1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chủ đề tháng : Câu hỏi thảo luận ngày 15/5/2005 !Thông báo về việc quản lí và gửi tài liệu của CLB (

Chủ đề trong 'Thiên văn học' bởi RAGNAROK, 29/03/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. RAGNAROK

    RAGNAROK Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    3.891
    Đã được thích:
    1
    Nghịch lí hai anh em sinh đôi
    Có 2 anh em sinh đôi. Nói chính xác ở đây là ta lấy ví dụ về 2 người coi như hoàn toàn giống nhau về thời gian cũng như hình dáng. Quá trình phát triển của cơ thể họ cũng là hoàn toàn như nhau. Và một ngày kia một trong hai người đó bay lên vũ trụ. Nghịch lí sắp nói tới ở đây là liệu có thể nào một trong 2 người này sẽ già hơn người còn lại khi gặp lại nhau hay không.
    Hãy giả sử 2 anh em này là A và B. Bây giờ là lúc B ở lại Trái Đất chờ người anh em của mình là A bay lên vũ trụ trên một con tàu có vận tốc khoảng 80% vận tốc ánh sáng chẳng hạn. A có nhiệm vụ đi đến một hành tinh cách rất xa Trái Đất mà theo như tính toán của cơ học Newton thì với vận tốc này anh ta phải mất 10 năm để đến nơi đó. Và cả đi cả về (coi như không tính thời gian ở lại hành tinh) anh ta phải mất những 20 năm. Vậy khi anh ta trở về để gặp lại người anh em song sinh của mình thì điều gì sẽ xảy ra?
    Trong rất nhiều bộ phim viễn tưởng và cả những câu chuyện tưởng tượng khác nữa mà chắc hẳn các bạn đã xem khá nhiều, các bạn đều có thể qua đó trả lời tôi rằng chắc chắn khi anh ta quay về thì người anh em nọ đã là một ông già, tuổi tác khi đó sẽ chênh lệch rất lớn. Vậy tại sao người ta lại có thể suy ra điều đó? Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này trước khi phân tích xem liệu những điều đó có đúng hay không.
    Chúng ta hãy nhắc đến phép biến đổi Lorenzt mà chắc rằng các bạn đều đã biết ngay trong cuốn vật lí đại cương tập 1. Theo phép biến đổi này thì trong phạm vi của lí thuyết tương đối, khi một vật chuyển động với vận tốc gần với vận tốc của ánh sáng so với một hệ qui chiếu bất kì thì tại hệ qui chiếu đó, người quan sát sẽ thấy các thông số về khối lượng, chiều dài (theo phương chuyển động) và thời gian của vật chuyển động đó đều sai khác với khi vật đứng yên một lượng tỷ lệ với một hệ số k có giá trị
    k = (1 - v2 / c2)1/2
    Chiều dài l = lo.k (lo là chiều dài khi vật đứng yên)
    Khối lượng m = mo / k (mo là khối lượng nghỉ của vật)
    Và cuối cùng, quan trọng nhất với chúng ta lúc này là thời gian. các bạn hãy chú ý đến từng từ trong những câu sau để không dẫn đến những tư duy sai lầm dễ gặp phải.
    Để đơn giản, ta xét khoảng thời gian xảy ra giữa 2 biến cố bất kì của vật tại 2 thời điểm khác nhau. Gọi khoảng thời gian giữa 2 sự kiện này đối với người quan sát đứng trong hệ qui chiếu đứng yên của vật là t[sub]o[/sub] và thời gian tương ứng đối với người quan sát đứng trong hệ qui chiếu mà tại đó vật chuyển động với vận tốc nói trên là t thì ta có hệ thức
    t = t[sub]o[/sub].k
    Rõ ràng ta thấy vật chuyển động càng nhanh, v càng lớn thì giá trị của hệ số k càng nhỏ và như vậy thì thời gian t của vật đối với người quan sát thấy vật chuyển động càng ngắn.( Xin hãy lưu ý phần đã được tôi gạch chân)
    Bây giờ chúng ta sẽ áp dụng bài toán trên để tìm nghịch lí cho 2 anh em sinh đôi trên.
    Vì 2 anh em này có vận tốc hoàn toàn khác nhau. Ta cứ tạm nói theo ngôn ngữ thông thường là người A đang chuyển động còn người B thì đứng yên. Vậy ta có thể đặt cho 2 người này 2 hệ qui chiếu tương ứng có tên tương ứng cũng là A và B. Hệ A là hệ tại đó người A (người bay lên vũ trụ) là đứng yên vì hệ này luôn chuyển động cùng với anh ta. Tại hệ A người B là đối tượng chuyển động. Còn hệ B là hệ tại đó người B (ở lại Trái Đất) đứng yên còn người A lại là đối tượng chuyển động.
    Quay lại với các bộ phim viễn tưởng. Nếu như đặt vấn đề tôi đang nói tới ở đây vào một nhà đạo diễn chuyên nghiệp các bộ phim viễn tương hay một hoạ sĩ truyện tranh có học qua vật lí tương đối tính, hẳn một kết luận đuợc đưa ra ngay tức khắc là khi quay về chắc chắn người A sẽ rất trẻ so với người B vì đơn giản là theo phép biến đổi Lorentz nói trên thì thời gian của người A sẽ trôi chậm hơn trong hệ qui chiếu của người B. Điều này không phải không có lí khi xét quá trình chuyển động. Có điều những người đưa ra kết luận này đã quên mất rằng chuyển động luôn chỉ có tính tương đối mà thôi. Việc đưa ra kết luận như trên là vì nhà đạo diễn này đang tự đặt mình vào vị trí của người B ở lại Trái Đất. Khi đó tại hệ qui chiếu của ông ta, ông ta sẽ luôn thấy kẻ ra đi kia là trẻ trung một cách kì lạ. Có điều là nếu như một lần nhà đạo diễn thử đặt mình vào vị trí của người A, ông ta sẽ thấy gì. Khi đó ông ta sẽ sử dụng hệ qui chiếu mà tại đó ông ta hoàn toàn đứng yên (tức hệ qui chiếu A). Khi đó với ông ta, hệ qui chiếu B và do đó cả người B là đối tượng chuyển động với cùng vận tốc mà ông ta từng thấy người A chuyển động khi đứng tại hệ qui chiếu B. Và như thế có nghĩa là tại thời điểm này, ông ta hẳn phải ngạc nhiên khi thấy rằng mình đã sai lầm vì thực sự khi bay cùng với A thì ông ta sẽ thấy B trẻ lâu hơn ông ta nhiều. Và bây giờ khi mà chưa thể phanh được một trong 2 hệ qui chiếu này lại, nhà đạo diễn sẽ phải nghĩ xem vậy thì cuối cùng trong bộ phim của ông ta ai mới là kẻ già truớc, và thế là nghịch lí nảy sinh.
    Hẳn các bạn cũng đã thấy được điều gì xảy ra rồi phải không? Chúng ta không thể kết luận đơn giản là ai già trước ai hay ai se nặng hơn ai được. Khi bạn chuyển đông với vận tốc lên tới 200 000 km/s thì với một người quan sát đứng yên tại mặt đất, bạn có thể trẻ hơn, nặng hơn và... ngắn hơn. Tuy nhiên bạn hãy nhớ rằng với bản thân bạn thì chẳng có chuyện gì xảy ra, bạn vẫn nặng như cũ, cao như cũ và nhịp tim của bạn vẫn cứ là 65 lần / phút, và do đó xin đừng mơ tưởng đến việc mình sẽ sống trường sinh, vì nếu cứ hi vọng như thế thì e rằng bạn sẽ tuyệt vong đấy vì ngay khi nhìn về hệ qui chiếu của người quan sát đứng yên, bạn sẽ thấy họ trẻ lâu hơn bạn nhiều do với bạn thì người quan sát đó mới là đối tượng chuyển động. Vậy chúng ta đã có thể đi đến kết luận chưa?
    Bản thân tôi đã có kết luận của mình. Tuy nhiên tôi sẽ trình bày điều đó ở phần sau vì trước hết, tôi sẽ xin nói về một vài vấn đề thường được tranh cãi và một số tranh cãi đó tôi đã được đọc trong một số cuốn sách viết về vật lí tương đối. Quả thật đây là một nghịch lí hết sức phức tạp, nhưng nếu phân tích kĩ bản chất của vấn đề thì có lẽ điều đó cũng không phải quá khó để đi đến một kết luận cuối cùng. Ngay bây giờ chúng ta sẽ cùng làm rõ xem liệu nghịch lí còn tồn tại ở vấn đề nào nữa trong nội dung này.
    Trong một cuốn sách tôi đã được đọc, tác giả có nhắc đến việc phân tích nghịch lí trong rường hợp giả định về 2 anh em sinh đôi này. Nhìn chung, phần đầu tác giả có nói tới những vấn đề tương đối như tôi đã nhắc tới ở trên. Sau cùng, tác giả lại khẳng định rằng người anh em ở lại Trái Đất sẽ già nhanh hơn rất nhiều người bay đi. Lí do là vì người bay đi sẽ phải trải qua rất nhiều quá trình gia tốc và nhất là khi anh ta phải phanh lại để quay trở lại Trái Đất thăm người anh em của mình. Vì sự gia tốc này mà hệ qui chiếu của người này bị thay đổi, anh ta rơi vào nhiều hệ qui chiếu khác nhau và do đó tính tương đối với người kia bị xáo trộn. Tác giả đã sai lầm khi nói điều này vì ngay cả trong trường hợp gia tốc thì 2 hệ qui chiếu của 2 người trên vẫn được coi là tương đối với nhau và là xác định với từng đối tượng tương ứng. Nếu khi A gia tốc trong vũ trụ thì điều đó có nghĩa là với anh ta, B mới là người đang được gia tốc. Chúng ta nên chú ý là kể từ khi thuyết tương đối rộng ra đời thì chúng ta biết rằng điều này là hoàn toàn đúng vì lí thuyết tương đối rộng cho phép áp dụng tính tương đối chuyển động cho cả các hệ qui chiếu phi quán tính. Do đó điều mà tác giả nhắc đến là hết sức sai lầm.
    Trong một chương khác (xin lỗi tôi không muốn nêu tên cuốn sách đó cũng như tác giả của nó ở đây), tác giả lại đề cập đến vấn đề liệu chúng ta có thể đi đến một hành tinh khác trong chớp mắt được không. Theo đó, tác giả khẳng định điều đó là hoàn toàn có thể. Giả sử chúng ta bay với vận tốc rất lớn, rất gần với vận tốc ánh sáng. Vận tốc đó cho phép một người tại hệ qui chiếu Trái Đất (coi là đứng yên) thấy chúng ta đang ngắn lại đến 20 lần, có nghĩa là thời gian của chúng ta sẽ trôi chậm hơn 20 lần trong hệ qui chiếu Trái Đất . Giả sử theo công thức đơn giản chúng ta đều biết của cơ học cổ điển thì ta cấn mất đến 20 năm để đến hành tinh nọ. Với nhà đạo diễn phim viễn tưởng nói trên thì hẳn ông ta sẽ cho rằng giờ đây chỉ mất 1 năm vì thời gian của chúng ta khi này đã trôi chậm hơn 20 lần. Với những lí giải trên thì điều đó là không hể vì thực chất sự dài thời gian này không áp dụng được cho hệ qui chiếu của bản thân chúng ta. Vậy thì có gì chung giữa cái sai lầm của nhà đạo diễn và cách nói của tác giả cuốn sách này không? Hoàn toàn không! Ở đây tác giả đã tìm ra một giải pháp tình thế rất tuyệt vời như sau:
    Giả sử chúng ta đang bay đi trong không gian với vận tốc nói trên. Tại hệ qui chiếu của người quan sát tại Trái Đất (coi là đứng yên) thì chúng ta sẽ trẻ lâu hơn 20 lần, có nghĩa là 20 năm của họ mới là 1 năm của chúng ta. Và như thế chúng ta sẽ đến được hành tinh nọ khi mới già thêm một tuổi còn người thân ở Trái Đất khi đó đã thêm những 20 năm. Tuy nhiên tại hệ qui chiếu của chúng ta (hệ qui chiếu chuyển động so với Trái Đất) thì chúng ta không hề trẻ lâu hơn những người ở lại mà ngược lại, chúng ta sẽ thấy họ trẻ lâu hơn ta rất rất nhiều (20 lần ). Thế nhưng cuối cùng khi đến hành tinh nọ chúng ta vẫn cứ già thêm đúng 1 tuổi không hơn. Tại sao vậy?
    Tác giả đã chỉ ra rằng đó là vì khi ta chuyển động như thế thì con đường phía trước ta lại là đối tượng chuyển động so với ta và chiều dài ta cần vượt qua lại trùng với chiều dài theo phương chuyển động của nó nên với ta nó sẽ ngắn lại trong khi thời gian của ta thì không đổi, do đó với vận tốc đã có, ta có thể không trẻ lâu hơn nhưng ta sẽ vượt qua một con đường ngắn hơn với rất ít thời gian. Điều này quả là một giải pháp tuyệt vời và không hề mâu thuẫn với tính tương đối chuyển đông mà tôi đã nhắc tới ở trên.
    Vậy thì khi đến hành tinh nọ, chúng ta mới già thêm một tuổi. Lúc đó thì theo những gì đã nói, nếu chúng ta đã qua một năm thì ở Trái Đất thực chất cũng chỉ là 1 năm mà thôi. Thế thì những người ở Trái Đất sẽ thấy gì? Quãng đường 20 năm đã được vượt qua chỉ bằng 1 năm ư? Vậy là các định luật Newton bị vi phạm? Và như vậy là tốc độ của chúng ta thực chất đã vượt cả tốc độ ánh sáng hay sao? Vậy thì nghịch lí ở chỗ nào?
    Khi đọc về vấn đề này, quả thật tôi cảm thấy rất khó khăn. Bản thân tôi chưa bao giờ tin vào việc có sự chênh lệch về thời gian như thế. Và tôi cũng không tin có một nghịch lí như thế được phép tồn tại mà không có lời giải. Tôi đã đọc rất nhiều sách và các tạp chí nói về những vấn đề liên quan những những gì tôi thu được đều là những dòng bình luận ngắn gọn và tránh đi những điều này hoặc những lí giải tương tự cuốn sách nói trên. Cuối cùng thì tự tôi rút ra một vấn đề của bản thân là "nghịch lí có chăng cũng chỉ là nghịch lí trong chính ngôn ngữ được sử dụng của chúng ta". Từ đó tôi đã dành thời gian suy nghĩ để tự làm sáng tỏ vấn đề nêu trong cuốn sách kia và tôi đã hiểu ra vấn đề.
    Một lần nữa tác giả lại quên mất một vấn đề không kém quan trọng. Đó là vấn đề đưa ra khi nhắc tới sự co ngắn của con đường. Con đường ở đây không thể co ngắn theo đúng cái cách mà tác giả mong muốn được. Tức là nếu tác giả muốn đi từ A đến B với một tốc độ như đã nói thì con đường đối với ông ta có thể co ngắn lại thật, tức là ông ta sẽ thấy đoạn AB ngắn lại. Cái đáng nói ở đây là theo cách diễn tả của tác giả thì điểm A sẽ là cố định khi ông ta bắt đầu chuyển động còn điểm B sẽ chạy gần lại A và do đó con đường sẽ ngắn lại để dễ dàng vượt qua hơn. Thật lạ là tác giả lại không thắc mắc xem cái gì đã cho ông ta sự ưu tiên quá mức như vậy. Con đường nếu có ngắn lại thì sẽ ngắn lại theo cả 2 chiều, có nghĩa là nói một cách dễ hiểu theo hình học phổ thông thì cả A và B đều chạy về phía trung điểm của đoạn thẳng. Có nghĩa là khi đó tác giả sẽ phải thực hiện một thao tác nữa là phải vượt qua điểm A trước khi vượt qua quãng đường đã co ngắn kia. Thật vậy, trong trường hợp đang xét thì điểm A không còn là điểm xuất phát của tác giả nữa mà sẽ là một điểm cách xa ông ta một đoạn nào đó mà chúng ta không thể diễn tả được vì hiện nay ngôn ngữ vật lí đã có không cho phép điều đó.
    Cuối cùng chúng ta có thể tạm đi đến một kết luận rằng sẽ chẳng có một tương lai nào sáng sủa cho loài người khi mà người ta cứ cố gắng gán cho lí thuyết tương đối những hệ quả kì quái do trí tưởng tượng của mình. Sẽ chẳng có con tàu nào vượt hàng ngàn năm ánh sáng để đến một hành tinh xa xôi mà những phi hành gia đầu tiên còn có cơ hội để ngắm nhìn thành quả của mình. Vật lí cuõi cùng vẫn là môn khoa học phục vụ trực tiếp đời sống con người và người ta chỉ có thể thấy hạnh phúc với nó khi người ta biết cách giải thích và sử dụng nó theo đúng cái cách mà tư duy của người ta nhìn nhận. Nó sẽ trở thành vô nghĩa và mãi mãi ở lại với những bộ phim và những cuốn sách khi chúng ta bóp méo nó, bắt nó phải theo những tư tưởng chủ quan của chúng ta.
    Nhân nói về việc này, lẽ ra tôi sẽ nhắc đôi chút tới lí thuyết dây, một lí thuyết chưa được công nhận chính thức nhưng có vẻ đã có rất nhiều người muốn nói đến nó như nói về thuyết tương đối theo cái cách mà tôi đã nhắc đến ở trên. Tuy nhiên do điều kiện thời gian của chủ đề này không cho phép nên tôi xin phép dừng vấn đề tại đây, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các bạn.
  2. RAGNAROK

    RAGNAROK Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    3.891
    Đã được thích:
    1
    Đây là ảnh tôi sử dụng để minh học về lịch sử tiến hoá vũ trụ theo lí thuyết BIGBANG (cái hình hiện lên trên máy trong cái ảnh họp mặt ấy)
    History of the Universe​
  3. RAGNAROK

    RAGNAROK Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    3.891
    Đã được thích:
    1
    Thông báo về việc nhân các tài liệu về Hệ Mặt Trời của Vtt​
    Hiện nay toàn bộ các tài liệu về hệ Mặt Trời (chưa được Việt hoá) do anh Vtt trình bày tại các buổi họp gần đây đã được chuyển đến hộp mail clbthienvan_tailieu@yahoo.com . Do dung lượng của các tài liệu này quá lớn nên không tiện post lên diễn đàn.
    Các bạn đã tham gia hoặc chưa có điều kiện tham gia các buổi thảo luận về đề tài này, nếu có nhu cầu xin đăng kí nhận tài liệu bằng cách gửi mail tới hộp mail clbthienvan_tailieu@yahoo.com theo hướng dẫn tại trang 1 của topic này.
    Cám ơn các bạn.
  4. RAGNAROK

    RAGNAROK Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    3.891
    Đã được thích:
    1
    Chủ đề tháng 4/2005
    Mặt Trời
    thực hiện : RAGNAROK
    tài liệu của chủ đề này sẽ được chuyển ngay đến hộp mail clbthienvan_tailieu@yahoo.com và sẽ được chuyển cho các bạn đã đăng kí nhận tài liệu, các bạn khác mời tiếp tục đăng kí nhận tài liệu theo hướng đãn ở trang 1.
    Chúng ta sống trên Trái Đất, một trái cầu lơ lửng, lăn tròn. Hàng đêm, bầu trời của chúng ta sáng lên nhờ những đốm sáng nhỏ bé mà chúng ta vẫn gọi là các ngôi sao, các tinh tú. Giờ đây chúng ta đều biết rằng mỗi đốm sáng nhỏ bé đó đều là các khối cầu khí khổng lồ có khả năng tự phát sáng và phát nhiệt, đó là cách duy nhất để ánh sáng của chúng đến được với chúng ta. Trong số hàng tỷ tỷ ngôi sao đó, chỉ có một ngôi sao duy nhất đã mang lại cho chúng ta sự sống, một ngôi sao không bao giờ xuất hiện vào ban đêm bởi vì bản thân sự hiện diện của nó đã đồng nghĩa với ánh sáng ban ngày. Có lẽ chúng ta chẳng bao giờ gọi nó là một ngôi sao bởi vì nó đã có một tên gọi khác : Mặt Trời.
    1. Mặt Trời trong nhận thức ban đầu của con người!
    Như đã một lần tôi nhắc tới trong chủ đề về "Vũ trụ và cơ học", nhận thức của loài người thời xa xưa là hết sức sơ khai. Sự lo sợ về các hiện tượng thiên nhiên, về các chu kì thời tiết đẫ khiến họ tin vào các đấng siêu nhiên, các thần linh che chở, bảo vệ và cũng có thể nổi giận với họ. Cũng như mưa, gió, lửa, ...., Mặt Trời cũng được ga?Tn với một vị thần, một vị thần ở trên cao hàng ngày mang ánh sáng đến cho loài người.
    Có thể nói rằng hầu hết các dân tộc đều có hình ảnh của vị thần Mặt Trời trong các truyền thuyết của họ. Trong nhiều truyền thuyết, thần Mặt Trời được coi là vị thân tối cao thống trị thiên đình, cũng có nhiều truyền thuyết coi thần Mặt Trời tuy không phải một vị thần tối cao nhưng là vị thần đáng kính nhất, mang lại ánh sáng cũng chính là cái quí nhất cho con người.
    Một truyện thần thoại rất tiêu biểu mà đếnnay chúng ta vẫn con được biết tới hình ảnh của vị thần Mặt Trời trong trí tưởng tượng của con người trước đây là thần thoại Hy Lạp. Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều hình ảnh được giữ lai về vị thần Mặt Trời Helios trong thần thoại này. Theo trí tưởng tượng của người Hy Lạp xa xưa, Helios là vị thần hàng ngày ngồi trên cỗ xe vàng tứ mã. Mặt Trời được thần đặt trên xe này và đưa đi dọc theo bầu trời Đông - Tây theo lệnh của thần Zeus. Do đó mà thế giới không thể thiếu Helios vì chỉ một ngày thần xin... nghỉ phép là ngày hôm đó sẽ hoàn toàn là đêm đen.
    [​IMG] (Thần helios và cỗ xe vàng tứ mã mang lại ánh sáng cho loài người)
    Nhìn chung thời xa xưa tất cả quan niệm của con người về vũ trụ cũng như Mặt Trời chỉ có vậy. Đến khi các ý tưởng toán học đầu tiên hình thành, con người ta mới bắt đầu quan tâm đến việc giải thích cấu trúc vũ trụ. Một lần nữa chúng ta lại nhắc đến mô hình địa tâm của Ptolemy. Mô hình này được đưa ra trong tác phẩm Almagest của Ptolemy mà theo đó Trái Đất của chúng ta chính là trung tâm vũ trụ và các mặt cầu quay quanh Trái Đất tạo nên vũ trụ của chúng ta. Theo mô hình đó mà chúng ta đã biết thì Mặt Trời cũng như các hành tinh khác , chỉ là một thiên thể thuộc một mặt cầu luôn quay quanh Trái Đất.
    Mô hình này được thay thế bằng mô hình nhật tâm của Copernics vào năm 1543 (gần 2000 năm sau) mà theo đó Mặt Trời đã trở thành trung tâm của vũ trụ và Trái Đất chỉ là một hành tinh quay quanh mặt Trời (như ngày nay chúng ta đã biết một mô hình như vậy về hệ mặt Trời)
    Vậy trước khi kết thúc vấn đề nhận thức cũ của con người hay là lịch sử phát triển nhận thức của con người về Mặt Trời, chúng ta sẽ khẳng định lại một lần nữa về những gì chúng ta đã biết về vị trí của chúng ta và của mặt Trời trong vũ trụ.
    Chúng ta sống trên Trái Đất, hành tinh thứ 3 (tính từ trong ra ngoài) và là hành tinh duy nhất có sự sống của hệ Mặt Trời. Mặt Trời của chúng ta là một ngôi sao nằm gần dìa của Milkyway - dải sáng vắt ngang bầu trời mà chúng ta vẫn thường gọi là Ngân Hà. Chính Mặt Trời đã mang lại sự sống cho chúng ta suốt mấy tỷ năm qua, còn tương lai của nó thì chúng ta sẽ biết thêm ở một trong những phần được nhắc tới dưới đây.
    Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiều kĩ hơn vầ Mặt Trời.
    2.Vài nét về ngôi sao Mặt trời
    Mặt Trời là một ngôi sao có khối lượng và kích thước thuộc loại trung bình so với các sao khác trong thiên hà. Nó nằm cách dìa củ Milkyway 14000 năm ánh sáng và cách trung tâm của nó khoảng 26000 năm ánh sáng, thuộc một nhánh của thiên hà xoắn Milkyway
    [​IMG]
    *Theo biểu đồ quang phổ chúng ta đã biết, Mặt trời thuộc loài quang phổ G2V, là một sao thuộc dãy sao lùn vàng.
    _ quang phổ của một ngôi sao gồm 2 phần chính biểu thị độ sáng và độ trưng
    Độ sáng của ngôi sao được chia theo các cấp O,B,A,F,G,K,M với các chữ số tương ứng đi kèm từ 0 đến 9 (riêng O chỉ có từ 5 đến 9) Các sao O,B,A là các sao nóng sáng hơn Mặt Trời, các sao F,G là các sao kiểu Mặt Trời còn các sao K,M thì lạnh hơn.
    _ độ trưng (tức công suất bức xạ) của ngôi sao được chia thành các dãy trên biểu đồ như sau:
    Ia , Ib , II : dãy sao siêu khổng lồ
    III: dãy khổng lồ
    IV: dãy cận khổng lồ
    V: dãy sao lùn (trước đây lí hiệu là d)
    VI: dãy cận lùn
    VII: dãy lùn trắng
    Như vậy thì Mặt Trời là một sao thuộc dãy sao lùn, một sao lùn G2 tương ứng với một sao lùn vàng.
    *Mặt Trời có khối lượng gấp 330 000 lần khối lượng Trái Đất và cách Trái Đất của chúng ta 150 triệu km (1 đoan vị thiên văn) tương ứng với 8 phút ánh sáng.
    *Cấp sao biểu kiến của Mặt Trời là -26,72 và cấp sao tuyệt đối là 4,85 (cấp sao biểu thị mức độ sáng của các ngôi sao)
    *Nhiệt độ bề mặt của Mặt Trời vào khoảng 6000K, một số chỗ xuất hiện vết đen thì có nhiệt độ khoảng 4800 - 5000 K
    *Nhiệt độ tại tâm Mặt Trời là khoảng 15 000 000 K, nhiệt độ này có được do phản ứng nhiệt hạch xảy ra liên tiếp trong nhân Mặt Trời. Chính phản ứng này cung cấp năng lượng cho Mặt Trời toả sáng.
  5. RAGNAROK

    RAGNAROK Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    3.891
    Đã được thích:
    1
    3.Sự hình thành và toả sáng của Mặt Trời
    Sự hình thành của Mặt Trời hay chính là sự hình thành của cả hệ Mặt Trời diễn ra cách đây chừng 5,1 tỷ năm. Người đề xướng ra giả thuyết về sự ra đoiwf của hệ Mặt Trời là Laplace, đến nay chúng ta vẫn công nhận giả thuyết này:
    Toàn bộ hệ Mặt Trời ra đời từ một đám khí bụi khổng lồ (một dạng tinh vân hành tinh). Cùng với thời gian, đám khí này ngày càng gia tăng khối lượng do sự gia nhập của vật chất bên ngoài. Khối lượng càng lớn, đám khí bụi càng co lại do hấp dẫn bản thân làm mật độ lớn dần. Sự có mặt của khối lượng lớn và sự chuyển động của chúng làm phát sinh các momen khiến cho toàn bộ khối khí bụi tự quay quanh tâm chung ngày càng nhanh. Sự co lại tiếp tục làm xuất hiện tại tâm khối khí một khối vật chất có mật độ lớn , đó chính là Mặt Trời. Khối khí bụi tiếp tục quay làm bứt ra các vành vật chất và trong mỗi vành vật chất lại có nhưng vị trí xuất hiện các khối có mật độ lớn tạo thành các hành tinh, rồi đến các vệ tinh quay quanh các hành tinh.
    Sự phát sáng và phát nhiệt của Mặt Trời là nhờ có phản ứng nhiệt hạt nhân diễn ra trong lòng nó.
    Phản ứng nhiệt hạt nhân này chỉ diễn ra khi có đủ diều kiện nhệt độ và áp suất. Mỗi vật thể đều có lực hấp dẫn huớng tâm của riêng ình và điều đó tạo ra ở tâm mỗi vật thể một áp suất tỷ lệ với khối lượng bản thân. Ở trường hợp của các ngôi sao (khối lượng tối thiểu là 80 lần khối luợng sao Mộc), khối lượng bản thân của chúng đủ lớn để áp suất tại tâm ngôi sao đạt đến điều kiện xảy ra các phản ứng nhiệt hạt nhân (nhiệt hạch).
    Thông thường, phản ứng này diễn ra là sự kết hợp của hạt nhân triti (hydro3) với một hydro1 hoặc một deutri (hydro2) để tạo thành một heli4. Phản ứng này là một dạng phản ứng dây chuyền giải phóng năng lượng rất lớn (được wúng dụng trong bomb khinh khí - bomb H)
    Ở Mặt Trời, phản ứng này diễn ra hơi khác một chút, không có sự có mặt của các hạt nhân Deutri và Triti nên sự tạo thành Heli 4 diễn ra liên tiếp từ các hạt nhân H1. mỗi cặp hạt nhân H kết hợp với nhau để tạo thành một hạt nhân H2 (Deutri), sau đó mỗi hạt nhân Deutri này nhân thêm một proton (hạt nhân H1) để tạo thành Triti, mỗi cặp Triti lại kết hợp trực tiếp với nhau tạo Heli4 và giải phóng ra 2 proton. Mỗi giai đoạn trong quá trình trên đều giải phóng ra các neutrino và rất nhiều bức xạ gamma, đây chính là nguồn cung cấp cho quá trình toả sáng và nhiệt lượng toả ra từ Mặt Trời.
    4.Bề mặt Mặt Trời
    khi quan sát Mặt Trời, chúng ta chỉ thấy một phần bề mặt của nó có ánh sáng rất mạnh và đây là toàn bộ phần bề mặt mà con người có thể quan sát và chụp ảnh được, đó là quang cầu (photosphere). Lớp quang cầu này có chiều dày khoảng 300 - 600 km và có nhiệt độ khoảng 5600K, lớp quang cầu này luôn chuyển động, là vùng hoạt động mạnh nhất trên bề mặt Mặt Trời. Việc đo phổ của quang cầu cho biết cấu tạo của Mặt Trời về mặt thành phần hóa học. Hầu hết các vạch phổ thu được từ quang cầu (phổ hấp thụ) là các vạch hẹp và sẫm, cho thấy thành phần của Mặt Trời hoàn toàn là khí và chủ yếu gồm các khí nhẹ.
    [​IMG]
    Phía ngoài quang cầu là một lớp khí bụi gọi là nhật hoa. Nó giống như một lớp mây bụi che phủ khí quiyển của Mặt Trời, nhiệt độ và mật độ của lớp mây này thấp hơn rất nhiều quang cầu nên ta không thể thấy bằng mắt thường. Hình dạng của nhật hoa luôn thay đổi do nó chỉ là một đám khí bụi bị giữ lại do hấp dẫn Mặt Trời, chúng ta có thể thấy sự xuất hiện của chúng khi Nhật thực toàn phần xảy ra.
    Giữa nhật hoa và quang cầu là lớp sắc cầu (chromosphere) mỏng chuyển động trên bề mặt của quang cầu, lớp này nhìn chung rất mỏng và chỉ biểu hiện ở các lưỡi lửa bắn ra trên mặt ngôi sao và có dạng như những đám cháy khi nhìn qua các kính thiên văn.
    Khi nhật thực toàn phần xảy ra (xin được nói kĩ hơn về hiện tượng này ở phần sau), chúng ta không chỉ thấy nhật hoa mà còn có thể thấy một hiện tương đặc biệt nữa, đó là các vòng khí màu đỏ bắn lên cao đến 1000km và ở đó khá lâu. Đó là các tai lửa, chúng bắn ra từ quang cầu trên bề mặt Mặt Trời. Hiện tượng này là sự giải phóng năng lượng của các phản ứng hạt nhân và là sự trao đổi giữa sắc cầu và nhật hoa. Sự xuất hiện của các tai lửa này có nguyên nhân từ các từ trường xuất hiện trong lòng Mặt Trời.
    4*.Các vết đen Mặt Trời
    Một trong các hiện tượng gây ảnh hưởng mạnh nhất lên Trái Đất của Mặt Trời là từ trường sinh ra bởi các vết đen, các vệt nhỏ màu đen mà đôi khi ta có thể quan sát được trực tiếp bằng mắt thường khi nhìn lên Mặt Trời.
    [​IMG]
    Người đầu tiên quan sát các vết đen này là Galileo Galilei, ông đã hi sinh đôi mắt của mình để quan sát các vết đen này bằng một kính thiên văn 30x (chiếc kĩnh viễn vọng đầu tiên của loài người). Các quan sát của Galilei cho thấy các vết đen Mặt Trời xuất hiện và tồn tại khá lâu trên Mặt Trời, chúng chuyển động từ từ trên bề mặt này và dần biến mất sau khi bị che khuất. Từ đó ông đi đến kết luận rằng các vết đen này cũng là một phần của Mặt Trời và chuyển động quay cùng với thiên thể, và việc quan sát các vết đen Mặt Trời cho phép Galilei tự ruít ra két luận rằng Mặt Trời có chu kì tự quay khoảng 28 ngày.
    Các vết đen Mặt Trời có đường kính khoảng 10000 km và tồn tại khoảng 2 tháng, tức là đủ thời gian để chúng chuyển động trên bề mặt Mặt Trời, biến mất và lại xuất hiện 2 tuần sau đó. Các vết đen này bản thân chúng là các vùng có nhiệt độ thấp hơn trên bề mặt ngôi sao, chúng ta biết rằng bề mặt Mặt Trời là khoảng 5800K , còn các vết đen thì chỉ có khoảng 4800K, sự chênh lệc nhiệt độ này làm chúng ta nhìn lên tháy chúng có vẻ tối, và cũng sự chênh lêch nhiệt độ nhất thời này dẫn đến các chênh lệch áp suất và biến các vết đen trở thành các vùng hoạt động mạnh mẽ mỗi khi chúng xuất hiện, sự hoạt động này gây ra nhkiều ảnh hưởng đến Trái Đất mà chủ yếu là các hiệu ứng từ. Chúng có thể làm kim nam châm chỉ sai hướng và có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động của nhiều thiết bị kĩ thuật.
    Chu kì của các vết đen vào khoảng 11 - 17 năm, cũng có chu kì 22 năm, 64 năm và cả 100 năm. Thông thường, chu kì của chúng là 11 năm hoặc 22 năm, vào những thời kì có sự trùng của các chu kì, giống như sự cộng hưởng của nhiều hiệu ứng, Mặt Trời hoạt động rất dữ dội và gây ra rất nhiều chấn động đến hoạt động của các hành tinh, trong đó có Trái Đất. Hiện tượng xảy ra vào cuối năm 2003 vừa qua là một ví dụ.
  6. RAGNAROK

    RAGNAROK Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    3.891
    Đã được thích:
    1
    5.Tiến hóa của Mặt Trời:
    Như chúng ta đã biết, Mặt Trời hình thành cách đây 5,1 tỷ năm từ một đám khí bụi khổng lồ, đám khí này co lại và quay nhanh dần do hấp dẫn bản thân và phần trung tâm khối khí tụ lại tạo thành Mặt Trời.
    Đến nay Mặt Trời của chúng ta đã tồn tại được hơn 5 tỷ năm. Vậy câu hỏi là khi nào nó sẽ ngừng toả sáng, và kết cục của nó là gì?
    Sự tiến hoá của Mặt Trời cũng tuân theo qui luật chúng của các ngôi sao, và nó phụ thuộc vào khối lượng và mật độ (tức kiểu sao) của Mỗi ngôi sao. Phần trên đã nhắc qua rằng Mặt Trời là một sao lùn vàng G2V. Trước hết chúng ta sẽ nhắc qua về tiến trình tiến hoá chung của một ngôi sao với các khối lượng tương ứng khác nhau kể từ sau khi chúng bắt đầu toả sáng:
    Tuỳ theo khối lượng sao. Các sao càng nặng càng cần nhiều năng lượng để chống lại hấp dẫn nên nhiên liệu nhanh bị đốt cháy hết. Do đó tuổi họ của sao càng nặng thì càng ngắn ngủi.
    Các sao như Mặt Trời có tuổi thọ khoảng 10 tỷ năm. Các sao siêu khổng lồ chỉ thọ vài triệu năm, các sao khổng lồ 10- 15 triệu năm còn các sao lùn đỏ là 20 triệu năm.
    Sau khi hêt nhiên liệu. Ngôi sao không thể tiếp tục chống lại hấp dẫn bản thân. Phần trong co lại về phía lõi còn vỏ ngoài phồng to và phát ra ánh sáng đỏ. Ngôi sao trỏ thành sao khổng lồ đỏ trong khoảng 100 triệu năm (với sao cỡ Mặt Trời) hoặc sao siêu khổng lồ đỏ trong vài triệu năm. Lõi trong co lại và tiếp tục nóng lên. Đây là lúc phản ứng xảy ra kết hợp hạt nhân Heli thành hạt nhân Cacbon. Khi áp suất giải phóng ra cân bằng với hấp dẫn, lõi ngôi sao ngừng co lại.
    Đối với các sao nhỏ cỡ Mặt Trời, sau quá tình trên, lõi sao có lại thành sao lùn trắng còn lớp ngoài phóng ra tạo thành tinh vân hành tinh.
    [​IMG]
    Với các sao có khối lượng lớn, nhiệt độ ở lõi sẽ tăng đủ lớn dể xảy ra các quá trình tổng hợp hạt nhân tạo ra các nguyên tố năng như C, O, Mg, Al, P, S,....Fe. Ngôi sao có lõi sắt trong cùng và các nguyên tố nhẹ dần ra phía ngoài.
    Giai đoạn kết thúc: khi nhiên liệu hoàn toàn cạn kiệt, ngôi sao bước vào thời kì suy sập do hấp dẫn.
    _ Các sao có khối lượng < 1,4 lần khối lượng Mặt Trời (giới hạn Chandrasekhar) co laị thành sao lùn trắng và cuối cùng là một sao lùn đen mất hút trong vũ trụ.
    _ Các sao khối lượng 1,4 - 1,5 khối lượng Mặt Trời co lại mạnh hơn, vượt qua kích thước sao lùn trắng xuống mức đường kính 20km gây ra một vụ nổ sao siêu mới. Cuối cùng, khi lực đẩy tĩnh điện giữa các neutron và proton chống lại được lực hấp dẫn, sao ngừng co và trở thành sao neutron.
    _ Các sao có khối lượng lớn hơn Mặt Trời 4-5 lần co lại hêt sức manh mẽ, cũng tạo ra một vụ nổ sao siêu mới. Tuy nhiên do khối lượng lớn, hấp dẫn lớn đến mức làm triệt tiêu lực đẩy giữa các neutron, tạo thành lỗ đen
    Theo tính toán hiện nay, giai đoạn kết thúc của Mặt Trời có lẽ sẽ bắt đầu vào khoảng 4 tỷ năm nữa. Sau thời gian này, nhiên liệu của Mặt Trời không còn đủ để tạo ra các phản ứng chống lại hấp dẫn của bản thân nó nữa và trong lõi trong co lại để dần tạo thành sao lùn trắng thì cái vỏ ngoài sẽ phình to và tất cả chúng ta cũng như các hành tinh nhóm trong sẽ bị nuốt chửng và khi đó chúng ta hãy hi vọng rằng con người đã tìm được một nơi khác để ở hay ít ra là vẫn còn nơi nào trong vũ trụ giống chúng ta (tức là sự sống vẫn còn tồn tại)
    6.Nhật thực và nguyệt thực.
    Nhật thực và nguyệt thực là hiện tượng xảy ra khi Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng cùng nằm trên một đường thẳng và che khuất lẫn nhau.
    [​IMG]
    Thời xưa, khi chưa có nhiều nhận thức về vũ trụ, con người không hiểu về 2 hiện tượng này và thường đưa ra các cách giải thích khác nhau:
    -Có một câu chuyện thần thoại phương đông kể rằng 2 nữ thần Mặt Trời và Mặt Trăng là do Ngọc Hoàng sinh ra có nhiệm vụ thay nhau đi giám sát dân cư từng vùng.Chồng của 2 nữ thần này là một con Gấu. Khi gấu đi với một trong hai người vợ thì khi đó dưới hạ giới người ta thấy Mặt Trời hoặc Mặt Trăng bại che khuất và người ta phải đuổi gấu đi bằng cách gõ mạnh vào chiêng ,trống hay cối giã gạo.v.v....
    Cũng có chuyyện cho rằng đó là khi Mặt Trăng hoặc Mặt Trời đã bị gấu ăn mất.
    -Ở Thổ Nhĩ Kì, vào năm 1877, người ta đã chĩa súng về phía Mặt Trời bắn liên tiếp vì cho rằng quỷ Satan đã ăn mất Mặt Trời của họ.
    -Khi có nhật thực toàn phần, trên mặt đất xuất hiện những bóng nhỏ như những làn sóng lướt đi, còn chân trời thì loé lên những vầng hào quang rực lửa. Sử gia Herodot đã ghi lại một trận đánh kết thúc bất ngờ giữa quân Lidia và quân Midia vì các binh sĩ 2 bên đều kinh hoàng khi thấy hiện tượng này. Đến nay nhờ sự phát triển ngành thiên văn học, người ta dễ dàng xác định trận đánh đó diễn ra vào ngày 28/5/585 (trước công nguyên).
    Đến nay chúng ta có thể giải thích hiện tượng này như sau:
    Vì quỹ đạo chuyển động của Mặt Trăng quanh Trái Đất là một mặt phẳng nghiêng so với quỹ đạo chuyển động quanh Mặt Trời của Trái Đất nên 2 mặt phẳng này cắt nhau tạo thành một giao tuyến trong đó có 2 điểm nối tâm gọi là 2 tiết điểm của bạch đạo. Nhật thực hay nguyệt thực sẽ xảy ra khi Mặt Trăng nằm tại một trong hai tiết điểm
    [​IMG]
    Dưới ánh sáng Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng tạo ra phía sau mình một nón bóng tối khổng lồ. Khi 3 thiên thể nằm trên giao tuyến nói trên thì trục của 2 nón bóng tối này cùng nằm trên mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng.
    Khi Mặt Trăng đi qua tiết điểm giữa Trái Đất và Mặt Trời (ngày không Trăng) ,cái nón bóng tối của nó quét qua Trái Đất tạo thành 1 bóng đen .Những khu vực bị bóng đen đó bao phủ khi đó xảy ra nhật thực. Vì Mặt Trăng có đường kính nhỏ hơn 400 lần so với Mặt Trời và khoảng cách từ nó đến Trái Đất cũng nhỏ hơn 400 lần so với khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời nên khi xảy ra nhật thực toàn phần chính là khi Mặt Trăng lướt qua che vừa khít lên đĩa sáng Mặt Trời. Những nơi khác do có sự thay đổi góc nhìn nên chỉ có nhật thực một phần.
    Nhật thực toàn phần ít khi xảy ra vì bóng của Mặt Trăng in xuống Trái Đất chỉ tạo thành một vết rất nhỏ so với bóng của Trái Đất và cái bóng đó lướt đi với tốc độ 1km/s. Tại 1 điểm nhất định khi muốn thấy 2 lần nhật thực toàn phần kế tiếp nhau cần đợi 250-300 năm.
    Ngược lại, khi Mặt trăng đi qua tiết điểm đối xứng bên kia Trái Đất (ngày Trăng tròn) , nó đi qua cái nón bóng tối của Trái Đất và không nhận được ánh sáng đến từ Mặt Trời, do đó xảy ra nguyệt thực. Cũng vì nón bóng tối của Trái Đất lớn hơn rất nhiều so với Mặt Trăng nên nguyệt thực xảy ra trong một thời gian dài và thấy được nhiều nơi trên Trái Đất.
    Do thời gian có hạn và chưa có nhiều điều kiện tham khảo thêm nên bài viết trên còn nhiều hạn chế và đôi chỗ diễn đạt có thể hơi tối nghĩa và thiếu logic, rất mong được các bạn thông cảm và góp ý thêm!
    Và chỗ có tham khảo một số sách: Tìm hiều hệ MT, Thiên văn vật lí, 7 bước đến vật lí hiện đại, thiên văn và vũ trụ và một số web nước ngoài!
  7. RAGNAROK

    RAGNAROK Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    3.891
    Đã được thích:
    1
    Vài nét kết quả thảo luận của ngày họp 15/5/2005​
    Cuộc họp tháng 5 vừa qua không có tài liệu do chúng ta tiếp tục thảo luận về Mặt Trời. Ở đây xin post lên một số câu hỏi và các câu trả lời mà có lẽ nhiều bạn quan tâm, coi như một tài liệu cho tháng này.
    Các câu hỏi này hầu hết là câu hỏi của em Cooro (không có em này hỏi chắc tôi cũng ngủ gật vì chính bài thuyết trình của tôi mất)
    1- Làm sao đo được khối lượng Mặt Trời và xác định được tuổi của Mặt Trời?
    Trả lời
    :
    Người ta có thể đo được khối lượng của Mặt Trời hay bất cứ thiên thể ở gần nào bằng công thức đơn giản của cơ học Newton - công thức hấp dẫn:
    F = G m1.m2/r2
    Lực F có thể đo được dễ dàng, hằng số G và khối lượng của TĐ đã biết cũng như khoảng cách giữa TĐ và Mặt Trời nên dễ dàng tính ra khối lượng Mặt Trời.
    Về tuổi của Mặt Trời. Người ta có 2 phương pháp.
    Phương pháp thứ nhất là so sánh tỷ lệ H và He trong quá trình biến đổi niệt hạch giữa các thời điểm khác nhau để tính ra tuổi của Mặt Trời.
    Phương pháp thứ hai là đo tuổi phóng xạ của Urani. Urani này lấy trên Trái Đất nhưng tuổi của chúng trong hệ Mt thì là như nhau. Tại buổi họp mọi người đã tranh luận khá nhiều về điều này. Ở đây tôi xin giải đáp luôn, cái này nó liên quan đôi chút đến vật lí hạt cơ bản.
    2-Nói qua về sự phóng xạ và hiện tương phân hạch của hạt nhân
    Ta đã biết bảng hệ thống tuần hoàn của chúng ta chỉ có trên 100 nguyên tố mà không có nhiều hơn. Cái này là do tác dụng của các lực hạt nhân yếu hay nhiều người gọi đơn giản là các tương tác yếu. Các lực này gây ra sự phóng xạ và các hiện tượng phân rã hạt nhân. Lực này không cho phép các hạt nhân có quá nhiều proton để gây ra sự mất cân bằng với neutron và chúng sẽ phân huỷ ngay nếu trường hợp đó xảy ra.
    Riêng với các nguyên tố như Urani, chúng ta gọi là các nguyên tố phóng xạ thì có một đại lượng biểu diễn tốc độ phóng xạ của chúng là chu kì bán rã. Cứ sau một chu kì như thế thì một nửa số lượng chất phóng xạ sẽ biến mất, chúng đã biến thành chất khác. Hôm qua có một vài người đã nhầm sự phóng xạ với sự phân hạch hạt nhân nặng. Xin trả lời thế này.
    Sự phóng xạ không phải là sự vỡ hạt nhân, nó là sự bức xạ ra môi trường xung quanh của một chất phóng xạ. các bức xạ này chủ yếu gồm các tia gamma, ngoài ra còn một loại hạt nữa là hạt mezon. Các tia gamma hoàn toàn không có khối lượng nhưng mang theo khối lượng của hạt tồn tại dưới dạng năng lượng, còn hạt bozon có khối lượng lớn hơn electron khoảng 200 lần và là nguyên nhân làm giảm khối lượng hạt nhân và khiến nó chuyển dần thành một chất khác.
    Còn sự phân hạch thì là sự vỡ đôi hạt nhân của một nguyên tố phóng xạ nặng do không chịu nổi các lực tương tác giữa các proton, tuy nhiên điều này chỉ xảy ra ở khối lượng tới hạn của lượng chát phóng xạ , tức là không thể xảy ra với các khối lượng nhỏ hơn. Việc nổ bomb nguyên tử chính là thao tác đưa 2 nửa của lượng tới hạn cần thiết lại với nhau và chính tương tác khi va chạm sinh ra các phản ứng dây chuyền biến đổi và phá vỡ hạt nhân Urani.
    3- Khi Mặt Trời đốt hết nhiên liệu thì nó sẽ chết như thế nào? Hấp dẫn của nó tác động lên Trái Đất có thay đổi không?
    Trả lời:
    rTất cả các ngôi sao sau khi cháy hết nhiên liệu H đều không còn đủ năng lượng để chống lại hấp dẫn bản thân của mình, toàn bộ khối vật chất sẽ co lại về phía tâm ngôi sao. Tuy nhiên khi co đến một mật độ nhất định đủ đậm đặc, áp suất một lần nữa lại cho phép sự nổ hạt nhân xảy ra. Các hạt nhân heli kết hợp tạo thành hạt nhân cacbon và quá trình này giải phóng năng lượng , năng lượng này làm vỏ ngoài ngôi sao phình to để nó biến thành một sao khổng lồ đỏ trong vài triệu năm trước khi nổ tan thành một vụ nổ nova (sao mới - tân tinh). Trong khi đó lõi sao tiếp tục co lại và hạt nhân C lại kết hợp tiếp để tạo thành Al, Fe.... Với Mặt Trời và các sao cùng khối lượng, nó sẽ biến thành các sao lùn trắng và mờ dần để thành một sao lùn đen mất hút. Còn với khối lượng lớn hơn thì ngôi sao có thể co mạnh hơn nữa để tạo thành các sao neutron (còn gọi là Pulsar do sự phát xạ xung điện từ của nó)hay thậm chí là các lỗ đen.
    Việc co lại hay phình ra này có thể coi như không ảnh hưởng gì đến hấp dẫn của nó với Trái Đất do khoảng cách trong công thức hấp dẫn là khoảng cách từ tâm Mặt Trời đến tâm Trái Đất. Có nghĩa là khi co lại hay phình ra thì khối lượng Mặt Trời thay đổi không đáng kể, khoảng cách 2 tâm vẫn như cũ nên hấp dẫn gần như không thay đổi gì cả.
    4- Nói qua về thấu kính hấp dẫn:
    Phần này tôi cut một đoạn trong bài trình bày sắp tới sẽ đưa vào website thiên văn học của chúng ta
    Lý thuyết tương đối tổng quát cho chúng ta một phương trình trường mô tả không gian và thời gian mà trong đó không gian sẽ bị bẻ cong tại những nơi tồn tại khối lượng lớn và do đó ánh sáng sẽ đi theo những đường cong trong không gian cong này (điều này được kết luận do khi đó lý thuyết lượng tử đã ra đời và cho phép coi ánh sáng là các hạt không khối lượng).
    Sự lệch của các tia sáng khi đi qua các vật thể có khối lượng lớn (các ngôi sao) đã được kiểm chứng vào năm 1919 qua việc quan sát sự sai khác về vị trí của các ngôi sao khi có hiện tượng Nhật thực. Cuộc quan sát này đã góp một phần rất lớn khẳng định sự đúng đắn của lý thuyết tương đối tổng quát của Einstein. Nó còn cho phép chúng ta tận dụng một hẹ quả của lí thuyết này trong việc quan sát các thiên thể và tìm kiếm quá khứ. Đó là thấu kính hấp dẫn (Gravitational lens).
    [​IMG]
    Thấu kính hấp dẫn là hiện tượng ánh sáng từ các ngôi sao, các thiên hà ở xa khi đi đến Trái Đất bị bẻ cong khi đi gàna các ngôi sao lớn hay các thiên hà, sự bẻ cong ánh sáng ở rìa của ngôi sao hay thiên hà chặn đường này làm các tia sáng từ thiên hà xa khi đến với chúng ta hội tụ lại giống như khi đi qua một thấu kính hội tụ và việc này cho phép chúng ta quan sát rõ hơn hình ảnh các thiên hà này (đã được phóng to nhờ chiếc thấu kính hấp dẫn)
  8. RAGNAROK

    RAGNAROK Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    3.891
    Đã được thích:
    1
    Còn điều gì bổ sung về các bài trên, mong được sự bổ sung của mọi người qua PM (vì chủ đề này chỉ cho mod post thôi)
    Chủ đề tháng tới tôi sẽ trình bày về một số học thuyết đáng chú ý của vũ trụ học và vật lí hiện nay.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này