1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chúng ta có thể giải phóng miền Nam vào năm 1972?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Duong2002, 12/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    To LEDUNG250781 : mọi người thảo luận về 1 sự kiện trong lịch sử thì có gì sai mà bác bảo nên dừng. Ai cũng có quyền có ý kiến chứ, đúng thì tốt, sai thì mọi người góp ý, bác không thích tham gia thì thôi sao cứ phải phá ngang thế.
    To Cavalry : Trận CV ta định phản công ngay sau khi bị chiếm nhưng không chuẩn bị kịp phần vì 320b đang chuẩn bị đánh chợ Sãi, phần vì phổ biến kí hiệp định quá muộn (sáng kí đêm mới phổ biến) nên đối phó với địch lúng túng. Đến lúc ta phản công địch chỉ còn 3 cụm quân, mỗi cụm 2 đại đội và 20 thiết giáp. TĐ24 tấn công mặt chính diện quân số chỉ còn hơn 1 tiểu đoàn, xe tăng ta có 1 đại đội nhưng chỉ 1 chiếc tham chiến và diệt 3 xe tăng địch. Ta phải điều thêm 9 đội súng chống tăng của TĐ102 sư 308 tới tăng cường.
    To shinano : năm 1972 có một số lớn tăng thiết giáp của ta bị cháy hỏng phải bỏ lại trận địa. Quân ngụy kéo về quảng cáo rầm rộ nhằm lên dây cót tinh thần. Tuy nhiên điều đáng nói là rút kinh nghiệm từ chuyện này, năm 1973 ta đã bổ sung cho lực lượng tăng thiết giáp trong Nam loại xe đặc chủng làm nhiệm vụ cứu hộ. Đó thực chất là xe T54 không tháp pháo nhưng gắn đại liên 12,8mm, thiết bị, dây cáp để kéo các xe cháy hỏng(kể cả xe của địch) về nơi an toàn, không để rơi vào tay chúng. Loại xe này hoạt động rất hiệu quả, đã cứu được hàng trăm lần chiếc xe của ta, cũng không ít lần xe đặc chủng đã trực tiếp đối đầu với quân địch.
    Còn về đợt 2 chiến dịch NH, các bác thông cảm, chịu khó chờ một thời gian để tôi tìm lại đã.
    KCVQNBHSCTQ
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Chiến đấu ở Quảng Trị
    Trích hồi kí của thượng tướng Nguyễn Hữu An, vào thời điểm đó, ông NHA được cử về làm tư lệnh sư đoàn 308. Tôi nghĩ đọc xong cái này có thể chúng ta sẽ hiểu thêm phần nào về cuộc chiến đấu anh hùng của quân ta ở Quảng Trị.
    ...
    BCH mặt trận B5 lúc này có thiếu tướng Trần Quý Hai tư lệnh, thiếu tá Cao văn Khánh phó TL, trung tưóng Song Hào chính ủy, đại tá Hoàng văn Thái phó chính ủy, đại tá Doãn Tuế tư lệnh pháo binh, đại tá Ngô Hùng tham mưu phó.
    ...
    Đúng đêm 20-7 tôi tới sở chỉ huy 308. Trực ở nhà có chính ủy Hùng Phong, phó chính ủy Hoàng Kim và đại tá Hồng Sơn phó tư lệnh B5 trực tiếp chỉ huy sư đoàn. Trừ phó tư lệnh Đào Sung đang ở phía trước, còn ở đây kể cả anh em 3 cơ quan đều là người quen biết, đón tiếp tôi rất chân thành, cởi mở. Không cần hỏi han gì nhiều, cứ nhìn hố bom, hố đạn rải ra khắp khu vực sở chỉ huy và những khuôn mặt gầy guộc khắc khổ, những cặp mắt chứa đầy ưu tư cũng đủ thấy cuộc chiến ở đây quyết liệt thế nào.
    Tôi được cấp trên chỉ đinh vào thưòng vụ Đảng ủy. Sau thủ tục cần thiết, các anh cho tôi biết tình hình chung và những vấn đề đang nóng bỏng trong đơn vị.
    Bộ phận chỉ huy ở các trung đoàn cơ bản không có gì thay đổi so với hồi 1970-1971 tôi có mặt ở sư đoàn. TĐ102 do Hoàng Ngọc Tý TĐ trưởng, Nguyễn Hữu Ích chính ủy; TĐ88 do Thận TĐ trưởng, Hoà chính uỷ; TĐ36 do Nguyễn Văn Đáng TĐ trưởng, Hồ Lực chính ủy.
    Đại bộ phận sư đoàn đã vượt sông Mỹ Chánh đứng trấn ở huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên đang chuẩn bị tấn công Huế, đùng một cái đưọc lệnh (28-6) lui về bảo vệ Quảng Trị. Dọc đường rút lui sư đoàn đã chịu sự ác liệt ghê gớm của B52 và pháo bầy gây cho ta nhiều thương vong. Khoảng 1 tuần lễ việc lật cánh của sư đoàn đã hoàn tất. Từ ngày 2-7 TĐ102 đã đnahs một số trận ngăn chặn sư đoàn dù ngụy tren dãy Trường Phước, tiêu diệt khoảng 3 đại đội địch, phá hủy 2 xe tăng. TĐ36 đã tiến xuống bờ nam sông Nhùng, phối hợp với TĐ102 tiến công bộ phận đi đầu của lữ dù 2. Ngày 6-7 TĐ36 dùng 2 tiểu đoàn do TĐ phó triệu Thơ và chính ủy Hồ Lực chỉ huy đã đánh tiêu hao nặng tiểu đoàn 9 dù trên khu đồi 4 làng Thường Nguyên. Cùng khoảng thời gian dó, TĐ cử tiểu đoàn 2 vượt qua tuyến ngăn chặn của quân dù ngụy, tiểu đoàn đã phá hủy cầu Nhùng, cắt đứt đường số 1.
    Các TĐ 36, 102 đã trấn giữ khu vực Thượng Nguyên trên dãy Trường Phước gần nửa tháng trời. Đêm 12-7 sư đoàn nhận lệnh của BTL Mặt trận : giao lại cho đơn vị bạn, chuyển về đánh địch ở tuyến tây nam Thành cổ, lại 1 cuộc hành quân lật cánh nữa trong bão táp bom đạn.
    Tiểu đoàn 4 đi đầu vượt qua lưới lửa ngăn chặn của địch tiến vào làng Tân Mễ Phường (cách TX Quảng Trị 7km). Sáng hôm sau tiểu đoàn tiếp tục đánh đại đội viễn thám (thuộc tiểu đoàn biệt kích dù) bật ra khỏi làng Như Lệ. Tiểu đoàn nhanh chóng tiến xuống Tích Tường, Gia Long, La Vang gặp tiểu đoàn dù 11 ngụy vừa hành quân đến. Ta kịp thời nổ súng đánh thẳng vào sở chỉ huy tiểu đoàn địch. Trận đánh diễn ra quyết liệt khoảng 1 giờ ở khu đồi phi lao làng La Vang hạ, buộc địch phải rút lui. Địa bàn đứng chân của TĐ102 đã có thế vững chắc.
    Theo hành lang ven sông Thạch hãn từ miền tây xuống vừa được mở, TĐ88 (20-7) đã từ động Ông Do tiến xuống Tích Trường, cầu Sắt, vùng đất tiếp giáp với nam TX Quảng Trị.
    Cách vài ngày sau, TĐ36 hành quân xuyên rừng, từ Thượng Nguyên vượt qua sông Nhùng tiến tới trụ ở Phú Long, Tân Téo.
    Lúc tôi đang tiếp xúc với cán bộ chỉ huy và cơ quan sư đoàn để tìm hiểu tình hình cũng là lúc toàn sư đoàn trụ trên dải đất hẹp ở ven sông Thạch hãn, đang chiến đấu với quân dù và thủy quân lục chiến là 2 sắc lính tinh nhuệ nhất của ngụy.
    Lúc này lực lượng toàn mặt trận gồm các sư đoàn 320b, 304 và 308 hầu như đấu lưng với nhau để giữ vững khu vực Thành cổ Quảng Trị. Giữ 1 đống gạch vụn, không dân, không có ý nghĩa gì về chiến thuật, chiến lược quân sự nhưng lại rất có ý nghĩa chính trị trên bàn ngoại giao ở Pari.
    Nắm tình hình đơn vị xong, đêm hôm ấy tôi trao đổi suy nghĩ của mình về chủ trương của mặt trận (28-6) "chuyển từ tấn công sang chiến dịch phản công tiêu diệt địch giữ vững vùng GP. Đánh bại cuộc hành quân của địch, phát triển tấn công vào thời cơ có lợi".
    Tôi đặt câu hỏi : tại sao ta từ tấn công lại chuyển sang phản công ?
    Tôi liên tưởng tới chiến dịch cánh đồng Chum, chỉ khác ở đây về quy mô và cường độ, còn cái ruột diễn biến gần giống nhau. Cũng lúc đầu chiến thắng ào ạt, tiến rất nhanh vào hậu phương địch, bỏ trống vùng mình vừa GP. Lực lượng ta xa hậu phương liên tục không kịp bổ sung, càng chiến đấu càng yếu. Đich có phương tiện cơ động nhanh. Sau cú đầu choáng váng, chúng đã hồi phục, liền cơ động về phía sau ta và chiếm lại vùng đã mất. Đáng lý với lực lượng chừng ấy ta chỉ phát triển tới sông Mỹ Chánh, dừng lại chuyển sang củng cố khu vực đã chiếm.
    Trước mắt quân ta lúc này là sư đoàn dù, sư đoàn lính thủy đánh bộ và sư đoàn bộ binh số 1 ngụy, được yểm trợ bằng hoả lực mạnh của không quân và pháo của hạm đội 7 Mĩ. Về phía ta sư đoàn 308 đã mất sức chiến đấu, quân số 1 đại đội chỉ còn 20-30 người là cùng. Gạo, đạn tiếp tế kiểu ăn đong. Tôi nhớ ngay lúc tới đây đã nghe cán bộ hậu cần phàn nàn :"Hậu cần mặt trận vừa tiếp cho sư đoàn một số đạn pháo 105, hậu cần của 304 đã nẫng tay trên". Các sư đoàn 304, 320 tình hình chung không khác gì 308.
    Sự so sánh này, rõ ràng là địch ăn hiếp ta. Tôi gợi ý : ta có nên chuyển vào phòng ngự chăng ?
    Tất cả sự đánh giá tình hình, anh Hồng Sơn đều đồng ý nhưng tới việc chuyển vào phòng ngự anh im lặng không tỏ thái độ.
    Ngày hôm sau tôi lại mang nội dung ấy để trao đổi với chính ủy Hùng Phong. Khi tôi nói nên chuyển sang phòng ngự, Hùng Phong không nhất trí.
    ...
    Hàng nửa tháng liền không mấy ngày được nắng ráo; nhiều trận mưa kéo dài, trong hầm hào lúc nào cũng ngập ngụa bùn nưóc. Sư đoàn tôi vẫn giữ vững tuyến ngã ba Long Hưng, khu tam giác Đệ Ngũ, đồn Gia Long, La Vang, Phước Môn, Tân Téo, Như Lệ, Tích Tường. Ngày đêm bom B52, pháo mặt đất, pháo hạm của địch dội xuống ác liệt. Anh em phải chiến đấu liên tục, không có thời gian làm công sự, phần lớn các phân đội mới làm được hố bắn và chiến hào ngắt quãng. Công sự mỏng yếu nên số thương vong vì bom pháo tăng lên. Chiến đấu kéo dài liên tục trong ác liệt và mưa gió lầy lội nên sức khoẻ bộ đội giảm sút, ảnh hưởng nhiều tới sức chiến đấu. Tôi nhắc các đơn vị trong nhiệm vụ phản công phải chú ý các trận địa chốt và lực lượng dự bị phải có công sự chống đỡ được bom pháo địch, ý muốn nói phòng ngự giữ địa bàn nhưng không hề đả động đến 2 chữ phòng ngự. Nhiều cán bộ chỉ huy không thông với lệnh phản công và cho rằng dừng lại phòng ngự thì giữ được đất và đỡ thương vong, nhưng họ sợ nói ra điều đó lúc này sẽ bị quy chụp, cho là "dao động không có tư tưởng tiến công".
    ...
    Tôi tìm hiểu tình hình ta trong thành cổ. Phương thức tác chiến không dứt khoát, theo lệnh phản công tiêu diệt sinh lực địch để giữ thành nên không có công sự trận địa phòng ngự chu đáo. Hoả lực địch gồm hàng trăm nòng pháo, hàng ngày trung bình 35-40 lần chiếc B52 bắn phá, thả bom, chủ yếu gây thương vong cho ta trong Thành cổ. Quân số chiến đấu của ta trong Thành cổ mỗi ngày tiêu hao không ít. Nhiều chiến sĩ đưa vào bổ sung, chưa kịp biết mặt cán bộ phân đội của mình đã thương vong hoặc mất sức chiến đấu.
    Các TĐ của 308 vẫn kiên cường trụ vững ở ngã ba Long Hưng, tam giác Đệ Ngũ, đồn Gia Long, La vang, Phước Môn, Tân Téo, Như Lệ, Tích Tường phối hợp chặt với sư đoàn 320b giữ thành cổ Quảng Trị, hàng ngày chiến đấu giành giật với địch từng tấc đất. Nơi quyết liệt nhất là Tích Tường, Như Lệ.
    Tích tường, Như Lệ là 2 làng lớn sát nhau, tựa lưng vào sông Thạch Hãn, phân chia bởi con suối nhỏ gọi là khe Như Lệ chảy từ động Ông Do tới. Con đường ô tô từ Quảng trị tới đây đã bị bom Mĩ đánh sập. Dựa vào địa hình có lợi của đồi Chè, đồi Cháy, đồi cây Mít, đồi Thám Báo ở sát làng Như Lệ, anh em bố trí đôi hình phòng ngự, nhìn ra 1 cánh đồng, xa hơn nữa một chút là khu đồi Phước Môn. Khi suối Như Lệ ít nước, xe tăng có thể cơ động từ Phước Môn tới đây.
    Tích Tường nhìn ra phía trước là cánh đồng hẹp nối với dải đồi thấp 4 mỏm, gọi là đồi Cây Dừa. Bên phải đồi Cây Dừa là hồ Tích Tường, tiếp giáp hồ là 1 cánh đồng hẹp nữa.
    Nhận nhiệm vụ xây dựng cụm trận địa chốt thực chất là phòng ngự ở địa hình nói trên, TĐ36 đã đứng ở 1 điểm nóng của toàn mặt trận. Đây là 1 địa bàn có ý nghĩa chiến thuật quan trọng. Địch muốn lấn chiếm vùng giải phóng phía tây và Thành cổ phải qua nơi đây. Ngay từ lúc đưa quân tới đây, TĐ36 đã chịu đựng sức ép của địch, của địa hình thực tế hết sức nặng nề. Lữ dù 2 ngụy mạnh và đông hơn đã chiếm các đồi cao hơn khống chế 3 phía, còn phía sau lưng TĐ36 là sông Thạch Hãn nước lũ dâng cao.
    Ngày 19-9 tiểu đoàn dù 1 ngụy mở màn cuộc tiến công có xe tăng và phi pháo yểm hộ đánh từ đồn Gia Long xuống cụm chốt đồi Cây dừa, đồi 4 mỏm ven hồ Tích Tường. Mờ sáng pháo của chúng bắn dồn dập nhằm che tiếng động cơ xe tăng và yểm hộ cho bộ binh tiến vào đồi Cây Dừa. Đại đội 10 chốt tại đây đã kịp thời phát hiện, tiêu diệt 20 tên và phá hủy 1 xe tăng. Bọn còn lại phải tháo chạy.
    9 giờ, tiểu đoàn dù 1 tăng cường 1 đại đội tiếp tục tiến công một đợt nữa, lại bị đại đội 10 đẩy lùi.
    Khoảng 2 giờ chiều máy bay pháo binh địch oanh tạc dữ dội vào chốt Cây Dừa, đồng thời xe tăng bộ binh địch cho triển khai vào vị trí xung phong. Nắm chắc thủ đoạn của địch, đại đội 10 sử dụng 2 tổ trang bị mạnh do trung đội trưởng Chung chỉ huy, lợi dụng khó bom bí mật vận động lên "chốt phụ" phía sườn địch. Xe tăng và bộ binh địch đang lò dò chậm chạp bất thần bị đánh vào sườn. Chúng hốt hoảng dừng lại đối phó.
    Trong ngày, 3 lần tấn công của tiểu đoàn dù 1 đều thất bại. Không thực hiện được lấn đất bằng bộ binh, chúng lại sử dụng bài vở quen thuộc. Pháo binh, không quân địch không ngừng bắn phá trên dải đất hẹp của sư đoàn đang chốt giữ.
    ...
    Ngày 22-9 địch mở cuộc hành quân đánh chiếm điểm cao 367, động Ông Do, Tích Tường, Như Lệ. Cuộc chiến rất quyét liệt, hangf ngày từng trận đánh diễn ra giành giật nhau từng tấc đất.
    Tới ngày 3-11 địch chiếm được điểm cao 367 uy hiếp động Ông Do. Sư đoàn TQLC ngụy chuẩn bị vượt sông Thạch Hãn. Lữ dù 2 đã chiếm được Gia Long, La Vang, Tân Téo, chúng liên tục tấn công vào Tích Tường, Như Lệ hòng đẩy ta qua bờ bắc sông Thạch hãn trước khi có hiệp định Pari. Các phân đội của TĐ36 rất kiên cường mưu trí đã đẩy lùi tất cả các đợt tấn công của lữ dù 2.
    Tôi nhớ ngày 20-11 diễn ra một trận đánh hết sức quyết liệt ở Tích Tường. Hầu hết công sự trên trận địa chốt của ta bị bom pháo và mưa lũ san bằng, anh em nằm trơ trên các gờ đất được ngụy trang bằng những cành cây khô. Điển hình nhất là trận địa chốt của đại đội 1 do đại đội phó Trần Minh Tuân chỉ huy. 1 đại đội dù ngụy bì bõm tiến vào 1 chốt phụ của đại đội 1. Ở chốt này có 5 người đã bị thương mất 3, còn lại 2 chiến sĩ vẫn dũng cảm nổ súng chặn địch. Thấy chốt phụ bị uy hiếp, từ chốt chính đại đội phó Tuân dẫn 4 chiến sĩ sang chi viện. Vừa ra khỏi chốt đã bị thương 4, còn lại một mình, Tuân vẫn dũng mãnh lao lên. Anh đã cùng với 1 chiến sĩ còn lại của chốt phụ linh hoạt sử dụng các loại vũ khí của những người hi sinh và bị thương để lại. Lúc bắn trung liên, bắn tiểu liên, lúc bắn B40... họ đã đẩy lùi hàng chục dợt xung phong của đại đội địch. Cuối cùng 2 dũng sĩ đó đã kết hợp cùng các trận địa cối của tiểu đoàn, TĐ và các trận địa chốt của các đơn vị bạn đánh bật cuộc tấn công của tiểu đoàn dù 9 ra khỏi Tích Tường, tiêu diệt hàng trăm tên.
    Tôi gọi điẹn thoại biểu dương TMT và phổ biến kinh nghiệm giữ chốt của Tuân tới các đơn vị khác.
    Một lần tôi tới làng Như Lệ, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 1 dẫn tôi đi xem trận địa. Qua khu vực nhà cửa bị cháy rụi, đổ nát không còn hình dung được thôn xóm cũ, chúng tôi chui qua 1 đoạn đường hầm, tới đầu làng nhìn chếch về phía sau có tên lính ngụy vận đồ rằn ri đứng gác. Tôi hỏi tiểu đoàn phó :
    - Sao lại có thằng ngụy gác ở đó ?
    - Báo cáo nó vừa lẩn ra đó.
    - Các cậu đưa mình đi thế này không sợ nó bắn tỉa à ?
    - Thủ trưởng yên tí. Tôi đã bố trí những tay thiện xạ, nếu nó định giở trò gì là anh em "phơ" luôn.
    Tôi thầm khen cán bộ chiến sĩ dưới quyền mình. Họ xứng đáng được Đảng và nhân dân gửi gắm niềm tin cậy.
    Khi ở sở chỉ huy nghe báo cáo các chót ở Tích tươgf, Như Lệ ta vẫn giữ vững, tôi nghĩ làng Như Lệ vẫn thuộc về ta. Đến đây thấy làng Như Lệ dài hàng cây số, địch đã lấn ra cắt 1 đoạn ở sát bờ sông.
    Qua kiểm tra các TĐ, nhiều chiến sĩ giữ tiểu liên chỉ còn 1 băng đạn, nhiều khẩu cối 82 chỉ còn 1, 2 quả đạn. Phần lớn các đại đội quân số chỉ còn 15-20 người. Bộ đội phải chiến đấu liên tục kéo dài không được nghỉ ngơi, anh em nói đùa chua chát "chiến dịch gì mà chó đẻ 2 lứa vẫn không dứt...". Sức khoẻ bộ đội giảm sút rõ rệt. Lúc này (11=1972) sư đoàn 312 đã vào. Tôi đề nghị với BCH Mặt trận cho sư đoàn 308 rút về phía sau củng cố.
    KCVQNBHSCTQ
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 19:30 ngày 05/04/2003
  3. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Chiến đấu ở Quảng Trị
    Trích hồi kí của thượng tướng Nguyễn Hữu An, vào thời điểm đó, ông NHA được cử về làm tư lệnh sư đoàn 308. Tôi nghĩ đọc xong cái này có thể chúng ta sẽ hiểu thêm phần nào về cuộc chiến đấu anh hùng của quân ta ở Quảng Trị.
    ...
    BCH mặt trận B5 lúc này có thiếu tướng Trần Quý Hai tư lệnh, thiếu tá Cao văn Khánh phó TL, trung tưóng Song Hào chính ủy, đại tá Hoàng văn Thái phó chính ủy, đại tá Doãn Tuế tư lệnh pháo binh, đại tá Ngô Hùng tham mưu phó.
    ...
    Đúng đêm 20-7 tôi tới sở chỉ huy 308. Trực ở nhà có chính ủy Hùng Phong, phó chính ủy Hoàng Kim và đại tá Hồng Sơn phó tư lệnh B5 trực tiếp chỉ huy sư đoàn. Trừ phó tư lệnh Đào Sung đang ở phía trước, còn ở đây kể cả anh em 3 cơ quan đều là người quen biết, đón tiếp tôi rất chân thành, cởi mở. Không cần hỏi han gì nhiều, cứ nhìn hố bom, hố đạn rải ra khắp khu vực sở chỉ huy và những khuôn mặt gầy guộc khắc khổ, những cặp mắt chứa đầy ưu tư cũng đủ thấy cuộc chiến ở đây quyết liệt thế nào.
    Tôi được cấp trên chỉ đinh vào thưòng vụ Đảng ủy. Sau thủ tục cần thiết, các anh cho tôi biết tình hình chung và những vấn đề đang nóng bỏng trong đơn vị.
    Bộ phận chỉ huy ở các trung đoàn cơ bản không có gì thay đổi so với hồi 1970-1971 tôi có mặt ở sư đoàn. TĐ102 do Hoàng Ngọc Tý TĐ trưởng, Nguyễn Hữu Ích chính ủy; TĐ88 do Thận TĐ trưởng, Hoà chính uỷ; TĐ36 do Nguyễn Văn Đáng TĐ trưởng, Hồ Lực chính ủy.
    Đại bộ phận sư đoàn đã vượt sông Mỹ Chánh đứng trấn ở huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên đang chuẩn bị tấn công Huế, đùng một cái đưọc lệnh (28-6) lui về bảo vệ Quảng Trị. Dọc đường rút lui sư đoàn đã chịu sự ác liệt ghê gớm của B52 và pháo bầy gây cho ta nhiều thương vong. Khoảng 1 tuần lễ việc lật cánh của sư đoàn đã hoàn tất. Từ ngày 2-7 TĐ102 đã đnahs một số trận ngăn chặn sư đoàn dù ngụy tren dãy Trường Phước, tiêu diệt khoảng 3 đại đội địch, phá hủy 2 xe tăng. TĐ36 đã tiến xuống bờ nam sông Nhùng, phối hợp với TĐ102 tiến công bộ phận đi đầu của lữ dù 2. Ngày 6-7 TĐ36 dùng 2 tiểu đoàn do TĐ phó triệu Thơ và chính ủy Hồ Lực chỉ huy đã đánh tiêu hao nặng tiểu đoàn 9 dù trên khu đồi 4 làng Thường Nguyên. Cùng khoảng thời gian dó, TĐ cử tiểu đoàn 2 vượt qua tuyến ngăn chặn của quân dù ngụy, tiểu đoàn đã phá hủy cầu Nhùng, cắt đứt đường số 1.
    Các TĐ 36, 102 đã trấn giữ khu vực Thượng Nguyên trên dãy Trường Phước gần nửa tháng trời. Đêm 12-7 sư đoàn nhận lệnh của BTL Mặt trận : giao lại cho đơn vị bạn, chuyển về đánh địch ở tuyến tây nam Thành cổ, lại 1 cuộc hành quân lật cánh nữa trong bão táp bom đạn.
    Tiểu đoàn 4 đi đầu vượt qua lưới lửa ngăn chặn của địch tiến vào làng Tân Mễ Phường (cách TX Quảng Trị 7km). Sáng hôm sau tiểu đoàn tiếp tục đánh đại đội viễn thám (thuộc tiểu đoàn biệt kích dù) bật ra khỏi làng Như Lệ. Tiểu đoàn nhanh chóng tiến xuống Tích Tường, Gia Long, La Vang gặp tiểu đoàn dù 11 ngụy vừa hành quân đến. Ta kịp thời nổ súng đánh thẳng vào sở chỉ huy tiểu đoàn địch. Trận đánh diễn ra quyết liệt khoảng 1 giờ ở khu đồi phi lao làng La Vang hạ, buộc địch phải rút lui. Địa bàn đứng chân của TĐ102 đã có thế vững chắc.
    Theo hành lang ven sông Thạch hãn từ miền tây xuống vừa được mở, TĐ88 (20-7) đã từ động Ông Do tiến xuống Tích Trường, cầu Sắt, vùng đất tiếp giáp với nam TX Quảng Trị.
    Cách vài ngày sau, TĐ36 hành quân xuyên rừng, từ Thượng Nguyên vượt qua sông Nhùng tiến tới trụ ở Phú Long, Tân Téo.
    Lúc tôi đang tiếp xúc với cán bộ chỉ huy và cơ quan sư đoàn để tìm hiểu tình hình cũng là lúc toàn sư đoàn trụ trên dải đất hẹp ở ven sông Thạch hãn, đang chiến đấu với quân dù và thủy quân lục chiến là 2 sắc lính tinh nhuệ nhất của ngụy.
    Lúc này lực lượng toàn mặt trận gồm các sư đoàn 320b, 304 và 308 hầu như đấu lưng với nhau để giữ vững khu vực Thành cổ Quảng Trị. Giữ 1 đống gạch vụn, không dân, không có ý nghĩa gì về chiến thuật, chiến lược quân sự nhưng lại rất có ý nghĩa chính trị trên bàn ngoại giao ở Pari.
    Nắm tình hình đơn vị xong, đêm hôm ấy tôi trao đổi suy nghĩ của mình về chủ trương của mặt trận (28-6) "chuyển từ tấn công sang chiến dịch phản công tiêu diệt địch giữ vững vùng GP. Đánh bại cuộc hành quân của địch, phát triển tấn công vào thời cơ có lợi".
    Tôi đặt câu hỏi : tại sao ta từ tấn công lại chuyển sang phản công ?
    Tôi liên tưởng tới chiến dịch cánh đồng Chum, chỉ khác ở đây về quy mô và cường độ, còn cái ruột diễn biến gần giống nhau. Cũng lúc đầu chiến thắng ào ạt, tiến rất nhanh vào hậu phương địch, bỏ trống vùng mình vừa GP. Lực lượng ta xa hậu phương liên tục không kịp bổ sung, càng chiến đấu càng yếu. Đich có phương tiện cơ động nhanh. Sau cú đầu choáng váng, chúng đã hồi phục, liền cơ động về phía sau ta và chiếm lại vùng đã mất. Đáng lý với lực lượng chừng ấy ta chỉ phát triển tới sông Mỹ Chánh, dừng lại chuyển sang củng cố khu vực đã chiếm.
    Trước mắt quân ta lúc này là sư đoàn dù, sư đoàn lính thủy đánh bộ và sư đoàn bộ binh số 1 ngụy, được yểm trợ bằng hoả lực mạnh của không quân và pháo của hạm đội 7 Mĩ. Về phía ta sư đoàn 308 đã mất sức chiến đấu, quân số 1 đại đội chỉ còn 20-30 người là cùng. Gạo, đạn tiếp tế kiểu ăn đong. Tôi nhớ ngay lúc tới đây đã nghe cán bộ hậu cần phàn nàn :"Hậu cần mặt trận vừa tiếp cho sư đoàn một số đạn pháo 105, hậu cần của 304 đã nẫng tay trên". Các sư đoàn 304, 320 tình hình chung không khác gì 308.
    Sự so sánh này, rõ ràng là địch ăn hiếp ta. Tôi gợi ý : ta có nên chuyển vào phòng ngự chăng ?
    Tất cả sự đánh giá tình hình, anh Hồng Sơn đều đồng ý nhưng tới việc chuyển vào phòng ngự anh im lặng không tỏ thái độ.
    Ngày hôm sau tôi lại mang nội dung ấy để trao đổi với chính ủy Hùng Phong. Khi tôi nói nên chuyển sang phòng ngự, Hùng Phong không nhất trí.
    ...
    Hàng nửa tháng liền không mấy ngày được nắng ráo; nhiều trận mưa kéo dài, trong hầm hào lúc nào cũng ngập ngụa bùn nưóc. Sư đoàn tôi vẫn giữ vững tuyến ngã ba Long Hưng, khu tam giác Đệ Ngũ, đồn Gia Long, La Vang, Phước Môn, Tân Téo, Như Lệ, Tích Tường. Ngày đêm bom B52, pháo mặt đất, pháo hạm của địch dội xuống ác liệt. Anh em phải chiến đấu liên tục, không có thời gian làm công sự, phần lớn các phân đội mới làm được hố bắn và chiến hào ngắt quãng. Công sự mỏng yếu nên số thương vong vì bom pháo tăng lên. Chiến đấu kéo dài liên tục trong ác liệt và mưa gió lầy lội nên sức khoẻ bộ đội giảm sút, ảnh hưởng nhiều tới sức chiến đấu. Tôi nhắc các đơn vị trong nhiệm vụ phản công phải chú ý các trận địa chốt và lực lượng dự bị phải có công sự chống đỡ được bom pháo địch, ý muốn nói phòng ngự giữ địa bàn nhưng không hề đả động đến 2 chữ phòng ngự. Nhiều cán bộ chỉ huy không thông với lệnh phản công và cho rằng dừng lại phòng ngự thì giữ được đất và đỡ thương vong, nhưng họ sợ nói ra điều đó lúc này sẽ bị quy chụp, cho là "dao động không có tư tưởng tiến công".
    ...
    Tôi tìm hiểu tình hình ta trong thành cổ. Phương thức tác chiến không dứt khoát, theo lệnh phản công tiêu diệt sinh lực địch để giữ thành nên không có công sự trận địa phòng ngự chu đáo. Hoả lực địch gồm hàng trăm nòng pháo, hàng ngày trung bình 35-40 lần chiếc B52 bắn phá, thả bom, chủ yếu gây thương vong cho ta trong Thành cổ. Quân số chiến đấu của ta trong Thành cổ mỗi ngày tiêu hao không ít. Nhiều chiến sĩ đưa vào bổ sung, chưa kịp biết mặt cán bộ phân đội của mình đã thương vong hoặc mất sức chiến đấu.
    Các TĐ của 308 vẫn kiên cường trụ vững ở ngã ba Long Hưng, tam giác Đệ Ngũ, đồn Gia Long, La vang, Phước Môn, Tân Téo, Như Lệ, Tích Tường phối hợp chặt với sư đoàn 320b giữ thành cổ Quảng Trị, hàng ngày chiến đấu giành giật với địch từng tấc đất. Nơi quyết liệt nhất là Tích Tường, Như Lệ.
    Tích tường, Như Lệ là 2 làng lớn sát nhau, tựa lưng vào sông Thạch Hãn, phân chia bởi con suối nhỏ gọi là khe Như Lệ chảy từ động Ông Do tới. Con đường ô tô từ Quảng trị tới đây đã bị bom Mĩ đánh sập. Dựa vào địa hình có lợi của đồi Chè, đồi Cháy, đồi cây Mít, đồi Thám Báo ở sát làng Như Lệ, anh em bố trí đôi hình phòng ngự, nhìn ra 1 cánh đồng, xa hơn nữa một chút là khu đồi Phước Môn. Khi suối Như Lệ ít nước, xe tăng có thể cơ động từ Phước Môn tới đây.
    Tích Tường nhìn ra phía trước là cánh đồng hẹp nối với dải đồi thấp 4 mỏm, gọi là đồi Cây Dừa. Bên phải đồi Cây Dừa là hồ Tích Tường, tiếp giáp hồ là 1 cánh đồng hẹp nữa.
    Nhận nhiệm vụ xây dựng cụm trận địa chốt thực chất là phòng ngự ở địa hình nói trên, TĐ36 đã đứng ở 1 điểm nóng của toàn mặt trận. Đây là 1 địa bàn có ý nghĩa chiến thuật quan trọng. Địch muốn lấn chiếm vùng giải phóng phía tây và Thành cổ phải qua nơi đây. Ngay từ lúc đưa quân tới đây, TĐ36 đã chịu đựng sức ép của địch, của địa hình thực tế hết sức nặng nề. Lữ dù 2 ngụy mạnh và đông hơn đã chiếm các đồi cao hơn khống chế 3 phía, còn phía sau lưng TĐ36 là sông Thạch Hãn nước lũ dâng cao.
    Ngày 19-9 tiểu đoàn dù 1 ngụy mở màn cuộc tiến công có xe tăng và phi pháo yểm hộ đánh từ đồn Gia Long xuống cụm chốt đồi Cây dừa, đồi 4 mỏm ven hồ Tích Tường. Mờ sáng pháo của chúng bắn dồn dập nhằm che tiếng động cơ xe tăng và yểm hộ cho bộ binh tiến vào đồi Cây Dừa. Đại đội 10 chốt tại đây đã kịp thời phát hiện, tiêu diệt 20 tên và phá hủy 1 xe tăng. Bọn còn lại phải tháo chạy.
    9 giờ, tiểu đoàn dù 1 tăng cường 1 đại đội tiếp tục tiến công một đợt nữa, lại bị đại đội 10 đẩy lùi.
    Khoảng 2 giờ chiều máy bay pháo binh địch oanh tạc dữ dội vào chốt Cây Dừa, đồng thời xe tăng bộ binh địch cho triển khai vào vị trí xung phong. Nắm chắc thủ đoạn của địch, đại đội 10 sử dụng 2 tổ trang bị mạnh do trung đội trưởng Chung chỉ huy, lợi dụng khó bom bí mật vận động lên "chốt phụ" phía sườn địch. Xe tăng và bộ binh địch đang lò dò chậm chạp bất thần bị đánh vào sườn. Chúng hốt hoảng dừng lại đối phó.
    Trong ngày, 3 lần tấn công của tiểu đoàn dù 1 đều thất bại. Không thực hiện được lấn đất bằng bộ binh, chúng lại sử dụng bài vở quen thuộc. Pháo binh, không quân địch không ngừng bắn phá trên dải đất hẹp của sư đoàn đang chốt giữ.
    ...
    Ngày 22-9 địch mở cuộc hành quân đánh chiếm điểm cao 367, động Ông Do, Tích Tường, Như Lệ. Cuộc chiến rất quyét liệt, hangf ngày từng trận đánh diễn ra giành giật nhau từng tấc đất.
    Tới ngày 3-11 địch chiếm được điểm cao 367 uy hiếp động Ông Do. Sư đoàn TQLC ngụy chuẩn bị vượt sông Thạch Hãn. Lữ dù 2 đã chiếm được Gia Long, La Vang, Tân Téo, chúng liên tục tấn công vào Tích Tường, Như Lệ hòng đẩy ta qua bờ bắc sông Thạch hãn trước khi có hiệp định Pari. Các phân đội của TĐ36 rất kiên cường mưu trí đã đẩy lùi tất cả các đợt tấn công của lữ dù 2.
    Tôi nhớ ngày 20-11 diễn ra một trận đánh hết sức quyết liệt ở Tích Tường. Hầu hết công sự trên trận địa chốt của ta bị bom pháo và mưa lũ san bằng, anh em nằm trơ trên các gờ đất được ngụy trang bằng những cành cây khô. Điển hình nhất là trận địa chốt của đại đội 1 do đại đội phó Trần Minh Tuân chỉ huy. 1 đại đội dù ngụy bì bõm tiến vào 1 chốt phụ của đại đội 1. Ở chốt này có 5 người đã bị thương mất 3, còn lại 2 chiến sĩ vẫn dũng cảm nổ súng chặn địch. Thấy chốt phụ bị uy hiếp, từ chốt chính đại đội phó Tuân dẫn 4 chiến sĩ sang chi viện. Vừa ra khỏi chốt đã bị thương 4, còn lại một mình, Tuân vẫn dũng mãnh lao lên. Anh đã cùng với 1 chiến sĩ còn lại của chốt phụ linh hoạt sử dụng các loại vũ khí của những người hi sinh và bị thương để lại. Lúc bắn trung liên, bắn tiểu liên, lúc bắn B40... họ đã đẩy lùi hàng chục dợt xung phong của đại đội địch. Cuối cùng 2 dũng sĩ đó đã kết hợp cùng các trận địa cối của tiểu đoàn, TĐ và các trận địa chốt của các đơn vị bạn đánh bật cuộc tấn công của tiểu đoàn dù 9 ra khỏi Tích Tường, tiêu diệt hàng trăm tên.
    Tôi gọi điẹn thoại biểu dương TMT và phổ biến kinh nghiệm giữ chốt của Tuân tới các đơn vị khác.
    Một lần tôi tới làng Như Lệ, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 1 dẫn tôi đi xem trận địa. Qua khu vực nhà cửa bị cháy rụi, đổ nát không còn hình dung được thôn xóm cũ, chúng tôi chui qua 1 đoạn đường hầm, tới đầu làng nhìn chếch về phía sau có tên lính ngụy vận đồ rằn ri đứng gác. Tôi hỏi tiểu đoàn phó :
    - Sao lại có thằng ngụy gác ở đó ?
    - Báo cáo nó vừa lẩn ra đó.
    - Các cậu đưa mình đi thế này không sợ nó bắn tỉa à ?
    - Thủ trưởng yên tí. Tôi đã bố trí những tay thiện xạ, nếu nó định giở trò gì là anh em "phơ" luôn.
    Tôi thầm khen cán bộ chiến sĩ dưới quyền mình. Họ xứng đáng được Đảng và nhân dân gửi gắm niềm tin cậy.
    Khi ở sở chỉ huy nghe báo cáo các chót ở Tích tươgf, Như Lệ ta vẫn giữ vững, tôi nghĩ làng Như Lệ vẫn thuộc về ta. Đến đây thấy làng Như Lệ dài hàng cây số, địch đã lấn ra cắt 1 đoạn ở sát bờ sông.
    Qua kiểm tra các TĐ, nhiều chiến sĩ giữ tiểu liên chỉ còn 1 băng đạn, nhiều khẩu cối 82 chỉ còn 1, 2 quả đạn. Phần lớn các đại đội quân số chỉ còn 15-20 người. Bộ đội phải chiến đấu liên tục kéo dài không được nghỉ ngơi, anh em nói đùa chua chát "chiến dịch gì mà chó đẻ 2 lứa vẫn không dứt...". Sức khoẻ bộ đội giảm sút rõ rệt. Lúc này (11=1972) sư đoàn 312 đã vào. Tôi đề nghị với BCH Mặt trận cho sư đoàn 308 rút về phía sau củng cố.
    KCVQNBHSCTQ
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 19:30 ngày 05/04/2003
  4. LEDUNG250781

    LEDUNG250781 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/07/2002
    Bài viết:
    536
    Đã được thích:
    1
    to Chiangshan: rõ ràng cái forum này lập ra để mọi người có thể tìm hiểu về các sự kiện mà mình quan tâm. Nhưng quá nhiều người lại buông ra những nhận xét rất phiến diện. Người ta hay dùng cụm từ " chính khách salong" phản ánh những người chẳng có chút kinh nghiệm nào, chỉ dựa trên sách vở mà thuyết giáo người khác. Làm sao mà chúng ta đánh giá chính xác tính chất của chiến dịch "Mùa hè đỏ lửa 1972" khi mà chúng ta sinh ra trong hoà bình. Nên vì thế em nói các bác cứ post lên các sự kiện nhưng đừng bình luận gì. Đơn giản là chúng ta không đủ tư cách.
    <red>
    "
    Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
    Dưới sông còn đó bạn tôi nằm
    Có tuổi hai mươi thành sóng nước
    Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm...
    "
    </red>
  5. LEDUNG250781

    LEDUNG250781 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/07/2002
    Bài viết:
    536
    Đã được thích:
    1
    to Chiangshan: rõ ràng cái forum này lập ra để mọi người có thể tìm hiểu về các sự kiện mà mình quan tâm. Nhưng quá nhiều người lại buông ra những nhận xét rất phiến diện. Người ta hay dùng cụm từ " chính khách salong" phản ánh những người chẳng có chút kinh nghiệm nào, chỉ dựa trên sách vở mà thuyết giáo người khác. Làm sao mà chúng ta đánh giá chính xác tính chất của chiến dịch "Mùa hè đỏ lửa 1972" khi mà chúng ta sinh ra trong hoà bình. Nên vì thế em nói các bác cứ post lên các sự kiện nhưng đừng bình luận gì. Đơn giản là chúng ta không đủ tư cách.
    <red>
    "
    Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
    Dưới sông còn đó bạn tôi nằm
    Có tuổi hai mươi thành sóng nước
    Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm...
    "
    </red>
  6. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    To saigonvn24 : Tôi không hề có ý phê phán cách dùng từ, về điểm này bác nói hoàn toàn đúng. Tôi chỉ đưa ra 1 VD : xe tăng QĐNDVN trong chiến dịch là 78 nhưng đã được phóng đại lên hàng trăm, mà có tài liệu còn nói chỉ có 30 hoặc 36 xe tăng thay vì 78 đấy. Hay bác có thể đọc lại chính phía VNCH đã viết là sư 7 VC (công trường 7) tham chiến trên đường 13 thì làm gì có người lính nào của sư 7 có mặt ở An Lộc, vậy mà sau đó đến 3, 4 lần họ nhắc đi nhắc lại là "4 sư đoàn VC với 4 vạn quân tràn ngập An Lộc".
    Về hoàn cảnh của tôi thì bác lại nhầm, GĐ tôi có may mắn là có ít mất mát trong chiến tranh, bố tôi cũng đã từng ở chiến trường nhưng đã an toàn trở về. Tôi cũng không có ý thù dai thế đâu, chỉ bực mình vì những điều phi lí mà nói thế thôi.
    Dù sao cũng cám ơn bác, tài liệu bác post rất có ích.
    KCVQNBHSCTQ
  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    To saigonvn24 : Tôi không hề có ý phê phán cách dùng từ, về điểm này bác nói hoàn toàn đúng. Tôi chỉ đưa ra 1 VD : xe tăng QĐNDVN trong chiến dịch là 78 nhưng đã được phóng đại lên hàng trăm, mà có tài liệu còn nói chỉ có 30 hoặc 36 xe tăng thay vì 78 đấy. Hay bác có thể đọc lại chính phía VNCH đã viết là sư 7 VC (công trường 7) tham chiến trên đường 13 thì làm gì có người lính nào của sư 7 có mặt ở An Lộc, vậy mà sau đó đến 3, 4 lần họ nhắc đi nhắc lại là "4 sư đoàn VC với 4 vạn quân tràn ngập An Lộc".
    Về hoàn cảnh của tôi thì bác lại nhầm, GĐ tôi có may mắn là có ít mất mát trong chiến tranh, bố tôi cũng đã từng ở chiến trường nhưng đã an toàn trở về. Tôi cũng không có ý thù dai thế đâu, chỉ bực mình vì những điều phi lí mà nói thế thôi.
    Dù sao cũng cám ơn bác, tài liệu bác post rất có ích.
    KCVQNBHSCTQ
  8. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    CHIẾN ĐẤU Ở QUẢNG TRỊ (tiếp)
    Tôi nhận lệnh của Bộ về làm phó TL kiêm tham mưu trưởng mặt trận Trị-Thiên (trong BTL có các anh Cao văn Khánh TL, đại tá Lê Tự Đồng chính ủy, đại tá HV Thái phó TL) vào thời điểm có nhiều sự kiện không lấy gì làm vui. Sau gần 3 tháng chiến đấu đẫm máu để giữ thành cổ QT, cuối cùng ta phải rời bỏ nó (16-9) trở về phía bắc sông Thạch Hãn. Ngày 22-9 địch moqr cuộc hành quân Lam Sơn-72A được các pháo hạm, B52 của Mĩ yểm trợ với mục tiêu chiếm lại toàn bộ vùng đất Quảng Trị ta vừa giải phóng.
    Ngay sau khi rời thành cổ đã có chỉ thị của Bộ CT và Quân ủy TW giải thích đại ý : ta rút lui khỏi TX Quảng Trị là cuộc rút lui có tính chiến thuật... Phương hướng chung nhiệm vụ sắp tới tiếp tục tiêu diệt sinh lực địch, giam chân phần lớn lực lượng cơ động của chúng, giữ vững và cải thiện thế trận của ta, bao vây chia cắt địch, củng cố hậu phương chiến dịch, vừa tác chiến vừa chấn chỉnh lực lượng.
    Quân ta được động viên giáo dục rằng : bằng mọi giá giữ TX Quảng Trị để phục vụ hiệp định Pari, mà bây giờ phải rời bỏ nó, khó tránh khỏi tâm trạng hụt hẫng. Giữa lúc đó địch mở cuộc hành quân Lam Sơn-72A lấn ra phía tây Quảng Trị.
    Trong BTL chúng tôi quyết định nhanh chóng điều chỉnh lại đội hình của toàn mặt trận, chia làm 4 khu vực : một là phía tây bắc Mỹ Chánh đến sông Thạch Hãn; hai là phía đông thành cổ QT kéo ra đến bờ biển; ba là khu giữa (Ái tử, Đông Hà(; bốn là sau lưng địch. Khu giữa là khu phòng ngự chủ yếu.
    Hình thức tác chiến : chốt giữ các trận địa kết hợp với vận động phản kích bảo vệ vững chắc từng khu vực; đánh nhỏ rộng khắp tiêu hao lực lượng địch; tổ chức những trận dánh tiêu diệt từng đại đội, tiểu đoàn địch; đẩy mạnh đánh sau lưng địch.
    Muốn nói gì thì nói, thực chất hình thái tác chiến của mặt trận Trị Thiên thời kì này là phòng ngự, nhưng mọi người ngại nói hoặc sợ nói tới từ "phòng ngự" có lẽ bởi đã in dấu rất đậm trong đầu mọi người rằng "cách mạng chỉ có tiến công" do đó ai nói tới phòng ngự dễ bị chụp mũ là tư tưởng tiêu cực. Tôi cũng như một số cán bộ chỉ huy ở đây hiểu phòng ngự hay tấn công là 2 phương thức chủ yếu của chiến tranh, nó được mang ý nghĩa tư tưởng nào đó (tích cực hay tiêu cực) là do người chỉ đạo chiến tranh hay người chỉ huy sử dụng nó có đúng chỗ không... Nhưng lúc đó chẳng ai có thời gian tranh luận và thật ra cũng ngại nói tới vấn đề này. Chúng tôi không nói tới phòng ngự nhưng vẫn chỉ đạo cho các đơn vị làm trận địa có công sự liên hoàn, cách cơ động phản kích giữ trận địa... tất cả mọi việc của chiến thuật phòng ngự. Dù không nói cấp dưới vẫn phải phòng ngự vì nhiệm vụ giao cho họ là giữ trận địa, mất họ sẽ bị kỉ luật.
    Phần lớn các trận đánh ngăn chặn địch lấn đất, các đơn vị dựa vào công sự trận địa chuẩn bị từ trước, do đó ta dùng lực lượng nhỏ vẫn hạn chế được bước tiến của địch.
    Cuộc hành quân lấn chiếm phía tây của sư đoàn dù suốt từ 22-9 đến 3-11 giằng đi giật lại với sư đoàn 312 của ta từng tấc đất, cuối cùng chúng chỉ chiếm được điểm cao 367 uy hiếp động Ông Do.
    Trong lúc địch ta đang chiến đấu giành giật quyết liệt ở xung quanh chân động Ông Do, chúng lại tập trung quân mở cuộc hành quân mang tên Sóng thần-9 (đến 1-11) nhằm vào Nhan Biều, Ái tử. Phát hiện sớm âm mưu của địch, chúng ta đã dùng pháo bắn phá nơi tập trung quân chuẩn bị xuất phát tiến công của chúng. Cuộc hành quân Sóng thần-9 đã bị phá vỡ từ trong trứng.
    Mùa mưa lụt lội gây ra trăm thứ khó khăn. Trong các chiến hào lúc nào cũng sóng sánh nước, bùn. Một vài giờ không tát nước ra là ngập vào hầm trú ẩn, không còn chỗ nào để nghỉ ngơi. Pháo của địch vẫn bắn, bom vẫn rải suốt ngày đêm. Có đơn vị bị lụt lội không còn chỗ nấu cơm, mấy nagỳ liền phải ăn lương khô. Con sông, con suối nước lũ chảy ***g lên như ngựa phi, tạo ra sự chia cắt giữa khu vực này với khu vực khác, làm cho việc tiếp tế vận tải thêm tốn công, tốn sức mà vẫn không đáp ứng kịp yêu cầu của đơn vị. Anh em phải chiến đấu trong điều kiện vô cùng cực khổ, đói rét, bẩn thỉu và bệnh tật nhưng quyết tâm chiến đấu không hề suy giảm. Ở phía tây lực lượng ta với địch xen kẽ quần nhau dưới sườn động Ông Do. Ở phía đông sư đoàn 320, TĐ 101 và 27 liên tục đánh ngăn chặn, không để đich lấn thêm dù chỉ là 1 tấc đất. Tình hình đó kéo dài tới khi hiệp định Pari được kí kết. Tôi nhớ trước khi kí hiệp định ít ngày, BTL chiến trường Trị Thiên có thay đổi về nhân sự. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn làm tư lệnh (anh Trần Quý Hai yếu về nghỉ), trung tướng Song Hào chính ủy, đại tá Cao Văn Khánh, Doãn Tuế, Hoàng Văn Thái phó TL, đại tá Lê Tự Đồng, Hoàng Minh Thi phó chính ủy.
    BTL chúng tôi họp bàn công việc trước khi có ngừng bắn. Tôi báo cáo tòm tắt tình hình chung. Về địch qua tin tình báo ta nắm đượ, chúng chuẩn bị mở những cuộc hành quân Hoả Sơn, Kinh Hoàng để lấn chiếm vùng GP của ta. Mục tiêu lấn chiếm có thể là Ái Tử hoặc Cửa Việt. Tình hình ta quân số chỉ còn 30%-50% chưa kịp bổ sung, tư tưởng bộ đội muốn nghỉ ngơi, hy vọng mình được bình yêu qua hiệp định Pari ra quân về sum họp GĐ. Việc tiếp tế đạn gạo vẫn ở tình trạng ăn đong. Việc bố trí đội hình : sư đoàn 312 ở cánh tây đang giằng co với địch ở chân động Ông Do. Ở cánh đông có sư đoàn 304, 320 và 2 TĐ địa phương 27, 101. Tôi vừa xuống cánh đông 3 ngày cùng với sư đoàn 304, 320 chuẩn bị phương án ngăn chặn được.
    ...
    Sau cuộc họp nói trên 1 tuần, trong lúc ta đang chuẩn bị tấn công chợ Sãi, có tin của tình báo từ vùng địch báo cáo ra (26-1) : địch tập trung 9 tiểu đoàn bộ binh, 3 thiết đoàn, 4 tiểu đoàn pháo, 4 tàu chiến LCU tổ chức thành lữ đoàn đặc nhiệm lấy khu vực Long Quang, Bồ Xuyên và Cảng Ngụy theo dọc bờ biển là hướng đột phá; hướng vu hồi vào khu vực Thanh Hội, Gia Đẳng, Cảng Mỹ.
    BTL mặt trận lập tức điện cho sư đoàn 320 hủy bỏ lệnh tấn công vào chợ Sãi và ra lệnh cho các đơn vị cánh đông sãn sàng tiêu diệt cánh quân địch tiến ra cửa Việt.
    Lúc này đội hình chiến đấu của cánh đông gồm : TĐ 27 trực thuộc mặt trận ở khu vực Nại Cửu, An Tiên; TĐ 64 (320) ở khu vực An Lộng, Bồ Liên, Văn Hoa; TĐ 48(320) ở Long Quang; TĐ 101 (325) ở Lệ Xuyên, Gia Đẳng. Lực lượng dự bị của cánh đong nằm ở Gio Cam gồm TĐ 88, 102 (308), 52 (320). Quân số mỗi trung đoàn này nếu dồn lại theo biên chế cũng được hơn 1 tiểu đoàn. Vì vậy nhiệm vụ của nó vừa sẵn sàng chiến đấu vừa phải củng cố tổ chức.
    Nhận được lệnh của mặt trận đêm 27, TL cánh đông đã giao ngay nhiệm vụ cụ thể cho các dơn vị dưới quyền, đồng thời xin mặt trận tăng cường cho 1 tiểu đoàn tên lửa chống tăng, 1 tiểu đoàn phó chống tăng và 1 đại đội xe tăng T54.
    Khoảng 1 giờ sáng ngày 27, lợi dụng lúc thủy triều xuống, lúc gió bấc mưa phùn và ồn ào sóng biển, xe tăng và bộ binh địch tiến theo hướng Cửa Việt.
    Một phân đội của TĐ101 đã phát hiện địch ở ngoài tầm bắn nên anh em không nổ súng. Chiếc thiết giáp PT85 của ta ở gần đó đã bắn cháy 3 thiết giáp của địch.
    Khi trời sáng một phân đội nhỏ của hải quân ta phát hiện địch, anh em đã chiến đấu rất kiên cường buộc địch phải dừng lại cách Cảng Mỹ 500m. Tới lúc này lực lượng, hướng tiến của địch mới bộc lộ hoàn toàn. Trước mặt TĐ48 có khoảng 2 tiểu đoàn và hơn 30 xe tăng thiết giáp, trước mặt TĐ101 cũng có lực lượng tương tự. Kể cả lực lượng dự bị, tổng cộng lực lưọng địch rta phản kích có khoảng 5 tiểu đoàn và 150 xe tăng thiết giáp. Trong quá trình tiến quân, chúng đã dùng 29 lần chiếc B52, 100 lần chiếc máy bay phản lực, hơn 100 khẩu pháo và 9 khu trục hạm bắn phá vào trận địa ta.
    Tất cả các cánh quân của địch đều bị quân ta chặn đánh quyết liệt. Tới khoảng 10 giờ cả 4 tiểu đoàn thê đội 1 của địch bị đánh thiệt hại nặng. Mũi tiến sâu nhất của địch vẫn phải dừng lại cách Cảng Mỹ 500m. Đội hình địch có triệu chứng rối loạn, trên sóng vô tuyến địch bỏ mật ngự và tiếng lóng, giữa pháo binh bộ binh chửi nhau văng tục loạn xạ.
    Cùng thời điểm ấy cánh đông của ta cũng lộn xộn không kém. TĐ101 báo cáo : "Quân tôi đã giáp với quân địch. Địch đã cắm cờ không thể bắn được nữa". Chỉ huy cánh đông chỉ còn cách kêu trời, không sao hiểu nổi điều gì đang diễn ra ở phía trước. Sautrận đánh mới biết rõ khoảng 12 giờ giữa lúc 2 bên đang nổ súng, bỗng nhiên địch cắm cờ và tiếng loa rất to : "Đã đến giờ hiệp định Pari có hiệu lực, tất cả 2 bên ngừng bắn". Tiéng hô ấy có hiệu quả thật sự, giống như ta vặn công tắc đài cát sét vậy, "tách" một cái là mọi âm thanh im tắp lự. Không thể tưởng tượng nổi sau tiếng hô ấy, nơi đang diễn ra trận đánh nóng bỏng nhất không còn một tiếng nổ nào nữa. Lính ngụy mang rượu, thuốc lá ra mời bộ đội ta. Hai kẻ thù giáp mặt nhau liên hoan mừng hoà bình.
    Đứng trước tình hình đặc biệt đó, TL cánh đông tỏ ra lúng túng.
    Sở dĩ địch chọc thủng tuyến phòng ngự cánh đông và BCH cánh đông có sự lúng túng như vậy là do nắm địch tại chỗ còn yếu, pháo và B52 tập trung lớn gây khó khăn cho ta từ đầu. Do chuẩn bị tấn công chợ Sãi nên phân tán việc đối phó lấn chiếm. Do phổ biến kí hiệp định Pari quá muộn (sáng kí đêm mới phô biến), đáng ra phổ bién sớm để chuẩn bị tư tưởng anh em được kĩ hơn.
    Thấy BCH cánh đông tỏ ra chậm chạp lúng túng, anh Lê Trọng Tấn phân công anh Cao Văn Khánh xuống tăng cường chỉ huy. nh Tấn căn dặn : chính chugns đã phản bội hiệp định trưóc. Không có hoà hợp dân tộc gì ở chỗ này, phải đánh ngay không được dừng lại. Tinh thần chỉ thị ấy của anh Tấn đồng thời được điện xuống sở chỉ huy cánh đông nhưng trong ngày 27 các đơn vị vẫn chưatổ chức thực hiện được.
    Đêm ngày 27 địch dồn đội hình thành 3 cụm : cụm thứ nhất ở nam Cảng Mỹ, cụm thứ 2 ở đông bắc Thanh Hội 500m, cụm thứ 3 ở nam Long Quảng. Lực lượng mỗi cụm trên dươi 2 đại đội và 20 xe bọc thép.
    Suốt từ đêm 27 tới đêm 30, BTL chúng tôi hầu như thức trắng. Mọi người đều bận rộn lo lắng đến công việc điều động lực lượng và điều chỉnh đội hình phía trước. Cánh đông yêu cầu tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng T54, 1 tiểu đoàn tên lửa chống tăng, 1 tiểu đoàn pháo chống tăng.
    Mãi 1 ngày sau BCH cánh đông mới báo cáo quyết tâm lên BTL mặt trận. Nhiệm vụ các đơn vị được phân như sau : hướng TĐ48 phải đẩy địch về vị trí cũ. TĐ101 tiêu diệt địch tại chỗ, không cho chúng tiến vào Cảng Mỹ. TĐ64 sẵn sàng tiến đánh địch ở Thành Hội. Tiểu đoàn pháo 85, tiểu đoàn tên lửa chống tăng B72 tăng cướng, bố trí phía bắc sông Cửa Việt sẽ nổ súng trước vào đội hình xe tăng của địch. TĐ24 (304) của mặt trận tăng cường tấn công vào chính diện quân địch (TĐ24 quân số chỉ còn 1 tiểu đoàn).
    Các đơn vị bộ binh theo nhiệm vụ được giao, đêm 30-1-1973 sẽ bí mật tiếp cận tới khoảng cách an toàn của đạn pháo, dừng lại. Sau khi dứt pháo hoả chuẩn bị, bộ binh lập tức xung phong, dùng hoả lực bản thân tự yểm trợ và tiêu diệt địch.
    Lệnh nổ súng đúng 6 giờ 30 ngày 31-1-1973. Hai phát tên lửa chống tăng thay pháo lệnh đã phá huỷ 1 xe tăng địch. Liền theo đó các loại đạn pháo của ta dội liên hồi xuống trận địa đihjc, riêng tiểu đoàn pháo chống tăng đã phá huỷ 10 xe tăng địch. Đại đội xe tăng chỉ có 1 chiếc tham chiến, được bộ binh dẫn đường đã dũng mãnh xông vào đội hình địch, liên tiếp phá huỷ 3 xe tăng. Các đơn vị bộ binh xung phong tràn ngập trận địa các cụm địch, nhiều chỗ diễn ra đánh giáp lá cà, kéo dài mãi tới trưa mới kết thúc. Bọn địch phản kích định chiếm Cửa Việt đã bị tiêu diệt và bắt sống, còn rất ít tên chạy thoát.
    KCVQNBHSCTQ
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    CHIẾN ĐẤU Ở QUẢNG TRỊ (tiếp)
    Tôi nhận lệnh của Bộ về làm phó TL kiêm tham mưu trưởng mặt trận Trị-Thiên (trong BTL có các anh Cao văn Khánh TL, đại tá Lê Tự Đồng chính ủy, đại tá HV Thái phó TL) vào thời điểm có nhiều sự kiện không lấy gì làm vui. Sau gần 3 tháng chiến đấu đẫm máu để giữ thành cổ QT, cuối cùng ta phải rời bỏ nó (16-9) trở về phía bắc sông Thạch Hãn. Ngày 22-9 địch moqr cuộc hành quân Lam Sơn-72A được các pháo hạm, B52 của Mĩ yểm trợ với mục tiêu chiếm lại toàn bộ vùng đất Quảng Trị ta vừa giải phóng.
    Ngay sau khi rời thành cổ đã có chỉ thị của Bộ CT và Quân ủy TW giải thích đại ý : ta rút lui khỏi TX Quảng Trị là cuộc rút lui có tính chiến thuật... Phương hướng chung nhiệm vụ sắp tới tiếp tục tiêu diệt sinh lực địch, giam chân phần lớn lực lượng cơ động của chúng, giữ vững và cải thiện thế trận của ta, bao vây chia cắt địch, củng cố hậu phương chiến dịch, vừa tác chiến vừa chấn chỉnh lực lượng.
    Quân ta được động viên giáo dục rằng : bằng mọi giá giữ TX Quảng Trị để phục vụ hiệp định Pari, mà bây giờ phải rời bỏ nó, khó tránh khỏi tâm trạng hụt hẫng. Giữa lúc đó địch mở cuộc hành quân Lam Sơn-72A lấn ra phía tây Quảng Trị.
    Trong BTL chúng tôi quyết định nhanh chóng điều chỉnh lại đội hình của toàn mặt trận, chia làm 4 khu vực : một là phía tây bắc Mỹ Chánh đến sông Thạch Hãn; hai là phía đông thành cổ QT kéo ra đến bờ biển; ba là khu giữa (Ái tử, Đông Hà(; bốn là sau lưng địch. Khu giữa là khu phòng ngự chủ yếu.
    Hình thức tác chiến : chốt giữ các trận địa kết hợp với vận động phản kích bảo vệ vững chắc từng khu vực; đánh nhỏ rộng khắp tiêu hao lực lượng địch; tổ chức những trận dánh tiêu diệt từng đại đội, tiểu đoàn địch; đẩy mạnh đánh sau lưng địch.
    Muốn nói gì thì nói, thực chất hình thái tác chiến của mặt trận Trị Thiên thời kì này là phòng ngự, nhưng mọi người ngại nói hoặc sợ nói tới từ "phòng ngự" có lẽ bởi đã in dấu rất đậm trong đầu mọi người rằng "cách mạng chỉ có tiến công" do đó ai nói tới phòng ngự dễ bị chụp mũ là tư tưởng tiêu cực. Tôi cũng như một số cán bộ chỉ huy ở đây hiểu phòng ngự hay tấn công là 2 phương thức chủ yếu của chiến tranh, nó được mang ý nghĩa tư tưởng nào đó (tích cực hay tiêu cực) là do người chỉ đạo chiến tranh hay người chỉ huy sử dụng nó có đúng chỗ không... Nhưng lúc đó chẳng ai có thời gian tranh luận và thật ra cũng ngại nói tới vấn đề này. Chúng tôi không nói tới phòng ngự nhưng vẫn chỉ đạo cho các đơn vị làm trận địa có công sự liên hoàn, cách cơ động phản kích giữ trận địa... tất cả mọi việc của chiến thuật phòng ngự. Dù không nói cấp dưới vẫn phải phòng ngự vì nhiệm vụ giao cho họ là giữ trận địa, mất họ sẽ bị kỉ luật.
    Phần lớn các trận đánh ngăn chặn địch lấn đất, các đơn vị dựa vào công sự trận địa chuẩn bị từ trước, do đó ta dùng lực lượng nhỏ vẫn hạn chế được bước tiến của địch.
    Cuộc hành quân lấn chiếm phía tây của sư đoàn dù suốt từ 22-9 đến 3-11 giằng đi giật lại với sư đoàn 312 của ta từng tấc đất, cuối cùng chúng chỉ chiếm được điểm cao 367 uy hiếp động Ông Do.
    Trong lúc địch ta đang chiến đấu giành giật quyết liệt ở xung quanh chân động Ông Do, chúng lại tập trung quân mở cuộc hành quân mang tên Sóng thần-9 (đến 1-11) nhằm vào Nhan Biều, Ái tử. Phát hiện sớm âm mưu của địch, chúng ta đã dùng pháo bắn phá nơi tập trung quân chuẩn bị xuất phát tiến công của chúng. Cuộc hành quân Sóng thần-9 đã bị phá vỡ từ trong trứng.
    Mùa mưa lụt lội gây ra trăm thứ khó khăn. Trong các chiến hào lúc nào cũng sóng sánh nước, bùn. Một vài giờ không tát nước ra là ngập vào hầm trú ẩn, không còn chỗ nào để nghỉ ngơi. Pháo của địch vẫn bắn, bom vẫn rải suốt ngày đêm. Có đơn vị bị lụt lội không còn chỗ nấu cơm, mấy nagỳ liền phải ăn lương khô. Con sông, con suối nước lũ chảy ***g lên như ngựa phi, tạo ra sự chia cắt giữa khu vực này với khu vực khác, làm cho việc tiếp tế vận tải thêm tốn công, tốn sức mà vẫn không đáp ứng kịp yêu cầu của đơn vị. Anh em phải chiến đấu trong điều kiện vô cùng cực khổ, đói rét, bẩn thỉu và bệnh tật nhưng quyết tâm chiến đấu không hề suy giảm. Ở phía tây lực lượng ta với địch xen kẽ quần nhau dưới sườn động Ông Do. Ở phía đông sư đoàn 320, TĐ 101 và 27 liên tục đánh ngăn chặn, không để đich lấn thêm dù chỉ là 1 tấc đất. Tình hình đó kéo dài tới khi hiệp định Pari được kí kết. Tôi nhớ trước khi kí hiệp định ít ngày, BTL chiến trường Trị Thiên có thay đổi về nhân sự. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn làm tư lệnh (anh Trần Quý Hai yếu về nghỉ), trung tướng Song Hào chính ủy, đại tá Cao Văn Khánh, Doãn Tuế, Hoàng Văn Thái phó TL, đại tá Lê Tự Đồng, Hoàng Minh Thi phó chính ủy.
    BTL chúng tôi họp bàn công việc trước khi có ngừng bắn. Tôi báo cáo tòm tắt tình hình chung. Về địch qua tin tình báo ta nắm đượ, chúng chuẩn bị mở những cuộc hành quân Hoả Sơn, Kinh Hoàng để lấn chiếm vùng GP của ta. Mục tiêu lấn chiếm có thể là Ái Tử hoặc Cửa Việt. Tình hình ta quân số chỉ còn 30%-50% chưa kịp bổ sung, tư tưởng bộ đội muốn nghỉ ngơi, hy vọng mình được bình yêu qua hiệp định Pari ra quân về sum họp GĐ. Việc tiếp tế đạn gạo vẫn ở tình trạng ăn đong. Việc bố trí đội hình : sư đoàn 312 ở cánh tây đang giằng co với địch ở chân động Ông Do. Ở cánh đông có sư đoàn 304, 320 và 2 TĐ địa phương 27, 101. Tôi vừa xuống cánh đông 3 ngày cùng với sư đoàn 304, 320 chuẩn bị phương án ngăn chặn được.
    ...
    Sau cuộc họp nói trên 1 tuần, trong lúc ta đang chuẩn bị tấn công chợ Sãi, có tin của tình báo từ vùng địch báo cáo ra (26-1) : địch tập trung 9 tiểu đoàn bộ binh, 3 thiết đoàn, 4 tiểu đoàn pháo, 4 tàu chiến LCU tổ chức thành lữ đoàn đặc nhiệm lấy khu vực Long Quang, Bồ Xuyên và Cảng Ngụy theo dọc bờ biển là hướng đột phá; hướng vu hồi vào khu vực Thanh Hội, Gia Đẳng, Cảng Mỹ.
    BTL mặt trận lập tức điện cho sư đoàn 320 hủy bỏ lệnh tấn công vào chợ Sãi và ra lệnh cho các đơn vị cánh đông sãn sàng tiêu diệt cánh quân địch tiến ra cửa Việt.
    Lúc này đội hình chiến đấu của cánh đông gồm : TĐ 27 trực thuộc mặt trận ở khu vực Nại Cửu, An Tiên; TĐ 64 (320) ở khu vực An Lộng, Bồ Liên, Văn Hoa; TĐ 48(320) ở Long Quang; TĐ 101 (325) ở Lệ Xuyên, Gia Đẳng. Lực lượng dự bị của cánh đong nằm ở Gio Cam gồm TĐ 88, 102 (308), 52 (320). Quân số mỗi trung đoàn này nếu dồn lại theo biên chế cũng được hơn 1 tiểu đoàn. Vì vậy nhiệm vụ của nó vừa sẵn sàng chiến đấu vừa phải củng cố tổ chức.
    Nhận được lệnh của mặt trận đêm 27, TL cánh đông đã giao ngay nhiệm vụ cụ thể cho các dơn vị dưới quyền, đồng thời xin mặt trận tăng cường cho 1 tiểu đoàn tên lửa chống tăng, 1 tiểu đoàn phó chống tăng và 1 đại đội xe tăng T54.
    Khoảng 1 giờ sáng ngày 27, lợi dụng lúc thủy triều xuống, lúc gió bấc mưa phùn và ồn ào sóng biển, xe tăng và bộ binh địch tiến theo hướng Cửa Việt.
    Một phân đội của TĐ101 đã phát hiện địch ở ngoài tầm bắn nên anh em không nổ súng. Chiếc thiết giáp PT85 của ta ở gần đó đã bắn cháy 3 thiết giáp của địch.
    Khi trời sáng một phân đội nhỏ của hải quân ta phát hiện địch, anh em đã chiến đấu rất kiên cường buộc địch phải dừng lại cách Cảng Mỹ 500m. Tới lúc này lực lượng, hướng tiến của địch mới bộc lộ hoàn toàn. Trước mặt TĐ48 có khoảng 2 tiểu đoàn và hơn 30 xe tăng thiết giáp, trước mặt TĐ101 cũng có lực lượng tương tự. Kể cả lực lượng dự bị, tổng cộng lực lưọng địch rta phản kích có khoảng 5 tiểu đoàn và 150 xe tăng thiết giáp. Trong quá trình tiến quân, chúng đã dùng 29 lần chiếc B52, 100 lần chiếc máy bay phản lực, hơn 100 khẩu pháo và 9 khu trục hạm bắn phá vào trận địa ta.
    Tất cả các cánh quân của địch đều bị quân ta chặn đánh quyết liệt. Tới khoảng 10 giờ cả 4 tiểu đoàn thê đội 1 của địch bị đánh thiệt hại nặng. Mũi tiến sâu nhất của địch vẫn phải dừng lại cách Cảng Mỹ 500m. Đội hình địch có triệu chứng rối loạn, trên sóng vô tuyến địch bỏ mật ngự và tiếng lóng, giữa pháo binh bộ binh chửi nhau văng tục loạn xạ.
    Cùng thời điểm ấy cánh đông của ta cũng lộn xộn không kém. TĐ101 báo cáo : "Quân tôi đã giáp với quân địch. Địch đã cắm cờ không thể bắn được nữa". Chỉ huy cánh đông chỉ còn cách kêu trời, không sao hiểu nổi điều gì đang diễn ra ở phía trước. Sautrận đánh mới biết rõ khoảng 12 giờ giữa lúc 2 bên đang nổ súng, bỗng nhiên địch cắm cờ và tiếng loa rất to : "Đã đến giờ hiệp định Pari có hiệu lực, tất cả 2 bên ngừng bắn". Tiéng hô ấy có hiệu quả thật sự, giống như ta vặn công tắc đài cát sét vậy, "tách" một cái là mọi âm thanh im tắp lự. Không thể tưởng tượng nổi sau tiếng hô ấy, nơi đang diễn ra trận đánh nóng bỏng nhất không còn một tiếng nổ nào nữa. Lính ngụy mang rượu, thuốc lá ra mời bộ đội ta. Hai kẻ thù giáp mặt nhau liên hoan mừng hoà bình.
    Đứng trước tình hình đặc biệt đó, TL cánh đông tỏ ra lúng túng.
    Sở dĩ địch chọc thủng tuyến phòng ngự cánh đông và BCH cánh đông có sự lúng túng như vậy là do nắm địch tại chỗ còn yếu, pháo và B52 tập trung lớn gây khó khăn cho ta từ đầu. Do chuẩn bị tấn công chợ Sãi nên phân tán việc đối phó lấn chiếm. Do phổ biến kí hiệp định Pari quá muộn (sáng kí đêm mới phô biến), đáng ra phổ bién sớm để chuẩn bị tư tưởng anh em được kĩ hơn.
    Thấy BCH cánh đông tỏ ra chậm chạp lúng túng, anh Lê Trọng Tấn phân công anh Cao Văn Khánh xuống tăng cường chỉ huy. nh Tấn căn dặn : chính chugns đã phản bội hiệp định trưóc. Không có hoà hợp dân tộc gì ở chỗ này, phải đánh ngay không được dừng lại. Tinh thần chỉ thị ấy của anh Tấn đồng thời được điện xuống sở chỉ huy cánh đông nhưng trong ngày 27 các đơn vị vẫn chưatổ chức thực hiện được.
    Đêm ngày 27 địch dồn đội hình thành 3 cụm : cụm thứ nhất ở nam Cảng Mỹ, cụm thứ 2 ở đông bắc Thanh Hội 500m, cụm thứ 3 ở nam Long Quảng. Lực lượng mỗi cụm trên dươi 2 đại đội và 20 xe bọc thép.
    Suốt từ đêm 27 tới đêm 30, BTL chúng tôi hầu như thức trắng. Mọi người đều bận rộn lo lắng đến công việc điều động lực lượng và điều chỉnh đội hình phía trước. Cánh đông yêu cầu tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng T54, 1 tiểu đoàn tên lửa chống tăng, 1 tiểu đoàn pháo chống tăng.
    Mãi 1 ngày sau BCH cánh đông mới báo cáo quyết tâm lên BTL mặt trận. Nhiệm vụ các đơn vị được phân như sau : hướng TĐ48 phải đẩy địch về vị trí cũ. TĐ101 tiêu diệt địch tại chỗ, không cho chúng tiến vào Cảng Mỹ. TĐ64 sẵn sàng tiến đánh địch ở Thành Hội. Tiểu đoàn pháo 85, tiểu đoàn tên lửa chống tăng B72 tăng cướng, bố trí phía bắc sông Cửa Việt sẽ nổ súng trước vào đội hình xe tăng của địch. TĐ24 (304) của mặt trận tăng cường tấn công vào chính diện quân địch (TĐ24 quân số chỉ còn 1 tiểu đoàn).
    Các đơn vị bộ binh theo nhiệm vụ được giao, đêm 30-1-1973 sẽ bí mật tiếp cận tới khoảng cách an toàn của đạn pháo, dừng lại. Sau khi dứt pháo hoả chuẩn bị, bộ binh lập tức xung phong, dùng hoả lực bản thân tự yểm trợ và tiêu diệt địch.
    Lệnh nổ súng đúng 6 giờ 30 ngày 31-1-1973. Hai phát tên lửa chống tăng thay pháo lệnh đã phá huỷ 1 xe tăng địch. Liền theo đó các loại đạn pháo của ta dội liên hồi xuống trận địa đihjc, riêng tiểu đoàn pháo chống tăng đã phá huỷ 10 xe tăng địch. Đại đội xe tăng chỉ có 1 chiếc tham chiến, được bộ binh dẫn đường đã dũng mãnh xông vào đội hình địch, liên tiếp phá huỷ 3 xe tăng. Các đơn vị bộ binh xung phong tràn ngập trận địa các cụm địch, nhiều chỗ diễn ra đánh giáp lá cà, kéo dài mãi tới trưa mới kết thúc. Bọn địch phản kích định chiếm Cửa Việt đã bị tiêu diệt và bắt sống, còn rất ít tên chạy thoát.
    KCVQNBHSCTQ
  10. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Hồi trước tôi có được đọc 1 bài báo, có 1 câu chuyện không thể quên được. TX Quảng Trị nhiều năm sau giải phóng, khi xây dựng, sửa chữa nhà cửa người ta vẫn tình cờ tìm thấy hài cốt liệt sĩ hi sinh năm 1972, có một nhóm học sinh đi lao động vô tình phát hiện thi hài của 1 người lính. Trong túi áo ngực của người lính ấy có 1 tấm hình của 1 cô gái. Điều không ngờ là đó chính là cô giáo của nhóm học sinh !
    KCVQNBHSCTQ

Chia sẻ trang này