1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chúng ta có thể giải phóng miền Nam vào năm 1972?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Duong2002, 12/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Mặt trận Dakto-Tân cảnh-Kontum 1972
    Tại mặt trận này phía ta có sư 320, sư đoàn 10 và sư 2 sao vàng từ khu 5 lên tăng cường, 2 trung đoàn pháo thuộc mặt trận B.3, 2 tiểu đoàn xe tăng mới được tăng cường từ miền bắc vào cuối năm 71. về phái địc mặt trận Tần cảnh ?"Kontum do 3 trung đoàn thuộc sư đoàn 22 trấn giữ, lữ đoàn dù 2, 1 liên đoàn biệt động quân cùng các chi đoàn xe tăng, pháo mặt đất, không quân chiến thuật, B.52 yểm trợ
    Ngày 3/4/72 cuộc chiến mở màn bằng cuộc tấn công của sư 320 với yểm trợ của pháo 122mm và cối 120 mm vào dãy các căn cứ Charly và Delta tại phía bắc Tân cảnh do quân dù chiếm giữ. Cuộc tấn công diễn ra nhiều đợt, bị pháo bi, không quân, đặc biệt là các máy bay C-130 Spectre gắn súng máy bắn ngăn chặn suốt ngày đêm, phía ta chỉ có pháo phòng không tấm thấp 12,7 và 14,5 mm. Sau đợt 1 không thành công ta phải dừng lại điều chỉnh chiến thuật và mở đợt tấn công mới vào ngày 14/4/72, lữ đoàn trưởng dù nguỵ bị trúng pháo chết tại trận, lữ dù bỏ dãy cao điểm này rút chạy về Kontum. Ngày 20/4 do thất bại tại mặt trận quảng trị, nên bộ TTM nguỵ rút lữ dù 2 ra khỏi mặt trận này và được không vận ra Huế. Trung đoàn 53 sư đoàn 23 nguỵ và liên đoàn 6 Biệt động quân được đưa vào Kontum để thay thế
    Ngày 21/4 ta tấn công vào các căn cứ vành đai của cụm cứ điểm Dakto-Tân cảnh-Võ định do 2 trung đoàn cùng bộ tư lệnh của sư 22 nguỵ chiếm giữ, tham chiến phía ta có 1 tiểu đoàn T.54, hoả tiễn chống tăng AT3 sagger (ta gọi là B.72) lần đầu tiên có mặt tại chiến trường (Có cả tại quảng trị và An lộc). Đến ngày 23/4 sư 10 của ta đã chiếm được Dakto và các căn cứ bên ngoài tân cảnh , sáng 24/4 đợt tấn công quyết định vào tân cảnh diẽn ra ác liệt, xe tăng T54 lần đầu có mặt tại tây nguyên làm quân nguỵ khiếp sợ đã xông thẳng vào căn cứ, trước đó tên lửa chống tăng B72 đã bắn cháy gần hết các xe tăng nguỵ nấp dưới giao thông hào làm hoả điểm cố định, trưa ngày 24/4 ta chiếm tân cảnh, Lê Đức Đạt sư trưởng 22 chết trong đám loạn quân, đại tá tham mưu trưởng Vi Văn Bình bị bắt sống, tàn quân còn lại của sư đoàn này tháo chạy toán loạn vào rừng tìm đường về Kontum. Sau khi chiếm được tân cảnh và các căn cứ khác dọc đường 14 bắc thi xã Kontum, phía ta cũng bị thiết hại đáng kể, nhiều xe tăng bị cháy, hậu cần thiếu, đặc biệt là đạn pháo nên 20 ngày sau mới tổ chức tấn công tiếp vào Kontum. Lúc đó phia quân nguỵ cũng có nhiều thay đổi, 2 trung đoàn của sư đoàn 23 được đưa lên thay thế sư đoàn 22, Lý tòng Bá, tư lênh sư 23 được cử làm tư lệnh mặt trận Kontum, tướng Ngô Du tư lênh quân khu 2 nguỵ bị thay bằng Nguyễn Văn Toàn
    Mãi tới ngày 14/5 sư đoàn 10 và sư đoàn 2 mở cuộc tấn công vào kontum có xe tăng yểm trợ, do có sự chuẩn bị trước nên phía nguỵ huy động tối đa pháo binh, không quân ngăn chặn. Riêng trong ngày 14/5 đã có 75 lần chiếc B.52 rải thảm xung quang Kontum, có lúc chỉ cách hàng rào căn cứ nguỵ 100-200 met sau đó A37 và AD5, trực thăng Cobra bắn phá các cụm pháo binh, phòng không, xe tăng, cuộc tấn công của ta bị đẩy lùi
    Ngày 20/5 ta sử dụng trung đoàn đặc công 198 bí mật đột nhập chiến được một số cứ điểm quan trọng trong Kontum, các đơn vị khác bao vây chặt 4 phía, pháo kích vào kontum bất chấp hoả lực không quân Mỹ nguỵ.
    Tuy nhiên ta cũng không tiến lên được, bên trong Kontum có 2 trung đoàn bộ binh và 1 liên đoàn biệt động quân chống trả quyêt liệt, mặc dù bị bao vây nhưng lực lượng cố thủ vẫn được tiếp tế quân số đạn được đầy đủ, ta đã cắt được đường 14 và bao vậy Kontum, nhưng ta đã phạm sai lầm không chiếm hoặc khống chế được sân bay Kontum, quân nguỵ dựa vào đây dùng trực thăng CH-47, và cả C.130 hạ cánh ban đêm chở quân, hậu cần, cả pháo và xe thiết giáp cho lực lượng phòng thủ. Sau này năm 75 trong trận Buôn mê thuột, ta rút kinh nghiệm đã dùng đặc công nhanh chóng chiếm sân bay L.19 và sân bay hoà bình phía đông BMT, đặc công có trang bị hoả tiễn phòng không vác vai SAM-7 (Ta gọi là A.72) khống chế sân bay, Nên khi phản công, ngày 13/3/75 sư 23 nguỵ không dùng được 2 sân bay này để đổ quân bằng C130 vào bên trong thị xã và dùng sân bay làm bàn đạp tấn công mà phải đổ 2 trung đoàn bằng trực thăng xuống gần Phước an cách BMT 20 Km về phía đông, điểm yếu chết người của đổ quân bằng trực thăng là không đem theo được xe tăng và chỉ có một ít pháo nhẹ, trong điều kiên không quân nguỵ yểm trợ yếu do thiếu thốn trang bị vũ khí và đội quân phản công bị sư 10 của ta có xe tăng và pháo 130mm yểm trợ đánh tan.
    Ngày 28/5 ta tấn công Kontum đợt 3 gồm sư 10, sư 968 (bộ binh nhẹ, chỉ có 2 trung đoàn) mới từ Hạ lào về và một phần sư 320 với lực lượng đã tổn thất (Sư 2 chuyển sang vây cắt đường 14 phía nam Kontum đi Playcu), không có xe tăng yểm trợ, hậu cần thiếu thốn vì việc tiếp tế qua đường Trường sơn rất khó khăn do bị không Mỹ ngăn chặn ác liệt. Mỹ dùng 25 Box B.52( 75 lần chiếc) cùng không quân chiến thuật từ thái lan, sư 6 không quân nguỵ từ Plâycu yểm trợ quân nguỵ, 2 bên quần thảo suốt ngày, cả 2 bên đều thiệt hại nặng tuy nhiên ta cũng không thành công.
    Sau đó ta rút quân về giữ các căn cứ mới chiếm được dọc đường 14 phía bắc kontum từTân cảnh trở ra. Quân nguỵ cũng không đủ sức phản công vì các mặt trận khác cũng đang diễn ra ác liệt. Sau trận này sư 10 được mang tên đoàn Dakto, tại đây phía Mỹ cũng có một cố vấn mỹ Paul Vann rất nổi tiếng kiêu căng, liều lĩnh tại quân đoàn 2 nguỵ bị chết trong trận này. Đây là nhân vật chính trong quyển sách và bộ phim mới của mỹ là ?oA Bright Shining Lie? hiện ở Việt nam có VCD, bạn nào quan tâm có thể tìm xem
    size=4]
    Thần Tiễn
    [/size=4]
  2. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Trong chiến tranh ta gần như không có sư đoàn 1, bởi vì sư đoàn 1 nguyên là được tách ra từ sư 341 của quân khu 4 cuối năm 1974 được tăng cường cho quân đoàn 4 mới thành lập ở đông nam bộ, vào chiến trường được đổi tên thành sư 1 sau 75 lại trở ra bắc nhập lại với sư 341 (đoàn Sông Lam)và giữ tên này.
    Sư thiện chiến nhât của ta được cho là sư 308, quân địch luôn cho rằng sư này xuất hiện ở đâu thì đó là hướng chiến dịch chính, năm 72 sư này tham gia đánh Quảng trị, Trong CT chống mỹ, Sư này không đóng lâu dài tại chiến trường mà chủ yếu đóng tại miền bắc khi có chiến dịch thì hành quân vào tham gia, xong lại rút ra như chiến dịch Khe sanh, Đường 9-nam lào 1971, Quảng trị năm 72. Khi thành lập quân đoàn 1 năm 73 thì nằm trong thành phần QĐ này. Nhưng năm 75 đến khi ta vào bộ TTM nguỵ thấy trên bản đồ hành quân đề số 308 và dấu hỏi to tướng, nguỵ không biết năm 75 sư 308 đánh ở đâu nên một phần vì vậy chẳng đoán ra hướng nào là chính, ấy là các tướng nhà ta nói thế. tuy nhiên thực tế cuối tháng 3/75 khi QĐI hành quân qua đường trường sơn tham gia chiến dịch hồ chí minh thì 308 được giữ lại bảo vệ miền bắc. tuy nhiên trong đội hình quân đoàn 2 hành quân dọc duyên hải miền trung thì nhiều xe lại căng khảu khiệu "Sư đoàn Quân tiên phong(tên hiệu của 308) quyết tâm...." nên nguỵ tưởng là sư 308 chiến đấu trong đội hình QĐII nên chẳng biết đâu mà lần.
    size=4]
    Thần Tiễn
    [/size=4]
  3. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Trong chiến tranh ta gần như không có sư đoàn 1, bởi vì sư đoàn 1 nguyên là được tách ra từ sư 341 của quân khu 4 cuối năm 1974 được tăng cường cho quân đoàn 4 mới thành lập ở đông nam bộ, vào chiến trường được đổi tên thành sư 1 sau 75 lại trở ra bắc nhập lại với sư 341 (đoàn Sông Lam)và giữ tên này.
    Sư thiện chiến nhât của ta được cho là sư 308, quân địch luôn cho rằng sư này xuất hiện ở đâu thì đó là hướng chiến dịch chính, năm 72 sư này tham gia đánh Quảng trị, Trong CT chống mỹ, Sư này không đóng lâu dài tại chiến trường mà chủ yếu đóng tại miền bắc khi có chiến dịch thì hành quân vào tham gia, xong lại rút ra như chiến dịch Khe sanh, Đường 9-nam lào 1971, Quảng trị năm 72. Khi thành lập quân đoàn 1 năm 73 thì nằm trong thành phần QĐ này. Nhưng năm 75 đến khi ta vào bộ TTM nguỵ thấy trên bản đồ hành quân đề số 308 và dấu hỏi to tướng, nguỵ không biết năm 75 sư 308 đánh ở đâu nên một phần vì vậy chẳng đoán ra hướng nào là chính, ấy là các tướng nhà ta nói thế. tuy nhiên thực tế cuối tháng 3/75 khi QĐI hành quân qua đường trường sơn tham gia chiến dịch hồ chí minh thì 308 được giữ lại bảo vệ miền bắc. tuy nhiên trong đội hình quân đoàn 2 hành quân dọc duyên hải miền trung thì nhiều xe lại căng khảu khiệu "Sư đoàn Quân tiên phong(tên hiệu của 308) quyết tâm...." nên nguỵ tưởng là sư 308 chiến đấu trong đội hình QĐII nên chẳng biết đâu mà lần.
    size=4]
    Thần Tiễn
    [/size=4]
  4. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    [

    Mấy bài của B40 thật tuyệt trao đổi thêm nhé
    Tháng 1 năm 66 sư đoàn 1 thành lập ở Tây Nguyên gồm các trung đoàn 66, 88, 320 trong đó 320 gồm 3 tiểu đoàn của 304, 308 và 320, Sư trưởng là Đại tá Nguyẽn Hữu An, Chính uỷ là Hòang Thế Thiện. Đầu năm 67, trung đoàn 88 vào Nam bộ được thay bằng trung doàn 174. Cuối năm 68 sư đoàn 1 giải thể, bộ tư lệnh sư đoàn cùng trung đoàn 174 và 320 vào tăng cường cho Nam bộ bị thiệt hại nhiều sau mậu thân nhất là Sư 9. Chỉ còn TĐ 66 ở lại sau này là nòng cốt của sư 10.
    Sư 10 thành lập vao tháng 10 năm 72 gồm các trung đoàn 66, 95, 28 sư trưởng là đại tá Nguyễn mạnh Quân Chính uỷ là Thượng tá Đặng Vũ HIệp. Nên Sư 10 không thể đánh Kontum mà là các Trung đoàn sau nay thành su 10 thôi.
    Sư đoàn Sao vàng là sư 3 không phải sư 2
    Về cơ hội giải phóng Miền Nam năm 72 theo tôi không phải không có ta đi vào từng vấn đề nhé :
    trước tiên là Chiến lược : Về chọn mặt trận chính ta lúc đầu chọn B2 ( Đông NB) sau đổi chọn B5 ( Trị Thiên) đã cho thấy sự lấn cấn. Theo tôi chọn B5 là chiến trường chính là sai lầm vì đây là nơi tập trung quân tinh nhuệ nhất của địch ( dù, TQLC, sư 1 anh cả...). Hệ thống phòng ngự được bố trí nhiều tầng, lớp dựa vào đặc thù địa lý có thể chia cắt quân tấn công ra từng mảnh nhỏ. Ngoài không quân Mỹ, quân miền Nam còn được chi viện hoả lực từ hạm đội 7 ngay sát bờ biển- đây là hoả lực gây khó khăn cho ta không kém B52.
    Theo tôi nếu chọn B3 ( tây Nguyên) như 75 thì sẽ han chế được những khó khăn trên.
    size=4]
  5. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    [

    Mấy bài của B40 thật tuyệt trao đổi thêm nhé
    Tháng 1 năm 66 sư đoàn 1 thành lập ở Tây Nguyên gồm các trung đoàn 66, 88, 320 trong đó 320 gồm 3 tiểu đoàn của 304, 308 và 320, Sư trưởng là Đại tá Nguyẽn Hữu An, Chính uỷ là Hòang Thế Thiện. Đầu năm 67, trung đoàn 88 vào Nam bộ được thay bằng trung doàn 174. Cuối năm 68 sư đoàn 1 giải thể, bộ tư lệnh sư đoàn cùng trung đoàn 174 và 320 vào tăng cường cho Nam bộ bị thiệt hại nhiều sau mậu thân nhất là Sư 9. Chỉ còn TĐ 66 ở lại sau này là nòng cốt của sư 10.
    Sư 10 thành lập vao tháng 10 năm 72 gồm các trung đoàn 66, 95, 28 sư trưởng là đại tá Nguyễn mạnh Quân Chính uỷ là Thượng tá Đặng Vũ HIệp. Nên Sư 10 không thể đánh Kontum mà là các Trung đoàn sau nay thành su 10 thôi.
    Sư đoàn Sao vàng là sư 3 không phải sư 2
    Về cơ hội giải phóng Miền Nam năm 72 theo tôi không phải không có ta đi vào từng vấn đề nhé :
    trước tiên là Chiến lược : Về chọn mặt trận chính ta lúc đầu chọn B2 ( Đông NB) sau đổi chọn B5 ( Trị Thiên) đã cho thấy sự lấn cấn. Theo tôi chọn B5 là chiến trường chính là sai lầm vì đây là nơi tập trung quân tinh nhuệ nhất của địch ( dù, TQLC, sư 1 anh cả...). Hệ thống phòng ngự được bố trí nhiều tầng, lớp dựa vào đặc thù địa lý có thể chia cắt quân tấn công ra từng mảnh nhỏ. Ngoài không quân Mỹ, quân miền Nam còn được chi viện hoả lực từ hạm đội 7 ngay sát bờ biển- đây là hoả lực gây khó khăn cho ta không kém B52.
    Theo tôi nếu chọn B3 ( tây Nguyên) như 75 thì sẽ han chế được những khó khăn trên.
    size=4]
  6. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Trao đổi thêm với Duong2002
    Quả thật tôi chưa từng biết có sư 1 ở tây nguyên, tham khảo hồ kỹ các Ông Đặng Vũu Hiệp, Hoàng Minh Thảo cung như các bài no viết của Trịnh Tiếu ( Nguyên đại tá trưởng phòng 2 QĐ II nguỵ)đều không thấy nhắc đến, còn các sự kiện liên quan đến các trung đoàn như Duong2002 nói là chính xác. Trung Đoàn 66 và 320 là các trung đoàn đã đánh trận Iadrăng năm 1965 nổi tiếng. Trong bài trên tham gian trân Tân cảnh đúng là không phải sư 10 mà là các trung đoàn độc lập 24, 28, 66,95, tháng 10/72 mới thành lập sư 10 gồm các trung đoàn 28, 28, 66 chứ không phải 95, sau 72 trung đoàn 95 này vào nam bộ, đầu năm 75 khi sư 316 hành quân từ Nghệ an vào tham gia chiến dịch BMT khi qua quảng trị lấy thêm TĐ 95 của sư 325 vào tham gia BMT gọi là TĐ 95 B.
    Về sư đoàn sao vàng quả thưc ta có 2 sư đoàn sao vàng, Sư đoàn 2 và Sư đoàn 3 đều của khu 5, sư 3 chủ yếu tác chiến ở Bình định-đường 19, Sư 2 cơ động hơn, đã tham gia cả Trận Khe Sanh năm 68, đường 9- nam lào năm 71, Kontum năm 72. Sư 2 do anh hùng Nguyễn Chơn làm tư lệnh. Năm 75 sư 2 giải phòng quảng ngãi, tam kỳ - quảng nam, Chu lai và tham gia giải phòng đà nẵng sau đó ở lại giữ đà nẵng. Năm 75 Sư 3 cắt đường 19 Quy nhơn -Playcu, sau đó giải phóng bình định, tiếp theo hành quân vào tham gia trận phan rang và nhập với quân đoàn II ở đây (thay sư 324 ở lại giữ Huế), Trong chiến dịch HCM sư 3 giải phóng Vũng tầu-Côn đảo
    Về cơ hội giải phóng Miền Nam năm 72 xin trao đổi sau
    size=4]
    Thần Tiễn
    [/size=4]
  7. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Trao đổi thêm với Duong2002
    Quả thật tôi chưa từng biết có sư 1 ở tây nguyên, tham khảo hồ kỹ các Ông Đặng Vũu Hiệp, Hoàng Minh Thảo cung như các bài no viết của Trịnh Tiếu ( Nguyên đại tá trưởng phòng 2 QĐ II nguỵ)đều không thấy nhắc đến, còn các sự kiện liên quan đến các trung đoàn như Duong2002 nói là chính xác. Trung Đoàn 66 và 320 là các trung đoàn đã đánh trận Iadrăng năm 1965 nổi tiếng. Trong bài trên tham gian trân Tân cảnh đúng là không phải sư 10 mà là các trung đoàn độc lập 24, 28, 66,95, tháng 10/72 mới thành lập sư 10 gồm các trung đoàn 28, 28, 66 chứ không phải 95, sau 72 trung đoàn 95 này vào nam bộ, đầu năm 75 khi sư 316 hành quân từ Nghệ an vào tham gia chiến dịch BMT khi qua quảng trị lấy thêm TĐ 95 của sư 325 vào tham gia BMT gọi là TĐ 95 B.
    Về sư đoàn sao vàng quả thưc ta có 2 sư đoàn sao vàng, Sư đoàn 2 và Sư đoàn 3 đều của khu 5, sư 3 chủ yếu tác chiến ở Bình định-đường 19, Sư 2 cơ động hơn, đã tham gia cả Trận Khe Sanh năm 68, đường 9- nam lào năm 71, Kontum năm 72. Sư 2 do anh hùng Nguyễn Chơn làm tư lệnh. Năm 75 sư 2 giải phòng quảng ngãi, tam kỳ - quảng nam, Chu lai và tham gia giải phòng đà nẵng sau đó ở lại giữ đà nẵng. Năm 75 Sư 3 cắt đường 19 Quy nhơn -Playcu, sau đó giải phóng bình định, tiếp theo hành quân vào tham gia trận phan rang và nhập với quân đoàn II ở đây (thay sư 324 ở lại giữ Huế), Trong chiến dịch HCM sư 3 giải phóng Vũng tầu-Côn đảo
    Về cơ hội giải phóng Miền Nam năm 72 xin trao đổi sau
    size=4]
    Thần Tiễn
    [/size=4]
  8. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Về cơ hội giải phóng Miền Nam năm 72 là không có, xin trao đổi thêm với duong200 và các bạn thế này.
    Trước hết trong di chuc CT HCM nói ?oĐánh cho mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào? hẳn không phải là ngẫu nhiên, mỹ phải cút rồi mới đánh nguỵ nhào được. Đó là kinh nghiệm của 5 năm đánh nhau với chủ lực mỹ tại miền nam (đến năm 69)
    Về phía địch năm 72 quân dịch còn rất mạnh có hầu cần dồi dào, hoả lực mạnh, có đầy đủ đường xá và phương tiện vận chuyển, sức cơ động nhanh, có khả năng đánh sâu vào căn cứ của ta kể cả căn cứ đầu não tại miền nam, hay ra đường trường sơn.
    Còn phía ta sau 68 gặp nhiều khó khăn, nhiều sư đoàn chủ lực phải giải tán hoặc kéo sang đất Cam pu chia, các tiểu đoàn pháo xe kéo phải giải tán kéo quân ra bắc, còn lại chỉ là các trung/tiểu đoàn bộ binh, đặc công bám dân, dành đất, với hoả lực và pháo mang vác. Đến trước năm 71 thì hầu như không có trận đánh nào đáng kể. Về chủ lực của ta đến năm 72 khả năng tác chiến binh chủng hợp thành trong thành phố, thì xã là kém, năm 71 ta tổ chức diễn tập thực binh đánh chiếm thành phố tại Nam định, TBT Lê duẩn đến xem cũng phải lắc đầu ngao ngán, dân quân du kích nhảy lên cả xe tăng ta để tấn công quân địch??. Vả lại cũng chỉ có các đơn vị đóng quân trên miền bắc như 304, 308, 320 B, 312 với các đơn vị xe tăng mới có điều kiện luyện tập đánh vào đô thị. Trước đây chủ lực ta chủ yếu đánh binh chủng hợp thành với địch bên ngoài đô thi, như năm 71 đánh tại đường 9-nam lào
    Đến cuối năm 71 ta mới đưa một số đơn vị binh chủng kỹ thuật vào Tây nguyên và Nam bộ để chuẩn bị cho năm 72.
    Về mặt trận chính năm 72 lúc đầu ta chọn Nam bộ là do đòi hỏi của BTLMiền, BTLM thường cho rằng đông nam bộ là chiến trường chính vì gần đầu não địch là Sài gòn, tuy nhiên gần sai gòn thì lực lượng địch cũng rất mạnh, trong lúc đó tại đông nam bộ ta có đoàn Pháo binh 75 chủ yếu là pháo mang vác, DKB, với 1 tiểu đoàn pháo 105 và 155 chiến lợi phẩm, chỉ mới có 2 tiểu đoàn pháo xe kéo và 2 tiểu đoàn xe tăng từ miền bắc vừa vào cùng với một đại đội A.72 và B.72, đạn dược rất hạn chế, đường tiếp tế lại rất xa hậu phương, đường chủ yếu qua cảng Shihanucville bị cắt từ năm 70 sau khi lonon đảo chính, đường trường sơn mới mở được đến nam tây nguyên, sau đó xe ô tô phải đi vòng qua tận modunkiri của CPC mới tới nam bộ, đường ngắn hơn thì mới là đường giao liên toàn gùi thồ.
    Ở Tây nguyên cũng vậy thôi, còn khó khăn hơn là vì ở tây nguyên ta phải tiếp tế đủ thứ, ở Nam bộ ta chủ yếu tiếp tế súng, đạn thôi, còn lương thực, xăng dầu phần lớn là do hậu cần ta mua của nguỵ, của CPC. Ở tây nguyên chẳng mua ở đâu được. Ở tây nguyên lúc đó ngoài bộ binh ta có 2 tiểu đoàn tăng thiêt giáp gồm T54 và K63 mới vào, trung đoàn pháo 675 chủ yếu là pháo mang vác như DKB, cối 120 mm, 160 mm, và một số pháo 105 chiến lợi phẩm, trung đoàn 40 pháo binh mới vào có 2 tiểu đoàn pháo 122mm D74 nhập với 1 tiểu đoàn DKB của B.3
    Để có được các tiểu đoàn xe tăng vào tây nguyên và nam bộ là cả một kỳ tích, ở các nước khác hay quân nguỵ, xe tăng từ hậu cứ được chở bằng tầu hoả hặc ô tô chuyên dụng vào gần chiến trường, từ đó xe tăng chạy khoảng dưới 200 km vào tuyến chờ xung phong, đi theo có các xe chở đạn, chở xăng dầu, chở phụ tùng thay thế, các đơn vị sửa chữa, đảm bảo kỹ thuật, tại đây trước lại được bổ xung xăng dầu, nạp đạn rồi mới vào trận, ở ta do không có điều kiện, các đơn vi xe tăng phải hành quân bằng xích vượt cả ngàn cây số đường rừng mất vài tháng mới vào đến chiến trường trong điều kiện bị không quân mỹ đánh phá ác liệt, mỗi xe phải cõng theo ít nhất một bộ xích để thay thế. Tại tây nguyên và nam bộ điều kiện sửa chữa, tiếp tế cho xe tăng rất khó khăn số xe có thể chiến đấu được chỉ khoảng 70-80 % biên chế, còn lại là hỏng hóc, sau năm 72 ở tây nguyên chỉ còn rất ít xe tăng ở nam bộ không còn xe nào chạy được kể cả các xe chiến lợi phẩm, phần lớn bị cháy, còn lại bị hỏng không sửa chữa được. tuy nhiên lúc đầu xe tăng cũng gây cho nguỵ không ít kinh hoàng, họ chẳng hiểu làm thế nào mà VC đưa được tăng vào tận nam bộ và tây nguyên trong điều kiện như vậy.
    Pháo binh cũng thế, để có được tăng, pháo xe kéo tầm xa vào chiến dịch ta phải mở rất nhiều đường, nhất là ở tây nguyên, lại toàn làm thủ công, trong điều kiện bí mật, phương tiện cơ giới rất ít, ngoài ra đạn pháo phải vận chuyển chủ yếu bằng gùi, xe thồ từ kho của mặt trận đến trận địa, phải mất hàng trung đoàn dân công gùi thồ đạn đi mấy ngày đường, mỗi người chỉ gùi được 1 quả đạn, nếu là đạn DKB thi phải 2 người, cho một tiểu đoàn pháo 12 khẩu bắn. tất cả hàng tiếp tế như gạo, đạn, thuốc men cũng gùi thồ như vậy.
    Để đưa được một sư đoàn bộ binh vào chiến trường thì chủ yếu cũng đi bộ theo đường giao liên, không đi xe trên đường trường sơn được vì máy bay bắn phá, đi bộ mất vài tháng, rơi rụng quân dọc đường nhiều vì bom đạn, sốt rét, tai nạn mới vào đến nơi, rồi còn củng cố chán mới chiến đấu được.
    Ở quảng trị gần miền bắc, điều kiện tiếp tế dễ dàng hơn, có điều kiện đảm bảo cho các binh chủng kỹ thuật như xe tăng, pháo binh, phòng không, tên lửa vào tham chiến, các đơn vị bộ binh được huấn luyện đánh đô thị tốt hơn.
    Còn với địch năm 72 mặt trận chính ở đâu cũng vậy thôi nếu ta có đánh Tây nguyên là chính thì chỉ một tuần với phương tiện vận hiện đại của mỹ có thể chuyển vài sư đoàn nguỵ với đầy đủ trang bị đến tham chiến, thực tế lúc đầu ở quảng trị -thừa thiên chỉ có 2 sư đoàn bộ binh với 2 lữ đoàn thuỷ quân lục 147 và 258 phòng thủ từ bắc Hải vân đến sông Bến hải, khi mặt trận này bùng nổ nặng chỉ thời gian ngắn nguỵ không vận toàn bộ sư dù từ sàigon, Bình long, tây nguyên ra, đưa nốt 2 lữ TQLC cũng lữ đoàn kỵ binh 1, các liên đoàn biệt động quân tăng cường phản kích, hậu cần, đạn dược cũng được máy bay, tầu vận tải của mỹ ồt ạt đổ ra vùng 1, cảng tiếp vận ở Mỹ thuỷ- huế, sân bay phú bài ?" huế tập nập chưa từng có. Nếu nguỵ vẫn thua thì không tránh khỏi quân mỹ trực tiếp tham chiến.
    Còn ta do tiếp tế khó khăn càng chiến đấu càng tiêu hao đạn dược, quân số, xe, pháo không được bổ xung, về cuối chiến dịch, nhiều đơn vị gần như kiệt sức thì làm sao mà giải phóng được. Mặt khác đã thành quy luật, nếu ta đánh mạnh ở miền nam thì mỹ tăng cường ném bom miền bắc và đường trường sơn, năm 72 mỹ ném bom miền bắc ác liệt, từ tháng 4/72 dùng cả B.52 ném bom dần từ Vinh trở ra, cảng hải phòng bị thuỷ lôi phong toả, ta không nhận được viện trợ từ LX, đường 1 nối với TQ bị đánh ác liệt, mặt khác TQ giảm viện trợ từ năm 72 nên có lúc miền bắc thiếu cả xăng dầu, gạo.
    Do đó đên bây giờ không thấy tướng lĩnh nào của ta tranh luận nên chọn mặt trận nào là chính, cũng như cơ hội giải phóng năm 72. chỉ có tranh luận về cơ hội đánh chiếm huế và việc phòng thủ quảng trị-thành cổ thôi. Năm 72 khi đã bao vây được Kon tum, tướng Hoàng Minh Thảo tư lệnh mặt trận cũng nhận thấy ta chưa đủ điều kiện cũng như kinh nghiệm tác chiến binh chủng trong đô thị trước hỏa lực lớn của đối phương nên cho rút. Ở An lộc, sau khi chiếm đựợc Lộc ninh, bao vây An lộc 2 tháng, địch chỉ còn cố thủ trong phạm vi 3x3 km nhưng ta cũng không chiếm được. Nói chung trong 2 trận trên khi địch có sự phòng bị chủ động, không còn bất ngờ nữa thì khả năng tác chiến binh chủng hợp thành của ta bộ lộ nhiều thiếu sót. Và nói chung mọi người hài lòng với kết quả đạt được
    Còn năm 1975 thế và lực của 2 bên khác rất nhièu, xin bàn vào dịp khác
    size=4]
    Thần Tiễn
    [/size=4]
  9. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Về cơ hội giải phóng Miền Nam năm 72 là không có, xin trao đổi thêm với duong200 và các bạn thế này.
    Trước hết trong di chuc CT HCM nói ?oĐánh cho mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào? hẳn không phải là ngẫu nhiên, mỹ phải cút rồi mới đánh nguỵ nhào được. Đó là kinh nghiệm của 5 năm đánh nhau với chủ lực mỹ tại miền nam (đến năm 69)
    Về phía địch năm 72 quân dịch còn rất mạnh có hầu cần dồi dào, hoả lực mạnh, có đầy đủ đường xá và phương tiện vận chuyển, sức cơ động nhanh, có khả năng đánh sâu vào căn cứ của ta kể cả căn cứ đầu não tại miền nam, hay ra đường trường sơn.
    Còn phía ta sau 68 gặp nhiều khó khăn, nhiều sư đoàn chủ lực phải giải tán hoặc kéo sang đất Cam pu chia, các tiểu đoàn pháo xe kéo phải giải tán kéo quân ra bắc, còn lại chỉ là các trung/tiểu đoàn bộ binh, đặc công bám dân, dành đất, với hoả lực và pháo mang vác. Đến trước năm 71 thì hầu như không có trận đánh nào đáng kể. Về chủ lực của ta đến năm 72 khả năng tác chiến binh chủng hợp thành trong thành phố, thì xã là kém, năm 71 ta tổ chức diễn tập thực binh đánh chiếm thành phố tại Nam định, TBT Lê duẩn đến xem cũng phải lắc đầu ngao ngán, dân quân du kích nhảy lên cả xe tăng ta để tấn công quân địch??. Vả lại cũng chỉ có các đơn vị đóng quân trên miền bắc như 304, 308, 320 B, 312 với các đơn vị xe tăng mới có điều kiện luyện tập đánh vào đô thị. Trước đây chủ lực ta chủ yếu đánh binh chủng hợp thành với địch bên ngoài đô thi, như năm 71 đánh tại đường 9-nam lào
    Đến cuối năm 71 ta mới đưa một số đơn vị binh chủng kỹ thuật vào Tây nguyên và Nam bộ để chuẩn bị cho năm 72.
    Về mặt trận chính năm 72 lúc đầu ta chọn Nam bộ là do đòi hỏi của BTLMiền, BTLM thường cho rằng đông nam bộ là chiến trường chính vì gần đầu não địch là Sài gòn, tuy nhiên gần sai gòn thì lực lượng địch cũng rất mạnh, trong lúc đó tại đông nam bộ ta có đoàn Pháo binh 75 chủ yếu là pháo mang vác, DKB, với 1 tiểu đoàn pháo 105 và 155 chiến lợi phẩm, chỉ mới có 2 tiểu đoàn pháo xe kéo và 2 tiểu đoàn xe tăng từ miền bắc vừa vào cùng với một đại đội A.72 và B.72, đạn dược rất hạn chế, đường tiếp tế lại rất xa hậu phương, đường chủ yếu qua cảng Shihanucville bị cắt từ năm 70 sau khi lonon đảo chính, đường trường sơn mới mở được đến nam tây nguyên, sau đó xe ô tô phải đi vòng qua tận modunkiri của CPC mới tới nam bộ, đường ngắn hơn thì mới là đường giao liên toàn gùi thồ.
    Ở Tây nguyên cũng vậy thôi, còn khó khăn hơn là vì ở tây nguyên ta phải tiếp tế đủ thứ, ở Nam bộ ta chủ yếu tiếp tế súng, đạn thôi, còn lương thực, xăng dầu phần lớn là do hậu cần ta mua của nguỵ, của CPC. Ở tây nguyên chẳng mua ở đâu được. Ở tây nguyên lúc đó ngoài bộ binh ta có 2 tiểu đoàn tăng thiêt giáp gồm T54 và K63 mới vào, trung đoàn pháo 675 chủ yếu là pháo mang vác như DKB, cối 120 mm, 160 mm, và một số pháo 105 chiến lợi phẩm, trung đoàn 40 pháo binh mới vào có 2 tiểu đoàn pháo 122mm D74 nhập với 1 tiểu đoàn DKB của B.3
    Để có được các tiểu đoàn xe tăng vào tây nguyên và nam bộ là cả một kỳ tích, ở các nước khác hay quân nguỵ, xe tăng từ hậu cứ được chở bằng tầu hoả hặc ô tô chuyên dụng vào gần chiến trường, từ đó xe tăng chạy khoảng dưới 200 km vào tuyến chờ xung phong, đi theo có các xe chở đạn, chở xăng dầu, chở phụ tùng thay thế, các đơn vị sửa chữa, đảm bảo kỹ thuật, tại đây trước lại được bổ xung xăng dầu, nạp đạn rồi mới vào trận, ở ta do không có điều kiện, các đơn vi xe tăng phải hành quân bằng xích vượt cả ngàn cây số đường rừng mất vài tháng mới vào đến chiến trường trong điều kiện bị không quân mỹ đánh phá ác liệt, mỗi xe phải cõng theo ít nhất một bộ xích để thay thế. Tại tây nguyên và nam bộ điều kiện sửa chữa, tiếp tế cho xe tăng rất khó khăn số xe có thể chiến đấu được chỉ khoảng 70-80 % biên chế, còn lại là hỏng hóc, sau năm 72 ở tây nguyên chỉ còn rất ít xe tăng ở nam bộ không còn xe nào chạy được kể cả các xe chiến lợi phẩm, phần lớn bị cháy, còn lại bị hỏng không sửa chữa được. tuy nhiên lúc đầu xe tăng cũng gây cho nguỵ không ít kinh hoàng, họ chẳng hiểu làm thế nào mà VC đưa được tăng vào tận nam bộ và tây nguyên trong điều kiện như vậy.
    Pháo binh cũng thế, để có được tăng, pháo xe kéo tầm xa vào chiến dịch ta phải mở rất nhiều đường, nhất là ở tây nguyên, lại toàn làm thủ công, trong điều kiện bí mật, phương tiện cơ giới rất ít, ngoài ra đạn pháo phải vận chuyển chủ yếu bằng gùi, xe thồ từ kho của mặt trận đến trận địa, phải mất hàng trung đoàn dân công gùi thồ đạn đi mấy ngày đường, mỗi người chỉ gùi được 1 quả đạn, nếu là đạn DKB thi phải 2 người, cho một tiểu đoàn pháo 12 khẩu bắn. tất cả hàng tiếp tế như gạo, đạn, thuốc men cũng gùi thồ như vậy.
    Để đưa được một sư đoàn bộ binh vào chiến trường thì chủ yếu cũng đi bộ theo đường giao liên, không đi xe trên đường trường sơn được vì máy bay bắn phá, đi bộ mất vài tháng, rơi rụng quân dọc đường nhiều vì bom đạn, sốt rét, tai nạn mới vào đến nơi, rồi còn củng cố chán mới chiến đấu được.
    Ở quảng trị gần miền bắc, điều kiện tiếp tế dễ dàng hơn, có điều kiện đảm bảo cho các binh chủng kỹ thuật như xe tăng, pháo binh, phòng không, tên lửa vào tham chiến, các đơn vị bộ binh được huấn luyện đánh đô thị tốt hơn.
    Còn với địch năm 72 mặt trận chính ở đâu cũng vậy thôi nếu ta có đánh Tây nguyên là chính thì chỉ một tuần với phương tiện vận hiện đại của mỹ có thể chuyển vài sư đoàn nguỵ với đầy đủ trang bị đến tham chiến, thực tế lúc đầu ở quảng trị -thừa thiên chỉ có 2 sư đoàn bộ binh với 2 lữ đoàn thuỷ quân lục 147 và 258 phòng thủ từ bắc Hải vân đến sông Bến hải, khi mặt trận này bùng nổ nặng chỉ thời gian ngắn nguỵ không vận toàn bộ sư dù từ sàigon, Bình long, tây nguyên ra, đưa nốt 2 lữ TQLC cũng lữ đoàn kỵ binh 1, các liên đoàn biệt động quân tăng cường phản kích, hậu cần, đạn dược cũng được máy bay, tầu vận tải của mỹ ồt ạt đổ ra vùng 1, cảng tiếp vận ở Mỹ thuỷ- huế, sân bay phú bài ?" huế tập nập chưa từng có. Nếu nguỵ vẫn thua thì không tránh khỏi quân mỹ trực tiếp tham chiến.
    Còn ta do tiếp tế khó khăn càng chiến đấu càng tiêu hao đạn dược, quân số, xe, pháo không được bổ xung, về cuối chiến dịch, nhiều đơn vị gần như kiệt sức thì làm sao mà giải phóng được. Mặt khác đã thành quy luật, nếu ta đánh mạnh ở miền nam thì mỹ tăng cường ném bom miền bắc và đường trường sơn, năm 72 mỹ ném bom miền bắc ác liệt, từ tháng 4/72 dùng cả B.52 ném bom dần từ Vinh trở ra, cảng hải phòng bị thuỷ lôi phong toả, ta không nhận được viện trợ từ LX, đường 1 nối với TQ bị đánh ác liệt, mặt khác TQ giảm viện trợ từ năm 72 nên có lúc miền bắc thiếu cả xăng dầu, gạo.
    Do đó đên bây giờ không thấy tướng lĩnh nào của ta tranh luận nên chọn mặt trận nào là chính, cũng như cơ hội giải phóng năm 72. chỉ có tranh luận về cơ hội đánh chiếm huế và việc phòng thủ quảng trị-thành cổ thôi. Năm 72 khi đã bao vây được Kon tum, tướng Hoàng Minh Thảo tư lệnh mặt trận cũng nhận thấy ta chưa đủ điều kiện cũng như kinh nghiệm tác chiến binh chủng trong đô thị trước hỏa lực lớn của đối phương nên cho rút. Ở An lộc, sau khi chiếm đựợc Lộc ninh, bao vây An lộc 2 tháng, địch chỉ còn cố thủ trong phạm vi 3x3 km nhưng ta cũng không chiếm được. Nói chung trong 2 trận trên khi địch có sự phòng bị chủ động, không còn bất ngờ nữa thì khả năng tác chiến binh chủng hợp thành của ta bộ lộ nhiều thiếu sót. Và nói chung mọi người hài lòng với kết quả đạt được
    Còn năm 1975 thế và lực của 2 bên khác rất nhièu, xin bàn vào dịp khác
    size=4]
    Thần Tiễn
    [/size=4]
  10. tinvitxauxa

    tinvitxauxa Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/10/2002
    Bài viết:
    182
    Đã được thích:
    0
    Thực ra, nhưng thông tin mà B.40 nêu ra đã tự trả lời cho lý do tại sao lại không giải phóng được miền Nam trong năm 1972 rồi. Còn việc mình nêu ra cái sự phối hợp giữa các lực lượng không có ý là coi thường tầm quan trọng của quân chủ lực, nhưng chỉ dựa vào quân chủ lực không thôi thì khó có thành công. Tất nhiên, quân chủ lực của ta đánh tốt thì mới có thể thắng. Nhìn vào các trận đánh, các chiến dịch lớn, người ta nhìn vào quân chủ lực là chính mà có thể quên đi mất một phần rất quan trọng là sự hỗ trợ của các lực lượng khác đối với quan chủ lực. Liệu có phải vì các lực lượng nằm vùng đã tiêu hết năm 68 nên không thể hỗ trợ gây rối loạn hậu phương địch, không thể nổi dậy phối hợp(ví dụ như phá đường băng sân bay Komtum chẳng hạn) thì đã có cơ may tiến xa hơn năm 72.
    Je suis Viêtnamien, vive le Vietnam

Chia sẻ trang này