1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chùa chiền Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi manhogany, 13/01/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. manhogany

    manhogany Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/11/2002
    Bài viết:
    239
    Đã được thích:
    0
    Chùa chiền Việt Nam

    Chào các bác ạ. Lần đầu tiên thò cổ vào đây xin các bác chỉ giáo. Chả là tôi đang tìm hiểu về chùa Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội, bây giờ là quận Long Biên ). Các bác có thông tin gì về ngôi chùa này làm ơn chỉ giúp. Xin đa tạ.
  2. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Về tên gọi ?oChùa Bồ Đề? thì ở Việt Nam còn nhiều nơi khác có tên như vậy, như ở huyện Từ Liêm, Cần Giuộc, Vũng Tàu?
    Chùa Bồ Đề mà bạn đề cập ở thôn Phú Viên, xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, cách bờ bắc cầu Chương Dương 500m về phía Nam, nay thuộc quận Long Biên. Tương truyền chùa xây trên đất dinh Bồ Đề của Lê Lợi khi bao vây thành Đông Quan năm 1427.
    Sử còn ghi: ?oVua làm lầu nhiều tầng ở Dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô, cao bằng tháp Bảo Thiên, hàng ngày ngự trên lầu quan sát vào trong thành xem giặc làm gì?? Tên dinh Bồ Đề là do lúc ấy ở giữa sân doanh trại có 2 cây bồ đề.
    Tên gọi Bồ Đề liên quan đến Lê Lợi còn được thể hiện qua các câu đồng dao, câu vè như :
    Nhong nhong ngựa ông đã về
    Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn
    .
    Chùa có tên chữ là Thiên Sơn. Tấm bia cổ dựng năm Hoằng Định thứ 15 (1614) đời Lê Kính Tông có chép lại việc dựng lại chùa và ghi rõ ?ođại công đức Bồ Đề ?o của vua Lê Thái Tổ. Chùa chỉ còn tòa thượng 5 gian xây trên nền cao, dáng bề thế, cổ kính
    Những ngày sau Tết, chùa Bồ Đề thường rất đông người xếp hàng làm lễ giải hạn, xin bát hương, xin bùa. Ngày nào sân chùa cũng đầy ắp những đồ lễ như vàng mã ngựa giấy, hình nhân thế mạng... Tiếng tụng kinh gõ mõ không ngớt, khói hương nghi ngút
    Từ lâu chùa đã thành nơi trú ngụ của những người lang thang, cơ nhỡ, những cụ già cô đơn, những em bé có số phận bất hạnh... tất cả họ đều thầm cảm ơn tấm lòng từ bi của vị sư Thích Đàm Lan. từ năm 1989, sư thầy Lan về trụ trì chùa Bồ Đề; có một số người đói khổ đến ăn mày cửa Phật. Động lòng thương, thày đón họ vào sống trong chùa.
    Không chỉ sắp xếp chỗ ăn ở cho người khốn khó mà sư thầy còn quan tâm đến sức khoẻ người già, tích cực đưa trẻ nhỏ đến trường. Đối với các cụ già ốm yếu, đi lại không được, thầy Lan phải thuê người chăm sóc. Những trẻ em gia cảnh nghèo khó, mồ côi đều được sư thầy giúp đỡ việc học hành. Bất kể ai đau ốm, muốn thăm quê, sư thầy cũng cho năm chục, một trăm... Những ai từng đến nhà chùa Bồ Đề đều lấy làm cảm kích tấm lòng nhân ái của nhà sư. Mỗi ngày nhà chùa phải "tốn" 15kg gạo và 100 nghìn tiền ăn cho mọi người.
    Vị sư tổ đầu tiên của chùa Bồ đề là Tổ Bồ Đề - Thích Nguyên Biểu (1836 - 1906).
    Tư liệu của phật giáo ghi :
    Hòa thượng họ Phạm, pháp danh Thích Nguyên Biểu, hiệu Nhất Thiết, sinh năm Bính Thân (1836) triều vua Minh Mạng thứ 17 tại huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Thân phụ là Phạm tướng công, húy Quang Tự, hiệu Trung Tín, tự Khoan Bình. Thân mẫu là cụ bà Trần thị Ngọc, hiệu Từ Niệm. Ngài thuộc dòng ba đời khoa bảng.
    Ngay từ nhỏ Ngài đã mến mộ đạo Phật, nên sớm được gia đình cho xuất gia đầu Phật, Ngài được thế phát quy y tại Tổ đình Phù Lãng ở Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh.
    Bấy giờ Tổ đình Vĩnh Nghiêm ở xã Đức La, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, nay là xã Trí Yên, tỉnh Hà Bắc, là trung tâm Phật giáo của phái Trúc Lâm tại miền Bắc, có Hòa thượng Tâm Viên là vị cao Tăng tinh thâm kinh điển, đạo hạnh cao dày, an trụ thuyết giảng Phật pháp. Tăng tục khắp nơi quy về tu học rất đông. Năm 17 tuổi, Ngài được Bổn sư chùa Phù Lãng cho sang đây tham học và thọ Sa Di giới. Năm 20 tuổi (1855) Ngài được thọ Cụ Túc giới cũng tại chùa Vĩnh Nghiêm với Tổ Tâm Viên.
    Sau khi được giới châu viên mãn, Ngài ở lại ?ophụng Phật sự Sư? thêm 5 năm nữa, tại đây lo sớm tối tu học, giới luật nghiêm thân. Chính trong thời gian này, Ngài đã thay mặt nghiệp sư dìu dắt sư đệ Thích Thanh Hanh từ chùa Hòe Nhai được gửi về đây tham học. Hòa thượng Thanh Hanh sau này là Thiền gia Pháp chủ của Hội Bắc Kỳ Phật học.
    Khi lực học đã khả kham, Ngài được nghiệp sư cho xuất viện đi hoằng pháp các nơi. Bước đầu du hóa, Ngài tới vùng đông du thuyết pháp độ sinh, rồi qua trú trì chùa Hạ Lôi ở huyện An Lãng, tỉnh Phúc Yên. Tại nơi đây, Ngài đã đào tạo được nhiều đệ tử danh tiếng đương thời như Hòa thượng Trung Hậu, Hòa thượng Thông Toàn là vị trú trì đệ tứ tại chùa Bà Đá (Linh Quang Tự) ở Hà Nội.
    Năm 1874, Ngài vừa 38 tuổi, nhân trong cuộc du hóa truyền giáo ở vùng Gia Lâm, Ngài tới bến Bồ Đề trên bờ sông Hồng nhìn qua bên kia thành Thăng Long. Nhận thấy nơi đây cảnh trí thiên nhiên thanh nhã, địa danh Bồ Đề lại đồng danh với quả vị mà mọi người tu Phật đều mong đạt tới. Vả lại đây cũng là dinh cũ của vua Lê trong những ngày kháng chiến chống quân Minh. Thật là một nơi địa linh, đáng có một ngôi Tam Bảo để hoằng dương chánh pháp, cứu độ chúng sinh. Do đó, Ngài quyết định ở lại, tự mình khai sơn phá thạch, dựng lên ngôi chùa đặt tên là Thiên Sơn Cổ Tích Tự. Nhưng vì chùa nằm trên bến Bồ Đề nên tứ chúng thường gọi là chùa Bồ Đề.
    Sau khi xây xong chánh diện và giảng đường, Ngài liền khai tràng thuyết pháp, thu nạp đệ tử tiếp chúng độ nhân. Tăng tục lui tới tham học nghe pháp rất đông. Chùa Bồ Đề trở nên một đạo tràng sầm uất nơi cố đô Thăng Long. Trong số đệ tử của Ngài, nhiều vị đã trở thành các bậc lương đống trong các Tổ đình trên miền Bắc, cả về học thức lẫn đạo hạnh như Tổ Quảng Gia, Tổ Quảng Yên ở chùa Bồ Đề, Tổ Phổ Tụ ở chùa Tế Xuyên, Tổ Doãn Hài ở chùa Tế Cát, Tổ Thanh Khải ở chùa Đa Bảo.
    Suốt ba thập kỷ trú trì Thiên Sơn Cổ Tích Tự từ ngày sáng lập cho đến ngày thị tịch, Ngài đã để công tô điểm cho ngôi chùa trở thành một tùng lâm quy mô với chánh điện, giảng đường, trai đường, pháp đường. Cũng trong thời gian này Ngài còn cho khắc ván in bộ kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, luật Tứ Phần, các sách Lược Ký Ni, Thụ Giới Nghi Phạm, Nhật Tụng Bồ Đề (2 tập).
    Ngày mồng 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (1906) Ngài không ốm đau gì cả mà an nhiên thị tịch, hưởng thọ 70 tuổi đời, 50 tuổi hạ.
    Hòa thượng Thích Nguyên Biểu là một vị cao Tăng đã có công khai sơn Tổ đình Bồ Đề Thiên Sơn, đào tạo nhiều Tăng tài làm hạt giống cho phong trào chấn hưng Phật giáo trên miền Bắc. Tuy Ngài không còn trụ thế khi phong trào được phát động, nhưng sư đệ của Ngài như Hòa thượng Thanh Hanh, đệ tử của Ngài như Hòa thượng Trung Hậu, sư điệt của Ngài như Hòa thượng Trí Hải, Hòa thượng Tâm Tịch đều là những cây đại thụ của phong trào. Chùa Bồ Đề của Ngài là một trong hai Phật học đường Trung học Phật giáo đầu tiên của miền Bắc.
  3. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Xin phép đổi topic thành "Chùa chiền Việt Nam" được không? Nhân đọc bài về chuyến du hành của nhà sư Thích Vạn Hạnh đến vãn cảnh và thuyết pháp ở các chùa ngoài Bắc, tớ thấy các chùa ngoài đó đẹp và cổ kích quá, muốn tìm hiểu thêm. Có nhiều chùa chưa biết như: chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Tây Phương......bác TLV hay mọi người có tư liệu xin giúp đỡ.
  4. delibab

    delibab Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/06/2002
    Bài viết:
    554
    Đã được thích:
    0
    Thích Nhất Hạnh
  5. manhogany

    manhogany Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/11/2002
    Bài viết:
    239
    Đã được thích:
    0
    Tôi cũng thấy cần có một topic về chùa chiền Việt Nam. Văn hoá đình chùa VN vốn rất phong phú mà.
  6. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Khái quát chung về Chùa
    Chùa thường xây ở nơi phong cảnh thanh u, bởi vậy người ta hay tìm nơi gò cao để xây chùa, nếu không người ta cũng tân đất lên cho cao hơn nền thường.
    Nhiều làng cất chùa ở những nơi danh lam thắng cảnh thật là rộng rãi đẹp đẽ như chùa Hương làng Yến Vĩ, tỉnh Hà Đông, hoặc chùa Thầy làng Thụy Khê, tỉnh Sơn Tây. Những làng trung du thường xây chùa ở ven sườn núi hay trong hang núi như chùa Láp làng Tích Sơn, tỉnh Vĩnh Yên, chùa Trầm, làng Long Châu, tỉnh Hà Đông .v.v...
    Chùa từ ngoài đi vào thường đi qua một sân đất ở trước tam quan. Hai bên có hai hàng phỗng đá hoặc chó đá.
    Từ sân đất bước lên tam quan có một bực xây gạch.
    Tam quan là một căn nhà ba gian có ba cánh cửa khá rộng, và ba cánh cửa này đều được coi như ba cửa chính, thường đóng quanh năm, trừ những ngày hội hè, sóc vọng hoặc Tết nhất.
    Cạnh tam quan về phía tay phải, thường có thêm một cổng bên, cổng này luôn mở trong những ngày thường, và trên cổng này là gác chuông. Cũng có chùa, gác chuông ở trên tam quan. Trên gác chuông có quả chuông lớn. Tăng ni lên thỉnh chuông phải leo một cầu thang có khi xây bằng gạch có khi chỉ là một chiếc thang gỗ.
    Nhà tam quan thường chỉ dùng làm nơi cho các hào mục trong làng hội họp khi bàn tính tới việc chùa.
    Khỏi tam quan là một lớp sân rộng lát gạch.
    Qua khỏi lớp sân này là nhà thờ Phật gồm chính điện và nhà bái đường.
    Hội chùa
    Khi nói đến hội làng phải nói tới cả hội chùa.
    Chùa thường mở hội vào dịp kỵ nhật vị sư tổ đầu tiên của ngôi chùa.
    Hội là hội chùa, nhưng sự tổ chức cũng phải được sự đồng ý, nhất là sự bảo trợ của ban hội đồng kỳ mục trong làng.
    Thường ngày hội, ban hội đồng được nhà chùa xin phép và mời họp ở tam quan chùa để ấn định chương trình của ngày hội. Tuy gọi là hội chùa nhưng ngoài việc tụng kinh lễ Phật, cũng có những tổ chức những trò vui như đánh đu, cờ người, cờ bỏi, v.v... để dân làng mua vui. Ban hội đồng kỳ hào ngoài việc bảo trợ về tinh thần cho nhà chùa, còn giúp đỡ thêm cả tài chính để tổ chức những cuộc đàn chay; những chi phí về các trò vui cũng do quỹ làng gánh vác.
    Nhân dịp giỗ sư tổ này, nhà chùa làm cỗ chay trước là cúng Phật, sau là cúng sư Tổ. Cúng xong, nhà chùa khoản đãi dân làng tới lễ.
    Những người đi lễ, ăn bữa cơm chay, tục gọi là thụ trai đều tự ý góp tiền bạc ít nhiều để giúp đỡ nhà chùa. Thụ trai xong, khi ra về họ được nhà chùa tăng lộc Phật gồm oản, chuối.
    Oản do nhà chùa đồ xôi đóng thành oản, còn chuối một phần do nhà chùa mua ở chợ, nhưng phần lớn do thiện nam tín nữ mang tới lễ Phật với trầu, cau hương, nến.
    Trong những ngày hội chùa, các bà vãi thường tới chùa kể hạnh, nghĩa là tụng những bộ kinh nhắc lại sự tích đức Phật và chư vị bồ tát với đức hạnh của các người. Thường các bài kể hạnh hay nhắc tới sự tích Quan Âm Thị Kính với những sự hàm oan của người.

    --
    Chùa Bồ Đề - Vũng tàu
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 08:27 ngày 14/01/2005

Chia sẻ trang này