1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chữa hen phế quản - Kỳ I

Chủ đề trong 'Sức khoẻ - Y tế' bởi thaohieuhung, 18/11/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. nguyen58n

    nguyen58n Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0
    HEN SUYEN

    Phần 2 : (Tiếp theo kỳ trứoc )
    5. Triệu Chứng
    Sách Nội Khoa Học Thượng Hải và Thành Đô đều thống nhất phân làm 2 thể chính: Thực và Hư Suyễn.
    A- Thực Suyễn
    1- Suyễn Do Phong Hàn Phạm Phế: thở gấp, ngực tức, ho có đờm, lúc mới bị thường sợ lạnh, đầu đau, cơ thể đau nhức, không có mồ hôi, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù (Thượng Hải), mạch Phù Khẩn (Thành Đô).
    Biện chứng: Phế chủ hô hấp, bì mao, khi bị phong tà xâm nhập vào làm cho bế tắc bên ngoài, phế khí bị uất không thăng giáng được gây ra ho, suyễn, tức ngực. Vì phong hàn bế ở bên ngoài và kinh lạc, do đó, thấy sợ lạnh, đầu đau, không ra được mồ hôi. Mạch Phù là bệnh ở phần Biểu, Khẩn là biểu hiện của hàn.
    2- Suyễn Do Phong Nhiệt Phạm Phế (Thượng Hải, Thành Đô): thở gấp, mũi nghẹt, ho, đờm vàng, miệng khô, khát, khan tiếng, tắc tiếng, buồn bực, ra mồ hôi, nặng thì phát sốt, mặt đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Phù Sác (T. Hải), Phù Hồng Sác (T. Đô).
    Biện chứng: Bên trong đang có nhiệt lại cảm phải táo và nhiệt ở bên ngoài, hai thứ nhiệt nung đốt Phế, Phế bị nhiệt gây ra ho, suyễn, sốt, mồ hôi ra, Phế và Vị có nhiệt ứ trệ sẽ sinh ra khát, miệng khô, buồn bực. Tâm chủ tiếng nói, Phế chủ âm thanh, nhiệt nung đốt Tâm và Phế gây ra khan tiếng, tắc tiếng. Rêu lưỡi vàng, lưỡi đỏ, mạch Hồng Sác là dấu hiệu nhiệt ở thượng tiêu, Tâm, Phế. Mạch Phù là bệnh ở biểu.
    3- Suyễn Do Đờm Trọc Trở Ngại Phế: thở gấp, ho, đờm nhiều, nặng thì ho đờm vướng sặc, hông ngực buồn tức, miệng nhạt, ăn không biết ngon, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Hoạt.
    Biện chứng: Đờm trọc ủng tắc ở Phế, làm cho Phế khí không thông giáng xuống được gây ra khó thở, đờm nhiều. Đờm thấp ủng trệ ở Tỳ Vị gây ra hông ngực buồn bực, miệng nhạt, ăn không biết ngon. Mạch Hoạt là biểu hiện của đờm trọc.
    B- Hư Suyễn
    4- Suyễn do Phế Hư: Thở gấp (suyễn), hơi thở ngắn, mệt mỏi, ho nhẹ, ra mồ hôi, sợ gió, họng khan, rát, miệng khô, lưỡi đỏ nhạt, mạch Nhuyễn Nhược (Thượng Hải), mạch Hư Nhược (Thành Đô).
    Biện chứng: Phế chủ khí, Phế hư vì vậy khí yếu, thở ngắn, tiếng nói nhỏ, mệt mỏi. Vệ khí không vững vì vậy sợ gió, họng khan, rát, miệng khô, khí huyết hư yếu nên thấy mạch Nhược.
    5- Suyễn Do Thận Hư: Hô hấp yếu, khi cử động mạnh thì thở nhiều, cơ thể gầy ốm, ra mồ hôi, chân tay lạnh, sắc mặt xanh, có khi tay chân và mặt phù nhẹ, tiểu ít, hay mơ, hồi hộp, lưỡi nhạt, mạch Trầm.
    Biện chứng: Thận là gốc của khí, Thận yếu không thu nạp được khí vì vậy sinh ra thở ngắn, cử động mạnh thì thở nhiều. Trung tiêu dương khí hư vì vậy ăn uống không tiêu, làm cho cơ thể gầy ốm. Vệ khí yếu vì vậy sợ gió, ra mồ hôi. Dương khí yếu thì chân tay lạnh. Mạch Trầm Tế là biểu hiện của Thận hư, dương khí suy.
    6. Điều Trị
    A.Về nguyen tắc điều trị.
    + Sách ?~Cảnh Nhạc Toàn Thư?T hướng dẫn: ?oLúc bệnh chưa phát thì dùng phép phù chính là chủ yếu. Lúc đã phát bệnh thì dùng phép công tà làm chính. Phù chính khí phải phân biệt Âm Dương. Âm hư thì bổ âm, dương hư thì bổ dương. Công tà phải chú ý xem tà nặng hoặc nhẹ mà dùng ôn hàn hoặc tán phong hoặc tiêu đờm hoả. Bệnh lâu ngày chính khí thường hư, do đó, trong lúc dùng phương pháp tiêu tán cần thêm thuốc ôn bổ hoặc trong lúc ôn bổ cần thêm thuốc tiêu tán?.
    + Chương ?~Y Trung Quan Kiện?T (Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh) viết: ?oUất thì làm cho thông, hoả thì dùng phép thanh đi, có đờm thì làm cho tiêu đi, đó đều là thực tà và cũng dễ chữa. Duy có trường hợp tinh huyết bị kém, khí không trở về nguồn, vì Phế phát khí ra, Thận nạp khí vào. Nay Thận hư không thực hiện được chức năng bế tàng, long lôi hoả do đó mà bốc lên, làm cho Phế khí bị thương, chỉ có thở ra mà không hít vào. Hoả không bị thuỷ ức chế, dương không bị âm liễm nạp, đó là nguy cơ âm vong dương thoát, chết trong chốc lát. Nếu bên ngoài thấy 2 gò má ửng đỏ, mặt đỏ, nửa người trên nóng nhiều, đó là chứng giả nhiệt, chân dương thoát ra ngoài, nếu dùng lầm một ít thuốc hàn, lương thì nguy ngay. Chỉ nên bổ để liễm lại, nạp vào mà thôi??.
    Thuốc trị suyễn theo Đông y thường có tác dụng tán hàn, giáng khí, tiêu đờm, trừ thấp, bổ hư.
    1- Tán Hàn
    Cơn suyễn thường phát vào lúc trời trở lạnh (mùa Thu, Đông) hoặc lúc gần sáng, khi sương, mưa nhiều, sau một cơn trúng lanh, sau khi tắm, dầm mưa hoặc do dị ứng bởi thức ăn. Trạng thái chung là co thắt. Thuốc tán hàn thường có vị cay, ấm, tính nóng, có tác dụng làm thư giãn cơ trơn, kích thích sự lưu thông máu ở mạch ngoại vi bị ứ trệ.
    Những loại thuốc tán hàn như Quế, Gừng, Ngải cứu là những loại có tác dụng ngăn cản sự ứ trệ tuần hoàn mao mạch và chống co thắt, do đó, làm giảm được triệu chứng tức, nặng vùng ngực, vùng rốn phổi mỗi khi lên cơn suyễn.
    2- Giáng Khí
    Suyễn còn gọi là khí nghịch, để chỉ hiện tượng khó thở, làm cho khí bị đọng lại nhiều trong phế nang, vì phế quản co lại nên điều trị phải làm cho khí giáng xuống, làm cho phế nang giãn ra. Thuốc giáng khí sau khi uống vào thường làm cho bệnh nhân thở được, trung tiện được, ợ hơi được, làm đỡ tức ngực, bụng.
    Thường gồm các loại:
    . Tinh dầu (Bạc hà, Trần bì, Thanh bì, Mộc hương, Tử tô...) vừa kích thích hô hấp, dãn phế quản vừa sát trùng.
    . Những thuốc có Ancaloid ức chế Phó giao cảm như Cà độc dược, Ma hoàng...
    3- Tiêu Đờm
    Khi lên cơn suyễn, đờm tiết ra nhiều gây bít phế quản, vì vậy, cần loại tiêu đờm.thường khó tìm được loại thuốc làm cho tan được chất nhầy, do đó, nên làm cho niêm mạc phế quản tiết thêm cho loãng đờm đặc để tống đờm ra ngoài, bằng việc kích thích ho để trục xuất đờm. Những thuốc long đờm thường là loại có Saponin như lá Táo, Bồ kết, Bán hạ...
    4- Trừ Thấp
    Thấp là ứ các chất Allergotoxin làm tăng sự thẩm thấu thành mạch gây ra hiện tượng phù viêm quanh chu vi mạch của niêm mạc, làm cho đường kính phế quản bị hẹp lại. Các thuốc trừ thấp có tác dụng chống viêm, chống dị ứng thường chứa Flavonoid có tác dụng làm bền vững thành mạch, hạn chế tiết xuất gây viêm.
    Trong cơn suyễn, nhất là nơi người mạn tính, lượng nước tiểu thường ít đi, vì thế, cần thêm thuốc lợi tiểu như Mã đề, Ý dĩ, Thổ phục linh...
    Tuy nhiên, khi tháo ứ không phải chỉ chú trọng đến Thận mà còn phải chú ý đến Gan, mật, đại trường, do đó, nhiều khi trong bài thuốc trị suyễn, các vị thuốc xổ như Muồng trâu, Vỏ đại, Lô hội cũng có thể dùng được.
    5- Bổ Hư
    Nơi người bị suyễn, thần kinh thực vật thường bị mất cân bằng. Hệ thần kinh trung ương cũng bị xáo trộn, do đó, cần cho các vị thuốc bổ âm, nâng cao mức ức chế thần kinh.
    Hoặc cho thuốc bổ dương để làm tăng hoạt tính giao cảm lên.
    Rối loạn thần kinh thực vật trong bệnh suyễn thường gặp trong trường hợp giao cảm thần kinh bị giảm, do đó, khi gần hết cơn suyễn, mồ hôi thường đổ ra nhiều, các chất mũi, đờm tiết ra, các cơ ngực, lưng mệt mỏi vì vừa qua một trạng thái co cứng.
    A.Điều trị lúc lên cơn
    (Xem tiếp phần 3 )
    Được nguyen58n sửa chữa / chuyển vào 14:50 ngày 17/04/2007
  2. nguyen58n

    nguyen58n Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0

    Điều Trị Lúc Lên Cơn
    Thể phong hàn:.
    NKHT. Hải: Tán hàn, tuyên phế, định suyễn.
    Dùng bài Tam Cao Thang Gia Vị (Thái Bình Huệ Dân Hoà Tễ Cục Phương, Q. 2): Cam thảo 4g, Hạnh nhân 7 hạt, Ma hoàng 12g, Sắc uống.
    (Ma hoàng, Hạnh nhân, Cam thảo (tức là bài Ma Hoàng Thang bỏ Quế chi) để tán hàn, tuyên phế, hoá đàm, định suyễn. Thêm Tiền hồ, Trần bì để chỉ khái, hoá đàm).
    . NKHT. Đô: Khứ phong, tán hàn, tuyên Phế, giáng nghịch. Dùng bài Ma Hoàng Thang (Thương Hàn Luận): Ma hoàng, Hạnh nhân đều 12g, Quế chi 8g, Chích thảo 4g. Sắc uống.
    (Ma hoàng có tác dụng phát hãn, giải biểu, tán phong hàn, tuyên Phế, định suyễn. Quế chi phát hãn, giải cơ, ôn thông kinh lạc, hỗ trợ cho tác dụng phát hãn của Ma hoàng; Hạnh nhân tuyên Phế, giáng khí, giúp tăng tác dụng định suyễn của Ma hoàng; Chích thảo điều hoà các vị thuốc, làm giảm tính cay táo của Quế chi, giảm tác dụng phát tán của Ma hoàng).
    + Sách ?~Trung Y Nội Khoa Học Giảng Nghĩa?T: Ôn Phế, bình suyễn. Dùng các bài:
    . Tô Tử Giáng Khí Thang (Cục Phương): Tô tử 36g, Tiền hồ, Hậu phác, Đương quy, Cam thảo đều 4g, Bán hạ 36g, Quất bì 12g, Quế tâm 16g, Sinh khương 50g, Táo 5 trái. Sắc, chia làm 5 lần uống, sáng 3 lần, tối 2 lần.
    . Tiểu Thanh Long Thang (Thương Hàn Luận): Ma hoàng, Thược dược, Bán hạ đều 12g, Chích thảo 8g, Quế chi (bỏ vỏ) 8g, Ngũ vị tử, Tế tân, Sinh khương đều 4g, Sắc uống ấm.
    . Linh Quế Truật Cam Thang (Thương Hàn Luận): Phục linh 16g, Quế chi (bỏ vỏ) 12g, Bạch truật, Chích thảo đều 8g, sắc uống ấm.
    + Sách ?~Trung Quốc Đương Đại Bí Phương Đại Toàn?T dùng bài Trị Suyễn Phương: Ma hoàng, Bán hạ đều 12g, Tế tân 4g, Can khương, Cam thảo, Ngũ vị tử đều 6g. Sắc uống.
    + Sách ?~Thiên Gia Diệu Phương?T dùng bài ?~Cao Trị Hen Suyễn?T: Nam tinh (chế), Bán hạ (chế), Cát cánh, Bối mẫu, Tế tân, Hạnh nhân, Cam thảo (sống), Ngũ vị tử đều 20g, Ma hoàng, Bạch tô tử, Khoản đông hoa, Tử uyển (sống) đều 12g, Dầu mè (Ma du) 200g, Mật ong 120g, nước cốt Gừng 120g. Cho 12 vị thuốc đầu tiên vào ngâm với dầu mè 24 giờ, nấu lên cho đặc, lọc bỏ bã lấy nước, sau đó cho thêm mật và nước Gừng, nấu thành cao, còn khoảng 440g. Mỗi ngày, vào buổi sáng, khi gà gáy canh năm, uống 1 thìa cà phê (4ml) thuốc với nước đun sôi để nguội.
    + Sách ?~Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu?T dùng bài Lãnh Háo Thang: Ma hoàng, Hạnh nhân đều 10g, Thần khúc, Tử uyển, Bạch truật, Phụ tử (hắc), Khoản đông hoa đều 12g, Xuyên tiêu 8g, Tế tân, Bán hạ (chế), Sinh khương đều 6g, Cam thảo 4g, Tạo giáp 2g, Bạch phàn 0,2g. Sắc uống.
    + Sách ?~Tân Biên Trung Y Kinh Nghiệm Phương?T dùng bài Xạ Can Ma Hoàng Thang gia giảm: Xạ can 6g, Ma hoàng 10g, Tế tân, Tử uyển, Khoản đông hoa, Đại táo đều 12g, Ngũ vị tử, Bán hạ (chế) đều 8g, Sinh khương 4g. Sắc uống.
    Thể Phong Nhiệt
    + NKHT.Hải: Thanh nhiệt, tuyên phế, bình suyễn.
    Dùng bài Ma Hạnh Thạch Cam Thang Gia Vị (Trương Thị Y Thông, Q. 16): Cam thảo 4g, Hạnh nhân 12g, Ma hoàng 12g, Thạch cao 40g. Thêm Trần bì, Bối mẫu, Tiền hồ, Cát cánh, Sắc uống.
    (Ma hoàng tuyên Phế, bình suyễn; Thạch cao thanh phế nhiệt; Hạnh nhân + Cam thảo ôn trợ cho Ma hoàng bình suyễn, chỉ khái. Thêm Trần bì, Bối mẫu, Tiền hồ, Cát cánh để tăng tác dụng thanh nhiệt, chỉ khái, hoá đàm).
    + NKHT. Đô: Thanh nhiệt, giáng nghịch, dưỡng Vị, cứu Phế.
    Dùng bài Ma Hạnh Thạch Cam Thang thêm Tang bì, Địa cốt bì.
    + Sách ?~Trung Y Nội Khoa Học Giảng Nghĩa?T dùng bài Định Suyễn Thang (Nhiếp Sinh Chúng Diệu Phương): Ma hoàng, Bán hạ đều 6-12g, Hạnh nhân, Tô tử 6-8g, Tang bạch bì, Khoản đông hoa đều 12g, Hoàng cầm 8-12g, Bạch quả 10-20 quả, Cam thảo 4g, sắc uống.
    + Sách TQĐĐDYNPĐ.Toàn dùng bài Chỉ Háo Định Suyễn Thang: Ma hoàng, Tử uyển, Bối mẫu, Hạnh nhân đều 10g, Sa sâm 12g, Huyền sâm 16g. Sắc uống.
    Thể phong đờm
    + NKHT. Hải: Hoá đờm, giáng khí, bình suyễn.
    - Điều trị: Nhị Trần Thang hợp Tam Tử Thang gia giảm: Nhị Trần Thang (Bán hạ, Quất hồng, Phục linh, Cam thảo) + Tam Tử Thang (Tử tô tử, Bạch giới tử, La bặc tử).
    (Chế Bán hạ táo thấp, hoá đờm, giáng nghịch; Trần bì lý khí, hoá đờm; Bạch linh kiện Tỳ, lợi thấp; Cam thảo hoá trung, kiện Tỳ; Thêm Tô tử, La băïc tử. Bạch giới tử để giáng khí, hoá đàm, bình suyễn. Thêm Hậu phác, Thương truật để táo thấp, hành khí).
    Đowøm uất hoá nhiệt thêm Hoàng cầm, Địa cốt bì, Tang bạch bì để thanh phế nhiệt. Tỳ hư thêm Lục Quân Tử Thang để kiện tỳ.
    + Sách TYNKHG Nghĩa: Tiêu đờm, thanh hoả.
    Dùng bài Tả Bạch Tán (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết): Địa cốt bì, Tang bạch bì (sao) đều 40g, Chích thảo 4g, thêm Tri mẫu, Qua lâu.
    + Sách ?~Thiên Gia Diệu Phương?T dùng bài Tiền Hồ Thang gia vị: Tiền hồ, Tang diệp, Tỳ bà diệp, Tri mẫu đều 16g, Kim ngân hoa 20g, Hạnh nhân, Mạch môn, Hoàng cầm, Khoản đông hoa, Cát cánh đều 12g, Cam thảo 8g. Sắc uống.
    Điều Trị Lúc Không Lên Cơn ( Lúc Bệnh Ổn Định)
    Thể phế hư
    + Dưỡng Phế, định suyễn (NKHT. Hải). Dùng bài Sinh Mạch Tán Gia Vị (Y Học Khải Nguyên, Q. Hạ): Mạch môn 12g, Ngũ vị tử 7 hột, Nhân sâm 12g. Thêm Ngọc trúc, Bối mẫu đều 8g, Sắc uống.
    Trong bài: Nhân sâm bổ ích khí để sinh tân, Mạch môn dưỡng âm, sinh tân, thanh Phế, Ngũ vị tử liễm phế, hợp với Mạch môn để tăng tác dụng sinh tan dịch. Thêm Ngọc trúc, Bối mẫu để nhuận phế, hoá đàm. Trường hợp mệt mỏi nhiều, dễ cảm lúc thời tiết thay đổi dùng bài Bổ Trung Ích Khí để bổ tỳ phế.
    . NKT. Đô: Ích khí, định suyễn. Dùng bài Bổ Phế Thang (Tam Nhân Cực ?" Bệnh Chứng Phương Luận): Khoản đông hoa, Quế tâm, Nhân sâm, Tử uyển, Bạch thạch anh đều 40g, Ngũ vị tử, Chung nhũ phấn đều 60g, Tang bạch bì (nướng) 160g, Mạch môn (bỏ lõi) 80g. Tán bột. Mỗi lần dùng 16g, thêm Gừng 5 lát, Táo 3 trái, Gạo tẻ 1 nhúm, sắc uống.
    Hoặc dùng bài Bổ Phế Thang (Vân Kỳ Tử Bảo Mệnh Tập): Tang bạch bì, Thục địa đều 60g, Nhân sâm, Tử uyển, Hoàng kỳ, Ngũ vị tử đều 30g. Mỗi lần dùng 12g, thêm ít mật, sắc uống.
    + Sách ?~Thiên Gia Diệu Phương?T dùng bài: Sâm Giới Tán gia vị: Cáp giới 2 con (chặt bỏ đầu và chân), Nhân sâm 20g, Sơn dược 80g, Hạnh nhân 32g, Trầm hương 16g, Nhục quế 16g, Bán hạ 40g, Hoàng kỳ 80g, Tử bì hồ đào 80g, Bạch quả 40g, Tang bạch bì 40g, Cam thảo 20g. Tán bột. Mỗi lần dùng 6-8g, uống ngày 2-3 lần.
    + Sách TQĐĐDYNPĐ Toàn dùng bài Sâm Cáp Ma Hạnh Cao: Đảng sâm 120g, Cáp giới (bỏ đầu, chân) 2 con, Ma hoàng (bỏ mắt) 60g, Hạnh nhân 100g, Chích thảo 40g, Sinh khương 60g, Hồng táo (bỏ hột) 120g, Bạch quả nhục 20 trái. Thêm Đường phèn, nấu thành cao. Ngày uống 2 lần, sáng, tối, mỗi lần 20ml.
    Thể Tỳ Hư:
    Phép trị: Ích khí, kiện tỳ, hoá đờm. Dùng bài Lục Quân Tử Thang hợp Nhị Trần Thang Gia Vị.
    (Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Chích thảo để ích khí, kiện tỳ; Trần bì. Sinh khương, Bán hạ ôn hoá hàn đàm. Thêm chích Hoàng kỳ, Đương qui bổ khí huyết; Đại táo, Gừng nướng để ôn tỳ).
    Trường hợp tiêu chảy bỏ Đương qui, Hoàng kỳ thêm Biển đậu, Mạch nha, Thương truật để trừ thấp, tiêu thực.
    Thể Thận Hư:
    + NKHT Hải và T. Đô: Bổ thận, nạp khí.
    + Thận âm hư, dùng bài Lục Vị Địa Hoàng Hoàn.
    + Thận dương hư dùng bài Bát Vị Địa Hoàng Hoàn gia giảm.
    ( Sinh địa, Hoài sơn, Sơn thù, Đan bì, Bạch linh, Trạch tả (Lục Vị Địa Hoàng) bổ thận âm; nếu Khí âm hư thêm Sinh Mạch Tán (Nhân sâm, Mạch môn, Ngũ vị) để bổ khí âm).
    Thận dương hư: thêm Nhục quế, Chế Phụ tử (bài Bát Vị Địa Hoàng) để ôn bổ thận dương.
    Di tinh, liệt dương thêm Thỏ ty tử, Tiên linh tỳ; Ra mồ hôi, tiểu đêm nhiều thêm Kim anh tử, Ích trí nhân... Trường hợp tỳ thận dương hư dùng bài "Chân Vũ Thang " (Chế Phụ tử, Bạch thược, Bạch linh. Bạch truật, Sinh khương) để ôn bổ tỳ thận.
    THUỐC NAM TRỊ SUYỄN
  3. nguyen58n

    nguyen58n Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0
    Phần 4 : (Tiếp theo kỳ trứoc )
    THUỐC NAM TRỊ SUYỄN
    + Bèo cái 100g, cắt bỏ rễ, bỏ lá vàng, rửa nhiều lần bằng nước muối cho thật sạch, cuối cùng rửa thêm một lần bằng nước muối. Rẩy cho ráo nước, giã nhỏ, vắt lấy nước, thêm nước (đã đun sôi để nguội) vào và cho thêm ít đường cho đủ ngọt và đủ 100ml. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 liều như trên.
    Thường sau khi uống 10 ngày, cơn suyễn sẽ bớt, uống tiếp trong 2-3 tháng. Khi mới uống có thể thấy ngứa cổ trong vòng 10 phút nhưng sẽ quen dần và hết ngứa (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
    + Lá Bồng bông (Caletropis gigantea R.Br), lấy khăn ướt lau sạch lông, thái nhỏ, sao qua cho héo. Ngày dùng 10 lá, sắcêc với 300ml nước, còn 200ml, thêm đường vào, chia 3-4 lần uống trong ngày.
    (Nước thuốc hơi đắng và tanh, uống nhiều một lúc có thể gây nôn, do đó, nên uống sau hoặc xa bữa ăn. Uống vào có thể mỏi chân tay, cơ thể hoặc đôi khi bị tiêu chảy).
    Kết quả sau 2-3 ngày, có khi 7-8 ngày. Có khi sau 10 phút đã có kết quả (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
    + Lá Táo 200-300g, sao vàng, sắc với 3 chén nước còn 200ml, chia hai lần uống trước bữa ăn 1 giờ. Uống liên tục 1 tuần đến 2 tháng. Kết quả khá tốt (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
    + Lá Hen 02kg, rửa hết lông, tẩm nước Gừng, sao vàng, hạ thổ, nấu với 10 lít nước, còn 5 lít. Lọc bỏ bã, cho đường vào nấu còn khoảng 1 lít.
    Người lớn uống 10ml với nước nóng, ngày 2 lần. Trẻ nhỏ 2-5 tuổi, mỗi lần uống 1-3ml. Trẻ 6-10 tuổi mỗi lần uống 4-6ml (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
    + Lá Hẹ tươi 100g, sắc với 400ml nước còn 300ml, thêm 10ml mật ong, chia làm 2 lần uống. Khoảng 5-6 lần sẽ đỡ. Dùng trong trường hợp suyễn cấp. (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
    + Lá Táo chua (Thanh táo) tươi 30g, rửa sạch, giã nát, lọc lấy khoảng 200ml nước, hoà mật ong cho đủ ngọt, uống. Sau 2 giờ, người bệnh nôn ra đờm dãi thì cơn suyễn sẽ giảm (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
    Tóm lại biện chứng luận trị chứng suyễn chủ yếu dựa theo nguyên tắc là thời kỳ lên cơn chủ yếu dùng phép khu tà và lúc không cơn chủ yếu là phù chính. Nhưng trên thực tế lâm sàng do hen suyễn là một chứng bệnh tái phát nhiều lần, cơ thể người bệnh thường suy nhược cho nên lúc khu tà cũng cần chú ý phù chính và lúc không lên cơn chủ yếu là bổ hư nhưng trên lâm sàng thường biểu hiện hư chứng lẫn lộn như Tỳ phế hư, phế thận hư hoặc tỳ thận dương hư v.v... biện chứng luận trị cần hết sức chú ý.
    Ngoài ra, đối với những cơn hen ác tính, bệnh nhân khó thở nặng cần kết hợp với các phương pháp chẩn đoán của y học hiện đại giúp xác định bệnh chính xác để phối hợp với các phương pháp trị bệnh bằng thuốc tây như thở oxy, dùng thuốc trụ sinh (nếu nhiễm khuẩn) thuốc dãn phế quản hoặc thuốc trợ tim (trường hợp hen tim) v.v... đem lại hiệu quả điều trị tốt nhất cho người bệnh.
    CHÂM CỨU TRỊ SUYỄN
    + Bình suyễn, Giáng nghịch, tuyên Phế, hoá đờm.
    Dùng phép cứu hoặc châm lưu kim Định Suyễn, Thiên Đột, Tuyền Cơ, Chiên Trung, có thể phối hợp thêm Phong Long, Đại Chuỳ, Hợp Cốc, Quan Nguyên, Túc Tam Lý.
    Cách châm: Định suyễn lưu kim, vê kim vài phút, Thiên đột không lưu kim, Tuyền Cơ, Chiên Trung lúc châm phải hướng mũi kim ra 4 phía, châm xiên khoảng 0,1 thốn, lưu kim, vê vài phút.
    Gia giảm: Đờm nhiều thêm Phong long. Kèm viêm đường hô hấp thêm Đại chuỳ, Hợp cốc. Suyễn lâu ngày thêm Quan nguyên, Túc tam lý.
    Ý nghĩa: Định suyễn là huyệt đặc hiệu để làm ngưng cơn suyễn, Thiên Đột, Chiên Trung để thuận khí, giáng nghịch. Tuyền Cơ để tuyên Phế khí ở Thượng tiêu. Phong long hoá đàm, giáng trọc. Quan Nguyên + Túc Tam Lý kiêm bổ Tỳ, Thận, trị bản bồi nguyên, Đại Chuỳ + Hiệp cốc sơ tà giải biểu (Châm Cứu Học Thượng Hải).
    + Thực Suyễn: Dùng kinh huyệt thủ Thái âm làm chính. Châm tả Đản trung, Liệt khuyết, Phế du, Xích trạch. Phong hàn thêm Phong môn. Đờm nhiệt thêm Phong long.
    (Liệt khuyết, Xích trạch tuyên thông Phế khí, Phong môn sơ thông kinh khí ở biểu để giúp cho Phế khí thông; Chiên trung, Phế du điều Phế, thuận khí. Hợp với Phong long để hoà Vị, hoá đờm, trị suyễn).
    Hư Suyễn: Điều bổ Phế và Thận. Châm bổ hoặc cứu Phế du, Cao hoang, Khí hải, Thận du, Túc tam lý, Thái uyên, Thái khê.
    (Tháiuyên là huyệt Nguyên của Phế; Thái khê là huyệt Nguyên của kinh Thận. Để bổ khí cho 2 tạng Phế và Thận; Phế du, Cao hoang để bổ thượng tiêu, Phế khí; Thận du, Khí hải bồi bổ hạ tiêu, Thận khí; Túc tam lý để điều hoà Vị khí, bồi dưỡng nguồn sinh hoá hậu thiên, làm cho thuỷ cốc tinh vi đi lên, quy về Phế, giúp Phế khí đầy đủ thì bệnh sẽ tự khỏi) (Châm Cứu Học Giảng Nghĩa).
    + Khí hộ, Vân môn, Thiên phủ, Thần môn (Thiên Kim Phương).
    + Vân môn, Nhân nghênh (ho suyễn cấp). Thiên đột, Hoa cái (suyễn nhiều). Phách hộ, Thiên phủ (suyễn đờm nhiều) (Tư Sinh Kinh).
    + Cứu Trung phủ, Vân môn, Thiên phủ, Hoa cái, Phế du (Châm Cứu Tụ Anh).
    + Du phủ, Thiên đột, Đản trung, Phế du, Túc tam lý, Trung quản, Cao hoang, Khí hải, Quan nguyên, Nhũ căn (Châm Cứu Đại Thành).
    + Cứu Tuyền cơ, Khí hải, Đản trung, Kỳ môn, Chí dương (3 tráng) (Cảnh Nhạc Toàn Thư).
    + Tuyền cơ, Hoa cái, Đản Trung, Kiên Tỉnh, Kiên trung du, Thái uyên, Túc tam lý (đều cứu) (Loại Kinh Đồ Dực).
    + Cứu Phế du, Cao hoang, Thiên đột, Chiên trung, Liệt khuyết, Túc tam lý, Phong Long (Thần Cứu Kinh Luận).
    + Phế Du, Trung Quản, Đản trung, Liệt khuyết, Cao hoang du (Châm Cứu Trị Liệu Học).
    + Cứu Đản trung, Phách hộ, Phụ phân, Linh đài, Thiên đột, Đại chuỳ, Khí hải, Cao hoang, Thần đường, Đại trử, Phong môn (Lâm Sàng Đa Khoa Tổng Hợp Trị Liệu Học).
    + Phế du, Đốc du, Thiên đột, Đản trung, Kiên tỉnh, Trung quản, Khí hải, Liệt khuyết, Túc tam lý, Tam âm giao (Trung Quốc Châm Cứu Học)
    + Phong môn, Liệt khuyết, Đản trung, Đại chuỳ, Định suyễn (Bình bổ bình tả) (Thực Dụng Châm Cứu Đại Toàn).
    + Châm tả Liệt khuyết, Xích trạch, Phong môn, Phế du, Định suyễn (Liệt khuyết, Xích trạch là cách phối huyệt Lạc với huyệt Hợp để tuyên thông Phế khí; Phong môn Phế du sơ phong, giải biểu, tuyên Phế, hoá đờm; Định suyễn giáng khí, bình suyễn) (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học)
    2- Hen Nhiệt (Nhiệt Háo)
    - CCHG Nghĩa: Tuyên giáng khí của Phế, Vị.
    Châm (không lưu kim) Phế du, Đản trung, Liệt khuyết, Thiên đột, Trung quản, Phong long.
    (Đản Trung là huyệt hội của khí toàn cơ thể, hợp với Phế du, Liệt khuyết để tăng tác dụng tuyên thông Phế Khí; Thiên Đột làm thông họng, điều hoà Phế; Trung quản, Phong Long điều hoà khí ở hai kinh Tỳ và Vị, làm cho thuỷ dịch không ngưng kết lại thành đờm được (trị theo gốc).
    - CCHV Nam: Châm (không lưu kim) Khí suyễn, Thiên đột, Trung phủ, Khúc trì, Phong long, Túc tam lý.
    (Khí Suyễn là huyệt đặc hiệu để trị suyễn; Trung Phủ để điều Phế; Thiên Đột khu đàm, thông lợi Phế khí; Khúc Trì thanh nhiệt; Phong Long, Túc Tam Lý tiêu đàm, hạ khí, thêm Phế Du tăng tác dụng của Thiên đột, Trung phủ để tuyên thông Phế khí; Tỳ Du tăng sức vận hoá của Tỳ, hoá đàm, trừ thấp; Thận Du bổ thận nạp khí).
    - TS Kinh: Thiên đột, Đản trung, Thiên trì, Giải khê, Kiên trung du.
    - LSĐKTHTL Học: Châm Hợp cốc, Liệt khuyết, Đại chuỳ, Phong môn, Phế du.
    - TCC Học: Thiên trụ, Phong trì, Khí hộ, Kiên ngoại du, Đại Trử, Phế du, Quyết âm du, Tâm du, Phụ phân, Cao hoang, Hợp cốc.
    - TYLPT Sách: Định suyễn, Đản trung, Nội quan, Đại chuỳ, Trung suyễn, Phong Long.
    - CCHT. Hải: Định suyễn, Thiên đột, Tuyền cơ, Đản trung, thêm Phong long, Đại chuỳ, Hợp cốc, Quan nguyên, Túc tam lý.
    - TQCCHK. Yếu: Định Suyễn, Thiên đột, Phế du, Chiên trung.
    - CCHH Kong: Đại Chuỳ, Linh Đài, Liêm Tuyền, Thiên Đột, Ngọc Đường, Chiên Trung, Trung Đình, Trung Phủ, Vân Môn, Thiên Phủ, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt Khuyết, Kinh Cừ, Thái Uyên, Ngư Tế, Nội Quan, Thương Dương, Kiêm Trung Du, Nhân Nghinh, Thuỷ Đột, Khí Xá, Khuyết Bồn, Khí Hộ, Ốc Ế, Ưng Song, Não Không, Triếp cân, Dương Giao, Túc Khiếu Âm, Phách Hộ, Thần Đường, Đại Bao, Đại Chung.
    - TDCCĐ. Toàn: Phong Môn, Xích Trạch, Hiệp Cốc, Phong Long, Định Suyễn, châm tả.
    - Suyễn Do Đờm Trọc: Thanh nhiệt, hoá đờm, bình suyễn. Châm tả Hợp cốc, Đại chuỳ, Xích trạch, Phế du, Phong long, Định suyễn, Nội quan (Hợp cốc, Đại chuỳ sơ biểu, tán nhiệt; Xích trạch, Phế du, Định suyễn tuyên thông Phế khí, giáng nghịch, chỉ khái; Phong long hoá đờm, giáng trọc; Nội quan bình suyễn, chỉ khái, thuận khí, khoan hung (Tân Biên Châm Cứu trị Liệu Học).
    - Suyễn Do Hư Chứng: Ích Phế, kiện Tỳ, bổ Thận, hoá đờm, bình suyễn, chỉ khái. Châm bổ Phế du, Cao hoang du, Tỳ du, Túc tam lý, Khí hải, Thận du (Phế du, Cao hoang du để bổ Phế, ích khí; Tỳ du, Túc tam lý kiện Tỳ Vị, dưỡng hậu thiên; Khí hải, Thận du bồi bổ Thận khí).
    - Sách CCTL. Học còn phân ra:
    - Thực Suyễn: Phế Du, Phong Môn, Xích Trạch, Phong Long, Chiên Trung (đều tả).
    - Hư Suyễn: Thận Du, Quan Nguyên, Khí Hải, Cao Hoang Du, Túc Tam Lý (đều bổ).
    - Suyễn do Ngoại Cảm Phong Hàn: Ngoại Quan, Hiệp Cốc (đều tả).
    - Sách Thực Dụng Châm Cứu Đại Toàn còn chia ra:
    - Suyễn do thấp nhiệt:Thanh nhiệt, táo thấp: Tả Xích Trạch, bổ Tỳ Du, Thương Khâu thêm Trung Quản, Phong Long, Thiên Đột.
    -Suyễn do Thử Nhiệt: Ích Khí, dưỡng Âm: Thái Uyên, Thái Khê, Cao Hoang Du châm bổ hoặc thêm cứu.
    - Do Phế Nhiệt: Tả Phế, thanh nhiệt: Châm tả Xích Trạch, Liệt Khuyết, Đại Đô.
    - Do Đờm Thực:Tả Phế, thanh đờm: châm tả Định Suyễn, Chiên Trung, Liệt Khuyết, Phong Long, Vân Môn, Phế Du.
    - Do Phế Âm Hư: Bổ Phế, dưỡng Âm: Châm bổ Thái Uyên, Cao Hoang, Thái Khê, Phế Du, Định Suyễn, Khí Hải.
    -Do Thận Âm Hư: Tư Âm, bổ Thận: châm bổ Thái Khê, Thận Du, Cao Hoang.
    -Do Thận Dương Hư: Bổ Thận, nạp khí: Châm bổ + cứu Thận Du, Khí Hải, Phế Du, Mệnh Môn, Quan Nguyên, Tam Tiêu Du.
    -Do Tâm Dương Hư: Ôn bổ Tâm dương: châm bổ + cứu Thái Uyên, Tâm Du, Cự Khuyết, Mệnh Môn, Khí Hải, Quan Nguyên.
    -HĐCCTL. Lục: Cứu giữa đốt sống cổ 3 và 4, Thiên liêu, Thiên Tông, Phế Du, Thiên Đột, Chiên Trung, Cưu Vĩ, Quan Nguyên, Liệt Khuyết, mỗi huyệt 20 tráng trở lên.
    - Chỉ dùng huyệt Nội quan trị hen suyễn có kết quả tốt (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1959, 12).
    - Suyễn tức, Hợp cốc, Chiên trung, Cự cốt, Phế du, Khúc trì, Thái uyên. Trong đó thường dùng nhiều nhất là Suyễn tức và Hợp cốc Trị 26 ca đều có kết quả tốt (Lý Diệu ?" Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1959, 12).
    - Cứu thành sẹo đẻ trị suyễn. Lúc không lên cơn, chủ yếu cứu Đại chuỳ, Chiên trung. Lúc lên cơn, chia làm ba loại:
    a) Thể Phế suyễn: chọn huyệt Đại chuỳ, Phế du, Phong môn, Chiên trung, Thiên đột.
    b) Tỳ suyễn: Đại chuỳ, Phế du, Cao hoang, Trung quản.
    c) Thận suyễn: Đại chuỳ, Khí hải, Thận du, Phế du, Cao hoang.
    (Lý Chí Minh, Thượng Hải Trung Y Dược tạp Chí 1962,
  4. an52722000

    an52722000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/11/2005
    Bài viết:
    8
    Đã được thích:
    0
    LỜI CẢM ƠN
    Kính gửi ông Nguyễn Xuãn Mai cùng những ng` bạn đã sáng lập ra trang Web www.ttvnol.com ?" 1 trang web phi chính trị,phi lợi nhuận,1 sân chơi trong sạch,bổ ích và lý thú cho hàng triệu ng` mang dòng máu Việt trêntoàn thế giới Kính gởi các anh chị quản trị box Sức khoẻ-Y tế
    Kính gửi thầy Vũ Nguyên (tức nguyen58n)
    Tôi vô cùng cảm ơn ông cùng các anh chị đã mang lại sức khoẻ cho con trai tôi-đem lại hạnh phúc cho gia đình tôi , điều mà bao năm nay tôi hy vọng , tìm kiếm nhưng vẫn không thể có được .
    Sự thể là thế này:
    Tôi có 1 cháu trai năm nay 15 tuổi,cháu bị hen phế quản từ khi 3 tuổi-đã chữa chạy nhiều nơi,tốn kém nhiều tiền bạc,công sức của gia đình mà không thể nào khỏi được!
    Vi` chỉ có 1 đứa con nên vợ chồng tôi không quản ngại tốn kém,cố tìm cách chữa chạy cho con,nhất là khi thấy con mình ngày 1 còi cọc,một hai ngày lại lên cơn hen,ngồi thở nặng nề làm lòng tôi se lại,đau xót vô cùng mà không sao chữa cho con được.Và,nhất là khi được anh bạn là 1 bác sỹ giỏi, nói rằng: Tổ chức y tế thế Giới(WHO) đã khẳng định là chỉ kiểm soát được hen mà không thể chữa khỏi hen suyễn !Lòng tôi càng buồn hơn ,càng cố đọc các sách vở tài liệu,thông tin xem có nơi đâu chữa được hen suyễn không,nhưng càng đọc thì càng vô vọng,cả sách Trung Quốc- nơi phát sinh ra Đông Ycũng viết:?Ngoại khoa bất trị Ezma,nội khoa bất trị hen suyễn?thì còn biết tìm đâu bây giờ.Rồi nghe nói vào Nam ấm áp,bệnh Hen đỡ hơn,tôi đã chuyển cả gia đình vào TPHCM chỉ mong cho con được khoẻ hơn,nào ngờ bệnh tình lại nặng hơn. Sau này khi được đọc bài ?oTPHCM - Thủ Đô Hen Suyễn?,mới biết TPHCM có tỉ lệ hen suyễn cao nhất Châu Á,tôi mới vỡ lẽ ra lại càng buồn hơn! Nhưng 1 số anh em,bạn bè,kể cả 1 số bạn tôi là bác sỹ cũng khuyên là hãy cố tìm,họ đã gặp những ca Hen suyễn nặng được chữa khỏi , có điều không nhớ rõ ai chữa , chữa ở đâu?? Rồi nghe ng` ta nói ở Quảng Ninh có ông thầy Tàu sang , chữa hen rất giỏi tôi cho con ra chữa,nhưng chỉ đỡ mà không khỏi.
    Lại nghe nói dưới Châu Đốc,trên núi có ông chữa bệnh hen, bệnh xoang rất giỏi,tôi cũng tìm xuống nhưng đều không ăn thua.
    Thật ?o mịt mùng như kẻ vọng dương?...! Rồi chính anh bạn bác sỹ lại bàn tôi:Về Tây y thì không chữa được hen rồi,anh chỉ có thể tìm kiếm ở Đông y và các cách chữa dân gian thôi; mà Đông y thì phải ra Hà Nội-vì ở trong này trước đây ng` ta quen dùng Tây y rồi,ít quan tâm Đông y nên Đông y không được phát triển mạnh như ở miền Bắc.Anh thử ra Bắc hoặc nhờ bạn bè ngoài đó tìm xem,biết đâu gặp chỗ chữa được cháu.Theo lời khuyên đó,Tết năm ngoái tôi ra Bắc ăn Tết,nhằm tìm nơi chữa bệnh cho con-mặt khác,tôi nhớ ra hồi xưa có anh bạn là thủ trưởng cũ thời bộ đội có cháu H . bị hen nặng-nên tôi ra đó tìm anh- nếu H. được chữa khỏi thì xin được chỉ để chữa cho con mình.Nhưng, ra HN khi tìm được nơi cư trú của anh bạn,hỏi ra thì cháu H. đã mất mấy năm trước,vì bệnh Hen quá nặng.Thật như sét đánh ngang tai-tôi bủn rủn cả người-vừa xót thương cho cháu H. đã giã từ cõi đời giữa tuổi hoa niên,vừa thương cho vợ chồng anh bạn đã bị mất đi đứa con trai yêu quý,vừa nghĩ tới cảnh mình :trẻ thì đi bộ đội,lớn tuổi mới có được gia đình-sinh được một mình cháu-giờ nếu con tôi... không chữa được,thì vợ chồng tôi còn sống làm gì trên thế gian này nữa! Rồi 1 tia sáng cuối đường hầm-1 tia hy vọng chợt ánh lên-tôi được gặp chị B.T.,nhân viên bán sách ở cửa hàng sách HN.Chị kể trước chị bị hen suyễn,lấy chồng 10 năm chưa có con-sau được 1 ông thầy chữa khỏi vô sinh và hen suyễn-cháu lớn của chị nay đã hơn 10 tuổi rồi-sau đó chị giới thiệu mấy người nữa chữa Hen suyễn đều khỏi cả,nhiều năm nay bệnh không tái phát.Nhà ông thầy đó ở 14 Ngô Quyền-HN.Theo địa chỉ chị cho tôi tới tìm ông-thì được tin ông đã chuyển cả gia đình vào TPHCM.Tôi hỏi xin địa chỉ hoặc điện thoại , nhưng mấy nguời có lại về quê ăn Tết chưa lên hoặc đang đi công tác xa . Vì ra Bắc đã dài ngày nên tôi phải quay vào Nam đã rồi tính sau .Dù sao thông tin của chị đối với tôi lúc này cũng thật bổ ích , nghĩa là hen suyễn có thể chữa khỏi và tôi đang tới gần nơi cần tìm kiếm .
    Vừa về TP-vợ tôi bảo anh bạn bác sỹ nhắn có thông tin chữa hen cho con-tôi lao tới ngay.Anh bạn tôi nói:?Trên mạng có bài nói về chữa Hen rất có sức thuyết phục-biết đâu đây lại là cơ hội cho anh?.Nói rồi anh mở mạng cho tôi xem-đọc xong tôi nhẹ người-như có nhiều hứa hẹn tốt đẹp cho con tôi!Hôm sau anh bạn in cho tôi bài viết,tôi nghiền ngẫm rồi quyết định theo các bài thuốc trong đó chữa cho con xem.Tôi lần lượt đưa các bài thuốc đi cân về sắc cho con uống.Nhưng,có bài thì uống vào cháu hen nặng lên,có bài cháu uống vào đỡ hẳn nhưng không khỏi được.Tiếng thở nghe vẫn còn nặng nề, ran,rít.Tôi đành viết thư cho ông thầy là tác giả bài viết?Chữa Hen Phế Quản?nguyen58n@yahoo.com.Ông đã trả lời thư tôi và mời đưa cháu đến ông khám cho.Sau khi khám,ông nói bệnh cháu nặng đấy-nhưng tôi có thể chữa khỏi-nhưng chỉ xin gia đình không nôn nóng-cho tôi thời gian vì cháu đã chữa nhiều cách khác,bây giờ phải khử tác dụng phụ của thuốc Tây trước đây đã dùng.Ông cho cháu uống 1 lọ thuốc viên trị giá 100 ngàn.Thật lạ lùng,tôi đã cân cho cháu uống 40 thang thuốc hết cả triệu bạc mà không đỡ mấy , nay chỉ uống 100 ngàn-cháu đã đỡ hẳn hen-cả nhà mừng lắm.Chỉ sợ không biết kết quả có bền vững không-cháu uống thêm 1lọ nữa thì hết hen-sau đó uống củng cố tiếp 2 lọ nữa thì cháu khỏi hoàn toàn cho tới nay.Dịp trước Tết 1 tháng trời Sài Gòn lạnh xuống-cả nhà cứ lo cháu bị hen lại-nhưng không sao cả-giờ thì trông cháu khác hẳn rồi -hồng hào khoẻ mạnh và nhanh nhẹn hẳn lên.
    Thế là sau hơn 10 năm vất vả tìm kiếm nơi chữa bệnh cho con , nay tôiđã đuợc mãn nguyện ,mà với chi phí không đáng kể : chỉ chưa tới nửa triệu đồng , thật không còn dám mơ ước nào hơn . Tôi đã phải tốn kém ngót 30 triệu đồng mà chẳng ăn thua ,thậm chí có lần tới một ông thầy dùng coticoid liều cao chữa cho con mà tôi chẳng hay biết gì ; thấy con ăn khỏe ,mập lên trông thấy ,mặt béo tròn cứ tưởng là thuốc hay , ai ngờ sau đó cháu cứ yếu dần ,may nhờ gặp duợc anh bạn là bác sỹ mà tôi nhắc đến ở trên ,anh phát hiện ra điều đó và cho cháu dừng điều trị ngay ,nếu không thì chẳng biết sẽ nguy hại tới mức nào .Còn tệ hơn nữa là với tâm trạng đang sốt ruột chữa bệnh cho con , mà đi nhiều nơi rồi không đựoc , khi thấy cháu đỡ tôi lại còn yêu cầu thầy chữa liều cao cho con không sợ tốn kém ,giờ nghĩ lại mà thấy rùng mình , tự mình làm hại con mà khong hay biết ! Khi đọc được dòng khuyến cáo : " nhiều khi người ta không chết vì bệnh mà chết vì thiếu hiểu biết trong khi chữa bệnh " ,nghĩ lại trừong hợp của mình mới thấy giật mình ...!Rất mong các bậc phụ huynh không lặp lại sai lầm như tôi .
    Thế tại sao tới giờ tôi mới viết lời cảm ơn này?Lẽ ra tôi đã viết trước tết vừa rồi-nhiều lần tôi đã thấp thỏm định viết nhưng lại sợ không biết con mình đã khỏi hẳn chưa?Sau đọc được tài liệu WHO quy định:Nếu sau 52 tuần bệnh nhân không lên cơn quá phát thì coi như đã kiểm soát được bệnh hen.Thế là tôi nảy ra ý định chờ con khỏi được 52 tuần thì tôi sẽ viết lời cảm ơn này lên mạng.Và,ngày ấy đã đến:Tới nay con tôi đã khỏi dc 52 tuần nên tôi mới mạnh dạn viết lời cảm ơn này. Kính mong ông Mai cùng các anh chị cũng như thầy Nguyên tha thứ cho sự chậm trễ này .
    Lần nữa tôi cùng gia đình vô cùng cảm ơn Trái Tim Viêt Nam(TTVNOL);cảm ơn box ?oSức khoẻ-Y tế?-cảm ơn thầy Vũ Nguyên đã mang lại sức khoẻ-niềm vui không gì lớn hơn cho con trai tôi.Đặc biệt với thầy Vũ Nguyên-gia đình tôi coi thầy là ng` đã sinh ra con trai tôi lần thứ 2.Lần thứ nhất tôi sinh ra con là 1 đứa bé còi cọc ốm yếu,lần này thầy đã sinh lại cho tôi 1 cậu bé khoẻ mạnh,tuấn tú , nhanh nhẹn và hoạt bát hơn trước rất nhiều .Kính chúc Thầy thật khoẻ để nghiên cứu được nhiều bài thuốc hay,mang lại sức khoẻ,hạnh phúc cho nhiều người .Chúc thầy cùng gia đình vui khoẻ và bình an . Cũng nhân dịp này xin chúc các thành viên của box Sức khoe và Y tế cùng các bạn đọc website TTVNOL thật nhiều vui khoẻ và may mắn.Chúc Trái Tim Việt Nam ngày càng lớn mạnh và hữu ích cho mọi người.
    Kính Thư
    An52722000@yahoo.com
    Được an52722000 sửa chữa / chuyển vào 09:22 ngày 12/05/2007
    Được an52722000 sửa chữa / chuyển vào 10:16 ngày 12/05/2007
  5. CPN_jsc

    CPN_jsc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2004
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Các bạn giúp mình với: ông cụ thân sinh là chuyên gia lâm nghiệp hiện đã về hưu, cứ đi rừng thì không sao, về đến Hà nội mùa này lại rất khó thở ban đêm, xịt thuốc các kiểu nhưng có lần phải đưa vào Bạch mai cấp cứu - bác sĩ cho thở oxy thì 15 phút sau tỉnh táo như thường- lại đi về nhà ....
    Thế là cụ bị hen loại gì ạ, các bác cho ý kiến giúp nhé, có thể mua bình oxy để luôn ở nhà cho cụ dùng khi về Hà nội được không (hiện cứ đi làm đề tài ở miền núi là lại khoẻ như sáo, về với gia đình lại bị, thế mới khổ)
    Thanks các bạn đã quan tâm
  6. bagiabeo

    bagiabeo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/11/2007
    Bài viết:
    2
    Đã được thích:
    0
    Bác Nguyên ơi,
    Bác cho em xin địa chỉ hoặc số điện thoại để liên lạc được không ạ?
    EM đang cần gấp, con gái em bị bệnh này chữa mãi thuốc tây không khỏi.
    Cảm ơn bác
  7. bagiabeo

    bagiabeo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/11/2007
    Bài viết:
    2
    Đã được thích:
    0
    Bác Nguyên ơi,
    Bác làm ơn cho em xin số liên lạc với.
    Cảm ơn về các thông tin hữu ích mà bác đã post.
  8. nguyen58n

    nguyen58n Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0
  9. jumanjii

    jumanjii Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/09/2006
    Bài viết:
    2.881
    Đã được thích:
    0
    Có thể khẳng định ko thể chữa khỏi được hen suyễn, trừ trường hợp hen sữa từ nhỏ thì lớn lên sẽ tự khỏi. Bệnh này bị tạm thời đẩy lùi khi cơ thể khoẻ mạnh, sức đề kháng tốt. Khi cơ thể suy giảm sức đề kháng, gặp những dị nguyên bên ngoài: Mùi thuốc lá, phấn hoa, bụi, hoặc virus, thời tiết lạnh, gắng sức,... thì bệnh hen sẽ tái phát. Do vậy về cơ bản điều trị bệnh hen lâu dài là phải tìm cách tăng sức đề kháng của cơ thể bằng nhiều cách: Chế độ tập luyện, dinh dưỡng, sinh hoạt; bấm huyệt, xoa bóp, cấy chỉ, các bài thuốc có tác dụng tăng sức đề kháng... Bên cạnh đó cần đặc biệt chú ý tới việc tập thở và dùng các thuốc dự phòng (seretide,...). Nhưng gì thì các bác cũng phải tới khám ở các cơ sở y tế để biết nguyên nhân và có phác đồ điều trị (Hic, cái phác đồ này nhiều lúc ko được tin tưởng cho lắm. Hồi trước em bị hen, còn nhỏ tầm lớp 8 lớp 9 chưa biết gì, đi khám ở BV X bị mụ BS tống cho uống thuốc cả năm trời mà chả đỡ gì cả, về sau mới biết bị hen uống thuốc Tây y ko có tác dụng đáng kể mà lại rất hại nữa
  10. vanluyen_xd

    vanluyen_xd Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/10/2005
    Bài viết:
    146
    Đã được thích:
    0
    Hic! Em đi khám thì bác sỹ bảo là viêm phế quản co thắt! Theo em nghĩ thì bệnh của em là nhẹ thôi nhưng em khó chịu với cái bệnh này lắm. Hồi bé em hay bị viêm phế quản lắm, hầu như ko tuần nào là ko phải tiêm. Sau khi đi học thì hết hẳn và hầu như ko bị ốm bao giờ. Đến năm em tốt nghiệp đại học về quê an dưỡng chuẩn bị đi làm. Có một lần đánh cầu lông quá sức sau đó hình như uông nước lạnh hay tắm nước lạnh gì đó mà đêm em ko thể thở được, đúng đợt cúm gà, em sợ quá cứ tưởng mình teo rồi. Sau đó đi khám thì mới biét là mình bị viêm phế quản co thắt.
    Sau lần đó đến nay thì thỉnh thoảng em lại thấy ho, khó thở, nhất là những hôm đi đá bóng mà gắng sức quá, rồi cả những hôm bị lạnh nữa. Nhưng quan trọng nhất là em rất dễ bị mất ngủ, hay chán ăn, mặt mày hốc hác. Đó có phải là những di chứng của bệnh viêm phế quản ko? Em phải làm gì bây giờ? Như bác NGUYEN58N nói thì có thể chữa dứt bằng đông y? Vậy em có thể có lại sức khỏe như trước ko? Liệu em có phải kiêng đá bóng ko? Em rất mê đá bóng, ko có nó chắc cuộc sống mất hết ý nghĩa! Hiện giờ khi đá bóng em vẫn rất khỏe, có thể hoạt động cường độ cao trong cả trận đâu (khoảng 60p) nhưng với hoạt động thường ngày như thể dục buổi sáng, tập tạ em lại rất uể oải (Trước kia thì khác). Một số trận quá sức về nhà là lại bị thở. Nhưng ko khó thở lắm, chỉ ho và hơi khò khè.
    Với những gì em nói ở trên thì bệnh của em như thế nào? có nghiêm trọng ko? em phải điều trị thế nào? đừng bảo em thôi đá bóng nhé! thanks!

Chia sẻ trang này