1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cho những nỗi nhớ Hà Nội ...

Chủ đề trong 'Pháp (Club de Francais)' bởi bittersweet82, 21/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

    Trong suốt chiều dài lịch sử gần 1000 năm hình thành và phát triển, Thủ đô Hà Nội đã trải qua biết bao biến đổi thăng trầm. Tuy nhiên, ở trong bất kỳ giai đoạn nào, Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay luôn là nơi hội tụ của các "danh tài nghĩa sỹ" từ mọi miền đất nước, nơi hợp lưu của các dòng văn hóa của các dân tộc anh em, cùng với thời gian vun đắp nên truyền thống của Thủ đô "ngàn năm văn hiến". Cũng chính từ thực tế lịch sử đó, Hà Nội là nơi hội tụ, kế thừa và phát huy được những truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam : kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu vì độc lập, tự do của tổ quốc, cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động xây dựng đất nước. Từ khi Đảng ra đời, lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng vì độc lập tự do dân tộc và chủ nghĩa xã hội, những truyền thống tốt đẹp đó lại càng được phát huy cao độ.
    Ngay từ ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử, dưới sự lãnh đạo của ĐCS Đông Dương mà trực tiếp là Xứ ủy Bắc kỳ và Đảng bộ Hà Nội, nhân dân Thủ đô bằng tinh thần dũng cảm, ngoan cường, đã tiến hành khởi nghĩa thành công một cách hết sức sáng tạo và độc đáo. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Hà Nội đã biến cuộc mít tinh ngày 17-8-1945 do Tổng hội công chức của chính quyền bù nhìn tổ chức thành cuộc mít tinh chào cờ *********, một cuộc biểu dương lực lượng hào hùng, mở đầu cho cuộc Tổng khởi nghĩa ngày 19-8-1945 để đến ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
    Giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, quân dân Thủ đô đã tiến hành cuộc chiến đấu 60 ngày đêm vô cùng quyết liệt và anh dũng. Thanh niên Hà Nội đã từng xung vào những đoàn quân Nam tiến chi viện cho Nam bộ, giờ lại thề "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", chiến đấu giữ từng căn nhà, góc phố, tiêu biểu là những chiến sỹ quyết tử của Liên khu I, đã viết nên những trang vàng truyền thống đầy tự hào của nhân dân Thủ đô. Sau tiếng súng mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc vào đêm 19-12-1946, lớp lớp thanh niên, trí thức, văn nghệ sỹ Thủ đô đã từ giã kinh thành khói lửa ra đi kháng chiến. Biết bao người con ưu tú của Thủ đô đã ngã xuống trên khắp các chiến trường của Tổ quốc để mang lại ngày chiến thắng huy hoàng, giải phóng Thủ đô 10-10-1954. Cùng với cuộc khởi nghĩa 19-8-1945, sự kiện ngày 10-10-1954 đã đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử to lớn, mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng và bảo vệ Thủ đô xã hội chủ nghĩa.
    Sau hòa bình lập lại, phát huy truyền thống anh hùng trong kháng chiến, nhân dân Thủ đô đã lao động cần cù, thông minh, sáng tạo trong xây dựng và phát triển kinh tế, nhanh chóng mở mang công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế..., từng bước nâng cao đời sống của nhân dân, tạo niềm tin và sự cổ vũ lớn lao đối với đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh kiên cường cho sự nghiệp giải phóng.
    Kẻ thù không ngừng mở rộng chiến tranh. Cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam ngày càng gay go, quyết liệt. Nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, tuổi trẻ Thủ đô lại nô nức lên đường "Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước". Nhiều người con Hà Nội đã anh dũng ngã xuống trên con đường Trường sơn và trên khắp các chiến trường của miền Nam ruột thịt, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
    Trong lúc đó, ở Thủ đô cũng như trên toàn miền Bắc, đâu đâu cũng sục sôi khí thế cách mạng, vừa sản xuất, vừa chiến đấu với khẩu hiệu "Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
    Khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, điên cuồng ném bom Thủ đô, trong mưa bom, bão đạn, quân và dân Hà Nội đã hiên ngang đối mặt với quân thù, làm nên chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" trong 12 ngày đêm tháng chạp năm 1972 lịch sử, để Hà Nội trở thành "Lương tri của thời đại", là "Thủ đô anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng". Thất bại ở cả hai miền, đế quốc Mỹ đã buộc phải ký Hiệp định Pa-ri, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo ở Việt Nam, đẩy nhanh các thế lực tay sai đến thất bại hoàn toàn.
    Sau khi đất nước thống nhất, từ trong đổ nát của chiến tranh, nhân dân Thủ đô lại một lần nữa phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tiếp tục lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, xây dựng lại Thủ đô và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng.
    Trong khoảng thời gian ngắn, nhiều cơ sở sản xuất bị tàn phá bởi chiến tranh đã được phục hồi. Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, v.v.. tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, do cơ chế bao cấp, các chính sách chưa tạo điều kiện để các ngành kinh tế phát triển nhanh chóng, đời sống nhân dân, trong đó có tầng lớp làm công ăn lương, tuy có được cải thiện nhưng thực sự vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  2. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

    Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, giới hạn trong khoảng từ 20o 53'' đến 21o 23'' vĩ độ Bắc, 105o 44'' đến 106o 02'' kinh độ đông, tiếp giáp với 5 tỉnh: Bắc Thái ở phía bắc, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía đông, Hà Tây và Vĩnh Phúc ở phía nam và phía tây. Hà Nội có diện tích tự nhiên 918,1 km2, khoảng cách dài nhất từ phía bắc xuống phía nam là trên 50km và chỗ rộng nhất từ tây sang đông 30 km. Điểm cao nhất là núi Chân Chim: 462 m (huyện Sóc Sơn); nơi thấp nhất thuộc xã Gia Thụy (huyện Gia Lâm) 12 m so với mặt nước biển. Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú và nổi tiếng từ lâu đời, Hà Nội có vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi để trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, vZn hoá, khoa học và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.
    Địa hình:
    Đại bộ phận diện tích Hà Nội nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với độ cao trung bình từ 15m đến 20m so với mặt biển. Còn lại chỉ có khu vực đồi núi ở phía bắc và phía Tây Bắc của huyện Sóc Sơn thuộc rìa phía nam của dãy núi Tam Đảo có độ cao từ 20m đến trên 400m với đỉnh Chân Chim cao nhất là 462m. Địa hình của Hà Nội thấp dần từ bắc xuống nam và từ tây sang đông. Điều này được phản ánh rõ nét qua hướng dòng chảy tự nhiên của các dòng sông chính thuộc địa phận Hà Nội. Dạng địa hình chủ yếu của Hà Nội là đồng bằng được bồi đắp bởi các dòng sông với các bãi bồi hiện đại, bãi bồi cao và các bậc thềm. Xen giữa các bãi bồi hiện đại và các bãi bồi cao còn có các vùng trũng với các hồ, đầm (dấu vết của các lòng sông cổ). Riêng các bậc thềm chỉ có ở phần lớn huyện Sóc Sơn và ở phía bắc huyện Đông Anh, nơi có địa thế cao trong địa hình của Hà Nội. Ngoài ra, Hà Nội còn có các dạng địa hình núi và đồi xâm thực tập trung ở khu vực đồi núi Sóc Sơn với diện tích không lớn lắm.
    Khí hậu:
    Khí hậu Hà Nội khá tiêu biểu cho kiểu khí hậu Bắc Bộ với đặc điểm là khí hậu nhiệt đới gió mùa ấm, mùa Hè nóng, mưa nhiều và mùa Đông lạnh, mưa ít. Nằm trong vùng nhiệt đới, Hà Nội quanh nZm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Lượng bức xạ tổng cộng trung bình hàng nZm ở Hà Nội là 122,8 kcal/cm2 và nhiệt độ không khí trung bình hàng nZm là 23,60C. Do chịu ảnh hưởng của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn. Độ ẩm tương đối trung bình hàng nZm là 79%. Lượng mưa trung bình hàng nZm là 1245 mm và mỗi nZm có khoảng 114 ngày mưa. Đặc điểm khí hậu Hà Nội rõ nét nhất là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Từ tháng 5 đến tháng 9 là mùa nóng và mưa. Từ tháng 11 đến tháng 3 nZm sau là mùa Đông thời tiết khô ráo. Giữa hai mùa đó lại có hai thời kỳ chuyển tiếp (tháng 4 và tháng 10) cho nên có thể nói rằng Hà Nội có đủ bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Bốn mùa thay đổi như vậy đã làm cho khí hậu Hà Nội thêm phong phú, đa dạng, mùa nào cũng đẹp, cũng hay. Mùa tham quan tốt nhất ở Hà Nội là mùa Thu. Rất thích hợp với du khách ở những vùng hàn đới. Mùa Thu ở Hà Nội, thời tiết khô ráo, bầu trời cao, xanh ngắt, gió mát, nắng vàng như mật còn nước thì trong veo như mắt thiếu nữ.
    Hà Nội có nZm rét sớm, có nZm rét muộn. Có nZm nóng gay gắt, nhiệt độ cao nhất lên tới 42,8oC (tháng 5/1926). NZm rét đậm, nhiệt độ thấp nhất là 2,7oC (tháng 1/1955).
    Thổ nhưỡng:
    Lớp phủ thổ nhưỡng vốn liên quan đến đặc tính phù sa, quá trình phong hoá, chế độ bồi tích và đến hoạt động nông nghiệp. Dưới tác động của các yếu tố trên, Hà Nội hiện nay có 4 loại đất chính, đó là đất phù sa trong đê, đất phù sa ngoài đê, đất bạc màu và đất đồi núi. Đất phù sa ngoài đê là đất hàng nZm được tiếp tục bồi đắp thường xuyên trên các bãi bồi ven sông, hoặc các bãi giữa sông. Đất phù sa trong đê do có hệ thống đê nên không được các sông bồi đắp thường xuyên. Nhóm đất bạc màu phát triển chủ yếu trên đất phù sa cổ tập trung nhiều ở hai huyện Đông Anh và Sóc Sơn là loại đất chua, nghèo dinh dưỡng, không kết cấu, thành phần cơ giới nhẹ, rời rạc khi khô hạn, kết dính khi ngập nước, cho nZng suất cây trồng thấp. Nhóm đất đồi núi tập trung ở huyện Sóc Sơn, bị xói mòn nghiêm trọng do cây rừng bị chặt phá, tầng đất mỏng, nhiều nơi trơ sỏi sạn, tầng mùn dường như không còn, đất chua, độ pH thường dưới 4, nghèo chất dinh dưỡng.
    Sinh vật:
    Các loại thực vật tự nhiên chỉ còn ở dạng thứ sinh, tập trung ở huyện Sóc Sơn. Hiện nay ở đây còn khoảng hơn 6.700 ha đất lâm nghiệp đang được gấp rút trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc để khôi phục thảm thực vật rừng, bảo vệ môi sinh. Do có rừng gần đây đã thấy xuất hiện trở lại nhiều loại chim Zn ngũ cốc, các loài gậm nhấm và thú rừng (lợn rừng, chồn, sóc, trZn, rắn...) vốn có rất nhiều trước đây. Giới động vật còn tương đối phong phú là động vật dưới nước như cá, tôm, cua, ốc, kể cả cá trong đồng và ngoài sông. Hà Nội vốn là vùng đất trù phú, có truyền thống sản xuất nông nghiệp từ lâu đời, đã cung cấp nhiều giống cây trồng, vật nuôi quí, có giá trị kinh tế và nổi tiếng trong cả nước. Đáng chú ý là các huyện ngoại thành đã hình thành các vành đai rau xanh, thực phẩm tươi sống (thịt, cá, sữa, trứng) phục vụ cho nhu cầu đô thị hoá ngày một cao của thủ đô Hà Nội và dành một phần để xuất khẩu.
    Đất đai sông ngòi
    Núi: Dãy Sóc Sơn
    Nằm trong hệ thống mạch núi Tam Đảo chạy xuống, dãy núi Sóc gồm nhiều ngọn nằm trên hai huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và Sóc Sơn tạo thành ranh giới thiên nhiên giữa Hà Nội với các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Thái. Ngọn Hàm Lợn còn gọi là núi Chân Chim là ngọn cao nhất: 462m. Đây chính là núi Độc Tôn được ghi trong sử cũ, là nơi lập doanh trại của quận Hẻo Nguyễn Danh Phương, người đã nổi dậy chống lại triều đình Lê Trịnh trong những nZm 40 của thế kỷ XVIII.
    Phía Đông núi Hàm Lợn có núi Don cao 327m, phía bắc có núi Thanh Lanh (427m), núi Bà Tượng (334m) ở xã Ngọc Thanh, giáp Vĩnh Phúc và núi Lục Dinh (294m). Còn có các ngọn Bàn Cờ, Cao Tung, Mũi Cày, Trảm Tướng... Núi Sóc Sơn cao 308m, còn gọi là núi Mã, núi Đền, núi Vệ Linh, nay thuộc xã Phù Linh, Sóc Sơn cách huyện lỵ 4km về phía Tây. Hình thế đẹp, nhiều cây thông, cảnh quan thanh nhã. Tương truyền đây là chỗ Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời. Trong nội thành Hà Nội còn có núi Sưa hiện còn trong vườn Bách Thảo và núi Nùng, nơi xây cất cung điện của vua Lý Thái Tổ (1009 - 1028) mà nay không còn nữa.
    Sông: Sông Hồng
    Hà Nội là thành phố gắn liền với những dòng sông, trong đó sông Hồng là lớn nhất. Sông Hồng bắt đầu từ dãy Ngụy Sơn ở độ cao 1776m thuộc huyện Nhị Đô, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, chảy theo hướng tây bắc - đông nam vào Việt Nam từ Hồ Khẩu (Lào Cai) và chảy ra vịnh Bắc Bộ ở cửa Ba Lạt (Nam Định). Dòng chính của sông Hồng dài khoảng 1160 km, phần chảy qua Việt Nam khoảng 556 km. Sông Hồng chảy vào Hà Nội từ xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm đến xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, dài khoảng 30km, có lưu lượng nước bình quân hàng nZm rất lớn, tới 2640 m3/s với tổng lượng nước chảy qua tới 83,5 triệu mét khối. Lượng phù sa của sông Hồng rất lớn, trung bình 100 triệu tấn/nZm. Đê sông Hồng được đắp từ nZm 1108, đoạn từ Nghi Tàm đến Thanh Trì, gọi là đê Cơ Xá. Ngày nay sông Hồng ở Việt Nam có 1267km đê ở cả hai bên tả, hữu ngạn. Độ cao mặt đê tại Hà Nội là 14m. Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất. Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng vùng châu thổ. Nguồn cá bột (cá giống) của sông Hồng đã cung cấp cá giống đáng kể cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài sông Hồng, trong địa phận Hà Nội còn có sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Nhuệ và sông Cà Lồ.
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  3. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

    CÁC thành tựu về văn hoá - xã hội
    Văn hoá
    - Thành phố đã thực hiện thành công cuộc vận động xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư và xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá . Tỷ lệ gia đình văn hoá đạt 89% vào năm 2000.
    - Nhiều địa phương đã khôi phục hoạt động văn hoá truyền thống ở làng, xã, khu dân cư và triển khai thực hiện quy ước về việc cưới, tang, mừng thọ, lễ hội theo nếp sống văn minh.
    - Nhiều di tích lịch sử, văn hoá của thủ đô như khu Thành cổ, Văn miếu - Quốc tử giám, Hồ Gươm... đã được tiến hành tôn tạo.
    Giáo dục - đào tạo
    - Ðến hết năm 1999, toàn thành phố đã đạt phổ cập giáo dục cấp trung học cơ sở. Số cháu trong độ tuổi mẫu giáo đến lớp đạt 68,4%. Trẻ 6 tuổi vào lớp một hàng năm đạt tỷ lệ gần 100%.
    - Các loại hình trường bán công, dân lập phát triển mạnh mẽ. Ðến nay toàn thành phố đã có 76 trường phổ thông bán công, dân lập và hơn 30 trường mầm non tư thục, gần 1000 nhóm trẻ gia đình. Tình trạng học 3 ca được xoá bỏ, phòng học cấp 4 chỉ còn chiếm 20%.
    - Công tác đào tạo giáo viên đã đáp ứng đủ cho nhu cầu sự nghiệp giáo dục của Thủ đô. 97 đến 99% giáo viên phổ thông đã được chuẩn hoá.
    - Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo tăng lên 36% năm 2000. Dạy nghề ngắn hạn tại các trung tâm năm 2000 tăng 50% so với năm 1995.
    Y tế
    - Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của thành phố giảm từ 1,51% năm 1989 xuống còn 1,08% năm 1999. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 18,7% vào năm 2000.
    - Hà Nội là đơn vị dẫn đầu cả nước về thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng và hoàn thành thanh toán bệnh phong và thanh toán bại liệt ở trẻ em.
    - Ngành y tế đã triển khai, giám sát, thực hiện các chương trình kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố.
    - Nhiều bệnh viện đã được đầu tư xây dựng mở rộng và cải tạo như: bệnh viện Sóc Sơn, bệnh viện Ðông Anh, bệnh viện Phụ sản, bệnh viện Xanh Pôn, trung tâm phòng chống lao, trung tâm vệ sinh dịch tễ,... Chuẩn bị xây dựng một số bệnh viện chuyên khoa sâu như: trung tâm Thận học, bệnh viện U bướu, bệnh viện Tim mạch...
    Việc làm và các vấn đề xã hội
    - Từ năm 1995 đến năm 1999, Hà Nội đã giải quyết việc làm cho 232.700 người. Bình quân từ 1997 đến 1999, mỗi năm giải quyết việc làm cho 50.000 người.
    - Từ năm 1997, thành phố đã phát động phong trào lao động công ích xây dựng Thủ đô, thu được 12,6 tỷ đồng và 893.000 ngày công.
    - Thành phố đã xây 933 nhà tình nghĩa, tặng 33.768 sổ tiết kiệm cho người có công với cách mạng và người nghèo. Thực hiện phụng dưỡng cho 122 bà mẹ Việt nam anh hùng của Hà Nội (100% tổng số trên địa bàn).
    - Trong 5 năm qua, thành phố đã giảm được 16.600 hộ nghèo. Năm 1999, Hà Nội chỉ còn 1,3% hộ nghèo. Ðã căn bản xoá được hộ đói và nhà dột nát.
    - Nhiều phường, xã đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền giáo dục, ngăn chặn, triệt phá các tệ nạn xã hội. 1.170 gái mại dâm đã được khám chữa bệnh, 4.887 người nghiện ma tuý được cai nghiện tập trung.
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  4. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

    THĂNG TRẦM THĂNG LONG HÀ NỘI
    Ngót nghìn nZm đã qua, kể từ khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, đổi tên thành kinh đô ThZng Long (tức Hà Nội ngày nay). Bao thế hệ người xưa đã đóng góp công sức dựng xây, tô điểm kinh đô xưa, mà tại sao trên đất Hà Nội bây giờ còn lại quá ít ỏi di tích lịch sử, vZn hóa của ThZng Long - Đông Đô?
    Đôi rồng chầu thềm điện Kính Thiên - Thành cổ ThZng Long
    Sự tích Lý Công Uẩn dời đô nZm 1010 thì mọi người đã biết. Nay nhờ sách, nhờ người am hiểu, cung cấp tài liệu lại được biết thêm: Thành ThZng Long đời Lý đã được xây dựng như một công trình kiến trúc hoành tráng nhất trong các triều đại.
    Đặc biệt, việc kiến trúc khu Hoàng thành đã được tiến hành theo một quy hoạch lớn, vừa đa dạng vừa tráng lệ chưa từng có, thể hiện phong cách riêng của triều đại này. Nơi đây được xây dựng hàng loạt cung điện lộng lẫy: chỗ vua Lý Thái Tổ làm việc thì có điện Kiều Nguyên, điện Tập Hiền, điện Giảng Vũ. Chỗ vua nghỉ ngơi thì có điện Long An, điện Long Thụy. Nơi phi tần ở thì có cung Thúy Hoa, cung Long Thụy... Trước chính điện có sân rồng rộng lớn, bốn bề sân rồng có hành lang, nhà giải vũ và nhiều lầu gác.
    Sang các đời vua sau đều có sửa chữa hoặc xây dựng lại cung điện và đặt tên mới. Đời Lý Thái Tông, ở cạnh sân rồng còn dựng lầu Chính Dương, trên để loại đồng hồ cổ, có người thường trực báo giờ giấc.
    Chẳng những độc đáo về tạo dáng mà các cung điện trong Hoàng thành thuở ấy còn độc đáo về vật liệu xây dựng: gạch, ngói thường chạm trổ các hình hoa vZn, rồng phượng và khi xây chỉ việc lắp khít vào nhau không cần mạch vôi nữa. Đặc biệt hay dùng loại ngói ống bằng sứ men trắng, men xanh, men vàng, đầu ống bịt hình rồng, phượng, hoa sen, tạo thành đường diềm mái tuyệt đẹp. Những vật liệu được chế tác tinh xảo, mỹ lệ này đã góp phần làm lộng lẫy thêm những lầu son, gác tía của Hoàng thành.
    Trong sách VZn hiến thông khảo của Mã Đoan Luân, sử gia Trung Quốc cuối thế kỷ 12 có đoạn miêu tả cảnh ThZng Long thời Lý nói rằng: Vua Lý ở trong một tòa cung điện nguy nga cao bốn tầng, sơn mầu đỏ, các cột chạm vẽ rồng phượng thần tiên cực kỳ tráng lệ. Cuốn Việt sử lược (đời Trần) cũng viết: "Các cung điện thời Lý nói chung đều được xây cất đẹp đẽ, chạm trổ trang sức khéo léo. Ngoài các cung điện, khu Hoàng thành còn xây dựng nhiều lầu các, đài tạ vàng son lộng lẫy. Đài Chúng Tiên dựng nZm 1161 tầng trên lợp ngói bằng vàng, tầng dưới lợp ngói bằng bạc. Hồ ao, vườn ngự cũng được đào đắp khá nhiều: hồ Kim Minh, Vạn Tuế (nZm 1049) có đắp núi đá cao ba ngọn trên mặt hồ và có cầu Vũ Phượng từ bờ đi vào. Hồ ứng Minh, hồ Thụy Thanh (nZm 1051), hồ Phượng Liên (nZm 1098)... đều là những hồ đẹp, trên bờ có dựng nhiều lầu các, đình tạ. Trong Hoàng thành còn lập nhiều ngự uyển trồng các loại hoa thơm cỏ lạ và nuôi các thứ muông thú quý hiếm, như vườn Quỳnh Lâm, vườn Thắng Cảnh, vườn Xuân Quang (nZm 1048), vườn Thượng Lâm (nZm 1085). Đặc biệt, vào giữa thế kỷ 14 có lập một vườn ngự uyển lớn, trong vườn đào một hồ rộng lớn gọi là hồ Lạc Thanh. Trong hồ chất đá làm núi, trên bờ hồ trồng thông, trúc và các thứ cây khác, thêm vào đấy nào cỏ lạ, nào hoa thơm, nào muông kỳ, nào chim quý, bốn mặt lại khơi ngòi cho nước sông thông vào..." (Việt sử thông giám cương mục). Hoàng thành còn được kiến tạo nhiều núi đất, trong đó có những ngọn đã trở thành danh thắng như núi Nùng, núi Tam Sơn, núi Ngũ Nhạc... Núi Nùng là nơi trên đó xây dựng điện Kính Thiên, cũng là quả núi đã trở thành biểu tượng cho non nước kinh thành (Núi Nùng, sông Nhĩ chốn này làm ghi - Chính khí ca).
    Nhà Lý là một triều đại sùng Phật, xây dựng khá nhiều chùa, tháp, đền, miếu ở ThZng Long. Ngay nZm đầu định đô, Lý Thái Tổ đã cho dựng các chùa lớn như Hưng Thiên, Vạn Tuế. NZm 1114 xây chùa Thiên Phật rộng lớn đủ bày 1.000 pho tượng (khánh thành nZm 1118). Trong số đền chùa nổi tiếng có: đền Quán Thánh, chùa Chân Giáo...
    Ngoài Hoàng thành có một bức tường gạch bao quanh, có bốn cửa thông ra ngoài khu kinh thành: bắc là cửa Diệu Đức, nam là cửa Đại Hưng, đông là cửa Tường Phù, tây là cửa Quảng Phúc.
    Ra khỏi Hoàng thành là khu vực kinh thành có quy mô khá rộng. Bên ngoài đắp một dải tường thành bằng đất bao bọc chung quanh, gọi là Đại La Thành hoặc La Thành. ở mé đông tường thành cũng đồng thời là đê sông Hồng.
    Nay có thể lần theo dấu vết La Thành: phía bắc là đê sông Hồng từ quanh Hồ Tây đến Kẻ Bưởi. Phía đông vẫn là đê này từ Yên Phụ xuống tận Đồng Nhân. Phía nam, đường thành chạy tiếp từ Đồng Nhân qua Thịnh Hào, Yên Lãng, Thủ Lệ song song với sông Tô Lịch. Phía tây, đường thành nối tiếp từ vùng Bưởi về Cầu Giấy... cũng có thể đã mở rộng tới gần sông Nhuệ bao gồm cả vùng Mai Dịch, Cổ Nhuế hiện nay.
    Kinh thành ThZng Long thuở ấy có bao nhiêu cửa thông ra ngoài hiện chưa biết đích xác, chỉ biết trong số đó có cửa Tây Dương (sau này là ô Cầu Giấy), cửa Triều Đông mé trên dốc Hòe Nhai, cửa Yên Hoa (ô Yên Phụ), cửa Vạn Xuân (sau này là ô Ông Mạc (Đống Mác), cửa Chợ Dừa sau này là ô Chợ Dừa...
    Khu kinh thành rộng lớn hơn Hoàng thành gấp bội. Các ly cung của nhà vua cùng các phủ đệ, cung viện, dinh thự của các ông hoàng bà chúa, các đại thần được xây dựng nhiều và vô cùng lộng lẫy nhưng đáng tiếc là không được sử sách ghi chép đầy đủ.
    Trong vô số cung, điện, đền, miếu, chùa, tháp... thời Lý phải kể đến tháp Báo Thiên nổi tiếng được xây dựng nZm 1057 bên bờ hồ Lục Thủy (Hồ Gươm ngày nay). Tháp cao vài chục trượng gồm 12 tầng, xây bằng đá và gạch, mấy tầng trên cùng đúc bằng đồng. Trong tháp trang trí nhiều tượng người và vật bằng đá rất kỳ xảo. Tháp cao lại xây trên gò đất cao nên thuyền từ xứ Nam lên kinh đô tới bến Yên Duyên (của đất huyện Thanh Trì ngày nay, cách trung tâm Hà Nội hơn 10 km) đã nhìn thấy đỉnh tháp cao vút mây trời.
    Còn có thể chép ra đây nhiều trang về các công trình xây dựng và công phu tô điểm kinh đô ThZng Long dưới vương triều Lý xứng đáng là một đô thành mở nền của kỷ nguyên vZn hiến Đại Việt.
    Nhưng đến thời tàn nhà Lý trong khoảng vài thập niên đầu của thế kỷ 13, nội chiến xảy ra liên miên giữa các tập đoàn phong kiến rồi xung đột nổ ra ngay tại đế đô làm cho các cung điện trong khu Hoàng thành bị thiêu hủy gần hết.
    Sử cũ còn chép: NZm 1214, cung thất nhiều nơi bị đốt, vua và hoàng hậu phải trú ở nhà tranh gần cầu Thái Hòa. Tới nZm 1216, "thảo điện" (tức cung điện bằng tranh tre nứa lá) phải dựng ở vùng tây Phù Liệt (tức làng Sét, Thanh Trì).
    Từ đầu nZm 1225, nhà Trần lên ngôi vua, bắt tay sửa sang và xây dựng mới khu vực Hoàng thành. NZm 1230 xây dựng nơi thiết triều gồm một số cung điện, lầu, gác. Còn khu kinh thành đời Trần thì không có gì khác so với kinh thành thời Lý.
    ThZng Long cuối thời Trần chưa xây dựng được bao nhiêu thì lại tiếp tục bị giặc giã cướp phá, thiêu đốt, kinh thành đổ nát tan hoang.
    Hồ Quý Ly lên nắm chính quyền không những không sửa chữa kinh thành mà lại còn phá nốt những cung điện còn sót lại ở ThZng Long để lấy nguyên vật liệu đem vào Thanh Hóa xây dựng kinh đô mới.
    Sau đó 10 nZm, giặc Minh xâm lược nước ta, ThZng Long bị chúng chiếm đóng trong hai mươi nZm liền. Chúng bòn rút nốt những gì còn lại trong Hoàng thành, rồi phá phách tới những công trình xây dựng bên ngoài Hoàng thành. Chúng hủy hoại nhiều chùa, tháp, đền, miếu; lấy nhiều cổ vật bằng đồng quý như đỉnh tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền... đem đúc vũ khí.
    Tới đây, hầu hết những công trình kiến trúc ở ThZng Long từ thế kỷ 11, 12 đều bị phá trơ trụi.
    NZm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đổi tên ThZng Long thành Đông Đô, cuối nZm 1430 lại gọi là Đông Kinh.
    Sau đó, ThZng Long là đất đế đô của các triều vua kế tiếp trong suốt 400 nZm thời Lê được xây dựng lại ngày càng rộng lớn, đẹp đẽ và sầm uất với hàng trZm cung điện.
    NZm 1512, vua Lê Tương Dực sai Vũ Như Tô, một nghệ nhân xây dựng nổi tiếng, đứng ra chỉ đạo xây dựng các cung điện và Cửu Trùng đài cực kỳ nguy nga tráng lệ.
    Nhưng đang xây nửa chừng thì các công trình này phải dỡ bỏ vì nổi loạn.
    Nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê. Sau mấy chục nZm đến đời Mạc Mậu Hợp mới có cuộc xây dựng lại các cung điện kéo dài trong một nZm. Cả hai lớp thành trong và ngoài đều được sửa lại, ấn định vị trí và diện mạo của Hoàng thành ThZng Long từ cuối thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 17.
    So với Hoàng thành của nhà Lê đầu thế kỷ 15, Hoàng thành do Mạc Mậu Hợp tu sửa có bị thu hẹp chút ít ở hai phía Đông và phía Tây nên một số cung điện bị bỏ ra ngoài khu vực Hoàng thành, lâu dần trở nên hoang phế. Tuy vậy, Hoàng thành thời Lê - Mạc vẫn rộng hơn Hoàng thành thời Lý - Trần rất nhiều, vẫn còn giữ được vẻ nguy nga tráng lệ đến vài thế kỷ sau.
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  5. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

    Cuối thế kỷ 17, Xa-mu-en Ba-rôn, một nhà buôn người Anh mẹ Việt, miêu tả Hoàng thành thời Lê - Mạc: "Khi đứng trước ba lớp thành và cung điện cổ, người ta lấy làm ngạc nhiên. Những di tích còn lại tỏ ra rằng thành ấy xây vững chắc. Cung điện có những cửa lớn và đẹp lát bằng cẩm thạch. Cung điện cổ đó chu vi độ 6 hoặc 7 dặm, cứ xem các cửa ngõ, sân và các gian nhà còn lại, cũng đã biết lâu đài đó trước kia rất đẹp đẽ, huy hoàng".
    Giáo sĩ người Italy là Ma-ri-ni miêu tả: "Tuy cung vua chỉ xây dựng bằng gỗ nhưng ở đây có rất nhiều đồ vàng, đồ thêu, chiếu thảm rất tốt và đủ các mầu sắc để tô điểm, thật không đâu sánh kịp. Cung điện, nơi vua ở là một lâu đài xây dựng trên một rừng cột rất chắc chắn. Kèo cột trong cung điện làm rất kỹ và rất đẹp, không nhà nào bằng".
    Khoảng từ nZm 1527 đến 1597, Mạc Mậu Hợp huy động quân dân bốn trấn (Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương) mỗi ngày mấy vạn người đắp thêm ba lần lũy đất ở ngoài thành Đại La, cao và rộng hơn thành cũ rất nhiều.
    NZm 1749 thời Lê - Trịnh lại có cuộc sửa đắp lớn thành Đại La (lúc này còn được gọi là Đại Độ) có tám cửa thông ra ngoài, mỗi cửa đặt hai ô tả và hữu, có người canh gác. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, các vua Lê chúa Trịnh đã xây dựng nhiều đền chùa và hành cung trong đó có đền Ngọc Sơn, lều Ngũ Long bên hồ Hoàn Kiếm, đền Trấn Vũ, chùa Kim Liên, chùa Trấn Quốc ở khu vực hồ Tây, viện Nghinh Xuân và Trường Thi ở Quảng Bá...
    Nhiều người phương Tây từng ca ngợi ThZng Long trước thế kỷ 19 là một trong những công trình đô thị được xây dựng đẹp nhất châu á như ông J.B. Se-nhô.
    Cuối thế kỷ 18, cuộc tranh chấp quyền hành giữa vua Lê và chúa Trịnh đã dẫn tới cuộc tương tàn dữ dội trên đất ThZng Long. Ngày mồng 8 tháng chạp nZm Bính Ngọ (đầu nZm 1787), Lê Chiêu Thống sai người phóng hỏa đốt hết phủ chúa, cháy hơn 10 ngày chưa tắt!
    Thế là lâu đài cung điện xây dựng trong 200 nZm bỗng chốc thành bãi đất cháy đen (Hoàng Lê nhất thống chí).
    Dưới chính quyền Tây Sơn (1788 - 1802), ThZng Long có được sửa sang ít nhiều, song về cZn bản, kinh thành vẫn không có gì khác trước.
    NZm 1802, triều đại Tây Sơn bị tiêu vong, cả nước thuộc quyền thống trị của triều Nguyễn dời vào đóng đô ở Phú Xuân (Huế). Từ đây, kinh thành ThZng Long chỉ còn là trấn thành và sau đó là tỉnh thành.
    NZm 1803, Gia Long cho triệt phá Hoàng thành cũ. Trên nền đất ấy, xây một thành mới theo kiểu Vô-bZng (Vauban), một kiểu thành của Pháp thế kỷ 17, thu hẹp rất nhiều so với Hoàng thành thời trước, mỗi bề chỉ khoảng 1 km. Chân thành bằng đá xanh và đá ong, tường xây bằng gạch hộp, cao hơn 10 trượng, dày 4 trượng. Thành có nZm cửa, đông, tây, nam, bắc và đông nam, trên mỗi cửa đều cho xây lầu canh gọi là "thú lâu". Ngoài thành có đào hào, trước bờ hào ở ngoài cửa thành lại dựng một bức tường chắn gọi là "dương mã thành". Trong thành, ở chính giữa vẫn là điện Kính Thiên dựng trên núi Nùng, cột to bằng người ôm không xuể, thềm điện có chính bậc, ở hai bên đặt hai con rồng đá. Gần điện xây hành cung để mỗi khi vua nhà Nguyễn từ Phú Xuân (Huế) ra ThZng Long thì tới ở tại đấy.
    Khu phía đông là dinh thự các quan lại. Khu phía tây là các kho thóc, kho tiền. Phía bắc là Tĩnh Bắc lâu, vừa là cơ quan đặc biệt chuyên theo dõi tình hình Bắc Hà, vừa là một nhà ngục khét tiếng tàn độc.
    NZm 1812 dựng cột cờ hình sáu cạnh cao 60 mét xây bằng gạch gốm ở phía nam thành.
    NZm 1831, vua Minh Mệnh sáp nhập huyện Từ Liêm, phủ ứng Hòa, phủ Lý Nhân, phủ Thường Tín vào ThZng Long và lập ra tỉnh Hà Nội.
    NZm 1848, vua Tự Đức sai phá dỡ cung điện trong thành, lấy các đồ chạm trổ mỹ thuật bằng gỗ, đá, đem về Huế làm cho nhân dân ở dọc đường phải phục dịch vô cùng khốn khổ.
    Thế là một số công trình ít ỏi, mới xây dựng từ đời Gia Long đến đây đã lại bị phá hết. Thực dân Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội lần thứ nhất (1873) gặp sự chống trả của khâm sai Nguyễn Tri Phương và các dũng sĩ tại cửa ô Đông Hà (ô Quan Chưởng). Chúng nổ súng đánh thành Hà Nội lần thứ hai (1882) thì tổng đốc Hoàng Diệu cùng quân sĩ bắn trả quyết liệt và nhân dân đốt từng dãy phố, cầm vũ khí thô sơ và khua chiêng gõ trống ầm ầm tạo thành thế trận rộng lớn sẵn sàng diệt giặc.
    Nhưng do triều đình nhà Nguyễn mang nặng tư tưởng đầu hàng, đã bán rẻ mảnh đất thiêng liêng này cho giặc nên Hà Thành đã thất thủ.
    Từ tháng 10-1888, Hà Nội chính thức trở thành một thành phố thuộc địa của đế quốc Pháp do triều đình Huế ký hiệp ước hiến dâng. Từ đó, cố đô ThZng Long được xây dựng từ thời Lý (thế kỷ 11) bị thực dân Pháp thẳng tay tàn phá. Ngay cái thành mà nhà Nguyễn làm theo kiểu Vô-bZng của Pháp cũng bị phá trụi, chỉ còn để lại một cổng thành Cửa Bắc in hằn vết đại bác của chúng. Các cung điện dinh thự trong thành đều bị chúng phá hết, chỉ còn một tháp cột cờ. Trong vài thập niên đầu của thế kỷ 20, thực dân Pháp xây dựng thành phố Hà Nội, biến nơi đây thành một trung tâm cai trị của chúng ở Bắc Kỳ.
    Nhiều làng xóm như: Giáo Phường, Đức Viên, Đồng Nhân, Vân Hồ đã bị chúng triệt phá để xây dựng các đường phố. Đoạn sông Tô Lịch chảy qua nội thành cùng với nhiều hồ ao đã bị lấp đi để xây nhà, mở đường, chủ yếu là cho các "khu phố Tây".
    Trong quá trình xây dựng, thực dân Pháp phá hoại không thương tiếc nhiều di tích lịch sử, vZn hóa của Hà Nội. Khi xây dựng Nhà thờ lớn, chúng đã phá bỏ tháp Báo Thiên nổi tiếng vốn có từ thời Lý. Khi xây dựng nhà Bưu điện, phủ Thống sứ, chúng đã phá bỏ chùa Báo Ân là một công trình kiến trúc rất công phu.
    Ngót nghìn nZm qua từ triều Lý Thái Tổ đến trước Cách mạng Tháng Tám nZm 1945, ThZng Long - Đông Đô - Hà Nội đã trải bao cuộc thZng trầm, bao lần xây, phá. Nghĩ càng tiếc cho công lao xây dựng của các thế hệ xưa, càng yêu quý trân trọng những di tích lịch sử, vZn hóa còn lại hiếm hoi đến bây giờ trên mảnh đất thủ đô nghìn nZm vZn hiến.
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  6. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

    CÒN, MẤT NHỮNG PHỐ NGHỀ TRUYỀN THỐNG HÀ NỘI
    Người Hà Nội vẫn thường tự hào về "36 phố phường" nổi tiếng sầm uất một thời. Đó cũng là một đặc trưng trong lịch sử hình thành và phát triển của kinh đô ThZng Long - thủ đô Hà Nội ngàn nZm vZn hiến. Có thể nói vùng đất thiêng ThZng Long đã sinh ra 36 phố phường và chính nó đã làm nên nơi "bốn phương tụ họp, đô thành bậc của đế vương muôn đời" như bài "Chiếu dời đô" của Lý Thái Tổ đã viết.
    Sử cũ ghi lại rằng, ThZng Long thời Lê có 36 phố và cùng với các phường, những phố đã dần dẫn xuất hiện với ý nghĩa ban đầu là một nơi bán hàng, rồi nhiều nơi bán hàng như vậy hợp lại thành dãy hai bên đường đi, để rồi cũng được gọi chung là phố:
    Rủ nhau đi khắp Long Thành
    Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
    Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
    Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Bài, Hàng Khay...
    Từ xa xưa, người "tứ trấn" đã mang về đây những nét vZn hiến của vùng quê mình để hòa nhập và nhào luyện trên một mảnh đất vốn có nền vZn minh từ rất sớm, tạo lập ra diện mạo của một kinh đô ThZng Long với mỗi phường, mỗi phố đều mang dấu ấn của một nghề cổ truyền. Thợ tiện làng Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây) lên ThZng Long ở tập trung tại phường Đông Hà lập ra phố Hàng Tiện, nay là đoạn đầu phía đông của phố Hàng Gai, thông ra phố Tô Tịch và ngõ Hàng Hành. Do tâm lý "vọng quê" nên những người thợ tiện này lập ngay tại nơi hành nghề một ngôi đền thờ Thành hoàng làng gốc của họ mang tên "Nhị Khê vọng từ" (đền thờ vọng về Nhị Khê) ở số nhà 11 ngõ Hàng Hành. Những mặt hàng: mâm gỗ, chấn song con tiện, cây đèn, ống hương... của họ không còn đắc dụng trong thời nay nữa, nên dĩ nhiên là những người thuộc lớp cuối cùng của thế hệ "muôn nZm cũ" ấy cũng đành ngậm ngùi với nghề cũ mà thôi. Còn nhớ khoảng vài chục nZm trước đây, các cậu bé Hà Nội vẫn thích mang khúc gỗ ổi sưu tầm tận Quảng Bá đến ngõ Hàng Hành để tiện chúng thành những con quay xinh xắn. Nay thì thứ đồ chơi dân dã ấy đã bị đẩy lùi bởi vô số trò chơi điện tử ở phố Lương VZn Can kế bên, nên một vài cửa hiệu tiện gỗ còn sót lại cũng nhanh chóng lụi tàn. Còn phố Hàng Đào, một dãy phố tiêu biểu cho sự sầm uất hiện nay của thủ đô trước là nơi quy tụ của các thợ nhuộm Đan Loan (Hải Dương) với mầu đặc trưng là mầu đỏ, mầu cách sen mà dấu tích còn lại là ngôi đình Hoa Lộc tại số nhà 90A của phố này thờ Tổ nghề nhuộm. Rồi nữa, dân làng Chắm ở Trúc Lâm (Hưng Yên) mang nghề đóng giầy dép lên kinh đô, lập ra phố Hàng Giày và ngõ Hài Tượng (nghãi là thợ dày dép), để lại cho Hà Nội ngày nay ngôi đình thờ ba ông Tổ nghề họ Phạm ở số 10 ngõ Hài Tượng. Người làng Giới Tế (Bắc Ninh) đem đến nghề làm mành trúc, tạo ra phố Hàng Mành. Cach đây ít lâu, phố này vẫn còn đôi ba nhà sản xuất loại hàng này. Song một dạo, món bún chả xem ra đã lấn át nghề phố cũ, để rổi ngày một ngày hai vắng bóng dần hình ảnh những mành đủ cỡ xếp chật gian hàng. May mắn là những nZm gần đây, do những điều kiện thuận lợi về kinh tế - xã hội mà một số phố nghề cũng dần được hồi sinh trở lại. Phố Hàng Bạc đã nhiều thêm các cửa hàng vàng bạc mới mở, phố Hàng Thiếc đã nghe rộn rã hơn âm thành chan chát của các bác thợ gò và phố Hàng Mã cũng rực rỡ hơn bởi những chiếc đèn ông sao, đèn kéo quân, sư tử, mặt nạ... vào các tiết rằm và ngày lễ, tết.
    Cũng như thế, bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng ở mốt số ít các làng nghề truyền thống, mà tiêu biểu là gốm Bát Tràng, thì phần lớn các làng nghề khác đang ở trong tình trạng mai một dần như mất hẳn hoặc kém phát triển. Giáo sư Trần Quốc Vượng nhận định: "Không thể phủ nhận bề dày truyền thống của làng nghề Việt Nam, trong đó có các làng nghề của Hà Nội. Song, ngày nay nhiều nghề truyền thống đang dần mất đi, nhiều đền thờ Tổ nghề bị hủy hoại, những phong tục tập quán và lễ hội riêng của làng bị lãng quên. Nếu như chúng ta không có kế hoạch gìn giữ và phát huy thì thế hệ mai sau sẽ không còn thấy được dấu ấn của những nghề đã từng tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ". Một nghệ nhân đúc đồng Ngũ Xã tâm sự: "Giá gia công quá rẻ mạt đã buộc người thợ thủ công phải bớt xén nguyên liệu và làm hàng dối, các kỹ xảo tinh vi và phong cách độc đáo trong sản phẩm không được sử dụng cứ mai một dần đi. Đồng thời, vị trí xã hội thấ đã làm cho lớp thanh niên mới - con cháu của các nghệ nhân không muốn theo nghề gia truyền nữa". Trong khi đó, nhiều Công ty nước ngoài hiện nay đang thực sự quan tâm khai thác một số mặt hàng thủ công truyền thống của ta. Ngoài các sản phẩm xuất khẩu quen thuộc, họ còn tìm đến tận làng nghề để tìm kiếm những sản phẩm độc đáo của các nghệ nhân và đem nhiều mẫu hàng đến cơ quan sản xuất trực tiếp mặt hàng. Mặt khác, mấy nZm gần đây, nhu cầu và thị hiếu của người dân sau một thời gian dao động giữa nhiều chiều hướng, giờ dang tìm về với những sản hẩm truyền thống. Ông Vũ Hy Thiều - Phó vụ trưởng Hội đồng liên minh các hợp tác xã cho biết: "Bộ VZn hóa không thể cấp vốn cho hoạt động của tất cả các làng nghề truyền thống, bởi nguồn vốn đó quá lớn. Song cũng không thể bỏ mặc các làng nghề tự làm và phát triển tự do theo thị trường. Cho tới thời điểm này, chúng ta có hiệp hội các làng nghề truyền thống và cũng đã có triển lãm Hội nghề truyền thống từ nZm 1995".
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  7. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

    Lịch sử ThZng Long - Hà Nội
    Khu vực kinh đô nằm giáp sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu và có chu vi hơn 30 km. Hệ thống thành luỹ, cùng với 3 con sông và các con đê của chúng như là hào bao bọc quanh kinh đô. Kinh đô ThZng Long gồm có Hoàng Thành được bao quanh bằng bức tường thành, bên trong là hệ thống cung điện và sân điện, Kinh Thành là nơi cư trú của các quan lại, tướng lĩnh, binh lính và nhân dân.
    ThZng Long thời Lý (1009 - 1225):
    Cuối nZm 1009, tại Hoa Lư (Ninh Bình) Lý Công Uẩn được lập làm vua, sáng lập vương triều Lý, nZm sau ông rời đô ra thành Đại La, đổi tên là ThZng Long. Trên cơ sở thành Đại La, Lý Công Uẩn xây dựng một kinh thành mới, về đại thể được giới hạn bằng ba con sông, phía đông là sông Hồng, phía bắc và phía tây là sông Tô, phía nam là sông Kim Ngưu. Khu hoàng thành ở gần hồ Tây là nơi có các cung điện hoàng gia và nơi thiết triều, tất cả được bao bọc bằng một toà thành xây gạch. Phần còn lại là khu dân sự, chia ra làm các phường, trong đó có phường nông nghiệp, phường thủ công nghiệp và phường thương nghiệp, tách biệt hoặc đan xen. Cả hai khu (hoàng thành và dân sự) được gọi là kinh thành, bao bọc bởi toà thành, phát triển từ đê của 3 sông nói trên. Như vậy đê cũng là tường thành, và do đó sông là hào nước che chở.
    Trong khu dân sự có những kiến trúc tôn giáo: NZm 1028 đền Đồng Cổ được xây trên bờ sông Tô, nZm 1049 chùa Diên Hựu (Một Cột) được xây ở phía tây hoàng thành, nZm 1057 xây tháp chùa Báo Thiên, nZm 1070 xây VZn Miếu và nhà học cho thái tử sau phát triển thành Quốc Tử Giám, trung tâm giáo dục đào tạo. Từ điện Giảng Võ trong hoàng thành, nZm 1170, phát triển thành Xạ Đình (sân bắn) đặt ở phía nam kinh thành...
    Như vậy, chỉ trong khoảng trên một trZm nZm, sau khi trở thành kinh đô, ThZng Long đã được xây dựng trở thành trung tâm chính trị - kinh tế - vZn hoá lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước. Thành lũy, đê điều, các loại kiến trúc cung điện, chùa chiền, công trình vZn hoá... tất cả hoà quyện với thiên nhiên tạo nên dáng vẻ riêng của kinh thành.
    ThZng Long thời Trần (1226 - 1400):
    Nhà Lý sau hai thế kỷ cầm quyền đã đến lúc suy thoái. Nhà Trần thay thế, chấm dứt tình trạng loạn ly, thiết lập lại trật tự chính trị - xã hội. Nền vZn minh Đại Việt tiếp tục phồn thịnh. Nhà Trần củng cố lại hoàng thành, xây thêm cung điện. Kinh thành vẫn giữ gianh giới cũ nhưng đông đúc hơn. NZm 1230 hoạch định các đơn vị hành chính, kinh đô chia làm 61 phường. Khu vực này còn tiếp nhận nhiều khách buôn và cư dân nước ngoài đến sinh sống làm Zn. NZm 1274 có 30 thuyền Trung Quốc xin cư trú, được cho ở tại phường Nhai Tuân (khu vực Hoè Nhai, Hàng Than ngày nay) lập phố, mở chợ. Ngoài thương nhân người Hoa có cả người Hồi hột (Ouigour), Chà Và (Java), sư người Hồ (ấn Độ)...
    ThZng Long còn tụ hội nhiều nhà vZn hoá lớn: Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên) đặt cơ sở cho sự ra đời của nền vZn hoá tiếng Việt; Lê VZn Hưu, nhà sử học uyên bác; Các ông Vua anh hùng kiêm thi sĩ tài hoa Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông; Các vị tướng kiêm nhà vZn, nhà thơ, nhà ngôn ngữ Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật. Và cũng sáng ngời thay tấm gương một nhà trí thức mô phạm cương trực, tiết tháo, Chu VZn An...
    ThZng Long đời Trần không chỉ có xây dựng và sáng tạo nghệ thuật mà còn phải đánh giặc và đánh giỏi: trong vòng 30 nZm (1258 - 1288) ba lần quân Nguyên - Mông sang xâm lược, ba lần chúng vào được ThZng Long nhưng đều phải chuốc lấy sự thất bại.
    Qua ba lần thử lửa, ThZng Long vẫn đứng vững, xứng đáng là một đô thành anh hùng.
    ThZng Long dưới Triều Hồ (1400 - 1407):
    Kinh đô mới được xây dựng ở tỉnh Thanh Hoá có tên là Tây Đô. ThZng Long khi đó gọi là Đông Đô
    Đến thời thuộc Minh (1407 - 1428): Đông Đô đổi tên gọi là Đông Quan
    ThZng Long dưới triều Lê (1428 - 1527):
    Tháng 4/1428 Lê Lợi từ dinh Bồ Đề chuyển vào thành Đông Đô. Ngày 29 tháng tư ông lên ngôi Hoàng Đế. NZm 1430 đổi Đông Đô thành Đông Kinh, nZm 1466 đổi gọi là phủ Trung Đô, Thành cũ vẫn được dùng, có mở thêm về phía Đông. Theo bản đồ vẽ nZm 1490 thì trong cùng là một toà thành hình chữ nhật xây gạch đó là Cấm thành, cửa chính là Đoan Môn. Bên trong có các cung điện mà thâm nghiêm nhất là điện Kính Thiên. NZm 1467 có việc làm hai lan can bằng đá ở thềm điện (có thể đó là hai trong số bốn lan can đá trạm rồng hiện còn ở trong khu thành cổ).
    ThZng Long thời Mạc - Lê Trung Hưng - Lê Mạt (1527 - 1788):
    NZm 1527 triều Mạc (1527 - 1592) lên thay nhà Lê. Chính sách được nới rộng, trong thời gian đầu đã tạo ra được tình trạng xã hội ổn định, công thương nghiệp nZng động, Phật giáo và Đạo giáo phục hưng.
    Đông Kinh trở lại tên gọi ThZng Long, vẫn là kinh đô. Chỉ đổi tên huyện Vĩnh Xương thành Thọ Xương.
    Một nét mới trong kiến trúc ThZng Long là bên cạnh hoàng thành của vua Lê, xuất hiện phủ chúa Trịnh, cơ quan đầu não đích thực của chính quyền trung ương bấy giờ. Đó là một toà thành hình chữ nhật mà hai cạnh dài có thể là các đoạn đầu phố Quang Trung và phố Bà Triệu, hai cạnh ngang là phố Tràng Thi và phố Trần Hưng Đạo.
    Hồ Gươm lúc này còn rộng, gồm hai phần là Tả Vọng (khu vực hồ hiện nay) và Hữu Vọng (ngày nay là khu vực từ Bách Hoá tổng hợp chạy xuống đầu phố Lò Đúc). Hồ rộng đến mức có thể thao diễn thuỷ chiến nên còn có tên là hồ Thuỷ Quân. Nhiều công trình được xây quanh hồ và trên hồ: cung Tây Long (chỗ khách sạn Sofitel), cung Khánh Thụy (đền Ngọc Sơn), đền Bà Kiệu... và ThZng Long với tư cách một thành thị vẫn có bộ mặt phát triển của kinh tế hàng hoá và sự mở rộng quan hệ ngoại thương, thế kỷ XVII - XVIII là giai đoạn hưng thịnh của các thành thị trên qui mô cả nước.
    Nhiều thành thị cũ trở nên thịnh vượng và một loạt thành thị thương cảng mới ra đời trong đó đứng đầu vẫn là ThZng Long.
    ThZng Long là một trung tâm vZn hoá lớn. Người ThZng Long tự hào về nếp sống thanh lịch với những công trình nghệ thuật và kiến trúc: chùa, đền, đình, am, miếu với những tượng, hương án, y môn, cửa võng chạm khắc tinh tế, có cả một dòng tranh Tự Tháp (một làng ven Hồ Gươm), sau đó là dòng tranh Hàng Trống đặc sắc. Tên tuổi những danh nhân gốc ThZng Long: Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn, Ngô Thì Sĩ, Bùi Huy Bích... và các vị lập nghiệp ở đây như Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều đã làm cho vZn hoá ThZng Long thêm sáng giá.
    ThZng Long thời Tây Sơn (1788 -1802):
    Mùa hè nZm 1786, quân Tây Sơn tiến ra Đàng Ngoài lật đổ chế độ chúa Trịnh. Ngày 21/7/1786 quân Tây Sơn đã làm chủ ThZng Long. Nền thống trị của họ Trịnh tồn tại 241 nZm (1545 - 1786), trong đó có 194 nZm ở ThZng Long, bị lật nhào bằng chiến công này. Phong trào Tây Sơn đã kiểm soát cả nước, xoá bỏ tình trạng chia cắt Đàng Trong- Đàng Ngoài kéo dài trên hai thế kỷ.
    Cuối nZm 1788 ThZng Long và đất nước Đại Việt phải đương đầu với một cuộc xâm lược quy mô lớn của đế chế Mãn Thanh.
    Lúc này nhà Thanh đang cường thịnh muốn bành trướng xuống phía nam, đã phái 29 vạn quân xâm lược Đại Việt. Quân Tây Sơn theo kế của Ngô Thì Nhậm bỏ ThZng Long rút về giữ phòng tuyến Tam Điệp-Biện Sơn chờ lệnh Nguyễn Huệ. Ngày 16-12-1788 quân Thanh vào ThZng Long.
    Tin đó bay về Phú Xuân (Huế), ngày 22-12-1788 Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy hiệu Quang Trung rồi lập tức lên đường ra Bắc đuổi giặc. Ngày 15-1-1789 tập kết tại Tam Điệp. Đúng đêm giao thừa tết Kỷ Dậu (25-1-1789) đại quân Tây Sơn vượt Tam Điệp và cuộc tấn công bắt đầu. Sáng mùng 5 Tết (30/1/1789) cùng một lúc đánh đồn Ngọc Hồi và đồn Đống Đa. Trưa hôm đó đại thắng, quân Thanh tháo chạy, tướng chỉ huy bỏ rơi cả ấn tín!
    Cho đến nay, ở gò Đống Đa hàng nZm vẫn mở hội để kỷ niệm chiến thắng rực rỡ này.
    Quang Trung đóng đô ở Huế, ThZng Long là thủ phủ của Bắc Thành (Bắc Bộ ngày nay). Tuy vậy hoàng thành vẫn được chính quyền Tây Sơn tu sửa. Những chính sách khuyến nông, phát triển công thương của Quang Trung đã tác động đến kinh tế vùng ThZng Long.
    Diện mạo của Kim Liên đẹp và thanh nhã bên hồ Tây như hiện còn là có từ thời Tây Sơn. Kiệt tác Phú Tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng được viết trong thời này. Nhiều chuông to, đẹp cũng được đúc vào thời này. Tác phẩm Ai Tư Vãn của bà Ngọc Hân, vZn thơ của Phan Huy ích, Ngô Thì Nhậm, Đoàn Nguyên Tuấn... đều mang nhịp đập của một thời Tây Sơn hào hùng.
    Lịch sử Tây Sơn ngắn ngủi nhưng đã để lại những dấu ấn đậm đà trên trang sử ThZng Long - Hà Nội.
    ThZng Long - Hà Nội dưới triều Nguyễn (1802 - 1945)
    NZm 1802 Gia Long lên ngôi, đóng đô ở Phú Xuân, ThZng Long vẫn là thủ phủ của Bắc Thành (có 11 trấn). NZm 1805, Gia Long ra lệnh phá thành cũ xây trên đó một toà thành mới mà nay vẫn còn nhận diện: tường bắc giáp phố Phan Đình Phùng; tường tây giáp đường Hoàng Diệu; tường Nam giáp đường Trần Phú và tường đông là đường Phùng Hưng. Như vậy thành mới tương đương với Cấm Thành đời Lê.
    NZm 1831, Minh Mạng cải cách bộ máy hành chính, bỏ các trấn chia cả nước làm 29 tỉnh, trong đó có tỉnh Hà Nội gồm thành ThZng Long, huyện Từ Liêm của trấn Tây Sơn và ba phủ ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam.
    Các công trình vZn hoá và sinh hoạt vZn hoá cũng có những biến đổi. Quốc Tử Giám dời vào Huế, VZn Miếu thuộc tỉnh Hà Nội quản lý. Trường thi Hương ở chỗ nay là phố Tràng Thi. Phường Hoè Nhai và sau đó là phố Hàng Giấy là nơi vui chơi giải trí, đàn ca. Một số cửa ô được xây dựng lại, trong đó có ô Quan Chưởng (1817).
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  8. POKET

    POKET Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/06/2001
    Bài viết:
    4.127
    Đã được thích:
    0
    Mọi người post bài vào đây nhé ! Em đã nhờ Admins ghép chủ đề này vào chủ đề HÀ NỘI ! Hãy viết về HN . Sau đó em sẽ đổi tên chủ đề thành Dành cho những nỗi nhớ HN :-)
    Chúc mọi người luôn vui vẻ ! Và luôn nhớ HN như những bài đã post :-)
    Même si les distances nous séparent, Je saurai continuer notre histoire, Je t'attendrai malgré tout, Je t'attends plus que tout.
  9. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

    HÀ NỘI ĐÃ CÓ BAO NHIÊU TÊN GỌI?
    ThZng Long - Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tùy (581-618), Đường (618-907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, ThZng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi. Chúng tôi xin chia các tên gọi ấy thành hai loại: Chính quy và không chính quy theo thứ tự thời gian như sau:
    I. Tên chính quy:
    Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:
    Phố cổ ven đô
    1. Long Đỗ: Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường, vào nZm 866 mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi ThZng Long là đất Long Đỗ. Thí dụ vào nZm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời kinh đô về đất An Tôn, phủ Thanh Hóa. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời Kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (tức sông Hồng ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi". Điều đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.
    2. Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy (581-618), Đường (618-907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tùy, chúng mới chuyển đến Tống Bình.
    3. Đại La: Đại La hay Đại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy kinh đô. Theo kiến trúc xưa, kinh đô thường có "Tam trùng thành quách": Trong cùng là Tử cấm thành (tức bức thành mầu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành. NZm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết nZm 1010 có viết: "... Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất..." (Toàn thư, Tập I. H.1993, tr.241).
    4. ThZng Long: (Rồng bay lên). Đây là cái tên có tính vZn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên gọi này như sau: "Mùa thu, tháng 7 nZm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành ThZng Long" (Toàn thư, Tập I, H.1993, tr.241).
    5. Đông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 nZm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô" (Toàn thư Sđd - tr.192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "Đông Đô tức ThZng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, ThZng Long là Đông Đô" (Cương mục - Tập 2, H.1998, tr.700).
    6. Đông Quan: Đây là tên gọi ThZng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị kinh đô của nước ta, chỉ được ví là "cửa quan phía đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, nZm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 12 nZm Mậu Tý (1408) Giản Định đế1 bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Đông Quan thì chắc phá được chúng" (Toàn thư Sđd - Tập 2, tr.224).
    7. Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: "Mùa hạ, tháng 4 nZm Đinh Mùi (1427) Vua (tức Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành ThZng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành ThZng Long là Đông Kinh" (Toàn thư - Sđd. Tập 2, tr.293).
    8. Bắc Thành: Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787-1802). Vì Kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế) nên gọi ThZng Long là Bắc thành" (Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - H.1979, tr.12).
    9. ThZng Long: (Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "NZm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế), không ra ThZng Long, cử Nguyễn VZn Thành làm Tổng trấn miền bắc và đổi kinh thành ThZng Long làm trấn thành miền bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên ThZng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên ThZng Long đã có từ lâu đời quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên ThZng Long, nhưng đổi chữ "Long" là "Rồng" thành chữ "Long" là "thịnh vượng", lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "Rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên) - Lịch sử thủ đô Hà Nội, H.1960, tr.81).
    Việc thay đổi nói trên xảy ra nZm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở ThZng Long, mà hoàng thành ThZng Long lại lớn rộng quá.
    10. Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "NZm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành ThZng Long cũ hợp với mấy phủ huyện chung quanh như huyện Từ Liêm, phủ ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành ThZng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội". (Trần Huy Liệu chủ biên - Lịch sử thủ đô Hà Nội. H.1960, tr.82).
    II. Tên không chính quy:
    Là những tên trong vZn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ thành ThZng Long - Hà Nội:
    1. Trường An (Tràng An): Vốn là tên kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán (206 tr CN - 8 sau CN) và Đường (618 - 907). Do đó, được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô ThZng Long.
    Thí dụ:
    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
    Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.
    Rõ ràng chữ Tràng An ở đây là để chỉ kinh đô ThZng Long.
    2. Phượng Thành (Phụng Thành): Vào đầu thế kỷ 16, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú Nôm rất nổi tiếng.
    Phượng Thành xuân sắc phú
    (Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng).
    Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của ThZng Long đời Lê. Phụng thành hay Phượng thành được dùng trong vZn học Việt Nam để chỉ thành ThZng Long
    3. Long Biên: Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Ngụy Tấn, Nam Bắc triều (thế kỷ 3, 4, 5 và 6) đóng trị sở của Giao Châu (tên nước ta thời đó). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ vZn để chỉ ThZng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đZng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 -1877), ghi lại bài thơ của vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:
    Long Biên tài hướng
    Phượng thành hồi
    Triệu đối do hy, vĩnh biệt thôi!
    Dịch nghĩa:
    Nhớ ngươi vừa tự thành
    Long Biên về tới Phượng Thành
    Trẫm còn đang hy vọng
    triệu ngươi vào triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.
    Thành Long Biên ở đây, vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. NZm 1877 vua Tự Đức triệu ông về Kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.
    4. Long Thành: Là tên viết tắt của kinh thành ThZng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên ThZng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long thành).
    5. Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn VZn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai?...
    6. Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng Tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo của ta, chúng ta sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.
    Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ ThZng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ); Thượng Kinh, tên này để nói đất Kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô ThZng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh); Kinh Kỳ, tên này nói đất có Kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì phố Hiến). Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "Ǎn Bắc, mặc Kinh". Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ Kinh đô ThZng Long.
    Loại tên "không chính quy" của ThZng Long - Hà Nội còn nhiều được sử dụng khá linh hoạt trong vZn học, ca dao... khó kể hết được.
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  10. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    Le Pho (soupe à la galette de riz, soupe chinoise)

    A Paris, Genève, Montréal, Sydney... ou dans n''importe quelle ville du monde où vit une communauté vietnamienne, on trouve le pho. Mais ce n''est qu''à Hanoi que vous pouvez pleinement apprécier toute sa finesse. On ne connaît pas la date d''apparition du Pho, mais on sait qu''au début de XXe siècle il y avait des boutiques de Pho renommées pour leurs excellentes soupes. La galette de Pho est préparée en cuisant à la vapeur une pâte de farine de riz étalée en couche mince. Au moment où l?Ton prépare la soupe, on trempe très délicatement les galettes coupée en fines lamelles dans de l''eau bouillante, la galette de Pho reste ainsi très souple et ne se transforme pas en bouillie. Les viandes sont servies par plats séparés ou mélangées selon le désir du client. Le Tai (saignant) est du filet de boeuf émincé, aromatisé avec du gingembre écrasé, plongé dans de l''eau bouillante à gros bouillons et que l''on retire immédiatement. La graisse de poitrine de boeuf appelée le Gau est très appréciée par les hommes, surtout les jeunes. Le Nam est du boeuf mêlé de tendons. On mange le Pho avec tous les condiments habituels: poivre, piment, citron, cive, menthe aquatique et coriandre. En mangeant, on reconnait le goût piquant du poivre, du piment, l''arôme calmant du gingembre, celui âcre de la menthe aquatique, celui léger de la cive et celui doux du boeuf frais et tendre. Tous ces condiments se harmonisent et font ressortir le goût et l''arôme du bouillon bien chaud, délicieux, obtenu en faisant mijoter des os de boeuf et du gingembre avec de la ciboulette grillée ajoutée au moment opportun.

    Il s''agit là du Pho (soupe de boeuf) qui est la soupe tra***ionnelle. Au début des années 40, apparut le Pho Ga (soupe au poulet). Certaines boutiques remplacèrent le boeuf par le poulet. Au début, le Pho Ga n''était pas très apprécié, mais peu à peu il attira par son goût particulier. La viande de poulet est servie en quantité juste suffisante. Il faut éviter d?Ten mettre trop. Au milieu des nouilles du Pho ressortent quelques morceaux de viande de poulet émincés, mêlés à quelques lanières de peau de poule de couleur jaune pâle. Celles-ci sont aromatisées par des feuilles de citron coupées en fils exhalant un arôme léger, des brins de cive verte, de menthe aquatique et des rondelles de piment rouge. "Tous ces ingrédients, trempés dans un bouillon bien limpide, donnent au bol de Pho Ga l''attraît d''une jeune fille fraîche - si nous comparons le bol de Pho à un jeune homme bouillonnant de noblesse d''esprit" (Vu Bang).

    A Hanoi, presque tous les quartiers ont une boutique de Pho, mais les gourmets ont l''habitude de ne fréquenter que celles qui correspondent à leurs goûts. On constate que les bonnes boutiques de Pho qui ont brillé pendant quelques décennies ont disparu. Aujour d''hui, dans la ruelle de Nam Ngu (qui relie l''avenue de Le Duan à la rue de Phan Boi Chau) il existe plusieurs boutiques proposant toutes sortes de Pho. Dans la rue de Bat Dan, une boutique vend du Pho cuisiné suivant une recette transmise de père en fils. Celle-ci est très appréciée des gens qui aiment le Ph



    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH

Chia sẻ trang này