1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cho những nỗi nhớ Hà Nội ...

Chủ đề trong 'Pháp (Club de Francais)' bởi bittersweet82, 21/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. taminh

    taminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/05/2002
    Bài viết:
    10.017
    Đã được thích:
    0
    Temple de la Litterature, la plus ancienne universite du Viet Nam (1070).
  2. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    PHỐ BẠCH MAI
    Con đường thiên lý xuyên dọc đất nước ấy bắt đầu từ đâu, nay còn không? Một thời kỳ dài cái cột đèn bằng sắt sơn hắc ín đen có than giằng chéo ở ngã tư Ô Cầu Dền thành cái mốc biên giới: Đây là nội thành, tức thành phố chín thức kia là ngoại ô tức là xóm làng, là bậc dưới Nội thành đóng lại ở chô cuối đường phố Huế con đường có thời gian thay tên đổi họ là Duy Tân rồi lại trở về tên cũ. Vì vậy mà con đường tàu điện bắt đầu từ chỗ này xuôi về hướng nam đến chợ Mới Mơ phải nằm nổi ngay lên mặt đường rải đá, y hệt như đường vào tỉnh Đơ tức Hà Đông như đường xe lửa, nó chiếm hơn nửa chiều ngang mặt đường phía bên số lẻ, bất kể cản trở giao thông chật hẹp, lầy lội hay gồ ghề cho người dân ngoại ô, thứ dân loại hai của thành phố.
    Nhà Hà Nội học nói rằng đây là làng Hồng Mai, vì kiêng húy vua Tự Đức nên phải đổi thành Bạch Mai cho đến nay. Hẳn một thời có những con ngựa trạm thân bốc hơi, miệng sùi bọt, chở những người lính trạm qua đây, đầu đội nó dấu, bắp chân quấn xà cạp, bàn chân đi đất đem tin từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc, trên con đường còn tre pheo xanh um, xóm làng trù phú thanh bình, ruộng rau tươi mởn, đình chùa rải rác cùng những xóm ngõ quanh co mái rơm mái rạ thấp tè màu mốc thời gian với bóng cau chum nước, mặt ao...
    Những Giáp, một đơn vị nhỏ hơn thôn, chỉ vài chục nóc nhà Tô, Hoàng, Nội, Mật, Nhất Nhị... còn chZng dấu tích là những ngôi đền ngôi đình trong các ngõ Tô Hoàng, Đình Đại, Đình Đông, những Trại GZng, Giếng Mứt, ngõ VZn Chỉ... VZn Chỉ là mấy nếp nhà ngói cổ, không phải của kinh thành, cũng không phải của làng xã mà là của Huyện Thọ Xương, huyện sở tại, đã chìm đi, mẩt hút trong một cái ngõ nhỏ có cây bàng cằn cỗi khuất sau bao ngôi nhà mới dựng Thời chống Mỹ VZn Chỉ là trụ sở Công ty Zn uống Hai Bà Trưng, người ta phải đào hết sàn nhà làm hầm trú ẩn tránh máy bay B52.
    Chùa Liên Phái, chùa Mai Hương, ngõ Lò Lợn, chợ Mới Mơ... Những cái tên như đánh thức thời gian ngủ giấc say nồng, trở dậy trong lòng người. Lại còn có cái ngõ mang tên người có sáng kiến làm ra vàng giả, thứ vàng trang sức Mỹ Ký. Còn Đ ông Dương học xá, đổi thành Việt Nam học xá, thành khu và rồi thành phường Bách Khoa đang có trường đại học lớn và vài vạn dân trú ngụ.
    Ngôi nhà số 154 là ngôi nhà của người cộng sản đầu tiên: Nguyễn Phong Sắc. Đầu nZm 1930 ông được phân công vào lãnh đạo phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, trên đường trở ra Hà Nội, ông bị mật thám bắt và... đã không còn nữa Phố Bạch Mai dài 1400 mét, một đầu nối với phố Huế, chỗ có cái cột đèn phân biệt ngày xưa còn đầu kia cuối phố, là ngã tư Trung Hiền, có phố Minh Khai, Đại La, Trương Định, đất củ Hoàng Mai, Tương Mai cũ.
    Mấy chục nZm trước, gọi chợ Mơ hay chợ Mới Mơ đã thấy xa ngút ngại ngùng, nó hẻo lánh âm u, nghèo nàn, toàn mái tranh xóm thợ, tiếng ếch nhái trong ruộng rau mùa mưa, tiếng muỗi như sáo diều mùa hè, còn mùa đông tù mù như co mình lại trong mưa rét.
    Hình như tiểu thuyết "Ngoại Ô" của nhà vZn Nguyễn Đình Lập là nói về những con người nghèo khổ ở phố này. Nhà vZn Tô Hoài trong hồi ký nói về trước Cách mạng, ông "đi chơi", lần mò trong đêm đầy tiếng chó sủa, âm u bóng cây bóng tối cũng là đây.
    Bạch Mai, những bông hoa mai trắng của mộ vùng bát ngát loài hoa, gợi cảm biết bao nhưng thời gian cũng chắng sáng được lên chút nào khu ngoại ô lầm lụi, mà đường tàu điện gồ lên, nổ lên như một vật chướng ngại, chỉ một chiếc xe hơi nhà binh đã chắn hết lối đi, người nghèo áo vá phải tránh giạt sang đường bằng cách vác chiếc xe đạp lên vai, chân giẫm lên những hòn đá củ đậu lổn nhổn cùng những thanh tà vẹt sắ khum khum hình lòng thuyền úp sấp, ấy là những nZm 50, chiếc đầu tàu điện như con rùa chậm chạp nhưng rẻ tiền, dễ đi, thuận tiện cho bà xôi lúa, cô hàng rong, anh dày giò, bác thợ ngõa vào thành phố, mà người ta gọi là "lên phố".
    Trong bảo tàng Cách mạng, còn nhiều tấm ảnh đã rạn đã mờ, ghi lại hình ảnh những chị dân quân, những anh tự vệ sao vuông, đầu đội mũ ca nô, nấp sau chiến lũy dựng bằng bàn ghế, xe bò bao tải, giường phản, tay đang cầm bom ba càng chân co chân duỗi, đợi đánh quân thù. Hà Nội là thế. Nghèo cơm áo nhưng giàu lòng yêu nước.
    Ngoại thành nay đã lùi ra xa rất nhiều. Nhưng nhắc đến Bạch Mai, Trung Hiền, ta lạ thấy phảng phất một dải thắt lưng hoa đào, hoa lý đang đứng trông theọ anh lính trạm chạy ngựa tay cầm cây đuốc cháy đùng đùng để dưa công vZn hỏa tốc đến trạm Ngọc Hồi phía dưới kia chuyển tiếp.
    Bông hoa mai nào đã vương vào gương giếng, nước ngọt như đường phèn, nên cá ngõ làng còn tên Giếng Mứt. Và cũng như câu chào xởi lởi, đôi môi cắn chỉ, con mắt lá rZm, đôi má mộc mạc không son phấn nào... lấp ló sau rặng mai mùa hoa nở, nên hương hoa và hương người hòa lẫn thành tên Mai Hương...
    Quãng đầu phố, gần dòng mương nước đục quanh nZm lờ lững, cũng có mấy cô gái bán hoa tươi bên cạnh hàng quả chín. Gần đấy, không hiểu người chủ đầu tiên của khu đất hẳn là thơ mộng và xinh đẹp lắm, có cái tên như mơ, như kiêu sa, như mời gọi: Trại Hồng Bích, mà nay thành khu chen chúc tường ngZn, lối lách, đông đúc cư dân. Người ấy đã đi đâu giạt đến phươn trời nào, có còn nhớ về con đường phía Nam kinh thành, lối bắt đầu đường Thiên Lý, tiễn cả những chiếc xe tang ngựa kéo về nảo âm hồn nghĩa địa Quỳnh Lôi...
    Phố Bạch Mai đã thị thành hóa. Đường đi thẳng tắp, mái đường cong mui luyện, những con tàu điện không còn sau khi đường ray được đánh chìm xuống và sau cùng là bóc hẳn đi. Đã có nhiều ngôi nhà đá rửa, rồi đá ốp, rồi nhôm kính bung ra buôn bán đủ thứ mặt hàng, nào tạp hóa hiệu ảnh, nào hàng Zn, quán karaô kê, nào vật liệu xi mZng tre nứa cót đan.. Riêng mấy rạp chiếu bóng thì tự đưa ma mình vào dĩ vãng, như bị bôi xóa đi vĩnh viễn. Bạch Mai không có biệt thự sang trọng kiêu kỳ, mà mang dáng vẻ của mộ đường phố mới mở, toàn là mua bán, bán mua. Có lẽ người gốc Hồng Mai đã phiêu bạt, đã lữ thứ, đã tang bồng, nhường chỗ cho chủ đất chủ nhà mới đến ngụ cư. Cuối con đường là chợ Mới Mơ, cái chợ còn nhiều nét chợ quê, có hàng gạ hàng cá, có khu bán cây xanh rau giống, có hàn kem quốc doanh, có cả cái liễn sứ anh sành, thứ người dùng, thứ để cho lợn Zn... tấp nập hàng ngày, và có lẽ còn tấp nập nhiều nZm nữa.
    Cái tên Bạch Mai, Hồng Mai, Hoàng Mai, Mai Động, Mai Hương, chợ Mơ, Mơ Táo... dính dáng đến hoa mai, thứ hoa mà chính cả đời Cao Bá Quát không chịu khuất phục ai cũng phải cúi đầu chắp tay kính nể, nó vẫn đang lung linh trong hồn ta, trong lòng Hà Nội. Đã mở thêm mấy con đường thành ngã ba, Zn thông sang phía bờ sông Hồng phía đông, là phường Thanh Nhàn, phố Trại GZng, phố Mai Hương... còn phía đầu Bạch M ai đã được mở rộng để thành nút giao thông Đại Cồ Việt và sẽ tiếp tục khơi thông con mương ô nhiễm cho thanh thoá một phía đô thành.
    Có người hẹn với nhau, vào cữ cuối đông cùng nhau xuống Bạch Mai để may ra tìm lại một loài hoa mỏng mảnh mà kiêu sa, không hiểu có khu vườn nào còn thấp thoáng tà áo dài thiếu nữ bên khóm hoa chZng? Khó lắm. Nhưng cứ thử xem...
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  3. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    HỒ HOÀN KIẾM VÀ THÀNH THĂNG LONG XƯA
    Hồ Hoàn Kiếm hiện nằm ở Trung tâm thủ đô Hà Nội, có Đền Ngọc Sơn -Tháp Rùa - Đài Nghiên - Tháp Bút. Có truyền thuyết vua Lê Thái Tổ trả gươm cho Rùa thần, cùng với những cảnh quan và di tích quanh hồ, thì hồ quả là một viên ngọc lung linh của đất nước.
    Lúc vua Lý Thái Tổ về ThZng Long, chắc cảnh quan còn hoang sơ, nơi nơi ngổn ngang bề bộn, lúc này vẫn chưa hình thành Hồ Gươm. Bởi cZn cứ vào tấm bản đồ được vẽ nZm 1490, từ thời Hồng Đức mang tên "Trung Đô đồ". Cách thời vua Lý định đô đúng 480 nZm, vẫn thấy bốn phía Kinh thành mênh mang sông nước.
    Nhìn trên bản đồ, so sánh với vị trí ngày nay thì thấy: phía đông có sông Hồng, nước đỏ phù sa. Phía bắc có sông Tô Lịch nối với sông Hồng ở đoạn Chợ Gạo, chảy vòng qua Hàng Lược, Quán Thánh, đến Thụy Khuê - đầu làng Hồ Khẩu, lại nối với Hồ Tây bằng hai cửa lớn, đến đoạn chợ Bưởi, Nghĩa Đô, lại nối với sông Thiên Phù. Sông Thiên Phù thời nay hãy còn rất rộng, chảy từ sông Hồng, ở đoạn Phú Gia, Nhật Tân, theo hướng bắc - nam, đến chợ Bưởi thì nối dòng với sông Tô Lịch cùng xuôi xuống phía nam, hòa với nước sông Nhuệ.
    Vùng VZn Miếu và Bẩy Mẫu lúc ấy là một hồ nước rất rộng. Nhìn trên bản đồ, thấy nước một mảng dài uốn lượn tới mấy km, làm cho khu vực VZn Miếu bị nước bao quanh như một hòn đảo, mà trên bản đồ ghi là Đại Hồ, và còn nhiều hồ, ao, ngòi, lạch khác.
    Hồ Hoàn Kiếm lúc ấy chưa hình thành, nó là một nhánh cụt của sông Hồng, khởi nguồn từ chỗ Bệnh viện Hữu nghị, chảy ngang đoạn cuối đường Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Hai Bà Trưng, lên đến tận mạn Cầu Gỗ, Hàng Đào. Mặt nước có hình loe thắt không bằng nhau. Nhìn trên bản đồ mà ước đoán thì đoạn rộng nhất, to gấp nhiều lần sông Tô Lịch thời ấy, mà sông Tô Lịch ngày xưa thì thuyền ngược xuôi tấp nập, vẫn còn lưu lại trong câu ca dao:
    Sông Tô nước chảy trong ngần Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa Thon thon hai mũi chèo hoa Lướt đi lướt lại như là **** bay
    Còn thành ThZng Long, lúc này đã được xây dựng rất hoàn chỉnh. Thành có hai lớp: vòng Hoàng thành và Cấm thành. Nhìn trên bản đồ, vòng Hoàng thành uốn lượn như một lá cờ bay. Thành có ba cửa: cửa Đông Môn ước đoán quãng phố Cửa Đông. Nam Môn ở quãng gần phố Cao Bá Quát, và cửa Bảo Khánh ở quãng khu triển lãm Giảng Võ - Ngọc Khánh. Bởi nhìn trên bản đồ, vùng VZn Miếu lùi sâu hơn so với cửa Bảo Khánh, theo một đường thẳng từ đông sang tây.
    Vòng Hoàng thành bắt đầu từ góc ngã ba sông Tô Lịch và Thiên Phù, chỗ đầu chợ Bưởi sang Cầu Giấy, vòng theo đường La Thành xuống Giảng Võ, ngoặt về phía đông theo đường Giảng Võ đến Kim Mã, uốn nhẹ sang chỗ vườn hoa Lê Trực, rồi theo đường Trần Phú, đến chỗ phố Hà Trung, ngược lên hướng bắc, song song với phố Phùng Hưng, đến chỗ vườn hoa Hàng Đậu, rồi rẽ về phía tây, vòng theo sông Tô Lịch (phố Quán Thánh) Hoàng Hoa Thám, đến chợ Bưởi là hết một vòng Hoàng thành.
    Khu vực Cấm thành xưa rất rộng, được xây theo hình chữ nhật. Giới hạn tường phía tây vuông góc với làng Hồ Khẩu. Phía bắc chạy dọc đường Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng. ở quãng này, vào khoảng nZm 1520, thời vua Lê Tương Dực, đã có một lần thay đỏi. Đại Việt sử ký Toàn thư tập bốn có viết: "Lúc ấy Vua thích xây hồ dựng điện, đắp thành to rộng mấy nghìn trượng, bao vây cả điện Tường Quang, quán Trần Vũ, chùa Thiên Hoa ở cửa phường Kim Cổ, từ phía Đông tới phía Tây Bắc, chắn ngang sông Tô Lịch, trên đắp hoàng thành, dưới làm cửa cống...".
    Tiếp đến đoạn Cấm thành phía đông, chạy song song sát với Hoàng thành, từ quãng Hàng Đậu, dọc phố Phùng Hưng, rồi rẽ vuông góc về phía nam, chạy dọc bên trong đường Trần Phú, chỗ Cột Cờ, Bảo tàng Quân đội, qua phố Đội Cấn, đến Liễu Giai thì vuông góc với làng Hồ Khẩu. Trong Cấm thành có điện Kính Thiên, điện Vạn Thọ, Thái Miếu, Đông Cung, v.v. Nhìn trên bản đồ mà ước đoán, thì trung tâm Cấm thành là chỗ Quảng trường LZng Bác bây giờ...
    Vua Lê Lợi lên ngôi 1428, mất nZm 1433. Sáu mươi ba nZm sau mới có bản đồ Hồng Đức (1490) mà nhìn trên bản đồ lúc này, Hồ Gươm vẫn chưa hình thành. Ngay cả các tấm bản đồ sau này như: "Trung đô sơn xuyên hình thắng chi đồ" vẽ nZm Cảnh Hưng 31 (1770), "Trung đô ThZng Long thành nhất phủ nhị huyện đồ" (thế kỷ thứ 17), "Trung đô nhất phủ nhị huyện chi hình và ThZng Long thành nhất phủ nhị huyện". Có lời tựa nZm Gia Long thứ chín (1810) đến tấm bản đồ "ThZng Long thành Phụng thiên nhất phủ nhị huyện" thì vẫn thấy sông Hồng nối nhánh vào Hồ Gươm.
    Không biết sau đó hồ được hình thành từ thời gian nào, đến tấm bản đồ tỉnh thành Hà Nội vẽ nZm Minh Mạng thứ 12 (1831) thì Hồ Gươm đã gần như ngày nay, Hồ hiện diện trên tấm bản đồ được ghi là "Tả Vọng".
    Như vậy là cZn cứ vào những tấm bản đồ thời Lê, thời Nguyễn, có thể suy đoán: vào khoảng nZm 1428, vua Lê Thái Tổ lên ngôi, nhà vua cùng đoàn thuyền ngự đi từ sông Hồng, rẽ vào nhánh, mà đoạn gần cuối là hồ Hoàn Kiếm bây giờ, lúc ấy các phường nghề, làng xóm, phố xá đã trở nên đông vui nhộn nhịp. Và chính nơi này, nhà vua đã trả gươm cho Rùa thần, rồi trải qua hàng mấy trZm nZm "gió mưa biến đổi", và quá trình đô thị hóa, hồ được lấp dần, còn lại như ngày nay.
    Huyền thoại Hồ Gươm là một bằng chứng cho lòng yêu hòa bình thiết tha của người Việt Nam, của ThZng Long - Hà Nội. Đất nước bao giờ cũng muốn hòa bình để dựng xây, nhưng nếu có xâm lược, thì gươm của Thần linh nước Nam, lại được trao cho một dân tộc anh hùng bất khuất để bảo vệ vẹn toàn đất nước mà các vua Hùng đã có công tạo dựng từ 4.000 nZm trước.
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  4. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    BÁC THÍCH PHỐ CỔ À? VẬY THÌ EM CHO BÁC ĐỌC MỘT BÀI VỀ PHỐ CỔ NHÉ

    PHỐ CỔ HÀ NỘI - XƯA VÀ NAY
    Giờ đây, giữa lúc rất nhiều công trình của thành phố đang khẩn trương hoàn thành, chào mừng 990 nZm lịch sử của thủ đô, tôi tới phố Hàng Chuối, gặp Nhà giáo Nhân dân Hoàng Thiếu Sơn, người đã nhiều nZm nghiên cứu và giảng dạy về ThZng Long ở trường đại học Sư phạm Hà Nội. Trong cZn phòng xinh xắn, câu chuyện giữa chúng tôi thật lôi cuốn. Khi tôi hỏi về những công trình lớn xây trên đất Kinh Kỳ cách đây trên dưới trZm nZm, ông chậm rãi trả lời:
    Phố cổ
    - Nhà thờ Lớn Hà Nội xây nZm 1883, chợ Đồng Xuân xây nZm 1890, Nhà hát Lớn xây nZm 1911, Phủ Thống sứ (Nhà khách Chính phủ bây giờ) xây nZm 1916, trường đại học Đông Dương (Trường đại học Tổng hợp bây giờ) xây nZm 1926, trụ sở Hãng dầu Shell (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường bây giờ) xây nZm 1930. Đó là những công trình xây theo kiến trúc Pháp, đều nằm ở các khu phố cũ. Còn khu phố cổ Hà Nội được hình thành vào nZm 1883, cùng với nZm xây Nhà thờ Lớn, tới nay đã 117 nZm.
    Tôi phục ông tuổi đã ngoài 80 mà "bộ nhớ" còn quá tốt.
    Để giúp tôi hình dung được gương mặt và sự phồn vinh của Kẻ Chợ xưa, ông lấy tập tư liệu ghi chép trên giá sách, đọc cho tôi nghe những nhận xét của các giáo sĩ châu Âu thời đó.
    Ban-đi-nốt-ti viết: "Kẻ Chợ không có thành lũy, không có pháo đài. Ngoài cung điện nhà vua lợp ngói và làm bằng những khối gỗ lớn cầu kỳ, nhà dân đều bằng tre, lợp rạ, không có cửa sổ". Ma-ri-ni Rô-manh viết: "Đường phố không lát gạch. Có khoảng 72 lối phố, thoáng đãng không kém gì các lối phố của các thành phố trung bình ở Italy. Các lối phố đều đầy thợ thủ công và nhà buôn. Để tránh lộn xộn, nhầm lẫn, đỡ mất thì giờ cho khách tìm kiếm thứ hàng cần mua, ở ngõ vào mỗi phố đều có tấm biển ghi rõ loại hàng bán ở đó. Các thứ hàng tốt, quý trong nước và nước ngoài đều được đưa về đây với số lượng dồi dào. Các thương điếm nước ngoài như Hà Lan, Anh... đặt ở ThZng Long để mua các mặt hàng như tơ sống, quế, sa nhân, xạ hương, chè... bán lưu huỳnh, thuốc súng, chì, bạc, vải, súng đạn, hổ phách...". Sa-muy-en Ba-rông viết: "Về diện tích, Kẻ Chợ có thể sánh ngang với nhiều thành phố châu á, nhưng về số dân thì đông hơn so với phần lớn các thành phố đó" và "Con sông cạnh xưởng đóng tàu, được gọi là sông Cái, mang lại khá nhiều thuận lợi cho kinh thành. Vô số tàu thuyền theo dòng sông ra vào Kẻ Chợ, chở đầy ắp hàng hóa, thực phẩm".
    - Như vậy, tên gọi "ThZng Long 36 phố phường" bắt nguồn từ đâu, thưa ông? Tôi hỏi.
    - NZm 1427, đất Kinh Kỳ có hai huyện Quảng Đức và Thọ Xương. Mỗi huyện có 18 phường, hai huyện là 36 phường. Như vậy, phường của ThZng Long là đơn vị hành chính, cũng có nghĩa về mặt nghề nghiệp "buôn có bạn, bán có phường". Sự phồn vinh của ThZng Long 36 phố phường - tức khu phố cổ hiện nay kể từ thế kỷ 15 nằm từ phía đông Hoàng Thành tới bờ sông Nhị. Có một bài thơ xếp đủ tên 36 phố phường, bắt đầu bằng "Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai, Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay...
    Ông nói tiếp:
    - Những phố mang tên các mặt hàng khác cứ thế phát triển ngày một nhiều, phản ánh nền kinh tế cổ xưa. Rồi lần lượt xuất hiện các chợ Đồng Xuân - Bắc Qua, Châu Long, Hàng Bè, Hàng Da, Hòe Nhai... buôn bán tấp nập bên dòng sông Tô.
    Ông nhắc tôi những sản phẩm nổi tiếng của ThZng Long: nem Vẽ, chuối Sù, cốm Vòng, đậu Mơ, bánh cuốn Thanh Trì, cờ Mộ Trạch, nhiễu Giấy, lĩnh Bưởi, vải Sài, giấy Yên Thái, lụa Nghi Tàm, đồ gốm Bát Tràng, nữ trang Hàng Bạc, tượng đồng Ngũ Xã... Rồi từ các nơi đổ tới Hàng Đào có thợ nhuộm Mộ Trạch (Hải Dương), tới Hàng Quạt có thợ Ân Thi (Hưng Yên), tới Lò Rèn, Nguyễn Khuyến có thợ Xuân Phương (Từ Liêm), tới Hàng Bạc có thợ Châu Khê (Hải Dương), Đồng Xâm (Thái Bình), Định Công (Thanh Trì).
    Từ cuộc tiếp xúc bổ ích đó, buổi chiều tôi đạp xe lên khu phố cổ nằm trong quận Hoàn Kiếm. Theo quy hoạch, khu này có tổng diện tích khoảng 100 ha, có 76 phố, các phố Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật ở phía đông, phố Phùng Hưng ở phía tây, phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ, Hàng Thùng ở phía nam, phố Hàng Đậu ở phía bắc dẫn tới Hà Khẩu trên bến dưới thuyền, một thời sầm uất. Xe tôi lZn bánh trên những lòng đường hẹp - phố ngắn, ngõ nhỏ, rất ít cây xanh, nhà xây ken nhau, hình thành những nhà ống chụm đuôi ở giữa ô phố. Nhìn kỹ mới thấy nhà ống là nét đặc trưng của khu phố cổ, đều thấp, hẹp, mặt tiền chỉ vài mét được xây bằng đủ các chất liệu của nhiều thời đại. ở các phố Lãn Ông, Hàng Buồm, có mái nhà lợp bằng ngói âm dương viên chồng, viên vợ lợp lên nhau theo thứ tự sấp, ngửa tạo thành lòng máng chảy từ nóc xuống, hoặc có mái nhà lợp ngói ta hình mũi hài trơn. Nhớ thời niên thiếu, qua phố Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Nón, vải, nón treo lủng lẳng, quấn cả vào mặt, đụng vào đầu người đi trên hè.
    Không chỉ là một trung tâm kinh tế sầm uất, khu phố cổ này xưa kia, vào ban đêm, còn là nơi dập dìu tài tử, giai nhân. Ngựa xe như nước, áo quần như nêm". Nhiều hiệu cao lâu của người Hoa đông khách vì món đặc sản: Đông Hưng Viên, Mỹ Kinh, Nhật Tân (Hàng Buồm), Asia, Tự Hưng Lâu, Quảng Sinh Long (Hàng Bông). Nhiều rạp hát có nhiều đào, kép nổi tiếng một thời Quảng Lạc, Hiệp Thành, Chuông Vàng (Tố Như), Kim Phụng, Kim Lan. Hàng Bạc, ngõ Sâm Công (Tạ Hiện) tấp nập người đi xem hát. Còn nhớ các bà tiểu thương các chợ, sau Tết, thường đi "bói tuồng" vào rạp giữa chừng để xem là cảnh vui hay buồn, suy ra vận làm Zn may rủi. Tan hát, các hàng quà đêm của người Hoa đông khách vì những món rất Tàu: bánh bao, bánh trôi Tàu, xôi nóng, chí mà phù, lục tàu xá... Lại cả mấy rạp chiếu bóng vơ không biết bao nhiêu tiền vì những phim hợp ý cánh học sinh.
    Khu phố cổ còn là mảnh đất vZn hóa lâu đời. Những tờ báo hằng ngày Trung Bắc Tân VZn, Đông Pháp, Hà Thành Ngọ Báo, Tin Mới... những tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay, Tiểu thuyết thứ bảy, Tiểu thuyết thứ nZm cả báo Tin tức của Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi các Nhà xuất bản Tân Dân, Âu Tây tư tưởng... đều đóng trụ sở ở đây. Người Hà Nội vẫn còn nhớ Hội Trí Tri, Hội Truyền bá quốc ngữ (Hàng Quạt), Hội Khai Trí Tiên Đức (Hàng Trống), nhà số 48 Hàng Ngang, nơi Bác Hồ viết Tuyên ngôn Độc lập, phố hoa đào Cống Chéo Hàng Lược, phố câu đối Tết Hàng Bồ...
    Tôi tới phố Mã Mây, đứng trước cZn nhà thấp, hẹp, sâu, bên trong có gác, mặt tiền hai bên là những tấm cửa bức bàn, phía trên có một hàng con tiện bằng gỗ quét sơn ta mầu gụ, trong nhà các kèo cột đều chạm trổ hoa vZn cổ. Ngoài cửa, trên tường treo tấm biển đồng khắc ba thứ tiếng Việt - Pháp - Anh: "Ngôi nhà 87 Mã Mây đã được cải tạo trong khuôn khổ hợp tác giữa Tu-lu-dơ (Pháp) -Hà Nội (Việt Nam) và được khánh thành ngày 27-10-1999".
    Tôi lại đạp xe tới số 38 Hàng Đào đang được tốp thợ của Công ty tư vấn kiến trúc đô thị Hà Nội cải tạo từ ngày 16-2. Hỏi chuyện anh đội trưởng trẻ, tôi được biết đây là cửa hàng bách hóa đã dọn đi, nhà xây gần trZm nZm nay, dài 55 m, ngang 5,5 m nhưng đuôi thót còn 1,1 m trên gác phía trong còn để lại tấm bia đá gắn trên tường. CZn nhà sẽ được tôn tạo theo nguyên mẫu kiểu cổ, cũng là công trình hợp tác giữa Tu-lu-dơ và Hà Nội.
    Tiện dịp, tôi xin phép vào thZm mấy hộ ở cùng phố. Giữa thời kinh tế thị trường, nhà nào cũng bung ra buôn bán, làm dịch vụ. Tuy nhà ngoài bán hàng nhưng có nhà bên trong bày bàn thờ, treo hoành phi, câu đối cùng các đồ thờ cổ, quý giá. Có nhà bầy sập gụ, tủ chè cánh cong khảm trai, sa-lông Tàu giữ phong cách cổ truyền, nếp sinh hoạt tao nhã của người Việt Nam.
    Sau mấy ngày đi lại và hỏi chuyện bà con, tôi rút ra mấy nhận xét. Trước hết, từ lâu các phường nghề đã mai một, mặt hàng thủ công truyền thống không còn. Dân phố, trừ những người đi làm ở cơ quan Nhà nước hoặc doanh nghiệp, đều chuyển sang buôn bán, làm dịch vụ. Vỉa hè cạnh nhà xếp đầy hàng. Lòng đường đan xen các loại xe chở hàng. Còn dân cư đông đúc, ở quá chật, có lẽ bình quân chỉ được 1 m2 mỗi người, nhà cửa tồi tàn, xuống cấp nặng. Một điều không thể ngờ là nhà không có hố xí chiếm tới 50% và 20% số nhà không có bếp. Trong ngõ tối, ánh sáng tự nhiên không len vào được, phải dùng ánh sáng điện, có bóng điện thắp suốt ngày đêm. Thiếu cả nước sinh hoạt. Nhà ở vẫn thế nhưng dân số ngày càng phát triển, có nhà trước chỉ là một hộ, nay tZng lên vài hộ, rồi trên chục hộ, có cửa hàng do mặt tiền hẹp, anh em trong nhà phải chia nhau để bán hàng. Đến thời đổi mới, bảy, tám nZm gần đây, nhiều ông chủ giàu sụ đến mua nhiều ngôi nhà cổ, đập đi, xây khách sạn, nhà hàng, công ty kinh doanh cao ngất, lấp loáng những ô kính đen, kính trắng, ban đêm biển hiệu chạy điện vụt sáng, vụt tắt, phá vỡ cảnh quan khu phố cổ. Kể cả những chủ nhân vì sự bức xúc của cuộc sống, không chịu nổi cảnh Zn ở chật chội, ẩm thấp, chung chạ, phải tự phá nhà, xây lên nhiều tầng, tuy không được phép của cơ quan chức nZng, nếu phạt thì nộp ngay.
    Tôi đến Ban quản lý phố cổ Hà Nội ở Hàng Buồm, kể lại những nhận xét trên với bà Tô Thị Toàn, kiến trúc sư, Phó trưởng ban. Bà nói:
    -Ngày 4-6-1999, ủy ban Nhân dân thành phố đã ra quyết định ban hành "Điều lệ tạm thời về quản lý xây dựng, bảo tồn và tôn tạo khu phố cổ Hà Nội". Điều lệ nói kỹ, có nhiều nét mới, hy vọng giải đáp được những khúc mắc của nhân dân phố cổ.
    - Bà có thể cho biết tóm tắt những nét chính được không?
    - Thành phố bảo tồn trung tâm thương mại Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường, Đồng Xuân theo phong cách kiến trúc đặc hữu của khu phố cổ. Mạng lưới đường vẫn giữ nguyên. Thành phố bảo tồn, tôn tạo các công trình hoặc cụm công trình di tích lịch sử, vZn hóa, kiến trúc có giá trị, đã xếp hạng, trong đó có nhà thờ, nhà ở cổ, nhà ở có vườn. Cải tạo điều kiện sinh sống của nhân dân trong khu vực: hiện đại hóa hệ thống hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị (các hệ thống thoát nước thải, thu gom rác thải, cấp nước, cấp điện, chiếu sáng, thông tin liên lạc).
    - Nhà dân được phép cải tạo hoặc xây mới có được theo các thiết kế thoải mái không? Tôi hỏi.
    - Phải theo quy định: nhà giáp mặt phố (lớp ngoài) không vượt quá ba tầng, lợp mái ngói ta, chiều cao tối đa đến đỉnh mái không quá 12 m, dùng vật liệu và họa tiết trang trí truyền thống. Nhà ở phía trong không vượt quá bốn tầng, chiều cao tối đa đến đỉnh mái không quá 16 m.
    Bà nhấn mạnh:
    - Thành phố sẽ giảm dần dân cư trong khu phố cổ, tZng diện tích cây xanh hè phố, sân vườn, sân chơi.
    - Từ nay đến ngày kỷ niệm 990 nZm ThZng Long - Hà Nội, Ban quản lý phố cổ còn làm những gì nữa?
    - Sau hai ngôi nhà 87 Mã Mây, 38 Hàng Đào đã tôn tạo, tạm dùng làm nơi tham quan cho khách du lịch, chúng tôi tiếp tục tôn tạo một số nhà cổ khác theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Tuyến đường Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường, Đồng Xuân sẽ là tuyến đường dành riêng cho người đi bộ. Đang nghiên cứu tổ chức phố ẩm thực. Phố Tống Duy Tân sẽ là phố ẩm thực bán những món Zn đặc sản của các miền đất nước.
    Nghe bà nói, tôi hiểu từng bước chuyển động của khu phố cổ, lại nhớ tết Con Rồng vừa rồi, hai vợ chồng đứa cháu ở Pháp về, đêm nào cũng mò đi Zn quà đêm cho hết nhớ, không quên vác máy camera đi quay các chợ hoa, phố cổ để đem sang Pa-ri cho bố mẹ xem. Các cháu nói:
    - Bác ơi, ba mẹ cháu nhớ Hà Nội lắm, cứ dặn chúng cháu đến xem phố cổ có còn không hay hóa thành phố hiện đại rồi. Giá mà có thể giữ mãi gương mặt phố cổ của người xưa!
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  5. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    VÀ SAU ĐÂY XIN MỜI CÁC BÁC ĐỌC MỘT LOẠT BÀI VỀ CÁC PHỐ CỔ HÀ NỘI

    PHỐ HÀNG ĐÀO
    Hàng Đào là hàng nhuộm màu đỏ. Ở Trường Yên thành Hoa Lư xưa, bây giờ người ta còn trỏ một chỗ là Hàng Đào. Thì ra Hàng Đào là cái phố đặc trưng của kinh đô. Thế thật, ở Hàng Đào, cửa hàng san sát tủ kính bóng bảy, các cô ngồi hàng lịch sự.
    Thế mà, dân phố lớn này lại đều có gốc tích ở tứ tuyên. Toàn là người quê : Nhị Khê, Tây Tựu, Kim Lũ, Đông Mẫu, Bình Hồ, Đông Cảo, Đông Ngạc, Đan Loan, v.v...
    * *
    *
    Từ bờ Bắc Hồ Gươm, chỗ Bãi Dừa, nay là "Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục" trở lên là Hàng Đào. ở chỗ này, sau khi hạ thành Hà Nội, Jean Dupuis và Puginier đã đem ông cử Tạ VZn Đình ra chém. Rồi sau đấy, kinh lược Bắc Kỳ, nZm 1887, cũng lôi ông thủ khoa Nguyễn Cao ra hành hình.
    Từ phía cuối lên giữa phố, là phường Đại Lợi. Đình của phường ở nhà số 47. Nhà này, nZm 1917 mở ra cửa hàng bán tạp hóa đầu tiên. Còn một đình nữa ở số 5 Gia Ngư. Bên phía tây, số chẵn, bắt đầu bằng cái nhà nhỏ hai tầng, chỗ ở của "phu điếm". Đoạn phố trên là phường Đồng Lạc, đình số 38. Dưới đình một nhà là dinh cơ của cụ tuần Đồ ng Lạc. Trên đình, có dinh cơ của cụ thượng Bình Hồ, trên cửa treo một bức hoàn lộng lẫy "Kiều mộc thế thần". Giữa hai nhà to ấy, là cái nhà nhỏ của ông lang Tuấn, làm từ đời Lê , có nhiều câu đối cũ. Đó là cái nhà cũ nhất phố.
    Cả phố, chỉ có hai nhà gác, nhà số 82 của ông giáo Mễ , và nhà số 21 của ông Vạn Tường. Có những nhà rất nhỏ. Nhà số 6, nZm 1890 còn lợp lá.
    Thế đất, bên dẫy số lẻ, phía trong các nhà đều thấp: Vì đây là bờ Hồ Hàng Đào ngày xưa. Phố Hàng Bạc có Hồ Ngõ Miêu, thông với Hồ Hàng Đào rồi chảy vào Hồ Gươm, qua một con kênh, trên bắc cầu gỗ. Hồ Hàng Đào lắm cá, nên Gia Ngư thành chợ cá.
    Hai dãy phố Hàng Đào, từ xưa vẫn thắng và rộn như bây giờ. Khi đặt đường tàu điện người ta trồng hai hàng cột, 4 cây sắt thước thợ, có thang chằng lấy nhau.
    Có lẽ những dân Hàng Đào thứ nhất là người Đan Loan (Hải Dương), quê ông Phạm Đình Hổ. Sau này nghề nhuộm màu dọn sang phố Cầu Gỗ. Hàng Đào chuyển thành phố bán các hàng tấm: the, lượt, lụa, là, cấp, đũi, bZng, sa, xuyến, chồi. Lượt để chít khZn. The có nhiều thứ: the đơn, the kép (dầy), the La Cả ( mỏng nhất). Sa trong suốt, cũng có sa hoa. BZng như sa, có hoa gọn. Xuyến như sa, có cát nổi ngang. VZn nhân hay mặc sa đơn. Phố bán cả vóc, gấm, nhiễu, kỳ cầu, cố y, đoạn. Làng La dệt được gấm đẹp, nhiễu mua từ Bình Định. Đoạn, kỳ cầu, mua của khách thương Hàng Ngang Lãnh ( lĩnh) thâm rất thông dụng, may quần phụ nữ, dệt ở Bưởi và Trích Sài.
    Thường mua vải, phải đến phố Hàng Vải.
    Hàng Đào, dọn hàng thế này: ngoài hiên, có tấm màn viết hai chữ tên hiệu. Rồi từ một cái sào, rủ xuống những sợi dây lưng bằng dạ. Dưới là một lượt thạp chè cũ. Bên tường kê một cái tủ kính nhỏ bán các thứ khuy. Đó là khoang ngoài, ở đó, thường có một cô hay một bà ngồi để chào khách. Khách phần lớn ở nông thôn ra, nên thường cứ rụt rè . Trông thấy, mà mời ngay thì dễ vào Phần chính cửa hàng là phần ở trong cửa. Dựa vào tường có tủ kính to, bầy các tấm gấm vóc, phần lớn là ống tre bọc gấm, vóc, làm cho khách tối mắt. Trong cùng là hai cái bao, đựng hàng tấm. Bà chủ ngồi ở phần trong này.
    Có khách đi qua, là bà chào hàng hỏi: "Bà mua gì ? Bà vào đây?" rồi nhẹ tay, kéo cái "màn gió" buông xuống. Bà chủ mở bao, đưa hàng ra. Màn gió làm cho tấm hàng "tôn" lên. Các bà khách cũng không "sành! , chê ỏng chê eo . Bà chủ cất tấm này vào, mở tấm kia ra; có khi lại đưa tấm đã xem rồi. Nếu khách vẫn chê, thì cô ngồi "hàng" chạy sang nhà bên lấy tấm khác về. Được chiều chuộng thế, bà khách khó bỏ đi được. Bán được hàng của nhà thì "người ngồ i hàng" được chia một phần ba lãi. Bán được hàng lấy về thì được chia nửa lãi gọi là "Zn bẻo" . Các bà hay các cô "ngồi hàng" cũng Zn mặc đẹp, mấy ai phân biệt được. Các công tử nhấp nhỏm, các sinh viên "cao đẳng" chấp chới. Nhưng các cô Hàng Đào có những tiêu chuẩn khác, các cô "lõi đời", không dễ gì mà lấy được . M ột chàng "sinh viên", cưới "cô gái Hàng Đào", đến ngày "nhị hỷ", hóa ra chàng "giả cao đẳng", "thật lái xe", lấy được "cô ngồi hàng". Nhưng thật là xứng đôi, tốt đẹp lắm!
    "Nói thách" là cái bà con khiếp nhất, mua là hay "hớ". Thế nhưng nhiều nhà trong phố buôn bán có nguyên tắc. Một bà trả tiền, mấy bà hàng trả lại cho một đồng. Bà cụ bảo: "Kiếm được đồng tiền khó lắm. Hàng này chỉ đáng 2 đồng. Bà xem lại xem, hồ nhiều đấy ! Tôi trả bớt bà 1 đồng". Bà "ngồi hàng" bực lắm, nhà hàng ai lại làm thế ? Thế mà rồi bà ở lại làm đến 30 nZm vì các khách cũ cứ trở lại, gọi bà chủ là "mẹ", lại dắt nhiều người làng đến nữa.
    Hàng Đào có những cửa hàng bóng bẩy, mà lại là cái phố có nhiều nhà vZn học. Số 4, là nhà ông Cử Lương VZn Can ; các con ông, Lương Ngọc Quyến, Lươn Ngọc Nhiễm và hầu hết các học trò của ông đều là cách mạng. Ông cũng là Hiệu trưởng trường "Đông Kinh Nghĩa Thục" , mở ở nhà số 10.
    Cụ tuần Đồng Lạc, tuần phủ, nhưng trong phố chỉ biết cụ với cái tên hiệu là Vũ Thái Viên. Con cụ là tri huyện Hoành Bồ, cái huyện ấy có tiếng là "cả nZm chỉ có một mâm sò". Trong phố ai cũng biết là bà huyện làm Zn giỏi. Ai làm bánh, cũng đem đến nhờ bà làm. Một hôm đang nặn bánh, thấy bà vào nhà trong độ mộ giờ.'' Lúc bà ra, lại ngồi làm tiếp, mọi người khiếp đảm sao bụng bà bé hẳn đi thế? thì ra, bà đã ở cữ tắm cho con, đặt con, rồi ra làm tiếp. Sao lại có người khỏe như thế! câu chuyện, ai nghe cũng khiếp ; nhưng từ đó các "mợ" đi "vượt cạn" cũng đỡ õng ẹo nhiều.
    Trong số các bà Hàng Đào, có "bà đồ Cháo". Nói là Hàng Đào, mà thật ra bà chỉ ở dưới một cái mái vẩy ra, sau nhà cụ Lang Nhượng thôi. Sáng sáng, bà gáng gánh cháo đi khắp phố , rao "Ai cháo mua". Cháo hoa nửa xu. Cháo đường, một xu. Một xu hai nắm xôi ; thật là sạch sẽ . Bà đặt gánh ngoài cửa, ai cũng chào hỏi bà. Bà vừa múc cháo vừa đưa tin "Bà giáo Mễ đau nặng anh phác bị đội xếp đánh".'' Ai cũng quý cái tính trung hậu, minh bạch của bà, nói thẳng chả thớ lợ gì cả. Không sao tưởng được Hàng Đào mà lại không có "bà đồ Cháo". Ông đồ dạy dZm đứa trẻ trong phố. Đến khoa thi ất Mão, 1915, có tin con bà đồ đỗ "Tú tài". Làng quê bà cho đến ngày ấy, chưa có ai đỗ đạt cả. Dân làng đến mừng Ông "tân khoa". Lúc này bà đồ đã già, con dâu đi chợ thay. Hàng phố gọi là "mợ tú".
    Số 6, là cái nhà nhỏ của ông cử Lủ, người viết quyển "Việt sử tân ước" quyển sử đầu tiên nói đến Tây Sơn.
    Nhà số 21, là nhà một thầy đồ, ông Vạn Tường. Cái lạ là ông là nam giới, là thầy đồ mà lại buôn hàng tấm, trở nên giầu có. Sáng sáng ông vẫn đi lên gác tưới cây rồi xuống ngồi dạy học . Việc thích nhất của ông là "bốc thuốc". Người nghèo đến, ông xem bệnh, bồc thuốc cho không lấy tiền. Cuối nZm nào, cũng phải trả cho phố Phúc Kiến một món tiền lớn. Người nhà xót ruột, ai cũng bảo: "Cụ đi vắng!" . Nhưng ông cứ mở cửa to, gọi vào. Nhà ông sa sút dần, nhưng ông làm vẫn khỏe, sống đến 90 tuổi.
    Bà cả Mọc ở nhà số 25. Bà góa chồng khi 20 tuổi, không có con. Mỗi ngày từ quê ra Hàng Đào ngôi hàng để phụng dưỡng mẹ chồng, trông nom các em, các cháu. Cuối nZm 1929, con nuôi của bà là Hoàng VZn Tiếp, dự vào việc giết tên mộ phu Bazin, bị bắt. Nhà 25 của bà không ai dám qua lại nữa. Bà vẫn cố gắng làm Zn hàng nZm đi giúp bà con bị lụt, đói. Đến khi nhiều tuổi sau nZm 1930 bà rủ các bà, các cô bạn, cùng lập hội tế sinh, để nuôi trẻ nhà khó và người già không nơi nương tựa . Hội không nhận trợ cấp của chính quyền, chỉ bằng tiền góp mà xây ở ngõ Hàng Đũa (sau phố Sinh Từ, Nguyễn Khuyến) một trại trẻ rộng l000m2, mở lớp mẫu giáo đầu tiên, rồi xây dựng một trại dưỡng lão Nội Bài ( Phúc Yên).
    Khoảng 1906, ở một nhà bên số chẵn, có mấy ông bạn vZn hay đến chơi. Trong một phòng nhỏ, trên tường treo bức bản đồ Việt Nam bằng giấy bản, có các ông: đình nguyên Đào Nguyên Phổ, ông bảng Kiều Oánh Mậu, ông tuần Cẩn. Nhiều lần có cả ông Nguyễn Thượng Hiền hoàng giáp. Các ông gọi nhau là bạn đồng niên, gặp nhau hay bàn chuyện "thời sự", cho nhau những tin "hải ngoại". Mỗi ông một tính. Ông Phổ bồng bột, ông Mậu hay bàn cách cải lương, ông Cẩn cố chấp, ông Hiền ít nói, ông rút quyển thơ của chủ nhà ra, cầm bút son, chấm, chấm, khuyên. Có lúc hứng ông đề một bài, có câu:
    Giá rượu Hát Giang bao giờ hạ
    Để mời bạn đi một cuộc say...
    Chủ nhà họa, rồi lẩm nhẩm: "Ông này đi đây?"
    Ông Hiền đứng dậy, phe phẩy cái quạt lông, đi ra.
    Một lần các ông bàn về lối "lạy", cho là phải bỏ. Ông Tuần lại bênh là "quốc túy". Các ông viết lên báo ĐZng Cổ. Ít lâu sau, được tin vua Thành Thái "cấm lạy" các ông thích thú lắm.
    Phường Đại Lợi, nhà số 80 là nhà bà giáo Mễ. Ông giáo là một trong các thầy giáo "Tây" đầu tiên tiếng to lắm; thế mà bà lại đón cụ đồ Mỗ về ngồi ở nhà, dạy các con bà học chữ nho. Trường học cũ vẫn còn đượ quý lắm. Phố có ít ra là 5 trường: trường ông cử Can ông Hai Vạn Tường, ông đồ Cháo , ông đồ Mỗ, ông cử Đông Mẫu.
    Bên số lẻ, người ta đã mở hội Hợp Thiện.
    Một tháng 6 lần, ở Hàng Đào có phiên chợ hàng Tơ. Hàng Tơ là một chợ không có đất, không có lều. Cứ đến ngày một và ngày sáu, sau chợ Đơ một ngày, là các ông các bà thợ dệt La Cả, La Khê, làng Mỗ, đem the, lụa, cấp mộc ra Hàng Đào bán. Làng Bùng bán lượt, làng Bưởi bán lãnh. Bán rồi, vào các hàng tơ, cũng ở hàng Đào , mua tơ về dệt đợt sau. Đến trưa, các bà Đình Bảng, Phù Lưu (chợ Dầu), các bà Hàng Bông Thợ Nhuộm đem trả hàng nhuộm thâm và nhận các tấm hàng mới mà bà chủ Hàng Đào đã đánh dấu bằng mấy mũ khâu, đem về nhuộm. Các bà ở Bưởi và Cầu Gỗ đến trả và nhận hàng về "chuội" trắng hay nhuộm mầu. Ngày chợ hàng Tơ, Hàng Đào nhộn nhịp từ sáng đến tối. Hàng Đào là phố hào hoa nhất kinh kỳ. Thế mà tiếng súng kháng chiến nổ, là các kỹ sư tây học về, các thanh niên, các công tử vào bộ đội tuốt tuột. Ai cũng nhớ chú Hột, cháu cụ lang Nhượng, bé thì quấy thế, mà chú đã trở thành giáo sư, anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa !
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  6. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    VÀ SAU ĐÂY XIN MỜI CÁC BÁC ĐỌC MỘT LOẠT BÀI VỀ CÁC PHỐ CỔ HÀ NỘI

    PHỐ HÀNG ĐÀO
    [pre] Hàng Đào là hàng nhuộm màu đỏ. Ở Trường Yên thành Hoa Lư xưa, bây giờ người ta còn trỏ một chỗ là Hàng Đào. Thì ra Hàng Đào là cái phố đặc trưng của kinh đô. Thế thật, ở Hàng Đào, cửa hàng san sát tủ kính bóng bảy, các cô ngồi hàng lịch sự.
    Thế mà, dân phố lớn này lại đều có gốc tích ở tứ tuyên. Toàn là người quê : Nhị Khê, Tây Tựu, Kim Lũ, Đông Mẫu, Bình Hồ, Đông Cảo, Đông Ngạc, Đan Loan, v.v...
    Từ bờ Bắc Hồ Gươm, chỗ Bãi Dừa, nay là "Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục" trở lên là Hàng Đào. ở chỗ này, sau khi hạ thành Hà Nội, Jean Dupuis và Puginier đã đem ông cử Tạ VZn Đình ra chém. Rồi sau đấy, kinh lược Bắc Kỳ, nZm 1887, cũng lôi ông thủ khoa Nguyễn Cao ra hành hình.
    Từ phía cuối lên giữa phố, là phường Đại Lợi. Đình của phường ở nhà số 47. Nhà này, nZm 1917 mở ra cửa hàng bán tạp hóa đầu tiên. Còn một đình nữa ở số 5 Gia Ngư. Bên phía tây, số chẵn, bắt đầu bằng cái nhà nhỏ hai tầng, chỗ ở của "phu điếm". Đoạn phố trên là phường Đồng Lạc, đình số 38. Dưới đình một nhà là dinh cơ của cụ tuần Đồ ng Lạc. Trên đình, có dinh cơ của cụ thượng Bình Hồ, trên cửa treo một bức hoàn lộng lẫy "Kiều mộc thế thần". Giữa hai nhà to ấy, là cái nhà nhỏ của ông lang Tuấn, làm từ đời Lê , có nhiều câu đối cũ. Đó là cái nhà cũ nhất phố.
    Cả phố, chỉ có hai nhà gác, nhà số 82 của ông giáo Mễ , và nhà số 21 của ông Vạn Tường. Có những nhà rất nhỏ. Nhà số 6, nZm 1890 còn lợp lá.
    Thế đất, bên dẫy số lẻ, phía trong các nhà đều thấp: Vì đây là bờ Hồ Hàng Đào ngày xưa. Phố Hàng Bạc có Hồ Ngõ Miêu, thông với Hồ Hàng Đào rồi chảy vào Hồ Gươm, qua một con kênh, trên bắc cầu gỗ. Hồ Hàng Đào lắm cá, nên Gia Ngư thành chợ cá.
    Hai dãy phố Hàng Đào, từ xưa vẫn thắng và rộn như bây giờ. Khi đặt đường tàu điện người ta trồng hai hàng cột, 4 cây sắt thước thợ, có thang chằng lấy nhau.
    Có lẽ những dân Hàng Đào thứ nhất là người Đan Loan (Hải Dương), quê ông Phạm Đình Hổ. Sau này nghề nhuộm màu dọn sang phố Cầu Gỗ. Hàng Đào chuyển thành phố bán các hàng tấm: the, lượt, lụa, là, cấp, đũi, bZng, sa, xuyến, chồi. Lượt để chít khZn. The có nhiều thứ: the đơn, the kép (dầy), the La Cả ( mỏng nhất). Sa trong suốt, cũng có sa hoa. BZng như sa, có hoa gọn. Xuyến như sa, có cát nổi ngang. VZn nhân hay mặc sa đơn. Phố bán cả vóc, gấm, nhiễu, kỳ cầu, cố y, đoạn. Làng La dệt được gấm đẹp, nhiễu mua từ Bình Định. Đoạn, kỳ cầu, mua của khách thương Hàng Ngang Lãnh ( lĩnh) thâm rất thông dụng, may quần phụ nữ, dệt ở Bưởi và Trích Sài.
    Thường mua vải, phải đến phố Hàng Vải.
    Hàng Đào, dọn hàng thế này: ngoài hiên, có tấm màn viết hai chữ tên hiệu. Rồi từ một cái sào, rủ xuống những sợi dây lưng bằng dạ. Dưới là một lượt thạp chè cũ. Bên tường kê một cái tủ kính nhỏ bán các thứ khuy. Đó là khoang ngoài, ở đó, thường có một cô hay một bà ngồi để chào khách. Khách phần lớn ở nông thôn ra, nên thường cứ rụt rè . Trông thấy, mà mời ngay thì dễ vào Phần chính cửa hàng là phần ở trong cửa. Dựa vào tường có tủ kính to, bầy các tấm gấm vóc, phần lớn là ống tre bọc gấm, vóc, làm cho khách tối mắt. Trong cùng là hai cái bao, đựng hàng tấm. Bà chủ ngồi ở phần trong này.
    Có khách đi qua, là bà chào hàng hỏi: "Bà mua gì ? Bà vào đây?" rồi nhẹ tay, kéo cái "màn gió" buông xuống. Bà chủ mở bao, đưa hàng ra. Màn gió làm cho tấm hàng "tôn" lên. Các bà khách cũng không "sành! , chê ỏng chê eo . Bà chủ cất tấm này vào, mở tấm kia ra; có khi lại đưa tấm đã xem rồi. Nếu khách vẫn chê, thì cô ngồi "hàng" chạy sang nhà bên lấy tấm khác về. Được chiều chuộng thế, bà khách khó bỏ đi được. Bán được hàng của nhà thì "người ngồ i hàng" được chia một phần ba lãi. Bán được hàng lấy về thì được chia nửa lãi gọi là "Zn bẻo" . Các bà hay các cô "ngồi hàng" cũng Zn mặc đẹp, mấy ai phân biệt được. Các công tử nhấp nhỏm, các sinh viên "cao đẳng" chấp chới. Nhưng các cô Hàng Đào có những tiêu chuẩn khác, các cô "lõi đời", không dễ gì mà lấy được . M ột chàng "sinh viên", cưới "cô gái Hàng Đào", đến ngày "nhị hỷ", hóa ra chàng "giả cao đẳng", "thật lái xe", lấy được "cô ngồi hàng". Nhưng thật là xứng đôi, tốt đẹp lắm!
    "Nói thách" là cái bà con khiếp nhất, mua là hay "hớ". Thế nhưng nhiều nhà trong phố buôn bán có nguyên tắc. Một bà trả tiền, mấy bà hàng trả lại cho một đồng. Bà cụ bảo: "Kiếm được đồng tiền khó lắm. Hàng này chỉ đáng 2 đồng. Bà xem lại xem, hồ nhiều đấy ! Tôi trả bớt bà 1 đồng". Bà "ngồi hàng" bực lắm, nhà hàng ai lại làm thế ? Thế mà rồi bà ở lại làm đến 30 nZm vì các khách cũ cứ trở lại, gọi bà chủ là "mẹ", lại dắt nhiều người làng đến nữa.
    Hàng Đào có những cửa hàng bóng bẩy, mà lại là cái phố có nhiều nhà vZn học. Số 4, là nhà ông Cử Lương VZn Can ; các con ông, Lương Ngọc Quyến, Lươn Ngọc Nhiễm và hầu hết các học trò của ông đều là cách mạng. Ông cũng là Hiệu trưởng trường "Đông Kinh Nghĩa Thục" , mở ở nhà số 10.
    Cụ tuần Đồng Lạc, tuần phủ, nhưng trong phố chỉ biết cụ với cái tên hiệu là Vũ Thái Viên. Con cụ là tri huyện Hoành Bồ, cái huyện ấy có tiếng là "cả nZm chỉ có một mâm sò". Trong phố ai cũng biết là bà huyện làm Zn giỏi. Ai làm bánh, cũng đem đến nhờ bà làm. Một hôm đang nặn bánh, thấy bà vào nhà trong độ mộ giờ.'' Lúc bà ra, lại ngồi làm tiếp, mọi người khiếp đảm sao bụng bà bé hẳn đi thế? thì ra, bà đã ở cữ tắm cho con, đặt con, rồi ra làm tiếp. Sao lại có người khỏe như thế! câu chuyện, ai nghe cũng khiếp ; nhưng từ đó các "mợ" đi "vượt cạn" cũng đỡ õng ẹo nhiều.
    Trong số các bà Hàng Đào, có "bà đồ Cháo". Nói là Hàng Đào, mà thật ra bà chỉ ở dưới một cái mái vẩy ra, sau nhà cụ Lang Nhượng thôi. Sáng sáng, bà gáng gánh cháo đi khắp phố , rao "Ai cháo mua". Cháo hoa nửa xu. Cháo đường, một xu. Một xu hai nắm xôi ; thật là sạch sẽ . Bà đặt gánh ngoài cửa, ai cũng chào hỏi bà. Bà vừa múc cháo vừa đưa tin "Bà giáo Mễ đau nặng anh phác bị đội xếp đánh".'' Ai cũng quý cái tính trung hậu, minh bạch của bà, nói thẳng chả thớ lợ gì cả. Không sao tưởng được Hàng Đào mà lại không có "bà đồ Cháo". Ông đồ dạy dZm đứa trẻ trong phố. Đến khoa thi ất Mão, 1915, có tin con bà đồ đỗ "Tú tài". Làng quê bà cho đến ngày ấy, chưa có ai đỗ đạt cả. Dân làng đến mừng Ông "tân khoa". Lúc này bà đồ đã già, con dâu đi chợ thay. Hàng phố gọi là "mợ tú".
    Số 6, là cái nhà nhỏ của ông cử Lủ, người viết quyển "Việt sử tân ước" quyển sử đầu tiên nói đến Tây Sơn.
    Nhà số 21, là nhà một thầy đồ, ông Vạn Tường. Cái lạ là ông là nam giới, là thầy đồ mà lại buôn hàng tấm, trở nên giầu có. Sáng sáng ông vẫn đi lên gác tưới cây rồi xuống ngồi dạy học . Việc thích nhất của ông là "bốc thuốc". Người nghèo đến, ông xem bệnh, bồc thuốc cho không lấy tiền. Cuối nZm nào, cũng phải trả cho phố Phúc Kiến một món tiền lớn. Người nhà xót ruột, ai cũng bảo: "Cụ đi vắng!" . Nhưng ông cứ mở cửa to, gọi vào. Nhà ông sa sút dần, nhưng ông làm vẫn khỏe, sống đến 90 tuổi.
    Bà cả Mọc ở nhà số 25. Bà góa chồng khi 20 tuổi, không có con. Mỗi ngày từ quê ra Hàng Đào ngôi hàng để phụng dưỡng mẹ chồng, trông nom các em, các cháu. Cuối nZm 1929, con nuôi của bà là Hoàng VZn Tiếp, dự vào việc giết tên mộ phu Bazin, bị bắt. Nhà 25 của bà không ai dám qua lại nữa. Bà vẫn cố gắng làm Zn hàng nZm đi giúp bà con bị lụt, đói. Đến khi nhiều tuổi sau nZm 1930 bà rủ các bà, các cô bạn, cùng lập hội tế sinh, để nuôi trẻ nhà khó và người già không nơi nương tựa . Hội không nhận trợ cấp của chính quyền, chỉ bằng tiền góp mà xây ở ngõ Hàng Đũa (sau phố Sinh Từ, Nguyễn Khuyến) một trại trẻ rộng l000m2, mở lớp mẫu giáo đầu tiên, rồi xây dựng một trại dưỡng lão Nội Bài ( Phúc Yên).
    Khoảng 1906, ở một nhà bên số chẵn, có mấy ông bạn vZn hay đến chơi. Trong một phòng nhỏ, trên tường treo bức bản đồ Việt Nam bằng giấy bản, có các ông: đình nguyên Đào Nguyên Phổ, ông bảng Kiều Oánh Mậu, ông tuần Cẩn. Nhiều lần có cả ông Nguyễn Thượng Hiền hoàng giáp. Các ông gọi nhau là bạn đồng niên, gặp nhau hay bàn chuyện "thời sự", cho nhau những tin "hải ngoại". Mỗi ông một tính. Ông Phổ bồng bột, ông Mậu hay bàn cách cải lương, ông Cẩn cố chấp, ông Hiền ít nói, ông rút quyển thơ của chủ nhà ra, cầm bút son, chấm, chấm, khuyên. Có lúc hứng ông đề một bài, có câu:
    Giá rượu Hát Giang bao giờ hạ
    Để mời bạn đi một cuộc say...
    Chủ nhà họa, rồi lẩm nhẩm: "Ông này đi đây?"
    Ông Hiền đứng dậy, phe phẩy cái quạt lông, đi ra.
    Một lần các ông bàn về lối "lạy", cho là phải bỏ. Ông Tuần lại bênh là "quốc túy". Các ông viết lên báo ĐZng Cổ. Ít lâu sau, được tin vua Thành Thái "cấm lạy" các ông thích thú lắm.
    Phường Đại Lợi, nhà số 80 là nhà bà giáo Mễ. Ông giáo là một trong các thầy giáo "Tây" đầu tiên tiếng to lắm; thế mà bà lại đón cụ đồ Mỗ về ngồi ở nhà, dạy các con bà học chữ nho. Trường học cũ vẫn còn đượ quý lắm. Phố có ít ra là 5 trường: trường ông cử Can ông Hai Vạn Tường, ông đồ Cháo , ông đồ Mỗ, ông cử Đông Mẫu.
    Bên số lẻ, người ta đã mở hội Hợp Thiện.
    Một tháng 6 lần, ở Hàng Đào có phiên chợ hàng Tơ. Hàng Tơ là một chợ không có đất, không có lều. Cứ đến ngày một và ngày sáu, sau chợ Đơ một ngày, là các ông các bà thợ dệt La Cả, La Khê, làng Mỗ, đem the, lụa, cấp mộc ra Hàng Đào bán. Làng Bùng bán lượt, làng Bưởi bán lãnh. Bán rồi, vào các hàng tơ, cũng ở hàng Đào , mua tơ về dệt đợt sau. Đến trưa, các bà Đình Bảng, Phù Lưu (chợ Dầu), các bà Hàng Bông Thợ Nhuộm đem trả hàng nhuộm thâm và nhận các tấm hàng mới mà bà chủ Hàng Đào đã đánh dấu bằng mấy mũ khâu, đem về nhuộm. Các bà ở Bưởi và Cầu Gỗ đến trả và nhận hàng về "chuội" trắng hay nhuộm mầu. Ngày chợ hàng Tơ, Hàng Đào nhộn nhịp từ sáng đến tối. Hàng Đào là phố hào hoa nhất kinh kỳ. Thế mà tiếng súng kháng chiến nổ, là các kỹ sư tây học về, các thanh niên, các công tử vào bộ đội tuốt tuột. Ai cũng nhớ chú Hột, cháu cụ lang Nhượng, bé thì quấy thế, mà chú đã trở thành giáo sư, anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  7. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

    PHỐ HÀNG BÈ
    Vẫn còn gặp ít ỏi dZm ba cái cột trụ trên nóc đầu hồi, cùng khuôn cửa sổ tí tẹo của cZn gác chồng diêm kiểu chuồng chim từ thế kỷ trước còn lại như hồi âm của thời gian qua lớp ngói ta đã mốc thểch những thử thách của thZng trầm. Hàng Bè phố cổ, Hàng Bè phố ngắn, Hàng Bè lao động, mà một trong những ngôi nhà kia còn dòng chữ trên "mi" nhà đắp con số 19 6, chữ số l đầu tiên đã long mất nửa (nhà 6 l) , nó nằm cạnh ngôi nhà kiểu cũ của ông Giảng, người có hàng phở và cà phê nổi tiếng bên phố Cầu Gỗ (số 88) đem tiền lãi phở về mua nhà bên phố này.
    Không hiểu sao mỗi lần qua Hàng Bè, tôi lại nhớ đến câu chuyện kể có cô gái nào đó đanh đá chua ngoa, tự đánh mất chất thanh lịch đôn hậu của mình bằng thái độ cong cớn với mấy anh học trò kinh thành, mà một đêm ba mươi Tết, khi cô nghe tiếng gõ, ra mở cửa thì có mấy người khênh cỗ quan tài sơn đỏ vào nhà, nói là ở đây vừa có người mới chết, phầi chôn chạy Tết, và người mua đã trả tiền rồi . . . Cô ngất xỉu. Riêng ông thân sinh cô hiểu ra ngay. Đích thị là Ba Giai, Tú Xuất đây, trả thù trận cãi nhau ban sáng, mà lỗi do con gái ông, thái đ ộ quá hỗn hào, và cũng là để nhắc ông cách dạy con cái trong nhà, cần noi gương hiền thục của cô gái bên Hàng Bạc , Hàn Bông... Chứ quan tài thì thiếu gì, Hàng Sũ (hay Lò Sũ) gần kia. Tiếng để đời chứ đâu phải trò chơi, dù Ba Giai, Tú Xuất có qúa tay chút ít nhưng cũng lưu lại trong bia miệng về đường Zn nết ở của người Hà Nội một thời chưa xa lắm.
    Cũng hình như tiếng trống múa lân đêm trung thu, tiếng xúc xắc xúc xẻ đêm giao thừa vẫn còn vang đâu đây trên một đoạn phố ngắn này khi hai bên hàng phố, nhà thấp, thò ra thụt và nhấp nhô, còn mái thì cao thấp như hình lưỡi cưa cưa vào nền trời những đêm trZng sáng. Hàng Bè là phố làm Zn, phố của người buôn bán nhỏ, người lao động khi nền vZn minh phương Tây chưa có chỗ đứng vững vàng trong lòng người vừa bị mất kinh thành.
    Nhà báo lão thành Trịnh My, một phóng viên thể thao có cỡ còn đang ở phố này, hẳn thấm sâ hồn phố quê hương vào mình chZng? Nếu một thời, phố Cầu Gỗ có bà Lang Huế nổi tiểng với các môn thuốc đông y thì gần nhà bác Trịnh My, chỗ cũng gần ngôi đình cổ, cZn nhà nhô hẳn ra đường, giầm chân lấn mất vỉa hè và cống thoá nước, là nhà bố n mươi, nZm mươi. Tên thực bà là gì'' ít ai biết, còn ít người biết hơn cái biệt danh Mụ Béo bán giải khát, nhưng thực là bà Tộ, Tộ Béo. Chỉ nhớ, trên nhãn thuốc, có dòng chữ in hẳn hoi "Bà Lang Trọc", và từ đó đã phát sinh ra một thành ngữ, một tiếng lóng tồn tại mấy chục nZm của cả một vùng rộng lớn ngoài Hà Nội, khi muốn nói thứ gì đó là thứ tốt, thứ thật: "Đích thị bà Lang Trọc".
    Số nhà 29 là đình Ngũ Hầu, thờ một vị tướng đời Thục Phán. Ngũ Hầu nguyên là tên một vạn chài ngoài sông Hồng, khi sông đổi dòng, lùi xa, con đê trên lòng phố Nguyễn Hữu Huân nay cũng lùi xa như bây giờ, đình của vạn chài ấy được chuyển về đây, mà trong kháng chiến chống pháp đình đã bị huỷ diệt.
    Cũng như tưởng thấy có một phố Hàng Bè tấp nập bến sông, bè mảng dập dềnh, đổ lên bến những tre nứa để làm lều lán, những bó lá gồ mới hơi tai tái, những sọt củ nâu trên rừng xuôi về, những ống dang để chẻ lạt bánh chưng, những bó lá dong xanh óng từ Tuyên Quang, Hà Giang Thái Nguyên. . . cho người Hà Nội có tấm bánh chưng xanh óng ả, thơm đến kỳ diệu... H àng Bè hết bến, lại buôn cau. Những sọt cau khổ ng lồ từ khắp các địa phương chuyển về đây, cùng vỏ chay, vỏ quạch, trầu không. . . cho môi Hà Nội thắm hồng cắn chỉ. Hàng Bè vì thế mà có tên Hàng Cau. Số nhà 15 từng là của gia đình nhà vZn Nhất Linh, một nhà buôn cau khá phát đạt một thời .
    Có lẽ trong thế kỷ trước, trong cơn giận dữ của thần hỏa, thiêu trụi một lúc hàng trZm nóc nhà tre lá, Hàng Bè được xây dựng lại, dựa và con đường đất hẹp , nên nhà thò ra thụt vào khấp khểnh như thế, và tuổi các ngôi nhà cũng chỉ trên dưới trZm nZm, mà nay ta đi qua, còn thấy ngói cổ, đầu trụ, mái thấp lè tè, tường long vữa lở, trơ ra màu gạch Bát Tràng chịu đựng nắng mưa.
    Không hiểu những người thợ mộc chuyên ghép gỗ , trám sơn làm thứ thùng gỗ trụ tròn để đựng nước mắm, gánh nước, chậu giặt, trú ngụ bên phố Hàng Thùng... những người ủ tương cho nhà Cự Đà bên phố Nguyễn Hữu Huân. . . những người thợ đục cối đá xay đỗ , xay bột, chạm bia đá bên Hàng Mắm... những người thợ trong ngõ Phất Lộc... có sang phố Hàng Bè này Zn bát tiết canh giải nhiệt có ngọn húng quế hình con mắt, Zn bát cháo lòng nóng rẫy, vào chợ Hàng Bè (chỗ ngã ba) mua chiếc bấc đèn, vuông vải mộ c, bưng lên bát bún bung dọc mùng vàng ươm... không nhỉ ?
    Cho đến nZm 1939 còn có mấy nhà vZn nghèo (đương nhiên là nghèo nhưng vẫn sang) sau một đêm chôn cất cái sầu mất bạn bên Gia Quất trong xó m cô đầu, dắt nhau đi bộ qua cầu Sông Cái trở về, tinh mơ đến Hàng Bè, Zn vội bát cháo chay, vì không đủ tiền Zn thêm món lòng dồi hay tràng, rồi kéo nhau xuống Ngã Tư Sở để kịp đưa ma Vũ Trọng Phụng, cả những con ma sống và ma chết ấy đã làm rạng danh Hà Nội .
    Cho đến những nZm nZm mươi, Hàng Bè vẫn khấp khểnh nhấp nhô, và mươi nZm gần đây mới có thêm chút màu xanh cây lá, loài dâu da xoan thứ cây dễ trồ ng, dễ mọc, cắm cành cũng sống, thoang thoảng hương hoa dân dã, quả cho trẻ nhỏ Zn vui, làm phố thêm phần dịu bớt trưa hè che mát cho cô gái nào ngồi xuống Zn quà bún chả chồ đình xưa, hoặc ghé xe chọn mua cái xúc bánh phở bằng tre, cái rổ, bó đũa tre, đôi đũa cả gần đấy... DZm nZm lại đây, Hàng Bè đã rùng mình, không hiểu vui hay buồn, khi đã có nhà nZm, bảy tầng, thành khách sạn, nhà hàng, quán Zn, phòng trọ có chữ Tây chữ Mỹ...
    Ngồi trong quán cà phê đầu Hàng Mắm giáp Hàng Bạc, có thể nhìn xuyên suốt Hàng Bè đến chỗ bán giày dép hàng triệu đôi nơi phố Hàng Dầu ở đầu phố bên kia.
    Hàng Bè còn giữ được ngôi nhà to (số 42) là nhà thầu khoán Trương VZn Vọng, xây khoảng nZm 1930, nay đã biến dạng nhiều, thành một trường tiểu học Bắc Sơn. Khoảng 1940 có nhà làm món bánh gai ngon nổi tiếng (Đan Quế, số 24) cũng xây được nhà khang trang. NZm 1950, số 16 là trường tư thục Nguyễn Huệ (trước khi trường dọn ra Bờ Sông) của anh em nhà giáo Bù Hữu Sủng, Bùi Hữu Đột, những thầy giáo giỏi thời ấy. Ngôi nhà này sau thành đại lý bán nước đá cây thời cả Hà Nội thiếu nước đá trầm trọng, ít nhà có tủ lạnh, tư nhân thì không ai có quyền sản xuất nước đá vì sợ "tốn điện" và lãng phí.( . )
    Hàng Bè có một nhân vật, có lẽ đáng nói kỹ hơn chút ít: Bác sĩ Nguyễn Hữu Thuyết, lớp bác sĩ đầu tiên của trường thuốc Đông Dương, người thầy thuốc có mặt trong những đêm đầu kháng chiến, trong Liên khu Một. Ông Thuyết sinh nZ 1912 và mất gần đây (12- 12- 1995) . Là mộ t người yêu nước, có tấm lò ng nhân hậu, thương yêu những ai nghèo khó. Một lần ở Quảng Ninh, có thợ lò bị tai nạn vỡ lá lách, chủ Tây yêu cầu ông Thuyết ghi vào bệnh án là "chết tự nhiên". Ông đã ghi: "Chết vì tai nạn lao động" . Ông bị đổi đi luô n. Khi ở Vinh, ông phát thuốc cho người bị tình nghi theo dõi là Cách mạng, ông bị đuổi hẳn. Về Hà Nội, ông mở phòng khám bệnh tư phố Hàng Bè (số 48) và chính ông là người xây ngôi nhà to rộng số l0 phố này, còn đến ngày nay. Ông từng là thầy giáo trường ThZng Long trải qua nhiều chức vụ, nhưng đáng nói hơn hết là ông từng có mặt trong Liên khu Một, trong đội Quyết tử, từng chữa chạy cho thương binh, vệ quốc đoàn sao tròn, tự vệ sao vuông, từ Hàng Buồm đến ngõ Phất Lộc, luồn từ nhà nọ sang nhà kia qua những ô cửa đục thông tường. Ông cụ là một trong những chiến sĩ sau 60 ngày chiến đấu đã rút ra qua gầm cầu Long Biên, theo kháng chiến suốt 9 nZm, làm nhiều việc hữu ích giữ nhiều chức vụ, và như nhà thơ Hoài Anh viết "Chín nZm rừng lòng vẫn Thủ đô...". Sau hòa bình, ông trở về Hà Nội, vẫn theo nghề thầy thuố c, kết hợp đông tây y, đã công bố hàng chục công trình nghiên cứu khoa học, và tận tụy cứu nhân độ thế đến cuối đời mình không mệt mỏi. Bà Thuyết hiện vẫn còn, không ở Hàng Bè nữa mà ở với người con trai thứ ba của ông bà ở số 24 Bà Triệu. Nhưng cuộc đời bác sĩ Thuyết, từ nhỏ đến lớn, sự nghiệp và công sức của ông, phần lớn đều gắn với phố Hàng Bè nhỏ hẹp ấy, nhữn kỷ niệm đẹp đẽ một thời, đúng như một nhà vZn nói: "Chỉ những ai sống cao thượng, có ích cho nhân dân mới sống mãi trong lòng người".
    Phố Hàng Bè chỉ dài l72 mét, nói cách khá chỉ ba quãng cột đèn. Những tên thôn,tên làng tên huyện xa xưa, ít ai còn nhớ, đã có các nhà nghiên cứu ghi nó vào vZn bản tàng lưu. Còn với người Hà Nội hôm nay, Hàng Bè là một phố mang dáng dấp chút xưa cũ êm đềm, chút gần gũi cận đại đan xen, cùng với cái quá mới, vừa nhảy vào những nhôm kính cao tầng... Phải chấp nhận thôi, như cả Hà Nội đang trong đà đổi mới, có cái hay mà cũng có cái chưa hay, giống như ngay sát Hồ Gươm linh thiêng mà người ta còn bán đất cho người ngoại quốc xây nhà cao tầng thì trách gì một Hàng Bè nhỏ bé, lọt thỏm vào ngoài vòng khuất nẻo.
    Hàng Bè vẫn còn cái tên, nhắc lại một thuở nào. Còn người dân, những ai gốc gác Hàng Bè sinh ra, lớn lên, gây dựng cơ nghiệp, sự nghiệp tạo ra bộ mặt phố mình... hắn còn ít lắm, có thể đã lang bạt đến những nơi nào, khó mà xác định.
    Sinh hoạt của Hàng Bè cũng đã khác xưa nhiều lắm. Không còn ai b uôn bán cau tươi, cau khô trầu vỏ . Không còn thấy tre nứa hay lá gồi kể cả tầu lá gồi còn cọng có thể làm quạt hay làm chổi đều được. Hàng Bè là một phố buôn bán nhỏ. Thợ may, quần áo mốt mới mốt cũ hàng may sẵn, hàng bún chả , người bán vé xổ số, hàng nan mây tre đan, hiệu cắt tóc, có nhà buôn đồ gốm sứ cả chậu hoa bình hương. Thêm mấy buôn chỉ có chiếc mẹt, chiếc khay, buô n mấy bánh xà phòng, dZm chiếc khZn bông, hộp kem rZng, ít chun, cùng những thứ linh tinh khác, ngồi cạnh đấy là bà bán vàng hương, những hương trầm, hương vòng, hương muỗi, cả tiền đô la âm phủ do ngân hàng địa phủ phát hành nZm 96 ...
    Hàng Bè không giàu như Hàng Đào, không sang bằng Hàng Gai, không nhiều di tích lịch sử như Hàng Bông hoặc nhiều phố khác, không dài rộng như Đinh Tiên Hoàng, Quán Thánh... mà chỉ là một gương mặt trung lưu, nếu không nói là có phần ngả sang lam lũ chút ít.
    Hàng ngày, Hàng Bè đang tấp nập, vì giữa phố, chỗ ngã ba với phố Gia Ngư có một cái chợ, Chợ Hàng Bè. Gọi thế do thói quen, thực ra nó nằm gọn trong lòng phố Gia Ngư suốt từ đầu này giáp với Hàng Bè sang đầu kia, gặp ngõ Hàng Đào. Đầu tiên, mấy chục nZm trước, nó chỉ là cái chợ xanh, chợ cóc, lâu dần hóa ra cái chợ thực thụ, có cầu có quán mà dây dợ, bao tải, vải mưa , vả nhựa che chắn bịt bùng, cùng rác thải, lầy lội cứ mỗi ngày thêm nhiều lên mãi, tất cả những điều đó đang tái diễn ở nhiều chợ xanh khác, có nguy cơ biến thành chợ chính thống, một đặc điểm của Hà Nội còn nhiều chất tùy tiện nông dân, cốt tiện cho mình, không cần bất tiện cho ai .
    Chị hàng rong gánh một bên ít rau, một bên là chiếc bu gà, những con gà được nhồi bánh đúc đến nứt cả diều... Chị hàng hoa cứ đứng giữa đường mà mời khách... cô hàng hồng xiêm, bà bán rau bí đã tước sẵn để trong túi ny lô ng... hầu như lòng đường không còn chỗ cho xe cộ. Hàng Bè mang vẻ hệt như một đường phố của thị trấn. Đáng buồn hơn là niềm vui.
    Phố cổ đang tự lột xác hay người ta lột xác nó? Không dám kết luận, bởi vì qui chế đề ra không thành luật pháp. Người dân thì coi nhà là sở hữu, muốn làm gì thì làm, quyền tối thượng ở mình, gia đình mình, chứ không thể là ai khác... Vì thế, mà Hàng Bè cũng như bao phố cổ khác đang đứng trước một nguy cơ bị đổi thay diện mạo hoàn toàn, chưa có cách cứu chữa .
    Có lẽ chỉ riêng những cây dâu da xoan đang độ lớn là vô tư, cứ thả thứ hương thanh thanh thoang thoảng vào đường phố, ru thời gian và êm đềm, xòe tán lá xanh non cho đường xưa mát mẻ ...
    NZm nZm nữa, sang thế kỷ mới. Hàng Bè sẽ ra sao, chưa biết.
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  8. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

    PHỐ DỐC
    Sông Lô gắn liền với VZn Cao. Sông Thao là dòng sông Đỗ Nhuận và sông Đuống chảy nghiêng với Hoàng Cầm: Sông làm ngừơi nổi tiếng hay người cho sông bất tử? Hà Nội có những cái tên phố trở thành không thể phai mờ trong lòng người. Nhờ một vài nhà sản xuất, làm ra một thứ sản phẩm nào đó, khiến cái tên phố ấy thành nỗi nhớ, thành kỷ niệm, thành đặc biệt hàng trZm nZm. Chẳng hạn bánh giò Đờ MZng (phố Phùng Hưng), cà phê bít tất nhà máy Nước Đá, cà phê Nhân; cà phê Giảng phố Cầu Gỗ, phố Hàng Sơn thành phố Chả Cá...
    Thị trấn Ninh Giang nổi tiểng nhờ bánh gai. Thị xã Hải Dương ai cũng biết nhờ bánh đậu xanh của bà Bảo Hiên, nhãn con Rồ ng Vàng, mà đến nay, có đến hơn bốn chục hãng làm bánh đậu xanh đều lấy nhãn là Rồng Vàng, không còn phân biệt nổi mới kỳ mới lạ.
    Phố Hàng Than, nổi tiếng nhờ bánh cốm. Những Nguyên Ninh, An Ninh, Khang Ninh... làm cho Hà Nội bay đi khắp nước bằng đôi cánh hình hộp vuông, xanh rờn màu lá chuối tươi điể m sợi lạt chứ thập màu cánh sen tình tứ, còn ruột nó thì vàng tươi màu đậu xanh, trắng muố t sợi dừa nạo, bở tơi nhân hạt sen, nhất là sắc cốm, dù là cốm Vòng hay cốm Lủ còn đượm hương đồng gió nội, chứa cả mùa thu bát ngát, mang hạt sữa lúa nếp non mềm dẻo đầy khêu gợi...
    Hàng Than, một phố cổ Hà Nội, đã tồn tại bao đời, từ khi con sông Cái, Nhị Hà còn chảy sát chân đê Yên Hoa, rồi Yên Phụ, có những con thuyền bắc, mành nam đỗ bến, đổ lên bờ những thúng, những sọt than hoa, than tàu còn in thớ gỗ hoàn nguyên có tia nứt như ánh mặt trời đen óng, để cho bà mệ nh phụ, cô tiểu thư sưởi chân bằng chiếc ***g ấp chậu than hoa đượm lửa hồng liu riu dưới gậm giường, cho những hàng bún chả thả khói lam đầy mê hoặc và o đầu gió, cho những hàng ngô nướng bập bùng ấm áp đêm đông..., và trước đó khá xa là những "cấp thiêu" lập lòe sáng sớm trong bữa trà danh sĩ ThZng Lo ng....
    Hàng Than, bến Đông Bộ Đầ u lịch sử. Dấu vết rất rõ là một đầu phố nối với đê Yên Phụ mộ t cái dốc đổ dài gần trZm thước tây, thoa thoải như sườn đồi, dông dốc như triền đê sông Cái.
    Nhà sử học kể rằng đầu phố từng là phườn Giang Tân (phường Bến sông), rồi Hà Tân, rồi Thạch Khối, có nghĩa là bến sông lớn, và Đá khối, bởi thời ấy, bến này có nghề nung vôi, vôi để Xây dựng phố phường, trộn với mật chứ chưa có xi mZng, và vôi để Zn trầu. Giữa phố thuộc phường Hòe Nhai, con đường phía đông kinh thành trồng những hàng cây hoa hòe vàng rực, đối lại với phía tây trồng Liễu gọi là Liễu Nhai, nay là Liêu Giai. Theo tích xưa: Đông Hòe Tây Liễu, Hòe Nhai còn một ngôi chùa, và Liễu Giai gần đây cũng đã trở thành một phố. C hùa Hòe khá đồ sộ, đẹp, bề thế, nhiều người biết tiếng. Tên cũ của chùa là Hồng phúc Tự. Phía sau phố Hàng Than vẫn còn một phố nhỏ mang tên Hồng Phúc Tự. Phía sau phố Hàng Than vẫn còn một phố nhỏ mang tên phố Hồng Phúc, nhà thơ Trúc Thông đang ở đấy. Chùa Hòe Nhai còn tấm bia dựng nZm 1703 do tiến sĩ Hà Tông Mục soạn, ghi rõ Chùa thuộc phường Hòe Nhai ở Đông B ộ Đầu. Nhờ đó mà người hậu sinh chúng ta mới có cơ sở để khẳng định một địa danh lịch sử: Bến Đông Bộ Đầu, nhà Trần đã đánh đuổi quân xâm lược nhà Nguyên ra khỏi kinh thành ThZng Long ngày 29-1-1258. Và một lần khác, Yết Kiêu đã cắm sào đợi chủ của mình là Tiết chế Quốc Công Trần Quốc Tuấn, Hưng Đạo Đại Vương trong khi phải rút khỏi kinh thành tiếp tục cuộc kháng chiến, tỏ rõ chí trung thành tuyệt đối làm gương cho muôn đời.
    Cạnh phố Hàng Than cũng còn phố Hòe Nhai, có một cái dốc ngắn hơn, đi lên đê, như một câu thơ cổ, một bức họa xa xưa có xóm làng thanh bình xanh màu cây cỏ ven đê, còn sót lại với thời gian một gốc đa cổ thụ vẫn rườm rà khiến ta bâng khuâng bao điều mỗi lần qua đây gặp lại.
    Cuối phố Hàng Than, chỗ ngã sáu: Hàng Đậu, Hàng Giấy, Hàng Cót, Quán Thánh, Phan Đình Phùng, còn một đài nước hình tròn do người Pháp xây dựng như một nhân chứng của một thời của thế kỷ XX. Hà Nội bắt đầu có hơi thở phương Tây đôi chút.
    Ngày nay, Hàng Than vẫn còn một số gia đình sản xuất bánh cốm, đó là những cZn nhà cổ, thấp, hoặc chồng diêm, cửa sổ tí tẹo, ngói ta rêu mốc, có cột trụ trên nóc như những cái mũ bình thiên, mũ ông cử nhân. Nhiều nhà có nền cao hơn mặt đường đến mấy bậc tam cấp phải xây gạch vồ, có cửa cuốn tò vò trang nghiêm cổ kính. Một số ít ngôi nhà mới sửa, cao lênh khênh nhiều tầng ngay trong lòng phố cổ đánh dấu nét thời đại của thập kỷ cuối cùng thế kỷ XX.
    Mấy chục nZm nay, nhiều người tứ xứ đến trú ngụ tại Hàng Than, cái phố dốc như đường lên đồi thay cho người gốc cũ. Có quan chức cao cầp về hưu, có cán bộ của thành phố, như ông Trần Đắc Thọ, một người am tường sâu sắc về Hà Nội, và nhiều cửa hàng đủ loại của một thành phố trong cơ chế kinh tế cạnh tranh. Chợ búa xen với đền chùa. Hiệu thuốc xen với thợ may. Hàng thêu bên cạnh hàng bánh. . .
    Nhạc sĩ Duy Quang, người có nhiều bài hát hay cho thiếu nhi, đặc biệt cho trẻ em thiệt thòi như trường mù Nguyễn Đình Chiể u là người của gia đình bá nh cốm gia truyền Nguyên Ninh, thứ bánh cốm ngon nhất Hà Nội, suốt nhiều nZm, nổi tiếng Trung, Nam, Bắc. Trong nhà có chừng chục cái chum to để dự trữ cốm. Có gian rộng thênh thang bên ngoài may mà chưa có sự thay đổi quá đột ngột như một số ngôi nhà khác. Ngôi nhà này ở vào khoảng bắt đầu lên dốc, hay gọi là bắt đầu hết dốc cũng không sai.
    Nếu đứng trên mặt đê, chỗ dốc Hàng Than gặp Yên Phụ, ta sẽ có cảm tưởng như nghe rõ tiếng gió nghìn nZm, hơi mát của bến sông Hồng mấy thuở ùa vào thổi lên, cZng ngực áo, lộng tâm hồn, mà ngoài kia là bãi Phúc Tân, Phúc Xá, xa chút nữa là Tân ấp có nhà thơ nữ lão thành Ngân Giang trú ngụ.
    Hàng Than chỉ dài hơn 400 mét, nhưng may, còn khá nhiều đình chùa cổ như còn để nói với chúng ta bao nét thZng trầm của Kẻ Chợ, Đông Đô, ThZng Long, Hà Nội, cho chúng ta cảm nhận một vùng đất anh linh, chất tài hoa tri thức, óc sáng tạo phi thường mà... bánh cốm cùng cốm tươi, thứ ngọc xanh, thứ bánh thần kỳ là một điển hình vượt lên trên nhiều loại bánh khác. B ến.. sông đã lùi xa. Than hoa nay ít người dùng. Đã thay bằng bếp dầu, bếp điện, bếp "ga". Than quả bành, than tổ ong bán rao khắp phố ? Than hoa, chỉ còn thưa thớt mấy hàng, bán ở phố Hàng Chiếu, Hàng Bè .
    Hàng Than, phố Dốc, chỉ còn cái tên nguyên vẹn, nó nhắc nhở về quá khứ, nó như bài thơ tình cổ điển, ta lần giở để hồi hộp nhớ về một duyên tình ái đã mờ nước thời gian nhưng nao nao tâm khảm, bồi hồi một lời ca say đắm ngày nào. Trang giấy hoa tiên viết bài thơ ấy có chỗ đã bị nhậy cắn (một loại côn trùng) nhưng cuốn sách Hà Nội không thể nào mất được.
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  9. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

    HÀNG GAI
    Nói Hà Nội là đất "Nghìn nZm vZn vật" cứ tưởng thành phố giữ mãi các hình thức cổ xưa. Nhưng thật ra các phố thay đổi, khi đời sống xã hội, các cung cách làm Zn có thay đổi.
    Trước kia, các khách vượt bể cứ đi vào cửa Đông Hà, đến Hàng Buồm để mua buồm cói. Bây giờ thì phố ấy không còn nhà nào bán buồm nữa, dù phồ vẫn giữ tên cũ.
    Hàng Bè cũng thế. Khách sông nước, cứ do cửa Trừng Thanh vào Hàng Bè để làm các việc trao đổi. Đến sau, chỉ còn những hàng bán cau khô, cau mà khách thường buôn từ Phú Yên, sông Cầu ra.
    Đến Hàng Gai. Phố Hàng Gai là một phố lớn của Hà Nội, đi từ quảng trường "Đông Kinh Nghĩa Thục" đến Hàng Hài, Hàng Bông. Cây gai là một cây lá dùng làm bánh gai, vỏ có sợi tốt và bền - tồt hơn đay. Bạc giấy làm bằng vỏ gai là tốt nhất. Cây gai làm những thứ chiếm một khoảng lớn trong cuộc đời trước nay. Trước hết, sợi gai làm võng. Cái võng của "cáng", cái võng đung đưa ở mỗi nhà, để ru trẻ ngủ và để các cụ già ngả lưng cái "võng trần" của đám rước các quan. Cái võng nó đẻ ra mục "móc võng" của Hàng Tiện, mục "đanh võng" ở Lò Rèn. Rồi tử cái lưới, cái vó đánh cá, đến cái túi đi chợ, như cái làn bây giờ . Đến mục thừng chão, từ cái dây "tam cố" đến dây chuối, dây gai. ấy thế mà từ bấy đến giờ , chúng ta không thấy hàng bán gai nào ở phố Hàng Gai nữa.
    Không biết từ lúc nào, các hàng bán gai đã phải lùi đến phố hàng Bát Đàn.
    * *
    *
    Từ lâu lắm rồi, phố Hàng Gai cổ kính, được biết là một phố "vZn nhã". Nghề bán sách lúc thịnh nhất, có lẽ không bao giờ có đến mười hàng, cứ xem tên các hiệu trên các sách còn lại thì biết. Nhưng ở gần suốt phố là những người không nhiều thì ít có dính dáng đế nghề in và bán sách. Phố được tiếng là một "phố vZn học".
    Phố gồm hai phường: Đông là phường Đông Hà. Tây là phường Cổ Vũ. Trước kia, khi ngõ Tố Tịch, phần Hàng Gai, chỉ rộng độ một mét, còn tên là "ngõ Bắt Đái" thì đình Đông Hà ở cạnh ngõ. Đình thờ Cao Sơn đại vương, trong hệ thống Tản Viên. Trước đình, mãi cho đến hồi kháng chiến chống Pháp, có một cây bàng cổ thụ, già và to nhất Hà Nội, rợp cả một khúc phố đến mươi nhà. Gốc bàng đã thành chỗ nghỉ của các anh xe, các người đi mỏi cẳng. Sau, việc buôn bán thắng thế, đình chùa thành cửa hàng, bàn thờ dọn lên gác. Đình Cổ Vũ ở số 85, cửa có cây đa nhiều rễ, nay vẫn còn như cũ. Người ta cũng gọi là "Đình Hàng ốc", vì ở cửa đình có hàng ốc nổi tiếng của bà "từ".
    Đoạn đầu Hàng Gai, gần Bờ Hồ, quen gọi là Hàng Tiện. Trước đây, dân Nhị Khê đến ở các nhà nông lòng bên số chẵn, đặt bàn tiện ở dướì và sinh hoạt trên gác xép. Sau bị các hàng kính và bút máy đẩy vào phố Tô Tịch, hay xuống Bạch Mai. ở chỗ Hàng Tiện này khoảng 19l0 thấy mở hiệu "cúp tóc" thứ nhất, lúc ấy chỉ có một ghế thôi. Hồi ấy, người cắt tóc còn ít. Chiếc "khZn xếp" cũng chưa ra đời. Ngoài phố họa hoằn mới có một người đội "mũ rơm". Cũng hồi ấy phố Lương VZn Can còn gọi là Hàng Quạt, chọc thủng ra H àng Gai vào nZm 1905.
    Bà con Hàng Tiện, đạp những bàn tiện gỗ, làm các đồ thờ bằng gỗ: cây nến, mâm bồng, đài rượu (để đựng chén rượu cúng), đế bát hương, khuôn đóng oản bằng vàng tâm hay gỗ mít. Lại tiện cả các đồ chơi trẻ con bằng gỗ: đèn, mâm, bát, chén, nồi chảo , quay gỗ và quay sừng, quân cờ. ở đoạn phố này còn có những hàn, "khắc dấư" của dân Liễu Chàng (Hải Dương), khắc cả con dấu gỗ và đồ ng. Dấu tổng lý gọi là "triện", dấu qua gọi là "ấn". NZm 1922, triều đình Huế "ban" phẩm hà cho các nhân viên Bảo hộ. Thợ dấu được một dịp khắc vô số bài ngà (thẻ ngà). Đeo thẻ ngà, ngồi xe song mã đi đám cưới, oai lắm.
    Không biết có ai nhớ rằng cái ngõ Tô Tịch làm sao lại gọi là ngõ "bắt đái". Chuyện thế này: ở gốc bàng đình Đông Hà, có một người dị dạng, lùn, đen, cổ có bướu. Trông mà khiếp ! Thế mà anh ta lại thích chơi với trẻ con. Anh không có cách gì sinh nhai. Anh cứ nhìn vào ngõ hẻm, rình. Cái nghề, ở nhà quê ra, đi rạc cẳng, gặp được chỗ "khuất khoắn", muốn... một tí. Vừa nhẹ người, thì một bàn tay đen tóm lấy áo, đòi giải lên Cẩm, vì tội "phóng uế" ra đường phố. Phải đưa một hào mới đi được. Anh ấy thành tên là "anh bắt đái", mà cái ngõ, cũng gọi là "ngõ bắt đái".
    Tên đình Đông Hà còn nhắc đến chuyện vua Lê Chiêu Tôn bị Mạc giam, và cô hàng rượu làng Lủ có tình "thương người".
    Các nhà trong phố làm rất nhã nhặn, một mái hay hai mái "chồng diêm". Cả phố chỉ có hai nhà gác: nhà ông Bát Thiện và nhà Mỹ Hảo. Các nhà 83 và 80, đã nói ở trên.
    * *
    *
    Vì là phố Hàng Sách, lại ở khu vực gần Tự Tháp Hồ Gươm, nên Hàng Gai có nhiều người có vẻ "vZn nhân". Các bà, các cô cũng có bề "yểu điệư". (Trước đây "yểu điệư" không có nghĩa xấu) . Trong phố, ít khi có tiếng xô xát. Có việc gì cũng chỉ cần "nói ý" là xong chuyện. Người "lắm điều, lắm lời" không có chỗ mà "dụng võ". "Sồ sồ" ra một lần, là bà con coi chừng, ít lâu sau người "nóng" rồi cũng êm ả. Các cô ả, nón Nghệ, dép cong, chỉ mơ tưởng có một người "thiện sỹ".
    Trong phố nhiều nhà khoa bảng, mà hầu như khôn có ông quan nào . Xung quanh đình Cổ Vũ có một loạt: ông tú Hy, ông tú Ninh, cụ cử Lủ, ông bảng Bí, ông nghè Giác, ông cử Sét, ông tú Lủ, cụ tú TZng, cụ tú hàng Son, cụ cử Đại áng. Cụ cử Lủ dạy học ở nhà 81 Khi một học trò của cụ đỗ đại khoa người ta hỏi : "Ba giờ quan Bảng xuất chính". Ông tân khoa trả lời: "Thầy tôi không dạy nghề làm quan ! ".
    Các ông quan thanh liêm, khi về nghỉ, cứ muốn đến ở phồ Hàng Gai.
    * *
    *
    NZm 1907, biến động lớn. Các cụ đi nghe "giảng" Ngọc Sơn phải chạy toán loạn. Rồi cả cháu nội và chá ngoại của cụ VZn Minh Nguyễn Trọng Hợp đều bị bắt vào Hỏa Lò. Ông cả Phái, ra đi, bị bắt ở miền bể, giải lên giam ở Cao Bằng nhiều nZm.
    * *
    *
    Hàng phố như vậy, mà bị các thứ ô uế của thời nhố nhZng đánh vào một cách ác độc.
    Vụ thứ nhất: Một "tiểu thư" con một bà lớn, giầu có đi làm dâu ở một phố gần. Một chiếc "xe nhà", đúng kiểu xe của nhà "cụ lớn" đến đón "mợ" về chơi. Hôm sau, không thấy mợ về. Hai nhà đổ đi tìm, công cốc. Mãi mấy hôm sau "mợ cả" mới về, người khác hẳn. Thủ phạm vụ này là phán Vê, làm mật thám cho các tòa lãnh sự đế quốc Đông Nam á. Không biết Vê đã bắt bao nhiều người giải về, làm những chuyện gì nữa, mà ba con của Vê phải nguyện đến chùa "tư", để cho b ố khỏi bị "bỏ vào vạc dầu".
    Rồi một cô cũng con nhà tử tế, vào nhà thương, rồi đi mất với một y sĩ. Rồi hai đám nhân duyên nữa cô dâu đi không bao giờ về . Có ảnh hưởng của vài quyển tiểu thuyết mới dịch. Có những thủ đoạn của kiểu làm Zn mới. Từ đó, mấy cô bé lớn lên, chải chuốt, ra ngồi hàng, đợi những "quan huyện tân thời". Việc chính của Hàng Gai là nghề sách vở, sẽ nói trong mục "sách học".
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH
  10. bittersweet82

    bittersweet82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

    PHỐ CẦU GỖ NHƯ TÔI BIẾT
    Các nhà doanh nghiệp thường có khuynh hướng đặt tên cho hãng, cho cửa hàng mình bằng hai tiếng, trong đó hay có: hưng, thịnh, vượng, phát, lợi v.v. . với mo ng muốn Zn nên làm ra ngày mỗi thịnh vượng, phát đạt, thắng lợi. Còn các quán cà phê, hàng phở, nhất là những hàng có tín nhiệm, được khách nhớ đến lâu dài, lạ thường có khuynh hướng chỉ lấy một tiếng thường là tên chủ nhân, có lẽ cho gọn chZng hay cho dễ nhớ. Có thể dẫn: Cà phê Hợp, cà phê Nhân, cà phê Bằng, phở Luân, phở Thìn, phở Hói, phở Ca, phở Tình, cà phê và phở Giảng.v.v. . .
    Khoảng đầu những nZm 50 cho đến sau hòa bình lập lại, lúc có chủ trương công tư hợp doanh, phố Cầu Gỗ có một hàng phở có hạn như thế: Phở Giảng (ở số nhà 88). Rất nhiều người Hà Nội cho đến nay vẫn còn nhớ ngôi nhà kiểu cổ, thò ra hắn mặt đường, lấn xuống vỉa hè hẹp lòng, sâu hút, cứ sáng sáng khênh cái bếp lò ra tận cửa, to bằng nửa cái thùng phuy, trên là thùng nước dùng to đúng bằng thùng phuy hai trZm lít, bằng nhôm sáng lóa, đầy một thứ nước dùng thơm lựng một hương vị của xương bò, nước mắm ngon, tôm he, hương hồi, quế chi, thảo quả hành tái nướng, gừng cả mảng bằng bàn tay đã nướng qua . . . đang sôi sùng sục như có bàn tay vô hình đang đảo ngầm phía đưới khiến lượt mỡ béo ngậy không thể nằm yên và làm cồn cào cái bụng người Hà Nội.
    Cạnh đấy là cả một phần tư, có khi là nguyên một nửa con bò tươi sống cứ lúc lúc ông Giảng lại cầm con dao phay vuông to bản xẻo xuống một tảng lớn để thái, để giần cho những bát tái chần, tái gầu, tái nạm, tái giò... Khách mặc com lê cà vạt chỉnh tề, ai thích ngồi, xin vào phía trong, ai thích thật nóng, cứ đứng ngay cạnh lò mà và mà húp, xong, trả tiền, ông Giảng nhét ngay vào chiếc túi cZng phồng của tạp dề để trước ngực.
    Chín giờ sáng hết phở. Dọn dẹp một lúc, gần trưa bắt đầu bán cà phê, thứ cà phê phin, cà phê đá, cà phê phin đá. . . cạnh tranh được với cà phê Nhân, một nhà thể thao, có quán nổi tiểng bên số nhà l00 cạnh đó, cho đến tối. Ông Giảng trực tiếp pha cà phê, bà Giảng người nhỏ bé chỉ ngồi két thu tiền. Chỉ ít lâu, ông bà đã tậu được nhà bên phố Hàng Bè. Sau, ông Giảng là nhân viên kỹ thuật của cửa hàng giải khát trong công viên Thống Nhất mà người ta gọi là Quán Gió, chỉ đến ngày nghỉ hưu, đôi chân tê thấp, chiều chiều lê đi trên đường Bờ Hồ cho vui tuổi thọ.
    Xế cửa phở Giảng là quán giải khát Lan Anh cả hai ông bà chủ đều rất hào hoa lịch lãm và xinh đẹp , mà chỉ một món làm quán nổi tiếng Chè bắp, một thứ chè nấu bằng bột hoàng tinh trong suốt, loáng thoáng những mảnh ngô non rập rờn mờ tỏ, mà khi ta xúc một thìa chè đưa lên miệng thì ngoài hương hoa bưởi thơm như đứng cạnh hàng rào đêm quê, còn có hương của ngô non luộc, của bắp ngô ngậm sữa vừa bẻ , ta vừa bóc cái vỏ lụa xanh tươi, lộ ra sợi râu ngô màu nâu non, ta hít hà thứ hương đồng bãi cuối xuân. . . Tiếc là quán này đóng cửa nZm 1954, và từ bấy ít ai nấu món chè bắp ngon bằng thế.
    Cạnh quán Lan Anh, còn có quán Lan Hương rộng rãi hơn, nguyên là cửa hàng nước mắm Vạn Hương, người nhà cụ nghệ sĩ xiếc Tạ D uy Hiển mở ra. Cũng đông khách, nhưng không có món gì đặc biệt, ngoài một cô gái cháu cụ Tạ, có mộ thân hình thanh nữ đẹp tuyệt như tượng thần Vệ Nữ Milo, làm ngơ ngẩn khối chàng trai Hà Nội.
    Phố Cầu Gỗ xưa nay không có những nhân vật kiệt hiệt hoặc danh nhân, cũng không có những nhà cao tráng lệ, biệt thự khang trang. Nó chỉ là một phố cổ, còn mang nhiều nét đặc biệt của một Hà Nội thế kỷ trước, mà chắc dZm chục nZm nữa sẽ không còn dấu vết như bây giờ ta nhớ về dZm chục nZm trước để tưởng niệm dấu xưa.
    Cứ tưởng tượng cuối thể kỷ trước, đầu thể kỷ này, đây là cái hồ xinh xinh nho nhỏ, y hệt như cảnh tượng hồ Trúc B ạch với Hồ Tây nếu so hồ Thái Cực này với Hồ Gươm cạnh đó. Đường Thanh Niên (Cổ Ngư) nổi giữa hai lòng hồ to rộng kia, còn ở đây có con lạch nhỏ thông sang H ồ Gươm, theo cụ Nguyễn VZn Uẩn trong "Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX " thì con lạch chính là phố hồ Hoàn Kiếm, nay là con phố ngắn nhất Hà Nội, vẫn có món quà vừa ngon vừa rẻ: Thịt bò khô. Chính chỗ này, có một chiếc cầu bằng gỗ, vì thế mà khi hồ bị lấp đi, mặt nước thành phường phố, tre pheo nhường chỗ cho tường xây mái ngói chiếc cầu được lấy thành tên cho phố mới Phố Cầu Gỗ.
    Hồ Thái Cực nằm trong cái khung ta tưởng tượng, phía sau giáp phố Hàng Đào, cạnh kia là Hàng Bè, hai bờ khác là lòng phố Cầu Gỗ và ngõ Trung Yên. Hiệu sách Ngoạn, cuối phố Cầu Gỗ trông thẳng ra mặt nước Hồ Gươm, chỗ quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục hiện nay, có đài phun nước, từng là hiệu sách nổi tiếng trước Các mạng Tháng Tám, cùng là phố Đinh Liệt mà lúc nào cũng phảng phất mùi thơm xào nấu, phở, bánh mì patê thịt xíu, lạp xường cùng nhiều món Zn khác, kể cả những cửa hàng bán len cuộn có hàng trZm màu sắc làm cho con gái Hà Nội rực rỡ mỗi khi đông về . . . lúc ấy, còn là lòng hồ Thái Cực có nổi chìm bèo cái bè ong, có cầu ao bằng mấy dóng tre, có ngõ trúc trời mưa lầy lội, có người nông dân quZng chài kéo lưới . . .
    Ngày nay Hồ Gươm có những hôm chuyển gió mờ sương, tôm cá thiếu dưỡng khí nổi lên hàng loạt... hẳn thời chưa xây, dân quanh hồ Thái Cực cũng có nhiều người làm nghề chài lưới bắt con tôm con tép để làm kế sinh nhai, đem mẹt sản phẩm của mình qua các phố bán rao đổi lấy bơ gạo hay vật dùng cần thiết. Hà Nội vốn là đất nghèo mà. Cũng thấy thêm, nếu thiếu hoặc hỏng thứ mà nay gọi là "ngư cụ" thì hàng Gai có sẵn tay lưới, con gai để vá, hàng lờ có lờ có đó gần kia . . .
    Cầu Gỗ có rất nhiều ngôi nhà hẹp lòng, chỉ trên hai mét bề ngang, một tầng ngói ta, hai tầng thì chồng diêm lè tè, cửa bức bàn còn câu đầu quá giang bằng gỗ phiến, tưởng như xiêu vẹo phải dựa vai vào hai nhà hai bên như nương tựa vào nhau mà đứng, nóc nhà còn cột trụ như người đội mũ bình thiên. Tường còn trộn mật giọt làm vữa, nên mùa nồm, chảy nước ướt cả nền nhà, mà nền nhà thì thấp hơn mặt đường đến và ba bậc. C ống là loại cống thấm, mươi hôm lạ phải thuê anh móc cống. Đó là những người rất nghèo, quần nâu lá tọa, áo cánh vá vai, đi đến đâu rao vang đến đó "C ống, cống đê . . . ". Đêm đến phố Cầu Gỗ còn vang lên tiếng đập cửa với câu gọi "Thùng, thùng nhé ", đó là những người phu làm nghề đổi thùng (hoặc đổ thùng), mà đầu tiên là cu li của nhà thầu NZm Diệm. Cho nên mới có câu mắng con: "Mày không học cho tử tế thì lớn lên chỉ đi móc cống, đổ thùng thôi con ạ".
    Tính từ phía đông, ngã tư Hàng Bè, Hàng Dầu, Hàng Thùng đến phía tây nối với Hàng Đào Hàng Gai, phố Cầu Gỗ dài 248 mét, người dân làm khá nhiều nghề, buôn bán khá nhiều thứ nhà cũng khá nhiều kiểu dáng.
    Có cả một đoạn dài bên số lẻ từ phố Hồ Hoàn Kiếm đến nhà ga xe điện, nay là cái quan tài kính khổng lồ của người nước ngoài chễm chệ, phần lớn những ngôi nhà là phía cổng sau của dãy nhà phố Đinh Tiên Hoàng, nghĩa là mặt trước của nó ở phía Bờ Hồ, nên khu vực này có mộ t thời gian dài im lìm, cửa đóng then cài, ít dược sửa sang chú ý. Đó là cổng sau của nhà kem Zêphia, hiệu thuốc Vũ Đỗ Thìn, nhà sách Na Ký, nhà của cụ Tạ Duy Hiển. v.v. . .
    Người viết bài này từng là dân Cầu Gỗ một thời đến nay vẫn còn nhiều liên hệ vì bè bạn và người anh ruột ở phố ấy.
    Trước 1954, phố Đinh Liệt còn đâm thẳng ra Bờ Hồ, chưa bị bịt kín lại, và nó là bức tường của nhà sách Nam Ký. Đường tàu điện còn kéo dài đến trước hiệu phở Giảng. Mỗi khi tàu điện Hà Đông Cầu Giấy về đến đây, cần quay đầu máy chuyển toa, thì anh "sơ vơ" cầm lấy sợi chão quay nửa vòng tròn cho cần vẹt quay theo. Những toa tàu điện già nua sơn đỏ lại từ phố Cầu Gỗ này lên Cầu Giấy, vào tỉnh Đơ, chở những người áo cộc đi về. Nay toàn bộ đường tầu điện đã được dỡ bỏ. Cả cái ga quay đầu ngoài bờ hồ, chỗ giữ tô hiện nay cũng đã khác xưa, mà ngôi nhà cao tầng sừng sững trêu ngươi, thách thức, biến hồ Gươm thành chiếc ao cho kẻ ngoại lai lắm tiền thích chí rằng đã mua được đất nước này, phá bỏ cả lịch sử thiêng liêng của trái tim Hà Nội: Hồ Gươm.
    Ngôi nhà số 64 từng là đình của thôn Nhiễu Thượng, đất làng xưa hồ Thái Cực, cũng không còn dấu vết. Nếu bên Hàng Bè có bà Lang Trọc nổi tiếng thì bên này, ngay tại ngôi đình này, có Bà Lang Huế cũng nổi danh một thời về những thứ thuốc gia truyền, mang từ Núi Ngự Sông Hương ra Hà Nội.
    Ngoài một số cửa hiệu lớn buôn bán sơn sống, thứ sơn làm tranh sơn mài, gắn thùng gỗ, bả hoành phi câu đối. . . thì Cầu Gỗ còn có mộ nghề khá đặc biệt: Nghề đóng xe tay. Thứ xe tay do người kéo, thứ "người ngựa ngưa người" mà Nguyễn Công Hoan mô tả đầy thương tâm ấy, Cầu Gỗ có mấy nhà đóng loại xe tay này, trở thành giàu có. Sau Cách mạng, nó được chuyển thành xe người đạp: Xích lô như nay ta đang thấy. Nhà ông Hai Chinh, ông An Thái có xưởng đóng xe và cho thuê xe, tậu được hàng dãy nhà để cho thuê . . .
    Cầu Gỗ ngày nay có khá nhiều cửa hàng lấp lánh: hiệu buôn vàng, hiệu bán sách, nhà hàng khách sạn, bán guốc dép, bách hóa, hàng Zn tạp xô bồ. Nhớ lại thêm một chút, khi phở Giảng phát đạt, có một hiệu phở khác mở ra cạnh tranh, khoảng số nhà 34 gì đó; phở Đông Mỹ. Ông này bắc đèn và chuông số vào từng bàn Zn khách gọi, ông bấm chuông cho mang phở ra từng bàn. Chỉ tiếc, bên cạnh đĩa hành Tây ngâm dấm, xà lách tươi non, đèn xanh đỏ và chuông kêu reng reng, thì người sành Zn phở lại khôn nhìn thấy tảng thịt bò, nồi nước dùng, miếng gầu miếng nạm ra sao, tất cả đều ẩn sau nhà, trong bếp, mất đi một cái thú được nhìn, được ngửi trước khi Zn, mất đi cả cái thú Zn phở đứng cho nóng, cho lạ cảm giác . . . nên chỉ một thời gian ngắn, phở Đông Mỹ mất dần khách, phải đóng cửa, và cuối đời, ông Đông Mỹ ngồi bán lạc rang bên phố Đinh Liệt. Cho hay, một món Zn ngon Hà Nội cũng cần rất nhiều yếu tố, đương nhiên chất lượng ngọt ngon bùi béo, thơm nức gần xa là quyết định, nhưng được ngắm nhìn, ngửi hơi cũng là cần lắm lắm, mới là phong vị riêng biệt của đất Kẻ Chợ vậy.
    Đến đầu những nZm sáu mươi, Cầu Gỗ vẫn là phố "trọc đầu". Chiều chiều cái nắng xiên khoai vẫn soi vào những cZn nhà chồng diêm bên số chẵn. TrZm nZm, phố không hề có bóng cây xanh có khi là màu xanh đã lặn sâu vào đáy hồ Thái Cực (còn gọi là hồ Hàng Đào). May thay, hàng xà cừ trồng vài ba chục nZm nay đã rườm rà xanh tốt, có cây to tay ôm không xuể, có cây như lực sĩ vươn cành ra che nắng cho một đường phố vừa cổ vừa tân, vừa thanh vừa tạp. Nói thể vì khoảng số nhà 26, từng có nhạc sĩ Đoàn Nhương con người tài hoa, chơi được hàng chục loại nhạc cụ dân tộc, làm xốn xang tấc dạ bao người một thuở. Vậy mà đã có lúc ông phải quây bếp lại để "lợn nó nuôi ông". Không hiểu nay tiếng đàn ấy theo ông đến nơi nào, ngoại thành hay một vùng xa hơn... bởi tấc đất tấc vàng hiểu theo nghĩa đen, phố này nhà có giá lắm, và cũng vì có giá thế, nên phố cổ càng khó giữ gìn. Cứ như là nó tự lột xác tự thay hình để biến thành những phòng trọ quán rượu cho Tây Tầu gì đó, bất chấp chủ trương bảo tồn lưu giữ những giá trị lịch sử cho Hà Nội.
    Phố Cầu Gỗ còn có nhiều điều đáng nói, xin bán đọc tự bổ sung cho hoàn chỉnh, bởi nói hết thì cũng có phần vô duyên chZng? Chỉ biết nhà nhiếp ảnh Đinh Quang Thành đang tiến hành một công việc lý thú và có ích cho Hà Nội. Ông để ra một hai nZm, với chiếc máy ảnh loại tốt ông đang đi chụp lại những gì cần lưu giữ của một Hà Nội nghìn nZm, từ món Zn, cách mặc, một mái nhà, một góc phố, một gốc cây, một ngôi chùa, một cánh cửa con. . . Mong sao, phố Cầu Gỗ cũng được lọt vào ống kính của ông để lưu lại cho trZm nZm sau nữa những giá trị đang mất đi nhanh chóng mỗi ngày.
    NẮNG MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI , CÚP CUA LÀ BỆNH CỦA ĐỜI HỌC SINH

Chia sẻ trang này