1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chúng ta thoát thai từ đâu ?

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi aovai, 23/11/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. aovai

    aovai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    @aphro***e : cái hình ở trang số 75 đó, post lên giùm ha.
    @viethuong279 : tui sẽ cố gắng giữ nguyên mạch truyện, ý tui là muốn để câu chuyện tự nó phát triển, để cho các đoạn đối thoại được tự nhiên. Cho nên chỗ nào tác giả chú thích, hoặc nhận xét, thêm zô cái này cái nọ thì tui ko thích, tui bỏ hết. Tuy nhiên sẽ cố gắng chìu ý ông. hi hi. Ông làm tui xúc động lắm đó, cám ơn ông vì đã ủng hộ tui nha.
    @all : 1 chút tâm sự với anh em. Cuốn này tui mua hồi năm 2002, lúc nó mới xuất bản. Bây giờ mới post lên. Chính cuốn này và 1 vài cuốn khác đã cho tui biết 1 chuyện cực kì quan trọng, đó là : mục đích ta sinh ra trên đời để làm gì ? Ta phải đi theo con đường nào ?
  2. aovai

    aovai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    -Các nhà tiên tri là ai, thưa Thầy ?,-tôi hỏi phá tan sự im lặng
    -Các nhà tiên tri là những người nắm các kinh nghiệm tốt đẹp của các nền văn minh trước đây và truyền lại cho mọi người. Phần lớn họ là những người bình dân.
    -Liệu một người thuộc nền văn minh trước đây có ngoại hình khác những người bình thường có thể là nhà tiên tri được không, thưa Thầy ?
    -Được chứ, đó là khi người đó ra khỏi trạng thái xô-ma-chi thì nền văn minh mới đã phát triển và con người đã thay đổi hình dáng của mình phù hợp với hoàn cảnh mới.
    -Tôi hiểu Thầy đã mệt,-tôi nói,-mặc dù vậy xin Thầy kể chúng tôi nghe về ?oSoHm?.
    -Các vị đã được nghe chuyện đó rồi thì phải ?
    -Vâng ?" Tôi trình bày ngắn gọn các thông tin chúng tôi đã nhận được về bức thông điệp cuối cùng.
    -Tôi xin bổ sung,- đạo sư Đa-ram bắt đầu kể,- ?oSoHm? là nói chuyện bằng mũi : hít vào ?" ?oSo?, thở ra ?" ?oHm?. Đúng là những người thuộc nền văn minh trước đây nói chuyện bằng mũi. Song vai trò của ?oSoHm? lớn vô cùng. ?oSoHm? , đó là âm thanh của mũi, âm thanh của sinh và tử. Khi một đứa trẻ ra đời, nó là ?ongười thực vật?, cùng với cái hít vào đầu tiên hồn nhập vào thân thể đứa bé, nghĩa là hít vào (?oSo?) là sinh. Khi con người hấp hối thì hồn lìa thân xác cùng với hơi thở hắt ra, nghĩa là thở ra (?oHm?) là tử. Hít vào có nghĩa là sống, thở ra là chết. Nguyên lý ?oSoHm? tượng trưng cho sự vô tận và thống nhất của sinh và tử, rằng điều chính yếu là ở nơi kia, ngoài phạm vi trần thế. ?oAmen? và những lời tương tự trong các tôn giáo đều là hình ảnh của ?oSoHm?.
    -Vì sao lại gọi ?oSoHm? là bức thông điệp cuối cùng, thưa Thầy ?
    -Vì rằng, đó là lời cảnh báo về việc mỗi người cần phải tự thể hiện mình trong giới hạn của sự sống nơi trần gian theo chiều hướng tốt lành. Tiếc thay, nền văn minh trước đây của người Át-lan đã thể hiện theo chiều hướng không chỉ thiện mà cả ác. Người Át-lan dễ dàng nhập vào Đấng Trí Tôn và nhận từ đó các kinh nghiệm phục vụ mục đích không chỉ thiện mà cả ác nữa. Bức thông điệp ?oSoHm?, có nghĩa là nền văn minh tiếp theo, tức của chúng ta, không được tiếp cận với ?oQuỹ kiến thức vũ trụ?, bởi không thể tin là các kinh nghiệm đó sẽ chỉ được sử dụng vào các mục đích tốt lành. ?oSoHm? có nghĩa là ?oHãy thể hiện mình đi? trong giai đoạn giữa cái hít đầu tiên và cái thở ra cuối cùng, nghĩa là thời kỳ sống trên trái đất.
    -Cho con người tiếp cận với ?oQuỹ kiến thức vũ trụ? thật nguy hiểm bởi việc nắm biết tri thức mới, chẳng hạn về các dạng năng lượng mới, có thể trở thành điều bất hạnh cho nền văn minh của chúng ta,-tôi nói.- Nguyên lý ?oSoHm? chứng tỏ Đấng Trí Tôn đã quyết định : thôi không cho loài người dễ dàng tiếp cận với tri thức toàn thể, cứ để loài người tự xoay sở, tự tích lũy lấy kinh nghiệm.
    -Đúng là như vậy,- đạo sư Đa-ram trả lời.
    -Nhưng mà,-tôi nói tiếp.-Một số người vẫn được tiếp cận với Trường thông tin toàn thể. Tôi hiểu họ là những người có động cơ tốt lành, nghĩa là trường torsion của họ rõ ràng xoắn về hướng tích cực. Chắc chắn chính những người này đã trở thành các bậc tiên tri, các khoa học gia lớn, song cuộc sống của họ khó khăn, vì họ cứ phải tranh đấu với các trường xoắn tiêu cực của nhiều người.
    -Những người đó là các bậc Thầy,- đạo sư Đa-ram nói
    -Tôi xin kể ngài nghe một trường hợp,-tôi chưa chịu im,-Tôi được xem một bộ phim tài liệu về chuyện các nhà máy của Hít-le thiết kế và sản xuất các đĩa bay trên cơ sở các kinh nghiệm nhận được từ Trường thông tin vũ trụ. Các kinh nghiệm này do hai phụ nữ ?ođược tiếp cận? nhận và chuyển cho bọn Hít-le. Cuối chiến tranh, bọn Hít-le đã sản xuất đĩa bay, chúng đã thử cho bay, nhưng chưa kịp sử dụng. Những chiếc đĩa bay được tạo nên không biết bằng cách nào đã biến mất. Việc nền văn minh trước đây, có lẽ như vậy, đã chuyển giao thông tin về các thiết bị bay cho bọn Hít-le theo tôi hiểu là vi phạm nguyên tắc ?oSoHm? ?" ?oHãy tự thể hiện mình đi? ?
    -Có thể lắm,- đạo sư Đa-ram thốt lên.- Nhưng ngài đừng quên rằng, còn có Thần ác vĩ đại. Tâm năng tích cực và tâm năng tiêu cực gắn liền nhau, còn cái Thiện và cái Ác song hành. Không được coi nhẹ vai trò của tâm năng tiêu cực.
    -Vậy Trường thông tin vũ trụ có thể sửa sai được không, thưa Thầy ? Biết đâu chính đó là lý do các đĩa bay của bọn Hít-le đã biến mất một cách bí hiểm ?
    -Khi nguyên tắc ?oSoHm? bị vi phạm, Đấng Trí Tôn không thể dùng mãnh lực tác động được, vì người ở ngoài mãnh lực, nhưng người có thể tác động lên phần hồn của con người. Ví dụ người có thể tác dụng lên tâm những người đã làm ra đĩa bay, thuyết phục họ phá hủy thành quả lao động của mình. Cái Thiện phải thắng, trong trường hợp ngược lại thế giới sẽ bị phá hủy.
    -Tiếc thật, chỉ vì những kẻ Át-lan độc ác và hám quyền mà nền văn minh của chúng ta bị cắt đứt với ?oQuỹ kiến thức vũ trụ?,-tôi nói hằn học.
    -Tất nhiên không phải người Át-lan nào cũng độc ác, nhưng năng lượng Ác trong nền văn minh của họ đã thắng. Rồi xem nền văn minh của chúng ta sẽ ra sao, liệu cái Thiện có chiến thắng không, tôi không biết. Bởi vậy, mọi tôn giáo đều dạy bảo một điều - thường xuyên nhắc ?oAmen? (hoặc các lời tương tự) có nghĩa là ?oSoHm?, nghĩa là tôi đang tự thể hiện mình ở chiều hướng tốt lành,- đạo sư Đa-ram nói.
    -?oSoHm? có thể là lời cảnh báo cuối cùng đối với nhân loại. Đấng Trí Tôn có thể từ chối phái các linh hồn quay lại với thể xác ở trạng thái xô-ma-chi, nếu nền văn minh của chúng ta tự hủy diệt.
    -Có thể lắm ...
    -Xin được hỏi câu cuối cùng,-tôi nói,- Đầu buổi tọa đàm, khi chúng tôi đưa ngài xem bức hình người Át-lan giả thuyết, ngài hỏi chúng tôi có nhìn thấy họ không. Ngày nay, vẫn có thể trông thấy họ hay sao, thưa Thầy ?
    -Đúng. Đến bây giờ họ vẫn phải đang ở trạng thái xô-ma-chi. Và không chỉ có họ...
    -Còn ai nữa, thưa Thầy ?
    -...
    Chúng tôi giã từ nhau lâu và ấm áp tình người. Từ con người này toát ra một tâm linh nhân hậu và mãnh lực.Tôi không muốn ra về. Xéc-gây và Vê-nhê lần lượt bắt tay Thầy, tôi chụp ảnh họ. Đạo sư Đa-ram nở nụ cười rộng mở.
    -Các vị hãy sử dụng các kinh nghiệm đó vào những mục tiêu tốt đẹp,-Thầy nói lần cuối.
    ...
    đây là một trường hợp trong khoa học, khi những dữ liệu nhận được một cách độc lập trùng lặp với các kinh nghiệm lịch sử - tôn giáo. Tôn giáo mà nhiều người coi như truyện cổ tích hay lời răn mộ đạo lại là một kinh nghiệm sâu sắc đến từ các nền văn minh trước đây, như đạo sư Đa-ram đã nói.
    Chúng tôi hiểu ra rằng, những kinh nghiệm tôn giáo sâu sắc không được phổ biến rộng rãi nghĩa là giữ bí mật, chỉ vì chúng có thể rơi vào tay những thế lực độc ác.
    ...
    Chúng tôi lên đường đi Nê-pan và Tây Tạng. Giờ thì chúng tôi biết những vấn đề cần hỏi. Các lạt-ma Tây Tạng sẽ nói gì về vấn đề này nhỉ ?
  3. aovai

    aovai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    [size=3]Phần III
    CÁC BẬC LẠT-MA NÊ-PAN VÀ TÂY TẠNG ĐÃ NÓI GÌ
    Chương I
    NHẬP XÔ-MA-CHI NHƯ THẾ NÀO[/size=3]

    Từ Đê-li chúng tôi bay đến Cát-man-đu, thủ đô của Nê-pan. Đón chúng tôi ở sân bay là Va-lê-ri Lô-ban-cốp và Va-len-chi-na Ia-cốp-lê-va, hai thành viên đoàn thám hiểm của chúng tôi. Họ làm việc ở nước này đã hơn một tuần. Cùng với họ có Sếch-can A-ri-en, một trong các thành viên đoàn thám hiểm người Nê-pan, nhà vật lý có tên tuổi của nước này, giảng viên trường Đại học Tổng hợp Nê-pan. Theo lời giới thiệu của hội đồng nghiên cứu Nê-pan thì đó là một người am hiểu tín ngưỡng Tây Tạng và có khả năng phân tích các dữ liệu tôn giáo trên quan điểm của vật lý học hiện đại. Ông ta nói tiếng Anh thông thạo.
    Va-lê-ri, Sếch-can và Va-len-chi-na đã bố trí vài buổi gặp gỡ với các nhân vật mà chúng tôi quan tâm. Nhân đây họ cho biết là: có lẽ sẽ khó nói chuyện cởi mở với các lạt ma Tây Tạng. Chuyện là phần lớn các lạt ma có tước vị đã di tản đến Nê-pan từ Tây Tạng vào năm 1949 khi Tây Tạng sáp nhập vào Trung Quốc. Họ không còn tin vào những ai quan tâm tới các kinh nghiệm của họ, bởi lẽ bất kể trường hợp nào, thì những kinh nghiệm đó cũng gắn với quá khứ bi thảm của họ. Tới giờ họ vẫn sợ khủng khiếp, họ sợ lời nói dối, những khẩu hiệu đẹp đẽ về bình đẳng cho mọi người, nhưng đằng sau đó lại ẩn giấu sự tàn phá và chết chóc.
    Đầu tiên chúng tôi gặp thiền sư xuất sắc Sam-bu Kha-pa, lãnh đạo Trung tâm Thiền ở Cát-man-đu. Theo lời của Sếch-can, vị này không nắm kinh nghiệm cổ đại sâu sắc như các lạt ma khác, nhưng ngày nào cũng dạy Thiền, có thể giúp nhập xô-ma-chi và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
    ?
    Thiền sư cho biết, thông qua thiền có thể đạt được trạng thái xô-ma-chi. Học thuyết về thiền xuất hiện ở Tây Tạng và từ đó tỏa ra khắp thế giới. Tham thiền là tập trung tư tưởng vào một đối tượng nào đó hoặc không sử dụng đối tượng. Tự mình bắt đầu tập thiền khó, cần phải theo học tại một trường chuyên.
    Khi tham thiền, người ta nhập vào phần tinh thần bên trong. Lúc này người ta có khả năng cảm nhận từng phần trong cơ thể mình, có thể cùng một lúc cảm nhận được toàn thân thể, có thể theo dõi mọi biến đổi trong cơ thể từng phần giây một. Trong trạng thái xô-ma-chi, người ta ý thức cuộc sống sâu sắc hơn, có thể tìm ra con đường đi của đời mình, nhận ra rằng thể xác là công cụ của linh hồn. Sau khi tham thiền, người ta khẳng định : chẳng tội gì phải thay trâu vác cày chỉ vì vài cái chuyện thiếu thốn vật chất, ví dụ thiếu tiền, kết quả con người trở nên hiền hòa là mục đích chính của thiền.
    ?
    Tiếp theo, thầy chia thiền ra ba giai đoạn:
    1.Sơ thiền : khi đạt được đạo lý sâu sắc
    2. Định (tức xô-ma-chi) : khi hồn lìa thân thể chuyển sang trạng thái bất động rắn như đá
    3.Bát nhã : khi đạt được sự anh minh chân chính trong ý thức về sự sống trong vũ trụ.
    -Trạng thái xô-ma-chi có những đặc điểm gì thưa Thầy ? Do you follow my mind ? ?" tôi hỏi
    -Yes,-thiền sư đáp,- Để nhập xô-ma-chi, cần rũ bỏ tâm năng tiêu cực. Điểm này rất quan trọng, tâm hồn và thể xác phải giải thoát ra khỏi những gì tiêu cực. Bên Mỹ đang nghiên cứu khả năng bảo quản thân thể trong nhiều năm để sau đó con người có thể sống lại. Song họ không tính đến một điều, bảo quản thân thể kiểu xô-ma-chi chỉ có thể thực hiện được sau khi đã tự giải thoát khỏi năng lượng tiêu cực.
    -Vậy cơ chế rũ bỏ tâm năng tiêu cực như thế nào, thưa Thầy ?
    -Cơ chế này gắn với tập trung tư tưởng lúc hít vào và khi thở ra. Thở là sự chuyển động vào trong và ra ngoài nên cần tập trung tinh thần, tự nhủ mình rằng, hít vào là sống, thở ra là chết, chúng ta ở trong các vòng luân hồi sinh tử mà?
    -Kiểu nguyên lý ?oSoHm? - một nguyên lý vĩ đại gắn với thở bằng mũi ? ?"tôi ngắt lời Thầy.
    ?
    -Vâng, như vậy đấy,-Thầy nói,-Thật ra chúng ta liên hệ cái hít vào với sinh, thở ra với tử, chúng ta bắt mình phải tự thể hiện, bởi hình thức tự thể hiện mình cao nhất đó là anh minh. Mà đến được với anh minh (với nghĩa là khả năng tự phân tích nội tâm của mình) chỉ có thể thông qua xô-ma-chi.
    -Nhập xô-ma-chi có khó không, thưa Thầy, khi mà mạch ngừng đập, năng lượng chuyển hóa hạ xuống điểm không, còn thân thể trở nên bất động, cứng đơ như đá ?
    -Khó lắm chứ,-thầy đáp,-không phải ai cũng làm được. Rất hiếm người, phải là những người đã được tuyển chọn mới làm được chuyện đó.
    -Vì sao ạ ? Ai chọn họ ?
    -Thường thì trong trường thiền người ta nhập xô-ma-chi ba lần trong ngày, mỗi lần ở trong trạng thái đó không quá một tiếng đồng hồ. Tự xô-ma-chi sẽ cho biết bạn có khả năng ở được bao lâu?
    -Phải hiểu ?otự xô-ma-chi sẽ cho biết thời hạn? như thế nào, thưa Thầy ? ?" tôi hỏi
    -Hồn khi đã thoát khỏi thể xác có thể tiếp xúc với các hồn khác và với Đấng Trí Tôn. Ở đó sẽ quyết định người ta có thể ở trong trạng thái xô-ma-chi bao lâu,-thầy trả lời.
    -Vai trò của sức khỏe thể chất con người trong việc kéo dài thời gian nhập xô-ma-chi như thế nào, thưa thầy ?
    -Sức khỏe thể chất có vai trò nhất định, song quan trọng là nhiệt độ phải thấp thì thể xác ở trạng thái xô-ma-chi được bảo quản tốt hơn. Thân thể phải thoát ra khỏi mọi cái tiêu cực cũng như tâm hồn phải rũ sạch khỏi năng lượng tiêu cực. Chỉ có người được giải thoát khỏi mọi cái tiêu cực mới hy vọng có thể kéo dài thời gian xô-ma-chi. Còn nói chung vai trò của phần xác không lớn, vì đó chỉ là công cụ của phần hồn. Do you follow my mind ? - thầy hỏi
    -Yes. Nhưng điều thầy vừa nói rất quan trọng. Tôi hiểu thế này, thưa Thầy,-kéo dài xô-ma-chi hàng nghìn và hàng triệu năm, đúng ra phải coi là Quỹ gen của nhân loại trong trường hợp có hiểm họa toàn cầu. Những người nhập xô-ma-chi sâu và kéo dài là tự định đoạt mình trở thành các ông tổ, bà tổ của nền văn minh mới trong trường hợp xảy ra hiểm họa toàn cầu, tự đặt mình vào quá trình sống sót khi tình hình trái đất thay đổi. Do you follow my mind ?
    -Yes,-thầy đáp
    -Hiển nhiên là không phải ai cũng được nhập xô-ma-chi lâu để trở thành ông tổ, bà tổ của nền văn minh mới. Đại diện của quỹ gen nhân loại và việc làm đầy trách nhiệm. Đó phải là những người đã được tuyển lựa. Tâm hồn của những người này phải thoát ra khỏi tâm năng tiêu cực, nghĩa là không được có những trường xoắn tiêu cực. Thể xác những người đó phải khỏe mạnh, không có bệnh tật, vì bệnh gì cũng vậy sẽ xoắn trường torsion của phần hồn về phía tiêu cực, điều này đã được khẳng định qua các thông số của hình học nhãn khoa thống nhất thể hiện tính cách hung dữ và bệnh tật. Hoàn toàn hiểu được là Đấng Trí Tôn, tức là Trường thông tin toàn thể, sau khi phân tích phần hồn cùng với các biểu hiện tình trạng sức khỏe của thể xác quyết định được hay không được nhập xô-ma-chi lâu dài. Nhập xô-ma-chi lâu và trở thành đại diện Quỹ gen nhân loại là sứ mạng tinh thần cao cả của con người, mà chỉ có thể là con người xứng đáng.
    -Đúng vậy,-thầy trả lời,- Tôi xin được bổ sung : ở giai đoạn cao nhất của xô-ma-chi bạn ý thức được sứ mạng của mình trên thế gian, mục tiêu khi nhìn vào trong.
    ?
    -Trạng thái chết lâm sàng có giống xô-ma-chi không, thưa Thầy ? ?"tôi hỏi.
    -Thực ra, khi chết lâm sàng hồn đã lìa khỏi thân, nhưng thân xác chưa được chuẩn bị để được bảo toàn trong một thời gian dài như với trường hợp xô-ma-chi,- thầy trả lời.
    ?
    -Thầy có thể biểu diễn tham thiền nhập định cho chúng tôi xem được không ? ?"tôi đề nghị
    -Việc này không thể làm theo đơn đặt hàng được,-thầy đáp.
    Lần này thì chúng tôi hiểu ông ta phần nào.
    Kết quả buổi gặp gỡ này là chúng tôi xác định rõ hơn cách thức nhập xô-ma-chi và hiểu ra rằng, chỉ có những người mạnh mẽ và thanh khiết mới đạt được xô-ma-chi sâu, đồng thời biêt được sự khác biệt giữa xô-ma-chi và chết lâm sàng.
    Là các bác sĩ, chúng tôi rất quan tâm tới các phương pháp tác động lên tâm hồn và thể xác nhằm trả lại sự sống cho thân thể, tức là làm con người sống lại.
  4. aovai

    aovai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    Chương II
    CÓ THỂ LÀM CON NGƯỜI SỐNG LẠI ĐƯỢC KHÔNG

    Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã xem bộ phim về Chúa Giê-su, cảnh ngài ra hiệu bằng tay làm người ta sống lại hoặc chữa lành bệnh. Dưới ánh sáng những kiến thức thu nhận được trong chuyến đi thám hiểm và thành tựu khoa học hiện đại, chúng ta cần hiểu hiện tượng đó như thế nào ?
    Logic có thể hình dung được là: Giê-su (nhà tiên tri) có thể mang linh hồn của người thuộc nền văn minh trước đây và có tiềm năng tinh thần cao hơn, đã dùng các trường xoắn mạnh mẽ, tích cực của mình tháo lơi các trường xoắn tiêu cực (là đặc trưng của bệnh tật và chết chóc) về phía tích cực. Nói bằng ngôn ngữ nhà Phật, ngài đã giải phóng tâm hồn và thể xác người ta khỏi tâm năng tiêu cực. Thể astral của linh hồn giải thoát khỏi các trường xoắn ngay lập tức tác động đến sự chuyển hóa của các mô và qua đó cơ thể hết bệnh. Hồn sau khi lìa khỏi thân xác do chết, có thể quay lại cơ thể và làm nó sống lại. Có lẽ các nhà ngoại cảm và những người chữa bệnh kiểu tương tự như vậy đã áp dụng nguyên lý đó.
    Giê-su đã sử dụng mãnh lực nào để chiến đấu với tâm năng tiêu cực ? Sự hồi sinh khác với hiện tượng ra khỏi trạng thái xô-ma-chi ở chỗ nào ? Cơ chế hồn nhập lại thân xác như thế nào ?
    Sếch-can A-ri-en, thành viên người Nê pan của đoàn thám hiểm khuyên chúng tôi đến gặp ngài Minh Ba-xa-đu Sa-ki-a để nghe giải đáp các thắc mắc đó. Ông này được coi là chuyên gia lớn trong lĩnh vực giáo lý về đức từ bi. Khi đó, tôi chưa cho rằng, cái từ thường gặp trong sinh hoạt đời thường đó ?" lòng thương cảm - lại có một vai trò to lớn, không những trong chữa bệnh, mà cả trong những vấn đề sinh và tử.
    -Đức từ bi ở đây thì có liên quan gì ? ?" chúng tôi hỏi Sếch-can.
    -Đức từ bi là một khoa học lớn ở phương Đông. Có nhiều quan điểm xung quanh vấn đề này. Gặp ông ấy các vị sẽ thấy,- Sếch can đáp.
    Ngài Minh không cao, rất niềm nở, nói tiếng Anh tốt và rõ ràng. Chúng tôi không có mục đích nghiên cứu khoa học có tên là ?ođức từ bi?, bởi vậy, chúng tôi đưa ra những câu hỏi cụ thể và rõ ràng. Ngài Minh đã giải đáp rành mạch.
    ?
    -Đây là hai con mắt có hình vẽ trên các đền chùa ở nước của ngài. Trên cơ sở cặp mắt này, áp dụng phương pháp phân tích khoa học, chúng tôi đã dựng lại hình ảnh người có hai con mắt này. Ai đó, Đức Phật à, thưa ngài ? ?" tôi hỏi.
    -Không, đây không phải Đức Phật,- ngài Minh trả lời.- Đây là cổ nhân thuộc thời đại xa xưa lắm rồi.
    ?
    -Mãnh lực của lòng từ bi là gì, thưa ngài ?
    -Lòng từ bi là sức mạnh tinh thần mang tính thiện nhất, lớn lao nhất. Trong đời sống của con người, trong những việc tốt mãnh lực này có vai trò to lớn,-ngài Minh đáp.
    - Có thể coi khi Giê su làm người sống lại và chữa bệnh, ngài đã sử dụng sức mạnh của lòng từ bi không ? ?" tôi hỏi.
    -Vâng, đúng như vậy, chỉ nhờ sức mạnh của tình thương cảm mới có thể xua đuổi mãnh lực tinh thần tiêu cực ra khỏi con người. Giáo dục tình thương cảm nơi con người trên phạm vi toàn cầu có vai trò vô cùng lớn lao trong việc bảo toàn nhân loại trên trái đất,-ngài Minh trả lời.
    -Xin ngài giải thích rõ những luận điểm cơ bản của giáo lý về đức từ bi.
    -Có thể phân đức từ bi ra hai phương diện : từ bi sáng suốt và từ bi thiếu minh mẫn. Loại từ bi thứ hai dẫn đến ghen tuông, đố kị, độc ác. Mà mãnh lực, ví dụ của sự ghen tuông thì các ngài biêt rồi đó : bao nhiêu cuộc chiến chỉ vì ghen tuông?
    -Lòng từ bi với xô-ma-chi có mối liên hệ như thế nào, thưa ngài ?
    -Nhập xô-ma-chi bằng cách tham thiền, xua đuổi mọi mãnh lực tiêu cực ra khỏi thể xác và tâm hồn. Các sức mạnh tiêu cực còn có thể xua đuổi được bằng sức mạnh của lòng thương cảm. Điều này thật quan trọng : sức mạnh của lòng từ bi có khả năng xua đuổi các mãnh lực tiêu cực, làm thanh khiết thể xác và tâm hồn.
    -Thương cảm ai, thưa ngài ?
    -Có hai loại thương cảm : từ bi đối với một đối tượng nhất định và thương cảm nói chung. Loại thương cảm thứ nhất làm con người sống lại hoặc dẫn dắt người ta nhập định trong một thời gian ngắn. Loại thứ hai : từ bi với nhân loại nói chung, quan tâm tới vận mệnh của loài người. Lòng thương cảm này có khả năng đưa người ta nhập xô-ma-chi sâu khi mà thể xác sẽ được bảo toàn hàng nghìn và hàng triệu năm.
    -Như vậy là,-tôi nói,- sức mạnh tốt lành của lòng từ bi có tính chất tổng hợp: nó có thể là yếu tố chữa bệnh, có thể trả lại phần hồn cho thể xác ?" làm thân thể sống lại, đồng thời đưa vào trạng thái xô-ma-chi, kể cả gia nhập xô-ma-chi sâu với mục đích gia nhập Quỹ gen nhân loại. Có lẽ sức mạnh của lòng từ bi tháo lơi trường xoắn về phía tích cực, vặn trường xoắn tiêu cực về phía tích cực. Làm thế nào để tăng mãnh lực của lòng từ bi để nó có tác dụng chữa bệnh mạnh hơn, thưa ngài ?
    -Quan trọng là phải biết phân biệt lòng từ bi chân chính với không đích thực,-ngài Minh nhận xét.- Nhiều người làm ra vẻ thương cảm, song thực tế chỉ là mánh khoé, giả vờ, loại từ bi này không có tác dụng tâm thần và chữa bệnh. Lòng từ bi thật sự có sức mạnh tốt lành lớn lao. Trong trường tôi dạy lòng từ bi. Các môn sinh của tôi, sau khi đã học cách thương cảm chân chính đã có ảnh hưởng tốt và tác dụng chữa bệnh đối với những người xung quanh. Ở bên những con người đó thật dễ chịu.
    ?
    -Những người trong ngành y chúng tôi,- tôi tiếp tục,- đặc biệt quan tâm tới khả năng làm con người sống lại. Như tôi hiểu qua câu chuyện của chúng ta, lòng từ bi chân chính có sức mạnh xua đuổi tâm năng tiêu cực ra khỏi cả thể xác đã chết, sau đó hồn vẫn có thể quay lại với cơ thể. Nhà ngoại cảm tôi quen Ô-lếch A-đa-mốp ở thành phố chúng tôi có tiếng chữa bệnh tài nghệ nói rằng, thể xác người chết có trường sinh học mà nhà ngoại cảm nhận biết được. Nhưng trường sinh học của người chết, theo lời ông ấy, tỏa ra toàn bệnh hoạn. Từ đây suy ra, không phải mọi thành phần của linh hồn đều rời bỏ thân thể ngay sau khi phần xác chết, mà chúng thể xác không thể hoạt động được. Xin ngài cho biết, liệu có thể dùng sức mạnh của lòng từ bi để sửa đổi trường sinh học bệnh hoạn của người chết và sau đó trả hồn về với thể xác, tức là làm người đó sống lại được không ?
    ?
    -Nếu thể xác bị hủy hoại nặng do chấn thương hoặc bệnh tật và không còn hoạt động được nữa thì hồn không bao giờ trở lại với thân xác. Thể xác là gì ? Thể xác là ?ocông cụ của hồn?. Nói một cách hình tượng : nếu ?ocông cụ? đó được chỉnh lại thì hồn có thể quay lại, nếu ?ocông cụ? hỏng hoàn toàn thì hồn không bao giờ trở lại với thể xác. Hồn đã lìa khỏi xác không dễ gì lấy lại. Hồn đã được tự do, nó chẳng coi trọng thể xác lắm, vì hồn bất tử, nó có nhiều cuộc đời, tức nhiều biến hóa. Người Châu Âu các vị không hiểu được rằng, con người trước hết là hồn chứ không phải xác?- ngài Minh nói
    -Nhưng không được coi nhẹ vai trò của phần xác ! Nó đã được tạo hóa tạo nên trong quá trình tiến hóa lâu dài và, diễn tả bằng cách nói của ngài, là một ?ocông cụ? rất phức tạp và đắt tiền?
    -Không được hạ thấp vai trò của thể xác trong trạng thái xô-ma-chi,- ngài Minh cắt ngang.
    -Tôi hiểu nhập xô-ma-chi toàn những người khỏe mạnh, những ?ocông cụ? tốt nhất của phần hồn đã được thanh lọc khỏi tâm năng tiêu cực. Ngoài ra, thân thể con người trong trạng thái xô-ma-chi đóng một vai trò vĩ đại là tạo dựng Quỹ gen nhân loại,- tôi thốt lên
    -Khi nhập xô-ma-chi hồn không biến hóa vào thân xác khác, mà chờ đợi để quay lại với thân xác của mình. Hồn giữ liên lạc chính là với phần xác đó hàng trăm, hàng nghìn và hàng triệu năm. Khi có quyết định là hồn phải quay về với thân xác, lúc đó thân thể sẽ sống lại,- ngài Minh trả lời.
    -Ai quyết định hồn phải trở lại với thân xác ?
    -Đấng Trí Tôn. Lúc đó phải xem xét nhiều yếu tố : điều kiện sống trên trái đất, tình trạng của thân thể và các vấn đề khác. Trong việc này có sự đóng góp tích cực của phần hồn.
    -Trong văn học thần bí chẳng hạn của Bậc được bí truyền E-lê-na Bờ-la-vát-cai-a có khái niệm ?osợi chỉ bạc? nối phần hồn với phần xác đã chết trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu ?osợi chỉ bạc? bị đứt thì hồn sẽ không tìm được thể xác. Liệu ?osợi chỉ bạc? có thể bảo toàn nghìn và triệu năm trong trạng thái xô-ma-chi không, thưa ngài ? ?" Va-lê-ri Lô-ban-cốp hỏi.
    -Vâng, trong trạng thái nhập xô-ma-chi, hồn luôn luôn liên hệ với thể xác của mình, dù xô-ma-chi có kéo dài bao lâu đi nữa,- ngài Minh đáp.
    -Vậy hồn còn liên hệ với phần xác trong bao lâu, sau khi thân thể đã chết ? ?" tôi hỏi.
    -Tôi khó giải đáp câu hỏi này,- ngài Minh đáp,- Nhưng tôi biết con người chỉ có thể hồi sinh trong vòng bốn ngày sau khi chết. Xác chết không được để lạnh như trong nhà xác vẫn làm và cũng không được để nơi có độ dương. Khi xác chết bị ướp lạnh, các tinh thể băng nhỏ li ti phá hủy các tế bào của cơ thể, còn để ở nơi ấm, thân xác dễ bị phân hủy. Trong cả hai trường hợp không thể làm người sống lại.
    -Nhiệt độ nào thích hợp nhất để bảo quản xác chết trong thời gian bốn ngày ? - Va-lê-ri Lô-ban-cốp hỏi.
    -Nhiệt độ gần với số không ?
    -Khi mổ loại bỏ vảy cá mắt, bác sĩ nhãn khoa vĩ đại người Nga Vờ-la-đi-mia Pết-nô-vích Phi-la-tốp, đã ghép giác mạc của một tử thi được bảo toàn trong thời gian 3-4 ngày ở nhiệt độ +4oC. Liệu ông ta có dựa vào nguyên lý mà ngài vừa nói không ? Phải nói V.P. Phi-la-tốp là người hiểu biết rộng về tôn giáo.
    -Có thể lắm,- ngài Minh đáp.- Xin ông lưu ý nhiệt độ gần điểm không là điều kiện bắt buộc để bảo toàn thân thể trong trạng thái xô-ma-chi.
    ?
  5. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    post tiếp đi ao_vai ơi, đang hay mà?
  6. aovai

    aovai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    Dù sao tôi vẫn thấy có mối liên hệ nào đó giữa sự sống lại và xô-ma-chi. Trong trạng thái xô-ma-chi thân thể được thanh lọc khỏi năng lượng tiêu cực, tức là trường xoắn được tháo lơi về phía tích cực. Khi chết thân thể người ta bị nhồi đầy năng lượng tiêu cực (như nhà ngoại cảm Ô-lếch A-đa-mốp từng nói). Chỉ cần dùng tâm năng thiện tháo lơi các trường xoắn tiêu cực sau khi chết là tử thi chuyển sang trạng thái tựa như xô-ma-chi và hồn lại quay về. Bởi có phải ai cũng chết vì những tổn thương nặng, chẳng hạn ung thư có di căn, não bị phá hủy v.v? Rất nhiều trường hợp người ta chết vì sốc quá mẫn, choáng, sốc do bị nhiễm độc? khi mà các biến đổi trong cơ thể khả hồi. Hoặc tim ngừng đập do sốc điện. Thậm chí ngay với trường hợp nhồi máu cơ tim không phải lúc nào mổ xác cũng tìm thấy dấu hiệu hoại thư cơ tim. Trong các trường hợp như vậy tiến hành hồi sinh trong vòng 4 ngày, bảo quản tử thi ở nhiệt độ +4oC là hợp lý. Nhưng nhờ sức mạnh nào có thể tháo lơi các trường xoắn của tử thi về phía tích cực, thưa ngài ?
    -Nhờ sức mạnh của lòng từ bi,- ngài Minh đáp
    -Thế lòng từ bi có đủ mạnh không ? ?" tôi hỏi
    -Có thể tằng cường bằng cách tham thiền.
    -Nhưng trong thực tiễn y học phương Đông không thấy nhiều trường hợp hồi sinh?
    -Vâng, đúng như vậy.
    -Có thể nên làm các máy tăng tần số siêu cao để nâng cao hiệu quả năng lượng thiện của lòng từ bi. Tiếc thay, nền văn minh của chúng ta đã để mất chức năng ?ocon mắt thứ ba?, mà hình như đã có chức năng giống như cái máy phát vừa nêu,- Va-lê-ri nói và tôi cũng ủng hộ anh ta. Có lẽ các nền văn minh trước đây có nguồn năng lượng sinh học phát triển hơn và ?ocon mắt thứ ba? hoạt động tốt nên có thể việc tiến hành hồi sinh người của họ kết quả hơn. Việc hồi sinh con người trong vòng bốn ngày sau khi chết đối với họ là chuyện thường, giống như ta tiến hành hồi sức trong thời gian 3 ?" 5 phút sau khi chết.
    -Tôi biết ít về lịch sử nhân loại. Về vấn đề này Bậc được bí truyền của các vị là Bờ-la-vát-cai-a đã viết tỉ mỉ trong cuốn ?oHọc thuyết bí ẩn?,- ngài Minh đáp.
    -Những điều ngài vừa nói dẫn đến một kết luận,-tôi chưa định im,- việc ghép các bộ phận và mô có thể tiến hành trong vòng bốn ngày sau khi chết, bảo quản thi thể ở nhiệt độ gần điểm không. Tôi lại sực nhớ thiên tài của V.P. Phi-la-tốp. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với phần hồn, khi cấy một bộ phận lớn (gan, tim, ?), bởi một bộ phận phải mang các yếu tố của sinh trường ?
    -Mọi cái đều phụ thuộc vào mãnh lực của linh hồn,- ngài Minh bắt đầu câu chuyện,- Nếu linh hồn của người được ghép yếu ớt thì sinh trường của bộ phận dùng để ghép có thể ảnh hưởng mạnh mẽ. Trong giáo lý của chúng tôi có khái niệm ?ohồn tiến hóa?. Tôi lấy một ví dụ đã được mô tả trong sách. Mi-nhê-ra-pa là người theo phái yoga nổi tiếng ở Tây Tạng, nhìn thấy cảnh con trai của người thầy ông ta là Máp-pa chết trong một tai nạn xe hơi. Thân thể người con trai này bị hủy hoại nặng và không thể sống được nữa. Thấy thế Map-pa dùng sức mạnh của yoga chuyển hồn người con trai vào thân thể người nông dân đang đi qua đấy. Người nông phu trở thành như cậu con trai của Máp-pa. Phần hồn trước đây của người nông dân, nói một cách hình tượng, ?obị đuổi khỏi? phần xác, vì yếu hơn. Con trai của Máp-pa ở trong người khác, nhưng vẫn cảm thấy mình không phải anh nhà nông mà là con trai của thầy dạy yoga.
    -Như vậy là Máp-pa đã giết bác nông dân, giải thoát phần xác của bác ta cho phần hồn của con trai mình ?
    -Máp-pa đã gửi hồn của bác nông dân lên trời, bởi vai trò của bác ta trong đời sống trần gian nhỏ hơn của con trai ông,- ngài Minh giải đáp.
    Tới đây xin phép được bổ sung dữ liệu do chuyên gia trường vật lý, tôi và Va-len-chi-na Ia-cốp-lê-va soạn :
    Sinh, tử và xô-ma-chi có nhiều nguyên tắc chung và đồng thời hoàn toàn đối lập.
    Khi Sinh : đứa trẻ được truyền sang một số bộ phận cấu thành phần linh hồn, tức là các trường có tần số thấp đảm bảo thể xác hoạt động theo kiểu ?ongười thực vật?.
    Với cái hít vào đầu tiên của đứa bé, hồn nhập vào thể xác bé, nó cho khởi động thể trí (khả năng suy nghĩ, tư duy), bộ phận đầu thai của linh hồn (trí nhớ về các kiếp trước), v.v? Não bộ bắt đầu hoạt động và tháo lơi các trường xoắn của linh hồn. Con người trở nên con người. Đứa bé chưa phải là đứa con của bạn, vì còn phụ thuộc hồn nào sẽ nhập vào nó.
    Sự phát triển tinh thần của con người thuộc nền văn minh của chúng ta bắt đầu từ số không. Ví sao vậy ? Nền văn minh trước đây của người Át-lan đã sử dụng các kinh nghiệm tiếp thu được, do tiếp cận với Trường thông tin toàn thể, không chỉ vào việc Thiện, mà cả điều Ác. Vì thế, khi nhập vào thể xác đứa trẻ của nền văn minh chúng ta, hồn tách khỏi trường thông tin toàn thể. Đấy chính là biểu hiện của nguyên lý ?oSoHm? ?" hãy tự thể hiện mình. Hồn của con người ngày nay chỉ có những khả năng, tức tiềm năng khởi thủy, do các kiếp trước định đoạt (luân hồi). Những đứa trẻ thiên tài là do khi sinh ra thể xác đã thu nạp cái hồn chưa mất hẳn mối liên hệ với Trường thông tin toàn thể, tức nhiều hay ít có sự vi phạm nguyên tắc ?oSoHm?.
    Khi Chết : hồn lìa khỏi xác, vẫn liên hệ với thân thể, có lẽ trong thời hạn 40 ngày. Mối liên hệ này, mà nhờ đó, hồn có thể tìm ra xác được gọi là ?osợi chỉ bạc?. ?oSợi chỉ bạc? ?" đó là nguyên tắc của Đấng Trí Tôn, cho phép hy vọng đến cùng hồn sẽ quay về với thân xác của nó. Khi ngủ say, hồn ?odạo chơi?, nhưng vẫn giữ ?osợi chỉ bạc? với thân xác. Bởi vậy, không nên đánh thức đột ngột người đang ngủ say, vì hồn có thể không kịp tìm ra xác của mình. Cũng vì lý do đó, đánh thức con trẻ là có tội.
    Ba ngày sau khi chết đến lượt thể acther ra đi, chín ngày sau là thể astral. Thể xác có thể sống lại, nếu hồn quay lại đó. Não có nhiệm vụ tháo lơi các trường xoắn của linh hồn không thể hoạt động thiếu phần hồn. Bảo toàn thể xác, trước tiên là bộ não, có thể thực hiện được ở nhiệt độ +4oC. Nhiệt độ +4oC thường thấy ở nơi hang động : ở nhiệt độ này nước trở nên đậm đặc hơn.
    Trong trạng thái xô-ma-chi : ?osợi chỉ bạc? nối phần hồn với phần xác được bảo toàn vô thời hạn hàng nghìn, hàng triệu năm. Việc kéo dài thời hạn xô-ma-chi không chỉ phụ thuộc vào mức độ bảo toàn của thể xác mà còn do Đấng Trí Tôn quyết định giữ hay cắt đứt ?osợi chỉ bạc? nối phần hồn với phần xác.
    Có thể kéo dài trạng thái xô-ma-chi ở nhiệt độ +4oC hay gặp trong hang động và dưới nước. Hình như có được trạng thái bất động như đá (tức rắn lại) là do trạng thái nước trong mô thay đổi. Ở nhiệt độ +4oC nước không chỉ có độ đậm đặc hơn cả mà còn chuyển sang một trạng thái đặc biệt. Ta biết nước có ba dạng : lỏng, khí và rắn. Nhiều khả năng là ở trạng thái xô-ma-chi như Va-len-chi-na Ia-cốp-lê-va quan niệm, nước chuyển hóa sang dạng thứ tư mà khoa học chưa biết tới. Chính trạng thái thứ tư của nước trong mô đã làm ngưng mọi quá trình trao đổi chất và chuyển các mô của người sang trạng thái rắn hơn, mà không phá hủy các tổ chức này. Các trường xoắn tích cực có khả năng chuyển nước của cơ thể sang trạng thái này dưới tác dụng của tham thiền, có thể chuyển thông tin về sự biến đổi trạng thái nước và ngừng chuyển hóa.
    Nước chuyển thông tin như thế nào ? Xung quanh vấn đề này có nhiều giả thuyết. Nhưng chắc là có một nguyên tắc truyền tin rất sâu kín. Chúng ta biết rằng vũ trụ gồm chủ yếu là nước. Trường thông tin toàn thể, mà chủ yếu có tính chất sóng, hình như cũng có liên hệ với sóng. Có thể dự đoán rằng, việc truyền tin bằng sóng được thực hiện thông qua hydro của nước. Các trường xoắn của linh hồn có lẽ cũng có thể tác động lên khinh khí của nước.
    Khi Luân hồi : hồn nào yếu hơn sẽ bị ?ođuổi? khỏi thể xác và một hồn khác mạnh mẽ hơn sẽ thế chỗ.
    ?
    -Theo ngài, con người ngày nay thiếu cái gì ? ?" tôi hỏi
    -?oCon mắt thứ ba?.
  7. aovai

    aovai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    Chương III
    LẠI CHUYỆN VỀ ?oCON MẮT THỨ BA?.​
    ?
    -Đạo Phật,- tôi bắt đầu kể,- chia mắt thành 5 loại :
    1.Mắt bằng xương bằng thịt (fleshly eye), tức hai con mắt bình thường của chúng ta.
    2.Mắt tiên tri (divine eye), tức con mắt có thể nhìn xa trông rộng. Nói cách khác, có thể sử dụng con mắt này để nhìn vào Trường thông tin toàn thể và kết quả là có thể dự đoán điều gì đó.
    3.Con mắt anh minh (wishdom eye), tức con mắt giúp ta nhìn vào phần hồn của chính mình và phân tích để nhận ra chân lý : sự sống trước hết là tâm hồn chứ không phải thể xác của bạn.
    4.Cặp mắt của Dhamma (Dhamma eye), tức cặp mắt giúp thực hiện giáo lý của Đức Phật, mà theo tôi có thể hiểu là khả năng lĩnh hội học thuyết của Đức Phật vốn rất phức tạp.
    5. Đôi mắt của Phật (Buddha eye), tức đôi mắt của bậc Thầy. Tôi nghĩ có thể hiểu đó là cặp mắt của con người được bí truyền kinh nghiệm của các nền văn minh trước đây.
    -Sao, con người có thể cùng một lúc có năm con mắt ư ? ?" cô gái I-xra-en hỏi.
    -Theo tôi, ?ocon mắt? trong đạo Phật được hiểu là khả năng cảm nhận và phân tích các trạng thái nội tâm.
    -Vậy Đức Phật có đôi mắt như thế nào ? - cô gái I-xra-en chưa chịu im
    -Theo như một học giả lớn của Tây Tạng (ngài Minh) cho biết, thì chỉ Đức Phật mới có ?ocon mắt thứ ba?, ở người thường con mắt này kém phát triển. Nhưng ?ocon mắt thứ ba? không bao giờ giống con mắt, ngay của Đức Phật cũng vậy. Nhưng người ta biết có con mắt đó, vì ở vùng trán của ngài từng đợt phát ra tia sáng. Nhờ tia sáng này, Đức Phật đã tập hợp mọi người đến nghe ngài thuyết giáo. Tia phát ra từ trán Đức Phật có thể có năm màu : trắng, xanh lam, xanh lục, vàng, đỏ.
    -Ôi, kỳ lạ quá, - cô gái I-xra-en nói.
    -Cậu ?oNga mới? sau khi nghe Va-len-chi-a dịch liền hỏi.
    -Trên trán Đức Phật có nguồn ánh sáng à ?
    -Theo tôi, đó là hiệu quả biến đổi tâm năng thành năng lượng ánh sáng,- Va-lê-ri Lô-ban-cốp đáp,- có lẽ mọi người đã nghe nói đến thuật điều khiển từ xa, dùng năng lượng có thể di chuyển, chẳng hạn cái cốc trên bàn. Tựa như vậy, năng lượng tinh thần có thể cho hiệu quả ánh sáng.
    -Xin ông kể tỉ mỉ về ?ocon mắt thứ ba?. Dù sao thì tôi đến đây cũng là để phát triển con mắt đó,- cô gái Ai-len nài nỉ.
    -?oCon mắt thứ ba? là một bộ phận của não bộ,- Va-lê-ri Lô-ban-cốp kể. - Nếu não tháo lơi các trường xoắn của tâm hồn thì ?ocon mắt thứ ba? điều chỉnh phần cấu thành tâm hồn sang tần số của các trường xoắn. Có thể nói tới ba chức năng của ?ocon mắt thứ ba? :
    -Chức năng trí tuệ, tức điều chỉnh sang tần số liên lạc với Đấng Trí Tôn. Hình như các Bậc được bí truyền (ví dụ như E-lê-na Bờ-la-vát-cai-a) đã sử dụng ?ocon mắt thứ ba? phát triển của họ và có thể tự điều chỉnh sang các tần số của Trường thông tin toàn thể.
    -Chức năng tham thiền, tức điều chỉnh sang tần số có cấp độ khác nhau của các trường xoắn của chính tâm hồn mình. Được biết, có 112 kiểu tham thiền, có nghĩa là phải có sự điều chỉnh riêng phù hợp với tần số của mỗi kiểu.
    -Chức năng thị giác bên trong, tức điều chỉnh sang tần số các trường xoắn của các cơ quan khác nhau, kết quả là có thể nhìn thấy bộ phận cơ thể và các căn bệnh của chúng.
    -Ở trẻ em, ?ocon mắt thứ ba? tồn tại như một cơ quan thô sơ, đó là kỷ niệm về ?ocon mắt thứ ba? đã phát triển ở những người thuộc các nền văn minh trước đây,- Va-lê-ri tiếp tục kể,- các vị hãy nhớ lại tư liệu thư tịch Hy Lạp và La Mã cổ đại kể rằng, người Át-lan chỉ nhìn mà có thể di chuyển những khối đá khổng lồ. Hiểu như thế nào đây ? Bằng ?ocon mắt thứ ba? của mình, họ có thể tự điều chỉnh sang tần số các trường của đá và tháo lơi các trường xoắn, sao cho chúng ngăn cản lực hấp dẫn. Lúc đó, khối đá như thể nhẹ đi, còn sau khi thay đổi hướng tháo lơi các trường xoắn của đá có thể di chuyển chúng.
    ?
    -Để giải đáp câu hỏi ?ocon mắt thứ ba? đã phát triển và thái hóa như thế nào cần phải biết lịch sử phát triển các chủng tộc loài người. Sách báo nói về vấn đề này chủ yếu như nhau cả, chỉ có E-lê-na Bờ-la-vát-cai-a trong cuốn ?oHọc thuyết bí ẩn? là nói rõ hơn cả. Với E-lê-na Bờ-la-vát-cai-a khái niệm ?ochủng tộc loài người? được hiểu không phải là các dân tộc mà là các nền văn minh. Chẳng hạn chủng tộc thứ Nhất đó là nền văn minh của những con người trên trái đất. Trong cuốn sách đề cập nguồn kiến thức của mình, bà viết như thể có ai đó đọc cho bà ghi. Bà hoàn toàn tin rằng, thông qua bà, Đấng Trí Tôn đã chuyển cho người ngày nay các dữ liệu về lịch sử phát triển loài người trên trái đất. Tôi không có cơ sở để không tin bà, bởi những gì bà đã viết trong cuốn sách của bà trùng khớp với các và thông tin khoa học. Đây là một công trình cơ bản nhất. Bờ-la-vát-cai-a viết rằng, trước chúng ta, trên trái đất có bốn chủng tộc người. Chủng tộc chúng ta là thứ Năm.
    ?
    -Như vậy là trên trái đất, theo Bờ-la-vát-cai-a đã có năm chủng tộc người, chúng ta là thứ Năm,- tôi nói tiếp.- Sự sống trên trái đất xuất hiện do vật chất cô đặc mấy triệu năm về trước. Con người, động vật và thực vật xuất hiện đồng thời. Chủng tộc sau có nguồn gốc từ chủng tộc trước :
    +Chủng tộc người đầu tiên, gọi là ?otự sinh? đã xuất hiện trên trái đất dưới dạng những thể nhẹ nhàng do thế giới tâm linh tức thế giới của năng lượng tinh thần cô đặc. Đó những người giống như thiên thần, có thể dễ dàng đi qua tường và các vật rắn khác. Trông họ như các hình hài không xương thịt, tự phát sáng như ánh trăng và có chiều cao 40-50 mét. Vật thể mềm mại nguyên sinh của con người thuộc chủng tộc thứ Nhất được cấu tạo không bằng thứ vật chất như của người trần mắt thịt chúng ta, nó có tính sóng nhiều hơn. Họ là những người một mắt; chức năng con mắt duy nhất này lại thuộc cái tương tự ?ocon mắt thứ ba? đảm nhiệm việc liên hệ từ xa với thế giới xung quanh và Đấng Trí Tôn. Người chủng tộc đầu tiên sinh sản vô tính, bằng cách phân chia và đâm chồi. Họ không có ngôn ngữ, giao tiếp bằng cách ?otruyền ý nghĩ?. Họ có thể sống ở mọi nhiệt độ.
    +Chủng tộc thứ Hai, gọi là ?ongười không xương?, xuất hiện thay thế chủng tộc đầu tiên. Những người này cũng giống ma, nhưng đặc hơn chủng tộc thứ Nhất. Họ cũng chỉ có một mắt và giao tiếp bằng cách truyền ý nghĩ. Người chủng tộc thứ Hai vàng óng ánh. Sinh sản bằng cách đâm chồi và hình thành bào tử, nhưng cuối giai đoạn sống của chủng tộc người thứ Hai xuất hiện người ái nam, ái nữ tức là người đàn ông và người đàn bà ở trong cùng một thân thể.
    +Chủng tộc người thứ Ba, gọi là ?oLê-mu-ri?, thay thế chủng tộc người thứ Hai, chia thành Lê-mu-ri sơ kỳ và Lê-mu-ri hậu kỳ.
    Người Lê-mu-ri sơ kỳ cao đến 20 mét và thể xác của họ đặc hơn nhiều nên không thể gọi như ma được nữa. Họ có xương. Người lưỡng giới này tích lũy dần các dấu hiệu nam tính, trường hợp khác dấu hiệu nữ tính, kết quả là có sự phân chia giới và xuất hiện sinh sản sinh dục. Người Lê-mu-ri có hai mặt và bốn tay. Hai mắt ở phía trước, ?ocon mắt thứ ba? ở đằng sau như thể họ có hai bộ mặt vậy. Hai tay ?ophục dịch? phần trước thân thể, hai tay ?ophục dịch? phần sau. Hai con mắt phía trước có chức năng thị giác, mắt sau chủ yếu là thị giác tinh thần. Họ có màu vàng óng ánh. Giao tiếp bằng cách truyền ý nghĩ.
    Lê-mu-ri hậu kỳ hoặc Lê-mu-ri ?" Át-lan là những người phát triển cao hơn cả trên trái đất, có trình độ công nghệ rất cao. Ví dụ công trình của họ có thể bao gồm tượng Nhân sư ở Ai Cập, khu phế tích khổng lồ Xô-lu-bê-ri (nước Anh), một số tượng ở Nam Mỹ, v.v? Chiều cao người Lê-mu-ri hậu kỳ là 7-8 mét. Họ có hai mắt và hai tay. ?oCon mắt thứ ba? tụt vào trong sọ. Nước da có màu vàng hoặc đỏ. Họ nói thứ tiếng đơn âm mà hiện nay dân chúng vùng Đông-Nam của trái đất vẫn sử dụng. E. Bờ-la-vát-cai-a cho rằng con cháu của người Lê-mu-ri hậu kỳ là thổ dân đầu phẳng của Châu Úc, họ đã sống sót và phát triển theo hướng hoang hóa trên lục địa Úc biệt lập từ thời xa xưa.
    +Chủng tộc thứ Tư là người Át-lan. Người Át-lan có hai mắt thể chất, còn ?ocon mắt thứ ba? nằm sâu trong sọ, nhưng hoạt động tốt. Họ có hai tay. Cao 3-4 mét, nhưng đến cuối giai đoạn sinh tồn của người Át-lan, họ nhỏ đi. Một bộ phận người Át-lan có màu da vàng, một bộ phận màu đen, một bộ phận nâu và một bộ phận màu đỏ. Vào các thời kỳ cuối cư dân Át-lan-tích phần lớn là người Át-lan da vàng và da đen, họ đánh nhau thường xuyên. Ban đầu họ nói thứ tiếng ngưng kết, hiện giờ một vài bộ lạc thổ dân Nam Mỹ vẫn dùng. Sau này phát triển dần thành ngôn ngữ biến hình tức ngôn ngữ phát triển cao, là cơ sở của các ngôn ngữ hiện đại. Ngôn ngữ biến hình của người Át-lan là gốc gác của tiếng Phạn bây giờ là ngôn ngữ thần bí của các Bậc được bí truyền.
    Nền văn minh của người Át-lan khá cao. Họ tiếp nhận kinh nghiệm bằng cách nhập vào Trường thông tin toàn thể, họ biết thôi miên từ xa, truyền ý nghĩ qua khoảng cách, có thể tác động lên lực hấp dẫn, có các thiết bị bay (vi-ma-na), xây dựng các ngẫu tượng bằng đá trên đảo Pát-khi, kim tự tháp Ai Cập và nhiều đài kỷ niệm thời cổ đại thần bí khác.
    +Chủng tộc người thứ Năm, tức chủng tộc chúng ta, trong thư tịch thần bí gọi là chủng tộc A-ri-ăng, xuất hiện khi vẫn còn người Át-lan hậu kỳ. Một bộ phận lớn chủng tộc thứ Năm trở nên hoang dã và không thể sử dụng kinh nghiệm của người Át-lan để tự phát triển. Người chủng tộc thứ Năm ban đầu cao đến 2-3 mét, sau nhỏ dần. ?oCon mắt thứ ba? hoàn toàn không còn chức năng gì, kết quả là mất liên lạc với Trường thông tin toàn thể và không thể sử dụng được những kinh nghiệm thu nhận được từ đó. Người chủng tộc thứ Năm dần dần có ngoại hình của người ngày nay.
    ?
    -Vậy là hai chủng tộc đầu tiên (người một mắt), - tôi nói tiếp,- chỉ có cái mà ta gọi là ?ocon mắt thứ ba? và chỉ sử dụng mỗi cái đó trong cuộc sống. Chủng tộc thứ Ba (có hai mặt) ngoài ?ocon mắt thứ ba? ở sau gáy còn có hai mắt thể chất phía trước được dùng để nhìn thế giới vật thể và hỗ trợ ?ocon mắt thứ ba?. Ở người chủng tộc thứ Tư (người Át-lan), ?ocon mắt thứ ba? tụt vào trong sọ nhưng chức năng vẫn còn.. Đến chủng tộc thứ Năm (chúng ta), ?ocon mắt thứ ba? còn lại là cơ quan thô sơ gọi là đầu xương. Nhưng có xu hướng là chủng tộc chúng ta lại phát triển ?ocon mắt thứ ba?. Người Át-lan khi cảm thấy ?ocon mắt thứ ba? thái hóa đã cố kích thích nhân tạo. Còn chúng ta bây giờ cũng có trường lớp dạy tham thiền, mà như chúng ta biết, chính là để phát triển chức năng của ?ocon mắt thứ ba?. Và chị đến đây cũng là để tăng cường hoạt động của ?ocon mắt thứ ba? của mình,- tôi nói và nhìn sang cô gái người Ai-len.
    ?
    -Tại sao lại gọi là ?ocon mắt thứ ba?, nếu nó nằm trong sọ ? ?" cô gái Ai-len hỏi.
    -Các nhà giải phẫu thấy rằng, trong quá trình phát triển phôi, ?ocon mắt thứ ba? đã hình thành theo đúng kiểu con mắt. Chuyện đó rõ quá, vì hai chủng tộc đầu tiên chỉ có mỗi một mắt, chính con mắt mà chúng ta gọi là ?othứ ba? đấy. E. Bờ-la-vát-cai-a cũng đã chỉ ra điều đó. Tâm linh phát triển càng cao thì đầu xương, vốn là ?ocon mắt thứ ba?, càng phát triển.
    ?
  8. silenthill

    silenthill Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/01/2006
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    Về cùng chủ đề này, Mundasep có bộ sách Đi tìm Thành Thiên Đế gồm:
    - Bức thông điệp bi thảm của cổ nhân (NXB Thế giới 2004);
    - Trong vòng tay Sambala (NXB Thế giới 2006);
    - Ma trận sự sống trên Trái đất.
    Không biết quyển sau cùng đấy đã được in chưa. Bạn nào nhìn thấy co bán ở đâu thì PM cho mình nhé. Cám ơn.
    @aovai: Bạn có định post toàn bộ mấy quyển lên không? Nếu được thì thật tuyệt vời.
  9. aovai

    aovai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    @silent hill : tui cũng rất khoái mấy quyển đó. Nhưng mà ... đến bi giờ ông nói tui mới biết đó. Với lại, chỉ 1 quyển "Chúng ta thoát thai từ đâu ?" này thôi cũng chả biết bao giờ mới xong. Chưa dám nghĩ tiếp điều gì. Nếu xong quyển này rồi, chắc phải kêu gọi anh em trợ giúp thôi. Đúng là "1 con én không làm nên mùa xuân ". he he.
    Mấy hôm nay mạng nhà bị cúp (hết tiền đóng ), có đánh cũng ko tải lên được. Anh em thông cảm !
  10. aovai

    aovai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    Chương IV
    LẦN SAU NGHIÊM TÚC HƠN.​
    ?
    -Ở đâu ra mà ngài biết về xô-ma-chi ? - vị lạt ma hỏi và chăm chú nhìn tôi.
    -Các đạo sư Ấn Độ đã kể cho chúng tôi. Chúng tôi thấy có nhiều chắc chắn là ở đây, trong các hang động có nhiệt độ ổn định phải có những thân thể đang được bảo quản ở trạng thái bất động, rắn như đá, mà không phải chỉ thuộc nền văn minh chúng ta, mà cả các nền văn minh trước nữa. Đó là một kiểu Quỹ gen nhân loại mà ngài có bổn phận cao cả bảo toàn, thưa ngài lạt ma kính mến.
    Nhưng mặt khác lại còn bức thông điệp cuối cùng ?oSoHm?. Sao lại cuối cùng ? Có thể giải thích đó là lời cảnh báo loài người trong trường hợp cả nền văn minh cuối cùng này trên trái đất tự tiêu vong, Quỹ gen nhân loại sẽ không lưu nữa, tức là những người ?ođang được bảo quản? sẽ không ra khỏi trạng thái xô-ma-chi kéo dài và không gieo mầm nền văn minh mới nữa. Bởi vậy, thưa ngài lạt ma kính mến, tôi nghĩ đã đến lúc phải giảng giải cho loài người hiểu rằng, nền văn minh của chúng ta có thể sẽ là nền văn minh cuối cùng trên trái đất. Ngài hãy nhìn kìa, thế giới đầy ắp vũ khí ! Sự phát triển tinh thần ngày một bị vật chất phàm tục thay thế, mục đích chính của cuộc đời chỉ còn là ước vọng làm giàu. Vì tiền, người ta có thể làm tất cả? Chỉ có nhóm người ở các nước phát triển,- tôi chỉ các môn sinh người ngoại quốc của lạt ma đang ngồi trong phòng tập,- là quan tâm phát triển phần tinh thần của mình. Nhưng họ làm việc này cũng chỉ cho cá nhân họ và không hơn. Mà để có lòng tin thực sự và chân thành người ta cần có các sự kiện mới, những kiến thức mới. Thành thực mà nói, về nhiều mặt, con người tiếp nhận tôn giáo như câu chuyện cổ tích đẹp?
    ?
    -Tôi không chịu trách nhiệm về những người Nga đã lui tới chỗ ngài,- tôi đáp
    -Tôi thấy các vị là những học giả nghiêm túc, các vị đây không giống họ,- vị lạt ma nói,- Nhưng làm sao tôi có thể tin tưởng giao phó kinh nghiệm cổ đại cho các vị đại diện một đất nước có những kẻ giàu có nhìn chúng tôi chỉ thấy lạ mắt, không có lấy một tí tôn trọng và quan tâm tới giáo lý cổ xưa của chúng tôi, họ cho rằng nếu có nhiều tiền bạc là cả thế giới phơi bày ra trước mắt họ. Nga là đất nước giàu có, Nê pan thì nghèo lắm. Song nơi đây, Nê pan và Tây Tạng có những kinh nghiệm mà không nơi nào trên thế giới có nữa. Chúng tôi tôn trọng trình độ học vấn của các vị, nền khoa học của các vị, nhưng cũng xin các vị tôn trọng tín ngưỡng của chúng tôi. Một người Nga các vị chụp ảnh xong giúi cho tôi một tờ 100 đô.
    -Tôi chỉ còn biết thay mặt họ xin lỗi ngài,- tôi nói.
    -Tôi cần những lời xin lỗi của các vị để làm gì. Tốt nhất về nước các vị nói chuyện với họ, nói trên tivi ấy. Nếu kinh nghiệm cổ xưa của chúng tôi rơi vào tay những kẻ đó sẽ bị sử dụng vào việc ác. Nếu những kẻ như vậy tìm thấy cái gì đó, người xô-ma-chi chẳng hạn, chúng sẽ trưng ra cho mọi người xem như con vật trong vườn bách thú vậy và thu tiền dịch vụ. Người ta đã phá phách đền chùa Tây Tạng, tàn sát lạt ma, nhạo báng các giá trị cổ đại. May thay còn có những lực lượng bảo vệ xô-ma-chi. Những lực lượng đó hùng mạnh, không gì chống lại được. Đất nước các vị có sức mạnh quân sự to lớn, nhưng đến vũ khí hạt nhân cũng không làm gì được các lực lượng đó.- Nếu đất nước các vị có người giàu như những kẻ đã đến đây, thì không thể tin được các vị. Tiền bạc đang điều hành thế giới. Chúng mua khoa học và tôn giáo với giá rẻ mạt.
    ?
    -Xin phép ngài được hỏi một câu có tính triết lý,- tôi nói,- Vì sao khoa học ở nước ngài kém phát triển, bởi không còn nghi ngờ gì nữa là về mặt tâm linh các ngài đi đầu ở khu vực này ?
    -Chúng tôi là nước nghèo, mà khoa học lại đòi hỏi nhiều tiền.
    -Vì sao đất nước của các ngài lại nghèo ? Bởi lẽ, ngay các đệ tử của ngài,- tôi chỉ những người ngoại quốc ở trong phòng,- cũng thích sống ở nước giàu, không có người đói rách.
    Người Đan Mạch vẫn im lặng gật đầu.
    -Nước chúng tôi có rất nhiều người nghèo khổ và sinh đẻ nhiều. Người ta đã quen ăn ít ỏi, sống xuềnh xoàng. Mọi người khó tưởng tượng lại có thể sống tốt hơn. Tâm lý của kẻ nghèo khó mà.
    -Theo tôi lý do không chỉ có vậy. Trong sự nghèo nàn của đất nước ngài có vai trò của tôn giáo.
    -Tôn giáo ư ?
    -Như tôi biết,- tôi nói tiếp,- giáo lý đạo Phật và Ấn Độ giáo tuyên truyền cho tính nổi trội của tinh thần so với vật chất. Trong các trường thiền và các trường đạo khác các ngài đều dạy bảo điều đó. Tôi hoàn toàn không nghi ngờ về vai trò hàng đầu của tinh thần so với vật chất bởi lẽ theo tôn giáo thì khởi nguyên vật chất được tạo ra từ khởi nguyên tinh thần cô đặc dần. Song việc nhấn mạnh quá mức vai trò ưu thế của tinh thần đối với người mộ đạo làm cho dân chúng nước ngài coi sự sinh tồn trên trái đất không đáng kể và không nỗ lực cải thiện cuộc sống. Thể xác chỉ là cái công cụ xinh đẹp của tâm hồn và chuyện chia tay với nó chẳng có gì phải luyến tiếc. Bởi vậy, tôi cho rằng, đối với việc đưa kiến thức tôn giáo đến đông đảo mọi người cần có thái độ trung dung.
    -Song chúng tôi sao có thể từ bỏ sách kinh của mình ! - vị lạt ma đáp lại.
    -Sách kinh đến thế giới chúng ta qua các nhà tiên tri và theo tôi dành cho những người có trình độ học vấn và văn hóa cao. Ngoài ra, ngài biết đấy, giáo lý là học thuyết linh hoạt và ít nhiều nó có thể thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh sống. Ví dụ, thưa ngài lạt ma kính mến, các ngài thử tuyên truyền thế này : cùng với phát triển tâm linh, mỗi người cần nỗ lực làm việc, học hành và cải thiện điều kiện sống cho chính bản thân và gia đình mình sao cho xứng với con người. Kết quả sẽ khá nhanh đấy, vì các nhà hoạt động tôn giáo ở đất nước các ngài có thế lực lớn và được lòng dân.
    -Vâng.
    -Theo tín ngưỡng của các ngài, Đức Phật có hai trạng thái : hiền hòa và tức giận. Không phải mọi cái đều có thể đạt được bằng con đường hòa bình, đôi lúc cũng phải nổi giận để bắt dân chúng làm việc tốt hơn, giàu hơn. Lúc đó sẽ xuất hiện điều kiện để phát triển khoa học. Vai trò của khoa học lớn lắm. Tôn giáo là gì ? Tôn giáo chính là những kinh nghiệm của các nền văn minh trước đây, họ có được cũng là nhờ nghiên cứu khoa học. Bởi vậy, phát triển khoa học và lấy đó bổ sung Trường thông tin toàn thể là việc làm thiêng liêng. Chính khoa học mới có thể phát triển, điều chỉnh và bổ sung tôn giáo. Không thể lúc nào cũng sử dụng kinh nghiệm nhận được từ Trường thông tin toàn thể như giáo điều, cần bổ sung và chính lý phù hợp với hoàn cảnh.
    -Có lẽ ngài có lý,- vị lạt ma thốt lên.
    -Thời nay không thể hạ thấp đến như vậy vai trò của vật chất, vì như vậy, sẽ cản trở khoa học, chúng ta không thể phủ nhận tính chất thiêng liêng của khoa học,- tôi nói tiếp,- Ví dụ xô-ma-chi. Như được biết ở trạng thái này hồn lìa khỏi xác, nhưng vẫn liên lạc với thân thể. Do trao đổi chất hạ xuống mức không, thân thể có thể được bảo toàn ở trạng thái này hàng triệu năm. Thử hỏi, bảo quản thân xác làm gì, khi mà phần hồn chiếm địa vị ưu thế ? Câu trả lời đơn giản - thể xác được tạo nên qua quá trình tiến hóa lâu dài, chẳng có lý do gì coi thường nó, tốt nhất là bảo toàn còn hơn làm lại từ đầu.
    -Nhưng giờ đây người ta quan tâm tới việc khám phá phần hồn hơn,- vị lạt ma nói.
    -Ngài thử nhìn môn sinh của mình sẽ thấy. Nhiều người có ánh mắt không phải của cõi trần này. Những con người xa lạ, hờ hững với cuộc đời chắc gì có thể tác động xã hội để nâng cao mặt tâm linh của nó. May lắm là họ nhận được sự thỏa mãn về tinh thần cho riêng mình.
    ?
    -Trở lại vấn đề vai trò của tôn giáo đối với xã hội, chúng ta cùng nhau phân tích các loại tôn giáo trên trái đất. Tôi cảm thấy tín ngưỡng đạt hơn cả là Thiên Chúa giáo, đạo này cân nhắc cả kỷ luật nghiêm minh lẫn tự do của con người. Bởi vậy, những nước có đạo Thiên Chúa phát triển hơn các nước khác trên trái đất. Chúng ta hãy so sánh tín ngưỡng Thiên Chúa với đạo Hồi. Tàn bạo và hạn chế trong Hồi giáo rất nhiều, còn tự do rõ ràng là quá ít ỏi. Kết quả ai cũng biết: về mặt phát triển, các nước Hồi giáo thua kém các nước đạo Thiên Chúa. Giờ ta so sánh tín ngưỡng Thiên Chúa với đạo Chính Thống. Tự do trong đạo Chính Thống nhiều, vậy mà kết quả là các nước theo đạo Chính Thống vẫn thua kém các nước Thiên Chúa giáo. Các vị hãy so sánh với đạo Phật và Ấn Độ giáo của Ấn Độ, Nê pan, Bu-tan và các nước lân cận: con người tập trung phát triển, trước hết là tâm linh và thường coi nhẹ mặt vật chất của đời sống. Kết quả cho thấy: các nước này có cuộc sống tâm linh phát triển cao, nhưng tình hình kinh tế chẳng đáng mong tí nào. Riêng đạo Phật ở Nhật Bản là kết hợp phát triển tâm linh với kỷ luật chặt chẽ trong đời sống vật chất. Kết quả rõ ràng: tiến bộ của nước Nhật là hiển nhiên.
    -Vâng, có lẽ ngài nói phải.
    -Mọi người chúng ta đều biết Chúa Trời chỉ có một,- tôi nói tiếp.- Vậy tại sao các ngài lại không cải biến, điều chỉnh tôn giáo của các ngài, chú trọng đến các phương diện lịch sử của tác động nhiều tín ngưỡng đối với xã hội. Trên trái đất đã có nhiều các nhà tiên tri, họ đã xây dựng nên nhiều dạng tín ngưỡng. Cuộc sống đã cho thấy: ai trong số các nhà tiên tri có lý hơn cả. Tôi nghĩ đã đến lúc cần có mối quan hệ tương hỗ giữa các đại diện của các tôn giáo khác nhau để thử tạo dựng một học thuyết tôn giáo thống nhất dựa trên cơ sở một Chúa Trời duy nhất. Điều này hợp lý về mặt lịch sử; các vị hãy nhớ lại, đã có biết bao các cuộc chiến tranh tôn giáo, chúng vẫn tiếp diễn đến ngày nay (Nam Tư, I-xra-en,?)
    ?

Chia sẻ trang này