằng sắt) ở cửa cung, cấm hoạn quan dự chính. Nhưng lệnh đó đến đời con ông đã bãi bỏ.
    Đọc những đoạn " Mạnh Tử đối đáp Tề tuyên Vương" ( trong Mạnh tử - chương Lương Huệ Vương - thượng và hạ) ông rất bất bình, ra lệnh dẹp hết những phiến đá khắc các bài ấy mà vua Thần Tôn nhà Tống sai dựng năm 1084 ở miếu thờ Khổng Tử. Nhưng năm sau, không hiểu nghĩ sao, ông đặt lại chỗ cũ. Tôi đoán rằng ông bất bình nhất về đoạn Tề Tuyên vương hỏi Mạnh Tử ;" Bề tôi giết vua được không? " Mạnh đáp: " Kẻ làm hại điều nhân thì gọi là "tặc" ( giặc); kẻ làm hại điều nghĩa thì gọi là " tàn " ( tàn bạo); một kẻ tàn tặc thì gọi một tên " độc phủ ( ai cũng bỏ). Tôi nghe nói giết một kẻ độc phu tên là Trụ, chưa nghe nói rằng giết vuả Điều đó đủ tỏ Chu Nguyên Chương độc tài ra sao.
    Nhưng ông cũng có điểm tốt: Ở trong giới bình dân ra, ông bênh vực giai cấp cũ của ông. Nhiều lần ông tha thuế cho dân nghèo.
    Dân có điều gì uất ức ông cho phép trình thẳng lên ông. Quan lại mà tham ô, bị dân tố cao, ông cho điều tra , nếu ăn hối lộ sáu chục lượng thì bị chém đầu, ông rất trọng đức liêm khiết, coi trọng dân tình mà đối với quan lại rất nghiêm
    Một viên quan nào được lòng dân thì tuy phạm tội, dân xin tha, ông cũng tha, có kẻ còn được thăng chức nữa, như một viên tri châu nọ, thu thuế sai kì, đáng lẽ bị bắt, các phụ lão trong châu lên kinh xin lưu viên đó lại, ông chuẩn y và còn tặng lộ phí cho các phụ lão nữa.
    Lại như một viên chủ bạ nọ, có lỗi gì đó cần phải tra vấn, nhân dân lên kinh trình bày đức liêm chính của viên đó, ông chẳng những tha tội mà còn thăng chức cho nữa. Còn hạng quan lại vì không yêu dân mà bị tội thì nhiều vô kể.
    Các đời vua sau, nhiều ông theo chính sách quí dân đó. Chẳng hạn như đời Anh Tôn ( 1436 - 49), một viên tri phủ Tô Châu hết kỳ hạn ba năm ở nhiệm sở rồi, theo lệ phải bổ đi nơi khác, nhưng hai vạn dân xin triều đình lưu ông ta lại, ông ta khỏi bị đưa đi nơi khác mà được ở lại Tô Châu cho tới chết, dĩ nhiên là vẫn chỉ làm tri phủ, nhưng cứ theo lệ được thăng phẩm trật.
    Nhưng ông cũng như mọi ông vua khác, khi sáng lập triều đại mới rồi thì bỏ phế chế độ triều đại cũ, cho rằng triều đại cũ bị diệt vong vì chế độ xấu chứ không phải vì người xấu. Sự thực thì chế độ nào cũng có mặt trái, người tốt thì bổ được mặt sở đoản của chế độ mà nước thịnh, người xấu thì không biết dùng cái sở trường của chế độ mà càng mau suy. Chế độ không quan trọng bằng con người.
    Chu Nguyên Chương chắc không đọc sử nhà Hán mà cũng không đọc mấy hàng này trong bài Thâm Tự Luận của Phương Hiếu Nhụ, một kẻ sĩ có khí tiết đồng thời với ông: Hán thấy Tần cô lập mà tự răn mình, mới phong khắp các con em làm chư hầu, cho rằng họ hàng thân thích với nhau thì có thể kế tiếp nhau giữa xã tắc mà không sinh loạn, nhưng rồi bảy nước lại tính cái mưu thoán thi " ( cướp ngôi và giết vua ). Vụ đó xảy ra đời Hán Cảnh Đế, khoảng 40 năm sau khi Hán Cao tổ băng hà, bảy nước đó là bảy chư hầu: Ngô, Sở , Triệu ...
    Chu cũng thấy nhà Tống, nhà Nguyên cô lập mà mất, lại noi gương Hán, theo chính sách của Hán, phong cho trên 20 người con ở các yếu địa, thành các nước chư hầu:
    Tấn, Yên, Sở , Hàn, Chu..... Họ được chuyên quyền trong nước họ, có nhiều quân, làm phiên li che chở cho triều đình. Trong số đó thì yên Vương là Lệ ở Bắc Kinh và Tấn Vương là Cang ở Thái Nguyên uy quyền rất lớn. Và cái họa nồi da nấu thịt xảy ra bốn năm sau khi Chu Nguyên Chương băng hà ( chứ không đợi đến 40 năm như đời Hán) .
    * Nhớ có trong sách cụ Nguyễn Hiến Lê mô tả Chu Nguyên Chương tướng xấu, thô, mặt như heo, sao ko thấy trên đây nhỉ.
  5. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Tranh vẽ Minh Thái Tổ. Tất nhiên các họa sư thời đó không ai dám vẽ hoàng đế xấu cả.
    [​IMG]
    [​IMG]
  6. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Minh Thành Tổ.

    [​IMG]
    Còn đây là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn (Dận)
    [​IMG]
    Được chitto sửa chữa / chuyển vào 09:13 ngày 07/12/2005
  7. rosered

    rosered Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2003
    Bài viết:
    1.320
    Đã được thích:
    1
    Người ta hỏi Minh Thành Tổ - Vĩnh Lạc Đế Chu Đệ (Lệ) sao bác này lại tương Minh Thái Tổ - Hồng Vũ Đế Chu Nguyên Chương vào đây nhỉ?
    Ý người ta hỏi hai vụ binh biến thời Hậu Chu và thời Kiến Văn Đế nhà Minh đấy.
  8. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Lý do là câu trả lời nhằm vào thời gian của câu hỏi .
    Người trả lời cho rằng người hỏi đã nhầm người .
    Thời gian đó thì chỉ có Chu Nguyên Chương chứ không có
    Triệu Khuông Dẫn.
    Nếu muốn hỏi người thì không nên đưa thời gian lịch sử vào .
  9. duongqua83

    duongqua83 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    948
    Đã được thích:
    0
    Cho em hỏi, có phải Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lên ngôi qua vụ binh biến Trần Kiều phải ko ? có bác nào post lên vụ binh biến Trần Kiều này cái, ko biết có giống vụ Trần Cảnh - Lý Chiêu Hoàng - Trần Thủ Độ ko ? nghe nói cũng êm xuôi trót lọt khi lên ngôi vua. Em cảm ơn ạ
  10. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận sinh năm Thiên Thành thứ 2 đời vua Hậu Đường Minh Tông, tai trại giáp mã, Lạc Dương. Cha là Triệu Hoàng Ân, một viên chỉ huy cấm quân, từng làm Nhạc châu phòng ngự sứ.
    Trận Cao Bình, quân Bắc Hán liên kết quân Liêu tấn công nhà Hậu Chu. Quân Chu đã bắt đầu núng thế, Chu Thế Tông Sài Vinh thân cầm quân xông pha trận mạc. Một viên tiểu tướng kêu to: " Chủ nguy như thế, bọn ta sao ko liều chết?" Rồi kêu gọi tướng sỹ xông lên, nhờ đó mà đứng vững trận địa, rồi phản công thắng lợi. Viên tướng đó chính là TKD. Ông được Chu Thế Tông để ý và cất nhắc từ đó, làm Điện tiền đô ngu hầu.
    Hai lần chinh phạt Nam Đường, cả hai lần Triệu Khuông Dận lập công lớn.
    Chu Thế Tông bệnh nặng sắp mất, chợt đọc thấy 1 miếng gỗ khắc chữ "Điểm kiểm tác thiên tử" (quan Điểm kiểm làm thiên tử), lại nghi ngờ phò mã Điểm kiểm Trương Vĩnh Đức, cắt chức ông ta cho ra biên trấn, cất nhắc .....TKD làm Điểm Kiểm.
    Vua Thế Tông mất chưa bao lâu, chợt biên cương có tin báo quân Liêu Hán xâm phạm, triều đình cử TKD đem quân đi chặn. Đang ngủ đêm ở Trần Kiều thì bọn tùy tùng trong đó có Triệu Phổ, Triệu Quang Nghĩa (Tống Thái Tông),....bí mật bàn bạc, vận động tướng sỹ suy tôn TKD làm vua. Rồi tướng sỹ ùa vào dinh, đem áo hoàng bào khoác cho TKD. TKD giả bộ từ chối lấy lệ rồi cũng khóc lóc nhận.
    Hôm sau quan quân về kinh, phế Cung đế Sài Tông Huấn lập TKD làm vua.
    Tất cả những trò như khắc chữ Điểm kiểm tác thiên tử, phao tin quân Liêu xâm phạm đều là trò của bọn thủ hạ TKD hết, chứ chả ngẫu nhiên gì cả.
    Cùng thời gian sau, các vua nước Việt ta như Lê Hoàn, Lý Công Uẩn nhiệt tình bắt chước.

Chia sẻ trang này