1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chương trình đào tạo Phật học từ xa

Chủ đề trong 'Học thuật' bởi Tinhnguyen08, 24/11/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    Chương trình đào tạo Phật học từ xa

    Chương trình đào tạo Phật học từ xa:



    MỘT PHƯƠNG TIỆN ĐỂ ĐI SÂU



    NGHIÊN CỨU KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO



    Đăng Tâm thực hiện



    LTS: Tính đến nay, "Chương trình đào tạo Phật học từ xa" đã nhận được trên 900 hồ sơ đăng ký của quý bạn đọc từ hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước và nước ngoài. Nhiều bạn đọc đã gửi thư, gọi điện bày tỏ những thắc mắc xung quanh nội dung bài giảng, giá trị chứng chỉ cũng như phương pháp học tập? Nhân dịp khai giảng "Chương trình đào tạo Phật học từ xa", NSGN đã có cuộc phỏng vấn HT.Thích Trí Quảng, Tổng Biên tập Báo Giác Ngô, Chứng minh chương trình, về những vấn đề nêu trên.

    NSGN

    - Xin Hòa thượng cho biết nhân duyên tổ chức "Chương trình đào tạo Phật học từ xa" do nguyệt san Giác Ngộ tổ chức? Chương trình này có gì khác so với "Chương trình Phật học hàm thụ" mà Báo từng tổ chức?

    - HT.Thích Trí Quảng: Từ khi nhận chức Trưởng Ban Hoằng pháp của Giáo hội, tôi đã tổ chức các chương trình hoằng pháp tại hầu hết các tỉnh thành trong cả nước và nhận thấy nhu cầu học Phật của các Tăng Ni Phật tử là rất lớn. Thế nhưng, các trường Phật học của chúng ta hiện nay chỉ đào tạo các Tăng Ni chứ chưa có trường đào tạo Phật học dành cho cư sĩ như Đại học Vạn Hạnh trước kia. Muốn giúp cho giới Phật tử tại gia cũng như những vị tu sĩ không có điều kiện theo học các trường Phật học, học hiểu Phật pháp để tu cho đúng, tôi đã cho mở "Chương trình Phật học hàm thụ" trên nguyệt san Giác Ngô. Chương trình chủ yếu cung cấp cho các học viên những kiến thức về lịch sử, văn hóa, giáo lý căn bản của Phật giáo chứ chưa đi sâu nghiên cứu các bộ kinh lớn hay hệ thống tư tưởng Phật giáo. Trải qua 6 năm, chương trình thu hút khá đông các học viên là Tăng Ni, Phật tử trong cũng như ngoài nước, và chúng tôi cũng đã tổ chức được 2 khóa học với một số kỳ thi. Tuy nhiên, do gặp phải một số khó khăn, "Chương trình Phật học hàm thụ" đã không tổ chức được một kỳ thi tốt nghiệp tập trung để cấp phát văn bằng cho các học viên tham dự. Chúng tôi rất lấy làm tiếc về vấn đề này.

    Đến nay, nhận thấy khá nhiều học viên tham gia "Chương trình Phật học hàm thụ" cũng như nhiều Tăng Ni, Phật tử có nhu cầu nâng cao kiến thức Phật học, nên chúng tôi tiếp tục khai giảng "Chương trình đào tạo Phật học từ xa" có tính cách chuyên khoa hơn. Chương trình vẫn do Ban Hoằng pháp T.Ư kết hợp với nguyệt san Giác Ngộ thực hiện và mời các vị giảng sư có chuyên môn soạn thảo giáo trình, bắt đầu từ hệ thống kinh A Hàm đến các kinh như Pháp Hoa, Bát Nhã, Lăng Già, Hoa Nghiêm, v.v... Bên cạnh đó, chúng tôi cũng mời một vị giảng sư chuyên trách về bộ môn cổ ngữ, cụ thể là Sanskrit, nhằm giúp cho các học viên có thêm một phương tiện đắc lực để đi sâu nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Chương trình dự kiến sẽ kéo dài 4 - 6 năm, bao gồm nhiều khóa học. Sau mỗi khóa học sẽ là một kỳ thi; vượt qua kỳ thi này, học viên sẽ được cấp chứng chỉ. Kết thúc chương trình, chúng tôi sẽ tổ chức một cuộc thi tốt nghiệp tập trung, các học viên tham dự đầy đủ các khóa học và vượt qua kỳ thi tập trung sẽ được cấp phát văn bằng.

    - Thưa Hòa thượng, nhiều học viên bày tỏ thắc mắc về giá trị của chứng chỉ cũng như văn bằng sau khi hoàn tất chương trình. Xin Hòa thượng nói rõ hơn về vấn đề này?

    - Chương trình do Ban Hoằng pháp T.Ư tổ chức, không thuộc một trường đại học nào, vì vậy chứng chỉ và văn bằng dĩ nhiên cũng không thuộc Bộ Giáo dục hay Ban Giáo dục Tăng Ni. Văn bằng là của Giáo hội, của Ban Hoằng pháp T.Ư, và dĩ nhiên sẽ chỉ có giá trị với những ai công nhận nó, điển hình là ngành hoằng pháp. Những người được cấp chứng chỉ hay văn bằng của chương trình sẽ được Giáo hội thừa nhận và sử dụng trong các lĩnh vực chuyên môn để phụng sự đạo pháp.

    Cần phải nói thêm rằng, "Chương trình đào tạo Phật học từ xa" được tổ chức với mục đích đáp ứng nhu cầu nghiên cứu kinh điển nâng cao của Tăng Ni, Phật tử nhằm ứng dụng vào đời sống tu tập hàng ngày. Vì vậy, văn bằng của chương trình chứng nhận học viên đã hoàn tất chương trình, có một số kiến thức chuyên sâu nhất định về Phật pháp nhằm tu cho đúng hướng, còn những giá trị khác, nếu có, chỉ là thứ yếu.

    - Theo Hòa thượng, các học viên của chương trình sẽ gặp những thuận lợi và khó khăn nào khi học giáo lý nâng cao theo phương pháp đào tạo từ xa?

    - Học từ xa bao giờ cũng không bằng học chính quy, tuy nhiên những ai chịu khó nghiên cứu thì vẫn có thể đạt được những kết quả mong muốn. Chương trình sẽ rất thuận lợi cho những ai không có điều kiện tham dự các trường hay Học viện Phật giáo, hoặc những người quá bận rộn bởi công việc. Các vị giảng sư sẽ cung cấp cho các học viên một lượng kiến thức tổng quát và những phương pháp tối ưu để tiếp cận với tư tưởng của từng bộ kinh, cùng với việc giới thiệu những tài liệu liên quan, từ đó học viên sẽ dễ dàng tự mình đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về bộ kinh đó. Chương trình chỉ tạo duyên cho những ai bước đầu nghiên cứu kinh bộ Nikaya, A Hàm và các kinh điển Đại thừa; nếu muốn đi xa, học viên phải tự nghiên cứu thêm và họ cũng có thể tìm đến những bậc thiện tri thức để học hỏi.

    Bản thân tôi nhiều năm giảng dạy kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm trên báo Giác Ngộ, tôi nhận thấy có nhiều người đã tiếp thu rất tốt, có những điều không hiểu, họ đến hỏi tôi và tôi cũng đã hướng dẫn cho họ một cách tận tình.

    - Nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy và tu theo kinh điển Đại thừa, Hòa thượng có những sự sẻ chia nào với các học viên của chương trình sắp tới?

    - Thực ra, nếu mình chuyên nghiên cứu bộ kinh nào, thì mình sẽ có một kiến thức nhất định về bộ kinh đó. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, nếu muốn ứng dụng, tu hành theo lời Phật dạy thì phải biết tổng hợp, phải nhờ những bậc thiện tri thức khai ngộ cho phương pháp tu hành.

    Chuyên nghiên cứu một bộ kinh là điều tốt, nhưng nếu chỉ khăng khăng tu theo mỗi bộ kinh đó thôi thì sẽ rất dễ trở nên cục bộ. Chúng ta chuyên nghiên cứu một bộ kinh, đồng thời cũng phải học hỏi từ những bộ kinh khác để tạo được sự hài hòa, trách sự chệch hướng nguy hiểm cho đường tu của mình. Bản thân tôi tuy nghiên cứu kinh Pháp Hoa, nhưng tôi vẫn nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã... và tôi vẫn cảm thấy Nikaya vẫn có rất nhiều điều có thể học tập cũng như hướng dẫn cho người khác tu học. Tất cả những bộ kinh, từ Nguyên thủy đến Phát triển, đều có những sự hỗ tương, quan hệ lẫn nhau. Những bộ kinh Đại thừa cũng bắt nguồn từ Nikaya và cũng từ Nikaya mà ra, nên khi nghiên cứu, tu tập cần phải có cái nhìn tổng quan, xuyên suốt mới có lợi cho Phật pháp. Nếu chỉ chấp vào một bộ kinh mà không chịu nghiên cứu các bộ kinh khác sẽ rất nguy hiểm cho mình. Ngài Trí Giả Đại sư nói rằng Pháp Hoa là viên giáo, tức là đã bao hàm tất cả các kinh khác; tất cả các kinh đều là tư tưởng của Phật, không thể khác hơn được. Đây là một sự thật lịch sử. Nếu đọc kỹ và đi sâu nghiên cứu kinh điển, chúng ta thấy kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm... cũng không khác Nikaya.

    Ngày nay, Phật giáo các nước và các tông phái trên thế giới sở dĩ thông cảm nhau, chấp nhận được nhau là bởi họ có cái nhìn xuyên suốt. Vì vậy mà Phật giáo các nước Thái Lan, Myanmar, Sri Lanka... đã có tiếng nói chung với Phật giáo các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam v.v... Bốn mươi năm trở lại đây, Phật giáo Nhật Bản đã nghiên cứu nhiều về kinh điển Nikaya và họ đã có Kinh tạng Nikaya bằng tiếng Nhật... Rõ ràng là chúng ta phải tạo nên cái chung. Chúng ta có thể đi sâu nghiên cứu một bộ kinh này nhưng đồng thời cũng phải hiểu các bộ kinh khác. Tôi hy vọng rằng tất cả các học viên sẽ nghiên cứu và học tập đầy đủ các bộ kinh của khóa học để có một cái nhìn toàn diện hơn về những lời Phật dạy.

    Xin cảm ơn Hòa thượng!
  2. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    Bộ môn Kinh Bộ
    TỔNG QUAN VỀ BỐN BỘ A HÀM
    Ban Hoằng Pháp
    Bốn bộ A Hàm là một kho tàng văn học vô cùng phong phú và sinh động về cả thể loại lẫn nội dung tư tưởng. Toàn bộ kinh văn chứa đựng hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống, từ sự phản ánh hoàn cảnh xã hội Ấn Độ hồi thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, cho đến những tập tục, tư tưởng triết học, tôn giáo, giai cấp... Đặc biệt, A Hàm còn giữ những bài pháp thoại mà đọc lại chúng ta có cảm giác như được nghe chính âm thanh vi diệu của Đức Thế Tôn đang chuyển Pháp luân, đó là những nguyên tắc hành trì, những phương pháp tu tập, những nghệ thuật sống đưa đến hạnh phúc, an lạc và hòa bình cho xã hội trong mọi thời đại.
    Hình thức văn học A Hàm gồm có 9 hoặc 12 thể loại, mà xưa nay ta vẫn thường quen gọi là 9 hoặc 12 bộ chân kinh. Một Tỳ kheo biết được 9 hoặc 12 thể loại này được Đức Phật cho là người ?obiết pháp? (Kinh Thiện Pháp, Trung A Hàm). 9 thể loại đó là:
    1. Kinh, Phạn Sùtra, còn gọi là khế kinh, đây là thể loại kinh được nói (hay viết) theo thể văn xuôi mà ta vẫn thường gọi là văn Trường hàng.
    2. Trùng tụng, Phạn Geya, còn gọi là ứng tụng, ca vịnh, tương ưng với khế kinh. Sau khi thuyết pháp xong, Đức Phật thường tóm tắt nội dung bài pháp thoại bằng một hoặc nhiều bài thơ, còn gọi là trùng phức hay chỉnh cú.
    3. Ký thuyết, Phạn Vyàkarana, còn gọi là ký biệt hay thọ ký, vốn chỉ cho sự giải thoát của giáo nghĩa, sau chỉ những lời Đức Phật ấn chứng cho các đệ tử trong tương lai.
    4. Kệ tụng, Phạn Gàthà, còn gọi là cô khởi, toàn bộ đều dùng kệ tụng để ghi lại những lời dạy của Đức Phật. Thể loại này khác với thể ứng tụng ở chỗ ứng tụng chỉ tóm lược nghĩa chính của văn trường hàng, còn kệ tụng thì ghi lại toàn bộ nội dung pháp thoại.
    5. Cảm hứng ngữ, Phạn Udàna, còn gọi là tự thuyết. Đức Phật không đợi có người thưa hỏi pháp mới nói, mà tự Ngài khai thị thuyết pháp cho đệ tử.
    6. Như thị ngữ (Bổn sự), Phạn Itivrttaka, ghi lại hành trạng kiếp trước của Đức Phật và các đệ tử của Ngài, hoặc những kinh được mở đầu bằng câu ?oPhật như thị thuyết?.
    7. Bổn sanh, Phạn Jàtaka, ghi lại những hạnh đại bi trong những tiền kiếp Đức Phật đã tu hành.
    8. Phương quảng, Phạn Vaipulya, tuyên thuyết giáo nghĩa sâu rộng, uyên áo.
    9. Vị tằng hữu, Phạn Adbhuta-dharma, ghi lại những sự việc hy hữu của Đức Phật cùng với các đệ tử của Ngài.
    12 thể loại gồm 9 thể loại trên cộng thêm 3 thể loại sau:
    10. Nhân duyên, Phạn Nidàna, ghi lại nhân duyên Đức Phật thuyết pháp, giáo hóa, như phẩm Tự của các kinh.
    11. Thí dụ, Phạn Avadàna, lấy hình ảnh thí dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa của pháp.
    12. Luận nghị, Phạn Upadesa, Đức Phật hoặc các đại đệ tử luận nghị, quyết trạch thể tánh của các pháp, phân biệt rõ ràng nghĩa lý.
    Trong cả hai truyền thống Nam truyền và Bắc truyền đều có đầy đủ 12 thể loại trên. Với nhiều thể loại văn học như vậy cho chúng ta thấy A Hàm là những tác phẩm văn học đồ sộ và phong phú. Đọc A Hàm, chúng ta không những bị lôi cuốn bởi sự phong phú về thể loại mà còn thấy rất sinh động bởi kinh văn rất giàu hình ảnh. Dù vậy, A Hàm lại ít mang tính chất văn chương mà mang đậm tính thật thà chất phác, phản ánh tính trung thực và nguyên thuỷ những lời Phật dạy. Vì vậy, chúng ta thấy A Hàm mang thể tài của một loại ngôn hành lục, nên khi đọc vào ta có cảm giác như được sống lại trong hội chúng thời Đức Phật còn tại thế!
    Nội dung tư tưởng
    Phẩm Tựa của Tăng Nhất A Hàm phần nào gợi lại cho chúng ta thấy không khí và diễn biến cuộc đại hội kiết tập kinh điển lần thứ nhất. Đặc biệt, qua lời tuyên bố của ngài A Nan, chúng ta thấy vị trí của kinh này, cũng như các bộ A Hàm khác, là vô cùng quan trọng. A Nan nói: ?oTăng nhất A Hàm này xuất giáo nghĩa của ba mươi bảy phẩm đạo, và các pháp cũng từ đây mà phát sinh?. Khi khẳng định vị trí của A Hàm như vậy, Tôn giả Ca Diếp đã hỏi nguyên do, A Nan liền trả lời, và câu trả lời này tóm thâu toàn bộ tư tưởng của A Hàm, cũng như toàn bộ tư tưởng của Phật giáo, trong bốn câu:
    Chớ làm các điều ác,
    Vâng làm các điều lành,
    Tự thanh tịnh tâm ý,
    Là lời chư Phật dạy.
    Tưởng chừng như quá đơn giản và chẳng có gì, vậy nhưng chính A Nan đã khẳng định và giải thích ?osở dĩ như vậy là vì, chớ làm các điều ác, đó là gốc rễ của các pháp, từ đó xuất sinh tất cả các pháp thiện. Do sinh pháp thiện, nên tâm ý thanh tịnh. Cho nên, bạch Ca Diếp, thân, khẩu, ý hành của chư Phật Thế Tôn thường tu thanh tịnh?. Quả nhiên cái đích của Phật giáo hướng đến không phải chỉ dừng lại ở mức làm lành tránh dữ hay bỏ ác làm lành mà còn hướng đến sự tự làm thanh tịnh tâm ý mình. Tâm ý hoàn toàn thanh tịnh ấy chính là quốc độ Phật. Và để đạt được điều đó, không còn cách nào khác hơn là phải học pháp, tức giáo nghĩa ba mươi bảy phẩm đạo và các pháp khác.
    A Hàm tập hợp tất cả những giáo lý căn bản của Phật giáo, như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Ngũ uẩn giai không, Nghiệp cảm luân hồi, Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo... là nền tảng căn bản mà từ đó các hệ kinh điển Đại thừa được hình thành. Nếu như đối với các giáo lý trong A Hàm mà không hiểu được chính xác thì không thể nào lãnh hội được giáo lý Đại thừa.
    A Hàm không những chứa đựng những phương pháp tu tập cụ thể, rõ ràng đưa đến giác ngộ giải thoát như Khổ, Vô thường, Vô ngã, Nhân duyên sanh pháp, Ngũ thủ uẩn, Tứ thiền..., mà còn bao hàm các phạm trù xã hội, luân lý, đạo đức, phong tục... rất phong phú, qua đó phản ánh tư tưởng của Phật giáo tác động và ảnh hưởng đến đời sống xã hội rất lớn, chẳng hạn những kinh nói đến chế độ bốn giai cấp cho ta thấy được tinh thần bình đẳng của Phật giáo, xem những ghi chép về các nghi thức tế lễ, nhân đó thấy được tinh thần phá trừ mê tín của Phật giáo...
    Khảo sáng bộ
    1. Trường A Hàm

    Kinh Trường A Hàm, tiếng Phạn là Dìrghàgama, gồm 22 quyển, do Phật Đà Da Xá (Buddhayasas, Tăng nhân nước Kế Tân, Bắc Ấn Độ) và Trúc Phật Niệm (người Lương Châu, Cam Túc, Vũ Uy) dịch từ Phạn sang Hán vào đời Hậu Tần, niên hiệu Hoằng Thỷ thứ 15 (413 TL), hiện lưu trong Đại tạng kinh Đại Chính tân tu (ĐTK/ĐCTT), tập 1, số 1, trang 1-149. Theo luật Tứ phần quyển 54, luật Ngũ phần quyển 30, luận Du già sư địa quyển 85 v.v... thì kinh này tập hợp những bài pháp thoại dài của Đức Thế Tôn mà thành. Tát-bà-đa tỳ-ni tỳ-bà-sa (Sarvàstivàda vinaya vibhàsà) quyển 1, cho rằng kinh này chuyên đả phá các ngoại đạo nên gọi là Trường A Hàm. Luận Phân biệt công đức quyển 1, thì giải thích, trường là trình bày những sự việc xa xưa, trải qua nhiều kiếp. Đọc lại Trường A Hàm thì biết rằng đây đúng là những bài pháp thoại rất dài, trình bày nhiều vấn đề, nhiều ý nghĩa sâu xa, chứa đựng nhiều giáo lý căn bản...
    Về sự truyền thừa của Trường A Hàm, theo Pháp Hoa kinh huyền tán quyển 1, Hoa Nghiêm kinh sớ sao huyền tán quyển 8... thì bốn bộ A Hàm đều do Đại chúng bộ truyền. Nhưng Câu xá luận kê cô quyển thượng, thì cho rằng Trường A Hàm do Hóa địa bộ truyền. Theo các công trình nghiên cứu của các học giả Nhật Bản thời hiện đại, thì Trường A Hàm do Pháp tạng bộ (Dharmagupta) truyền. Thuyết này được nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trên thế giới đồng thuận.
    Trong ĐTK/ĐCTT, từ số 2 đến 25, là những bản Hán dịch lẻ tẻ (đơn bản) các kinh thuộc Truờng A Hàm. Đây là những bản kinh thuộc nhiều bộ phái khác nhau, do đó nội dung chứa đựng ít nhiều dị biệt. Trường A Hàm mà chúng tôi sẽ giới thiệu là bản Hán dịch Trường A Hàm kinh 22 quyển, do Phật Đà Da Xá tuyên đọc thuộc lòng bản Phạn, và Trúc Phật Niệm truyền dịch sang Hán văn, Việt dịch Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, năm 1991, Đại tạng kinh Việt Nam, ký hiệu A a1, trọn bộ 2 tập. Bạn đọc có thể tham khảo thêm từ trang nhà www.phatviet.com bản Việt dịch của TT. Tuệ Sĩ.
    22 quyển Trường A Hàm có 30 kinh, chia thành bốn phần. Phần một có 4 kinh, nói về sự tích của chư Phật và các vấn đề liên quan. Phần hai có 15 kinh, trình bày các phương pháp, nguyên tắc tu tập và cương yếu giáo lý Phật thuyết. Phần ba có 10 kinh nói về các vấn nạn của ngoại đạo và những dị thuyết. Phần bốn có 1 kinh, chia thành 12 phẩm, nói về tướng trạng khởi nguyên của vũ trụ.
    Kinh Trường A Hàm tương đương với kinh Trường Bô (Dìgha-Nikàya) thuộc hệ thống kinh tạng Nam truyền. Kinh Trường Bộ có 3 phẩm, tổng cộng 34 kinh, trong đó có 29 kinh tương đương với Trường A Hàm.
    2. Trung A Hàm
    Kinh Trung A Hàm, tiếng Phạn là Madhyamàgama, có 60 quyển, 222 kinh, do Tăng Già Đề Bà (Samghadeva, người nước Kế Tân, Bắc Ấn) và Tăng Già La Xoa (Samgharaksa, người nước Tu Lại, Tây Bắc Ấn) dịch từ Phạn sang Hán vào đời Đông Tấn, niên hiệu Long An thứ 2 (398 TL), hiện lưu trong ĐTK/ĐCTT, tập 1, số 26, trang 421-809. Các kinh từ số 27 đến 98 là các bản dịch lẻ tẻ (đơn bản) của các kinh thuộc Trung A Hàm. Bản tiếng Việt, Đại tạng kinh Việt Nam, ký hiệu A a2, Viện Cao đẳng Phật học Hải Đức Nha Trang dịch, Nhà Xuất bản Tôn Giáo, trọn bộ 4 tập.
    Luận Phân biệt công đức quyển 1, giải thích chữ trung có nghĩa là không lớn không nhỏ, không dài không ngắn, Trung A Hàm là tuyển tập những kinh không dài không ngắn. Bản kinh này ghi lại những lời dạy căn bản nhất của Đức Phật cho các đệ tử xuất gia cũng như tại gia.
    Về sự truyền thừa và đối chiếu với kinh Trung Bộ thuộc Nam tạng, xin xem luận án tiến sĩ của HT. Thích Minh Châu trong cuốn So sánh kinh Trung A Hàm chữ Hán và kinh Trung Bộ chữ Pàli do Ni sư Trí Hải dịch Việt.
    Kinh Trung A Hàm gồm 60 quyển, chia thành 5 tụng, 18 phẩm. 5 tụng là Sơ tụng, Tiểu độ thành tụng, Niệm tụng, Phân biệt tụng và Hậu tụng. 18 phẩm gồm: 1. Phẩm Bảy pháp, gồm 10 kinh; 2. Phẩm Nghiệp tương ưng, gồm 10 kinh; 3. Phẩm Xá Lê Tử tương ưng, 11 kinh; 4. Phẩm Vị tằng hữu pháp, 10 kinh; 5. Phẩm Tập tương ưng, 16 kinh; 6. Phẩm Vương tương ưng, 14 kinh; 7. Phẩm Trường thọ vương, 15 kinh; 8. Phẩm Uế, 10 kinh; 9. Phẩm Nhân, 10 kinh; 10. Phẩm Lâm, 10 kinh; 11. Phẩm Đại, 25 kinh; 12. Phẩm Phạm chí, 20 kinh; 13. Phẩm Căn bản phân biệt, 10 kinh; 14. Phẩm Tâm, 10 kinh; 15. Phẩm Song, 10 kinh; 16. Phẩm Đại (Hậu tụng),10 kinh; 17. Phẩm Bổ-lợi-đa, 10 kinh; 18. Phẩm Lê, 11 kinh.
    Kinh này ghi lại nhiều bài pháp thoại của Đức Phật và các đệ tử của Ngài, thỉnh thoảng cũng có những lời giáo giới của Đức Phật cho các đệ tử, các bậc vương giả, cư sĩ và ngoại đạo.
    3. Tạp A Hàm
    Tạp A Hàm, tiếng Phạn là Samyuktàgama, 50 quyển, do Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra, người Trung Ấn độ, 394x468 TL) dịch sang tiếng Hán vào đời Lưu Tống (435 TL), hiện được xếp vào ĐTK/ĐCTT, tập 2, kinh số 99, trang 1-303. Từ số 100-124 là các bản biệt dịch Tạp A Hàm và đơn bản thuộc Tạp A Hàm. Bản tiếng Việt, Đại tạng kinh Việt Nam, ký hiệu A a3, HT. Thích Thiện Siêu, HT. Thích Thanh Từ dịch, Nhà Xuất bản Tôn Giáo, trọn bộ 4 tập.
    Theo Ngũ phần luật, quyển 30, Tứ phần luật quyển 54..., kinh này do Đức Phật nói cho nhiều đối tượng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Thiên tử, Thiên nữ về các pháp Tứ Thánh đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên... nay biên tập thành một bộ, nên gọi là Tạp A Hàm. Ma ha tăng kỳ luật quyển 32, nói rằng kinh này văn cú phức tạp, cho nên gọi là Tạp A Hàm. Ngoài ra, Tát-bà-đa tỳ-ni tỳ-bà-sa quyển 1, nói kinh Tạp A Hàm xiển dương các loại thiền định, là pháp môn mà người tọa thiền phải học tập. Du già sư địa luận quyển 85, thì nói do tất cả mọi sự đều tương ưng với giáo, tập hợp tất cả nghĩa lý đó lại thành một bộ, gọi là Tạp A Hàm.
    Căn cứ vào Đại Chính tạng, kinh này có 50 quyển, 1362 kinh, nội dung tương đương với Tương Ưng Bộ (Samyutta-nikàya, gồm 5 tụ, 56 thiên, 203 phẩm, 2858 kinh) bản Pàli của Nam truyền Phật giáo. Đây là bộ kinh lớn nhất và cũng được hình thành sớm nhất trong bốn bộ A Hàm. Nếu phân loại theo tính chất, toàn kinh có thể chia thành ba bộ phận lớn.
    1. Tu-đa-la (sùtra), nội dung gồm các kinh trình bày về Uẩn, Xứ, Duyên khởi, Thực, Đế, Giới, Niệm, Trụ...
    2. Kỳ-dạ (geya), là những kinh có lời vấn đáp được trình bày bằng thể loại kệ tụng.
    3. Ký thuyết (vyàkarana), những lời của Đức Phật và các đệ tử của Ngài thuyết.
    Ba bộ phận trên đây tương đương với Sở thuyết, Sở vi thuyết, Năng thuyết được nói đến trong Du già sư địa luận quyển 85.
    Kinh Tạp A Hàm còn bảo tồn phong cách của Phật giáo nguyên thủy, tuy vẫn có những phần do đời sau thêm vào, nhưng hầu hết đều được thành lập vào thời kỳ rất sớm. Văn phong của kinh này rất đơn giản, câu cú rõ ràng, chứa đựng nhiều pháp môn tu hành rất thực tiễn. Chẳng hạn như các phẩm nói về Niệm trụ, Uẩn, Giới... Từ những đoạn đối đáp giữa Đức Phật và các đệ tử hiển hiện ra Tứ song, Bát bội, y vào Bát chúng mà nói ?oChúng tương ưng?, nghĩa lý ấy khiến cho hàng tại gia, xuất gia, nam nữ, lão ấu, các đại đệ tử đều có thể lãnh thọ được sự lợi ích của giáo pháp.
    Các học giả cận đại nghiên cứu về bốn bộ A Hàm rất nhiều. Đầu tiên là các học giả phương Tây, sau đó là các học giả Nhật Bản tiến thêm một bước trong phương pháp luận cứu. Thành quả đạt được tuy rất to lớn, nhưng chủ yếu là văn bản Pàli, vì họ cho rằng đó mới là ngôn ngữ Thánh điển nguyên thủy. Vì các bộ Hán dịch A Hàm pho quyển quá nhiều, thiên chương trùng phức, từ ngữ mâu thuẫn, văn dịch vụng về, nên không được phổ cập. Sau khi các nhà nghiên cứu Phật học Trung Quốc thời cận đại nhận thức được giá trị của kinh điển A Hàm mới bắt đầu có xu hướng khảo cứu tư tưởng A Hàm. Chẳng hạn như Tạp A Hàm, bản hiện nay do nội dung chưa hoàn chỉnh, thứ tự lộn lạo, thất lạc, kinh văn khó hiểu, cho nên các học giả cận đại mới chỉnh lý lại kinh này. Trước mắt, có 2 bản mới là kinh Tạp A Hàm do Phật Quang Sơn xuất bản và Tạp A Hàm kinh luận hội biên của Ấn Thuận. Bản Tạp A Hàm của Phật Quang Sơn sử dụng hình thức chấm câu mới và phân đoạn rõ ràng, chú trọng đối chiếu với các bản Pàli, Hán dịch cùng với các bản dị dịch khác, phân định lại thứ tự số quyển, ở mỗi kinh nhỏ đều có giải thích ý kinh, những chỗ kinh văn khó hiểu thì cẩn thận bổ chính thêm văn Pàli để đối chiếu hoặc dịch ra Trung văn (Bạch thoại). Ngoài ra, điểm đặc sắc của bản này còn được nhìn thấy qua cách hiệu đính nghiêm túc, chú giải rõ ràng, dẫn chứng đầy đủ. Tạp A Hàm kinh luận hội biên của ngài Ấn Thuận thì lấy kinh Tạp A Hàm đối chiếu với luận Du già sư địa, đồng thời dùng phương pháp cổ lệ của Ấn Độ để phân loại nội dung, mà không dùng cách phân quyển như các bản kinh Hán dịch truyền thống. Ấn Thuận hội biên Tạp A Hàm thành 7 tụng 51 tương ưng.

  3. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    4. Tăng nhất A Hàm

    Kinh Tăng Nhất A Hàm, tiếng Phạn là Ekottarikàgama, gồm 51 quyển, do Cù Đàm Tăng Già Đề Bà (Samghadeva) dịch vào đời Đông Tấn (có lẽ trong khoảng thời gian 391-397 TL), hiện nằm trong ĐTK/ĐCTT, tập 2, số 125, trang 549-830. Các kinh từ số 126 đến 151 là các bản dịch lẻ tẻ thuộc Tăng Nhất A Hàm. Bản tiếng Việt, Đại tạng kinh Việt Nam, ký hiệu A a4, HT. Thích Thanh Từ dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, trọn bộ 3 tập.
    Về tên gọi của bổn kinh, theo Thiện kiến luật Tỳ-bà-sa quyển 1, Ngũ phần luật quyển 30, Tứ phần luật quyển 54... thì do kinh này tập hợp các bài pháp thoại có nói đến pháp số, tuần tự sắp xếp từ 1 pháp đến 11 pháp, theo thứ tự tăng dần như vậy nên gọi là Tăng nhất. Tát bà đa tỳ ni tỳ bà sa, quyển 1, còn cho rằng kinh này Đức Phật vì chư Thiên, người đời... tùy thời mà thuyết pháp. Thuyết này không được chính xác lắm!
    Toàn kinh được phân thành 52 phẩm, tổng cộng 472 kinh. Mở đầu là phẩm Tự, trình bày sơ lược diễn biến đại hội kết tập, A Nan tụng kinh, và nhân duyên A Nan truyền pháp cho Ưu Đa La. Tiếp là các phẩm sắp xếp kinh thứ tự theo số pháp, từ 1 đến 11 pháp. 1 pháp có 13 phẩm, 2 pháp có 6 phẩm, 3 pháp có 4 phẩm, 4 pháp có 7 phẩm, 5 pháp có 5 phẩm, 6 pháp có 2 phẩm, 7 pháp có 3 phẩm, 8 pháp có 2 phẩm, 9 pháp có 2 phẩm, 10 pháp có 3 phẩm, 11 pháp có 4 phẩm. Trong đó, cứ sau mỗi kinh hay sau mỗi phẩm đều có bài tụng tóm tắt đại ý của mỗi kinh hay mỗi phẩm. Các bản Tăng Nhất A Hàm của Tống, Nguyên, Minh đều ghi nhận có 52 phẩm, 50 quyển. Còn trong Đại tạng của Cao Ly thì kinh này có 50 phẩm, 51 quyển.
    Về pháp số của kinh này, có hai thuyết. Thuyết thứ nhất cho rằng kinh này vốn có đến 100 pháp, sau vì quên mất nên chỉ còn lại 10 pháp (theo Ma ha tăng kỳ luật quyển 32, A tỳ đàm Tỳ bà sa luận quyển 10, Hữu bộ Tỳ nại da tạp sư quyển 39...). Thuyết thứ hai căn cứ vào Ngũ phần luật quyển 30, Tứ phần luật quyển 54, Tuyển tập Tam tạng và Tạp Tạng truyện, Phân biệt công đức luận quyển 2,... cho rằng kinh này thứ tự sắp xếp từ một đến 11 pháp, tổng cộng có 11 pháp. Thuyết này phù hợp với kinh Tăng Nhất A Hàm hiện còn.
    Trong năm bộ Nikàya, thì kinh này tương đương với Tăng Chi Bô (Anguttara- nikàya). Tăng Chi Bô có 11 tụ, 171 phẩm, 2203 kinh, (nhưng con số này cũng chưa thống nhất), trong đó có 136 kinh tương đương hoặc có thể đối chiếu so với Tăng Nhất A Hàm (theo The Four Buddhist Àgamas in Chinese). Nhưng trong Phật Quang Đại tạng kinh, phần đề giải kinh Tăng Nhất A Hàm cho biết có 153 kinh của Tăng Nhất A Hàm tương đương hoặc gần tương đương với Tăng Chi Bộ.
    Về sự truyền thừa, theo luận Phân biệt công đức, kinh này được truyền từ Nhất thiết hữu bộ. Dịch giả của kinh này xuất thân trong địa bàn truyền giáo của Nhất thiết hữu bộ, cho nên thuyết này cũng rất có lý. Nhưng kinh này lại mang đậm sắc thái Đại thừa, nên ngài Từ Ân cho rằng kinh này được truyền từ Đại chúng bộ. Theo học giả Lương Khải Siêu, kinh này do Nhất thiết hữu bộ truyền, sau đó được bổ sung bởi các bản của Đại chúng bộ.
    Kết luận
    Bốn bộ A Hàm là một kho tàng văn học vô cùng phong phú và sinh động về cả thể loại lẫn nội dung tư tưởng. Toàn bộ kinh văn chứa đựng hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống, từ sự phản ánh hoàn cảnh xã hội Ấn Độ hồi thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, cho đến những tập tục, tư tưởng triết học, tôn giáo, giai cấp... Đặc biệt, A Hàm còn giữ những bài pháp thoại mà đọc lại chúng ta có cảm giác như được nghe chính âm thanh vi diệu của Đức Thế Tôn đang chuyển Pháp luân, đó là những nguyên tắc hành trì, những phương pháp tu tập, những nghệ thuật sống đưa đến hạnh phúc, an lạc và hòa bình cho xã hội trong mọi thời đại.
    Thật vậy, chính vua Ba Tư Nặc đã bày tỏ niềm kính tin Tam bảo như vầy: ?oBạch Thế Tôn, khi con ngồi trên đô tọa, con nhìn thấy mẹ tranh chấp với con, con tranh chấp với mẹ; cha tranh chấp với con, con tranh chấp với cha; cho đến anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc tranh chấp lẫn nhau. Trong khi tranh chấp, mẹ nói con xấu, con nói mẹ xấu, cha con, anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc nói xấu lẫn nhau. Người thân thích trong nhà còn như thế, huống nữa là người ngoài. Còn ở đây, con thấy chúng Tỳ kheo, đệ tử của Thế Tôn theo Thế Tôn tu hành phạm hạnh. Hoặc nếu có Tỳ kheo nào gây ra ít nhiều tranh chấp, xả giới bỏ đạo cũng không nói xấu Phật, không nói xấu Pháp, không nói xấu chúng Tăng, mà chỉ tự chê trách rằng: Tôi xấu xa, thiếu đức hạnh? (Kinh Trung A Hàm). Đây chính là niềm tin vào một cộng đồng thanh tịnh và hòa hợp, cùng học và cùng tu như nước với sữa. Một tổ chức tu học như vậy quả là niềm tin và hy vọng cho con người giữa cảnh đời nhiệt náo này.
    Đọc lại A Hàm chúng ta không những chỉ đồng thuận với nhận xét của vua Ba Tư Nặc, mà còn nhận ra rằng, sự cống hiến của những bài học trong đó cho cuộc đời này, nhất là đối với xã hội đương đại, còn nhiều hơn thế, về mọi lãnh vực, từ kinh tế - chính trị, đến những bài thực nghiệm tâm linh, qua đó ai cũng lãnh thọ được lợi ích, cho bản thân mình, cho gia đình và xã hội.
  4. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    Giới thiệu
    kinh Trường A Hàm
    BAN HOẰNG PHÁP
    Tổng quan
    Trường A Hàm gồm 22 quyển, tổng cộng có 30 kinh, có thể chia thành 4 phần.
    Phần 1: gồm có 4 kinh, chủ yếu nói về sự tích quá khứ của chư Phật và các đệ tử:
    - Kinh Đại Bổn Duyên: Nói về sự tích của Phật Tỳ Bà Thi, cũng như 7 vị Phật quá khứ, cho biết dòng họ, nơi sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp giáo hóa đệ tử... của các Đức Phật.
    - Kinh Du Hành: Quốc vương Ma Kiệt Đà A Xà Thế muốn đem quân chinh phạt nước Bạt Kỳ, lệnh cho đại thần Vũ Xá đến tham vấn Đức Phật xem Ngài có chỉ dạy gì không. Nhân đó, Đức Phật dạy cho các Tỳ kheo 7 pháp, 6 pháp bất thối. Rồi Ngài lên đường du hành giáo hóa, nói 4 pháp thâm diệu, 5 thứ của báu khó được, Tứ đế, 8 nguyên nhân gây động đất, 4 nơi nên xây tháp kỷ niệm, cho đến việc phân chia xá lợi sau khi Phật nhập Niết bàn.
    - Kinh Điển Tôn: Nói nhân hạnh của Đức Phật trong quá khứ từng làm đại thần có tên gọi Điển Tôn, giáo hóa cả 7 vị vua, sau xuất gia tu đạo, nhưng không đạt được cứu cánh giải thoát; nay vì các đệ tử thuyết pháp mới là phạm hạnh cứu cánh.
    - Kinh Xà Ni Sa: Kể chuyện một Ưu bà tắc (nam cư sĩ) trong quá khứ nhờ nhất tâm niệm Phật, sau khi mạng chung được làm thái tử của Tỳ sa môn Thiên vương, chứng sơ quả, trong 7 lần liên tiếp tái sanh thường có tên Xà Ni Sa...
    Phần 2: gồm có 15 kinh, chủ yếu trình bày những lời dạy căn bản của Đức Phật và các phương pháp tu hành:
    - Kinh Tiểu Duyên: Phật nói trong 4 chủng tánh đều có người thiện, kẻ ác, thăng giáng bình đẳng như nhau, nhưng sau khi xuất gia tu đạo đều là con của dòng họ Thích. Lại nói nhân duyên sanh khởi 4 chủng tánh, và khẳng định người nào thành tựu trí tuệ và giới hạnh giải thoát thì đó là người tối thượng, đáng tôn trọng, cung kính...
    - Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành: Nói trong quá khứ có vị vua tên Kiên Cố Niệm cùng 6 vị Chuyển luân vương tiếp theo đều lấy Chánh pháp để trị thế, nên quốc gia hưng thịnh, nhưng đến vị vua thứ 7 thì thực hành pháp ác, khiến nhân loại rơi vào kiếp giảm; về sau vua biết tu thiện, đời sống con người dần đi vào kiếp tăng. Nhân việc này, Đức Phật dạy các Tỳ kheo nỗ lực tu tập thiện pháp, có thể đắc được 4 thần túc lực.
    - Kinh Tệ Tú: Đồng nữ Ca Diếp (Kumàra-Kassapa, Tỳ kheo chứ không phải Tỳ kheo ni, mặc dù bản Hán gọi là Đồng nữ), tại nước Câu Tát La vì Bà la môn Tệ Tú (Pàyàsi) thuyết pháp phá trừ đoạn kiến (chấp đoạn), khiến ông này quy y Phật pháp, bố thí cúng dường, sau khi mạng chung được sanh thiên.
    - Kinh Tán Đà Na: Phạm chí Ni Câu Đà chê bai đức Phật trước mặt Tán Đà Na, một cư sĩ thâm tín Tam bảo. Nhân đó, Đức Phật thuyết pháp cho Ni Câu Đà thấy, cùng một pháp khổ hạnh, nhưng có khi được khen là vô cấu, có lúc bị chê là cấu uế. Sau bài pháp thoại của Đức Thế Tôn, Ni Câu Đà cùng 500 đệ tử đều xin quy y Tam bảo.
    - Kinh Chúng Tập: Đức Phật bảo Xá Lợi Phất thay Ngài thuyết pháp cho đại chúng nghe, nhân sau mùa an cư các đệ tử từ các nơi trở về thăm Phật. Xá Lợi Phất bắt đầu từ một pháp ?oHết thảy chúng sanh đều do thức ăn mà tồn tại?, rồi lần lượt nói đến 2 pháp, tăng dần lên 10 pháp vô học.
    - Kinh Thập Thượng: Đức Phật bảo Xá Lợi Phất thuyết pháp "Thập thượng", từ 1 pháp 10 loại, dần dần tăng lên 10 pháp 10 loại, có khả năng đoạn trừ trói buộc, thành tựu Niết bàn, diệt biên tế khổ.
    - Kinh Tăng Nhất: Đức Phật vì các Tỳ kheo thuyết 5 pháp: một thành pháp, một tu pháp, một giác pháp, một diệt pháp, một chứng pháp, tăng dần lên đến 10 thành, 10 tu, 10 giác, 10 diệt, 10 chứng.
    - Kinh Tam Tụ: Đức Phật vì các Tỳ kheo biện biệt rõ 3 tụ pháp hướng đến ác thú, thiện thú và Niết bàn, thuyết pháp môn tăng nhất, từ 3 tụ 1 pháp, đến 3 tụ 10 pháp.
    - Kinh Đại Duyên Phương Tiện: Diễn nói thâm nghĩa 12 nhân duyên.
    - Kinh Thích Đề Hoàn Nhân Vấn: Thích Đề Hoàn Nhân (Sakka devàn= Inda), vua của các cõi trời, phát khởi thiện tâm vi diệu, muốn đến nghe Phật thuyết pháp, trước hết vua sai nhạc thần Ban Giá Dực trổi nhạc cúng dường, tán thán Phật. Phật vì thấy nhân dân cõi trời ưa đùa bỡn mà khởi tâm ưa ghét, nên nói pháp: ?oNếu không đùa bỡn thì không tưởng, không tưởng thì không dục, không dục thì không ưa ghét, không ưa ghét thì không tham tật, không tham tật thì hết thảy chúng sanh không còn gây tổn hại cho nhau?. Lại nói pháp xả ly các thọ...
    - Kinh A Nậu Di: Phật vì phạm chí Phòng Già Bà nói pháp về trường hợp Tỳ kheo Thiện Tú hoàn tục. Tỳ kheo Thiện Tú hoàn tục vì cho rằng Như Lai không hiện thần túc biến hóa cho ông ta thấy, trong khi Đức Thế Tôn đã dùng vô số phương tiện hiển thị thần thông, nhưng vì ngu si, Thiện Tú không nhận ra được. Đức Phật lại phân tích cho thấy khổ hạnh tà kiến của ngoại đạo.
    - Kinh Thiện Sanh: Đức Phật giảng dạy cho Thiện Sanh từ bỏ bốn hạnh ác, đồng thời chỉ cho biết những đạo lý làm người và ý nghĩa của sáu phương lễ lạy...
    - Kinh Thanh Tịnh: Nhân sự kiện Sa Di Châu Na trần thuật việc đồ chúng của ngoại đạo Ni Kiền Tử phân biệt, tranh chấp nhau, Đức Phật giảng dạy Chánh pháp phạm hạnh thanh tịnh không có tranh chấp, các đệ tử Như Lai hòa hợp tu học như nước với sữa.
    - Kinh Tự Hoan Hỷ: Xá Lợi Phất nhớ nghĩ những lời Phật dạy về chế pháp (37 Bồ đề phần), xứ pháp (12 xứ), trí tuệ vô dư, thần thông vô dư, tất cả Sa môn, Bà la môn trên thế gian không có ai so sánh được với Như Lai... tự nhớ nghĩ vậy mà sanh tâm hoan hỷ.
    - Kinh Đại Hội: Chư thiên, Rồng, Quỷ, Thần, A Tu La, Ca Lâu La, Chân Đà La, Ma Hầu La Già, Nhân và Phi nhân đại tập hội, Đức Phật vì họ thuyết pháp, khiến cho ai nấy đều được lợi ích, xa lìa trần cấu...
    Phần 3: gồm 10 kinh, chủ yếu tường thuật Đức Phật luận nạn với các dị học, ngoại đạo:
    - Kinh A Ma Trú: Kinh nói về trường hợp Đức Thế Tôn hàng phục ngoại đạo A Ma Trú và thầy của y, Bà la môn Phất Già La Sa La. Đức Phật nói về nhân duyên chủng tánh dòng họ Thích cho A Ma Trú nghe, khéo léo cho y thấy tướng hảo của Phật; cuối cùng A Ma Trú cũng như thầy của y đều quy y và ngộ đạo.
    - Kinh Phạm Động: Kinh này nói về kẻ phàm phu ít học, không hiểu được thâm nghĩa, chỉ biết tán thán Đức Phật qua chút ít nhân duyên trì giới; chỉ có bậc Thánh đệ tử mới có khả năng tán thán Đức Phật qua pháp thậm thâm vi diệu, đại quang minh. Đức Phật biết một cách tường tận rằng, các Sa môn, Bà la môn bằng vào kinh nghiệm ?obổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến(1)? mà sáng lập nên 62 học thuyết ngoại đạo. Sau đó, Đức Phật giải thích tường tận tư tưởng của 62 học phái triết học đó.
    - Kinh Chủng Đức: Theo gợi ý của Đức Phật, Bà la môn Chủng Đức nêu lên 5 tiêu chuẩn của một người cao quý thuộc dòng dõi Bà la môn. Đức Phật dần loại bỏ 3 tiêu chí đầu, chỉ giữ lại tiêu chuẩn trì giới và trí tuệ, là tiêu chuẩn không thể thiếu, và đây chính là hai pháp mà các Tỳ kheo hành trì. Qua đó cho thấy Đức Phật đã làm một cuộc cách mạng thay đổi quan niệm giai cấp của xã hội thời bấy giờ.
    - Kinh Cứu La Đàn Đầu: Bà la môn Cứu La Đàn Đầu chuẩn bị tổ chức đại lễ tế tự với nhiều bò và dê, nhưng sau khi diện kiến Đức Thế Tôn, hỏi về thể thức tế tự, Đức Phật vì ông ta nói về ba loại tế tự, 16 tế cụ, giảng về công đức của sự quy y, giữ giới, từ tâm và xuất gia tu đạo, khiến cho Cứu La Đàn Đầu tỉnh ngộ, thả hết bò và dê, xin quy y Tam bảo.
    - Kinh Kiên Cố: Con trai của trưởng lão Kiên Cố xin Phật dạy cho các Tỳ kheo hiển thị thần thông. Đức Phật từ chối và nói rằng, ngài chỉ dạy cho các đệ tử tĩnh lự tu đạo, có công đức thì che giấu, có tội lỗi thì phát lộ, chứ không bao giờ dạy các đệ tử hiển thị thần thông.
    - Kinh Lõa Hình Phạm Chí: Đức Phật vì lõa hình Phạm chí Ca Diệp giảng giải về hai con đường thiện và ác theo tôn chỉ của học phái này đều không phải là đạo xuất ly, chỉ có Phật pháp mới khiến cho người tu đạo đạt được cứu cánh Niết bàn.
    - Kinh Tam Minh: Chỉ rõ cho hai thanh niên Bà la môn Bà Tất Tra và Phả La Đọa thấy sự hư dối của các tôn sư ngoại đạo, đồng thời chỉ bày cho họ con đường sanh Thiên, sống chung với Phạm thiên, đó là tu tập bốn tâm vô lượng.
    - Kinh Sa Môn Quả: Đức Phật vì vua A Xà Thế nói về kết quả tu tập hiện tại của các Sa môn, khiến cho vua ăn năn sám hối.
    - Kinh Bố Tra Bà Lâu: Ngoại đạo Phạm chí Bố Tra Bà Lâu xuất gia theo Phật, sau khi nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp, ông ta đã nhận ra những học thuyết sai lầm của các tôn giáo thời bấy giờ như có ngã hay không ngã, thế gian là thường còn hay không thường còn v.v...
    - Kinh Lộ Già: Bản kinh cho biết quan điểm của Đức Phật về tự độ và độ tha, đồng thời cho biết tư cách của một vị Pháp sư; người Phật tử phải biết phân biệt đâu là vị Pháp sư đáng bị chỉ trích và đâu là vị Pháp sư đáng được tôn kính, tạo điều kiện cho họ hoằng pháp...
    Phần 4: có 1 kinh, tức kinh 30, tường thuật về tướng trạng, kiếp số, thành hoại của thế giới mà lục đạo chúng sanh đang sống, gồm có 12 phẩm: phẩm 1: Châu Diêm phù đề, phẩm 2: Uất đan việt, phẩm 3: Chuyển luân Thánh vương, phẩm 4: Địa ngục, phẩm 5: Long điểu, phẩm 6: A tu luân, phẩm 7: Tứ Thiên vương, phẩm 8: Đao lợi thiên, phẩm 9: Tam tai, phẩm 10: Chiến đấu, phẩm 11: Ba trung kiếp, phẩm 12: Thế bổn duyên.
  5. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    Nhận xét
    1. Nhận xét chung
    Mỗi lần đọc lại một bài kinh, thậm chí một đoạn của kinh A Hàm, là một lần chúng ta có cái niềm hỷ lạc như đang được dự vào trong pháp hội của kinh, cùng với các Thánh đệ tử tắm mình trong pháp nhũ Đức Thế Tôn đang tuyên thuyết. Đó là cảm giác của riêng chúng tôi khi học kinh A Hàm. Vì vậy, chúng tôi xin được đề nghị, những ai học kinh A Hàm nói chung, Trường A Hàm nói riêng, phải dành thời gian đọc nguyên văn bản kinh để có được cảm nhận niềm ?otự hoan hỷ? như ngài Xá Lợi Phất là một minh chứng trong kinh số 18.
    Trong 4 bộ A Hàm, Trường A Hàm có số lượng kinh ít nhất, nhưng đã phản ánh toàn bộ các đặc điểm của Phật giáo. Ngoài những giáo lý và phương pháp tu tập căn bản, nội dung kinh còn bao hàm tất cả những phạm trù của xã hội, từ chính trị, tôn giáo, tín ngưỡng, giai cấp, triết học, đến những cơ sở đạo đức căn bản trong cuộc sống hàng ngày, những lời dạy thiết thực cho đời sống hạnh phúc hiện tại và tương lai, mà khi đọc ai cũng thấy cần thiết phải học và thực hành.
    2. Vài đặc điểm của Trường A Hàm
    a) Quan niệm về Đức Phật:
    Đức Phật trong kinh tạng A Hàm nói chung, Trường A Hàm nói riêng, được coi là Đức Phật lịch sử, bởi tính chất nguyên thủy của các bộ kinh này. Theo kinh Đại Bổn Duyên, pháp thường của chư Phật trong ba đời đều có một sứ mạng cao cả và duy nhất là: ?ocứu độ chúng sanh khỏi sinh, già, bệnh, chết?. Để thực hiện được lý tưởng này, chư Phật phải giáo hóa cho tất cả chúng sanh đều được giác ngộ như quý ngài, tức là điều mà Đại thừa nói: ?oKhai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến?. Đó là điều tất yếu. Với lý tưởng đó, ngay từ khi chư Phật nhập thai đã thực hiện hạnh nguyện độ sanh: ?oBồ tát từ trời Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khiến tâm mẹ lúc nào cũng thanh tịnh, không có các dục tưởng, không bị lửa dục thiêu đốt?; cho đến phút cuối cùng trước lúc nhập Niết bàn, quý Ngài cũng chỉ vì mục đích đó, làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi: ?oNày A Nan, ngươi chớ nghĩ sau khi Ta diệt độ, các ngươi mất chỗ nương tựa, không ai che chở. Chớ có quan niệm như vậy. Nên biết những kinh và giới mà Ta đã dạy từ khi thành đạo đến nay là chỗ nương tựa, che chở các ngươi đó?.
    Kinh Đại Bổn Duyên còn cho biết khi Bồ tát từ cõi trời Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ, thì ánh sáng rực rỡ soi khắp thế gian, khiến cho chúng sanh trong chốn u minh được trông thấy nhau: ?oĐức Bồ tát Tỳ Bà Thi từ cõi trời Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ, do hông phải mà vào, chánh niệm không tán loạn. Ngay lúc ấy cõi đất rung chuyển; ánh sáng rực rỡ soi khắp thế gian; những chỗ mặt trời mặt trăng không soi tới cũng đều mong nhờ chiếu sáng. Chúng sinh chốn u minh nhờ đó được trông thấy lẫn nhau và tự biết mình hiện đang sinh ở chỗ nào...?.
    Đọc lại đoạn kinh này trong bối cảnh xã hội ngày nay mới thấy thấm thía! Rõ ràng, không phải chỉ có chúng sanh trong cõi u minh từ lâu đã không được nhìn thấy mặt nhau, mà ngay trong thế giới hiện đại của chúng ta, giữa thanh thiên bạch nhật, người ta vẫn không nhìn thấy nhau, dù vẫn đối mặt hàng ngày. Đơn giản là ai cũng chỉ thấy mình, thấy quyền lợi, địa vị, quyền lực che mờ nên đã quên mất và không nhìn thấy nhau.
    Như vậy, Đức Phật ra đời là để mở con ?omắt tuệ? cho chúng sanh. Ngài là bậc ?oChí nhân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, đầy đủ thập hiệu, tối thắng giữa chư Thiên và loài người?.
    b) Tư tưởng tự do, bình đẳng:
    Lịch sử của nhân loại là lịch sử của đấu tranh kéo dài dai dẳng, từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhưng cũng không ngoài mục đích vì khát vọng tự do, bình đẳng và dân chủ. Đức Phật là nhà cách mạng đầu tiên trong phong trào đòi quyền tự do và bình đẳng đó. Bằng trí tuệ giác ngộ và lòng từ bi, Ngài đã cất lên tiếng nói nhân bản chưa từng được biết đến trong lịch sử loài người thời bấy giờ: ?oChánh đạo vô thượng của Ta không cần kể dòng dõi, không ỷ vào tâm kiêu mạn ngô ngã. Pháp thế tục cần thứ đó. Pháp của Ta không phải vậy. Nếu có Sa môn hay Bà la môn nào tự thị chủng tộc, ôm lòng kiêu mạn thì ở trong giáo pháp Ta trọn không chứng đắc vô thượng. Nếu hay khước từ chủng tánh, trừ bỏ tâm kiêu mạn, thì mới có thể chứng được đạo quả vô thượng trong giáo pháp Ta, mới kham lãnh thọ được chánh pháp. Người đời gớm ghét kẻ hạ lưu, còn giáo pháp ta không thế? (Kinh Tiểu Duyên).
    Đức Phật là nhà giải phóng giai cấp và đã đưa ra tuyên ngôn dân chủ đầu tiên trong lịch sử đấu tranh giai cấp. Ngài cho rằng, con người ở bất kỳ giai cấp nào, địa vị nào, cũng có người xấu, người tốt. Không thể đánh đồng quan niệm, hễ tri thức là lương thiện, mà dân đen thất học là bất lương. Bốn chủng tánh hình thành bốn giai cấp thời đó, ngày nay ta có thể hiểu gồm mọi giai tầng của xã hội. Đức Phật nói: ?oBốn chủng tánh gồm cả người lành người dữ; được người trí khen, cũng bị người trí chê?. Một người trở nên cao thượng, có đạo đức, được tôn quý, chưa hẳn vì người đó xuất thân trong một gia đình cao quý, có địa vị quyền lực, càng không phải vì người đó được cho ăn học ở những trường lớp có tiếng, có nhiều bằng cấp, học vị, lại càng không phải vì người đó có dung mạo đẹp đẽ. Bởi vì, dù người đó có hội đủ các tiêu chuẩn trên, nhưng đời sống của người đó buông lung, không giới hạnh, không có trí tuệ, tham nhũng, không có năng lực quản lý... thì làm sao được xem là có đạo đức, đáng được cung kính? Cho nên, theo Đức Phật, con người có quyền tự do và quyết định phẩm giá của mình. Và một người trở nên cao thượng, đạo đức, đáng được tôn quý, khi người ấy có đầy đủ giới hạnh và trí tuệ: ?oAi đầy đủ giới và tuệ, ta gọi người đó là Tỳ kheo? (Kinh Chủng Đức).
    Đạo Phật xác định hành động của con người là nguyên nhân tạo nên các cung bậc giá trị của xã hội loài người. Trên thế giới này không có gì tự nhiên sinh ra hay từ hư không rơi xuống, mà đều do năng lực hoạt động (Nghiệp) của con người tạo thành. Năng lực hoạt động của con người tạo tác chi phối tất cả. Tất cả khổ hay vui, tiến hóa hay thoái hóa, là đều do chính hành động, thái độ của con người quyết định nên.
    c) Quan điểm về tôn giáo, tín ngưỡng, tế tự:
    Kinh Phạm Động cho biết xã hội thời Đức Phật có tới 62 trường phái tư tưởng triết học tôn giáo. Tư tưởng nhân loại luôn luận bàn về quá khứ tối sơ (tức khởi nguyên của vũ trụ), hay luận bàn về tương lai, hoặc luận bàn về quá khứ tối sơ và tương lai, nhằm thỏa mãn những thắc mắc, hoài nghi về thế giới và con người. 62 trường phái tư tưởng triết học đó như tấm lưới bủa khắp tất cả tư tưởng của nhân loại. Đức Phật nói, đối với 62 học thuyết đó, Ngài đều có kinh nghiệm và biết một cách như thật rằng, nó phát sinh từ kinh nghiệm của cảm thọ và chấp thủ cảm thọ. Các bậc tôn sư của các trường phái đó có những cảm thọ do sự xúc chạm qua sáu xứ, nghĩa là họ có kinh nghiệm nhờ tư duy, thẩm sát và thiền định. Nhưng ?odo duyên với những cảm thọ mà tham ái phát khởi, do duyên với tham ái mà thủ phát khởi, do duyên với thủ mà hữu phát khởi, do duyên với hữu mà sanh phát khởi, do duyên với sanh mà già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não phát khởi?. Cho nên, những tư tưởng triết học đó, dù được kinh nghiệm từ tâm linh, vẫn lẩn quẩn trong vòng tư duy hữu ngã, chấp trước không đưa đến an lạc, giác ngộ giải thoát, vẫn chìm đắm trong tham dục và khổ đau cho mình, cho người.
    Đức Phật khi mới xuất gia học đạo cũng có những kinh nghiệm như đã nêu. Nhưng Ngài đã không dừng lại, bằng lòng và thỏa mãn với những kinh nghiệm đó, Ngài đã như thật liễu tri sự tập khởi, sự diệt trừ vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu chỗ xuất xứ, vượt thắng mọi kinh nghiệm trên, xả ly tất cả và chứng đắc Niết bàn tối hậu. Những lý thuyết, phương pháp tu tập của Phật giáo đều xuất phát từ kinh nghiệm thực chứng, chỉ thấy và chỉ nói những sự thật mà sự vật có, không thêm không bớt.
    Kinh số 26 cho thấy Đức Phật không chấp nhận những tín ngưỡng và hành động không phát sinh từ sự hiểu biết như thật, như chân lý vốn có của chúng. Đạo Phật không công nhận những kết quả của tín ngưỡng mê mờ, mê tín. Kinh Cứu La Đàn Đầu phản ánh quan điểm tế tự của Phật giáo. Theo đó, đạo Phật không chấp nhận hành động giết hại chúng sanh để cúng tế cầu phước.
    d) Phương pháp hành trì:
    Kinh Du Hành được mở đầu bằng một sự kiện lịch sử rất đáng nhớ. Đó là thất bại của A Xà Thế, quốc vương Ma Kiệt Đà, trong cuộc chinh phạt quốc gia Bạt Kỳ, khi bỏ qua lời cảnh cáo của Đức Thế Tôn. Bấy giờ Đức Phật đang ở trong vương quốc Ma Kiệt Đà, do đó, trước khi đem quân chinh phạt, A Xà Thế đã cho đại thần Vũ Xá đến tư vấn chính trị xem Ngài có chỉ dạy gì không, Đức Phật chỉ cho thấy, Bạt Kỳ là một quốc gia bất khả xâm phạm, nhưng A Xà Thế đã không đủ bình tĩnh để nghe lời can gián ấy, nên đã chuốc lấy thất bại. Bạt Kỳ đã xây dựng một đất nước vững mạnh, với nền kinh tế, chính trị, giáo dục, xã hội... được thiết lập trên ?obảy pháp bất thối?, đó là: 1. Nhân dân thường nhóm họp bàn những sự việc chân chánh, 2. Vua tôi hòa thuận, trên dưới kính nhường nhau, 3. Nhân dân thường tôn trọng pháp luật, hiểu điều cấm kỵ, chẳng trái lễ độ, 4. Người dân biết hiếu dưỡng cha mẹ, kính thuận sư trưởng, thầy cô giáo, 5. Nhân dân thường tôn trọng tông miếu, kính nể quỉ thần, 6. Người dân giữ gìn khuê môn trinh chính, thanh khiết, không bậy bạ, cho đến sự vui đùa, nói năng cũng không tà vạy, 7. Người dân tôn thờ Sa môn, kính người trì giới và thân cận ủng hộ chẳng biếng nhác.
    Với ?obảy pháp bất thối? này, bất cứ một quốc gia, một tổ chức nào cũng có thể trở nên giàu mạnh, vững chắc, bất khả xâm phạm. Đó là một tổ chức lý tưởng. Đối với tổ chức Phật giáo cũng không ngoại lệ. Đức Phật nói, muốn cho Chánh pháp trường tồn, không bị suy thoái, cách duy nhất mà các thầy phải làm đó là nỗ lực tu tập ?obảy pháp bất thối?: ?o1. Thường hội họp luận bàn nghĩa lý chân chính, 2. Trên dưới hòa đồng, kính thuận không trái, 3. Trọng pháp, hiểu điều cấm kỵ, không trái qui chế, 4. Nếu có Tỳ kheo nào có năng lực hộ chúng, có nhiều tri thức, nên được kính thờ, 5. Niệm hộ tâm ý, lấy sự hiếu kính làm đầu, 6. Tịnh tu phạm hạnh, 7. Không tham lam danh lợi?.
    Mục đích tối hậu của đời sống Phật giáo là giác ngộ giải thoát. Không có chất liệu của giải thoát thì đạo Phật chỉ còn là một hình thức khô cứng và không có ích gì cho cuộc đời. Những lời dạy của Đức Phật là những bài thực tập, là những phương pháp hành trì, là những nghệ thuật sống nhằm chế tác chất liệu tự do, thảnh thơi và giải thoát. Cho nên, học Phật không phải để chất chứa tri thức mà là để sống. ?oBảy pháp bất thối? gói gọn tất cả những lời dạy, những pháp hành mà Đức Phật đúc kết trong suốt 45 năm giáo dục, hoằng pháp. ?oChúng Tăng còn có điều gì cần ở Ta nữa?? Đó lời quở trách của Đức Như Lai trong những giây phút cuối đời khi A Nan xin Ngài di giáo. Ngài ân cần khuyên bảo: ?oHãy tự mình thắp sáng, thắp sáng nơi pháp, chớ thắp sáng nơi khác. Hãy tự nương tựa mình, nương tựa nơi pháp, chớ nương tựa nơi khác?. Tự mình nương tựa và nương tựa nơi pháp đó chính là thực hành Tứ niệm xứ. ?oNày A Nan, sau khi Ta diệt độ, nếu có ai có thể tu hành pháp này, người đó là đệ tử chân thật của Ta, là bậc nhất hữu học (Kinh Du Hành).
    Kết luận
    Nêu lên vài đặc điểm của Trường A Hàm là để góp phần cung cấp cho người học một phương pháp để nhận thức thế giới, cũng như nhân sinh quan theo quan điểm của Phật giáo. Kinh tạng Phật giáo là cả kho tàng văn hóa, tri thức, triết học, xã hội... của nhân loại, nhưng đó không phải là cứu cánh của Phật giáo. Cứu cánh của Phật giáo là giúp con người ?ochuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc?. Trường A Hàm dù không nhiều kinh, nhưng đầy đủ những phương pháp thực tập và hành trì chuyển hóa nội tâm để đạt được mục đích cứu cánh đó, nhất là xây dựng cho con người một phương cách nhận thức mới về tín ngưỡng, tôn giáo, giúp nhân loại thoát khỏi những định kiến, cố chấp kéo dài qua nhiều thế hệ, gây không biết bao nhiêu khổ đau, phiền não cho mình và cho người.
    Cuối cùng, xin tạm dừng lại bài giới thiệu này bằng một Phật ngôn: ?oTừ trời đất đến người vật, không có cái gì sinh ra mà không kết thúc. Muốn các pháp hữu vi không bị biến dịch, thì không thể nào được. Trước đây Ta đã từng dạy ân ái là vô thường, có hội hiệp tất có chia ly. Thân này không phải của mình, mạng này không ở lâu được? (Kinh Du Hành).
    (1) Bổn kiếp bổn kiến, quan điểm về khởi nguyên của thế giới dựa kiếp quá khứ, nguyên thủy sáng thế luận.
    Mạt kiếp mạt kiến, mạt thế luận.
  6. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    GIỚI THIỆU KINH TRUNG A HÀM

    Ban Hoằng Pháp


    TỔNG QUAN

    Nội dung bản dịch kinh Trung A Hàm gồm 5 tụng, 18 phẩm, 222 kinh, khoảng 514.825 chữ, (chữ Hán, xem bài tựa của Đạo Từ trong Xuất Tam tạng ký tập, quyển 9). Bản dịch Việt ngữ cũng giữ nguyên bố cục ấy. Chủ đề của các phẩm như sau:
    Ngày đầu tiên
    tụng 5 phẩm rưỡi, gồm 64 kinh
    Phẩm Bảy pháp: có 10 kinh, gồm những kinh nói về 7 pháp, như 7 thiện pháp, 7 tiến trình tu hành giải thoát, 7 hạng A na hàm, 7 phương pháp phòng hộ tâm, 7 phương pháp đoạn trừ lậu hoặc...
    - Kinh Thiện Pháp: Tỳ kheo nào thành tựu bảy pháp tất được hoan hỷ an lạc trong pháp Hiền Thánh, thẳng tiến đến lậu tận, 7 pháp đó là: biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết tiết độ, biết mình, biết chúng hội và biết sự hơn kém của người.
    - Kinh Trú Độ Thọ: Lấy hình ảnh cây Trú độ trên cõi trời Ba mươi ba từ khi thay lá đến khi nở hoa tròn đầy, trải qua 7 giai đoạn, để dụ cho lộ trình tu học của một Tỳ-kheo từ khi xuất gia đến chứng Tứ quả.
    - Kinh Thành Dụ: Như vương thành ở biên giới nhờ thành tựu 7 điều kiện và 4 thứ lương thực sung túc nên không bị ngoại địch đánh phá; cũng vậy, Tỳ kheo thành tựu 7 thiện pháp và 4 tăng thượng tâm không bị ma vương lung lạc. 7 thiện pháp là: tín kiên cố, tàm, quý, tinh tấn, học rộng nghe nhiều, chánh niệm, trí tuệ. 4 tâm vô tăng thượng là Tứ thiền.
    - Kinh Thủy Dụ: Đức Phật giảng về 7 hạng người ở dưới nước để dụ cho 7 hạng người trong thế gian, từ người thường làm điều tệ ác cho đến người thành tựu 4 quả Thánh.
    - Kinh Mộc Tích Dụ: Nói thà ôm đống gỗ đang cháy đỏ dù phải chịu đau khổ hay mất mạng chứ không phá giới gần gũi người nữ...
    - Kinh Thiện Nhân Vãng: Đức Phật nói cho các Tỳ kheo biết về bảy nơi mà bậc thiện nhân đi đến và Vô dư Niết bàn...
    - Kinh Thế Gian Phước: Nói về 7 phước thế gian như bố thí phòng nhà... cho đến 7 phước xuất thế gian như vui mừng hớn hở khi nghe Phật hoặc các đệ tử Như Lai đang ở đâu đó...
    - Kinh Thất Nhật: Tất cả các hành đều vô thường, là pháp không tồn tại lâu dài, pháp chóng đổi thay, pháp không thể nương tựa, như thế gian này sẽ đến ngày hủy diệt, lúc ấy sẽ có một cho đến bảy mặt trời xuất hiện, khiến cho đại địa cháy khô, núi lửa bùng nổ... Các hành như vậy không nên tham đắm mà phải ghê sợ nhờm tởm, nên tìm sự xả ly, nên tìm giải thoát.
    - Kinh Thất Xa: Lấy việc vua Ba Tư Nặc từ nước Xá Vệ lần lượt thay 7 xe để mau chóng đến Sa Kê Đế để ví dụ do 7 pháp tịnh như giới thanh tịnh... tương tục thành tựu đạt đến Vô dư Niết bàn.
    - Kinh Lậu Tận: Nói do tri, do kiến hay do chánh tri kiến...mà đoạn trừ 7 thứ hữu lậu.
    Phẩm Nghiệp tương ưng: có 10 kinh, giải thích về nhân quả nghiệp báo (gồm 10 nghiệp thiện và 10 nghiệp ác), thời gian thọ báo, ảnh hưởng của nghiệp báo, tác động của sự tu tập và chuyển hóa của tâm lên nghiệp nhân đã tạo...
    - Kinh Diêm Dụ: Nói về con người tạo nghiệp như thế nào, lãnh thọ nghiệp ấy như thế; như vậy không có sự thực hành phạm hạnh, không thể diệt tận khổ. Nhưng nếu người trí tu thân, giới, tâm huệ... tuy có làm nghiệp bất thiện, nhưng cũng chỉ chịu quả báo nhẹ trong đời hiện tại như đem chút ít muối bỏ vào sông Hằng thì không cảm thấy được vị mặn...
    - Kinh Hòa Phá: Đức Phật vì ông Thích Hòa Phá, đệ tử Ni Kiền, giải thích vô minh hết thì không còn tái sanh. Tỳ kheo với tâm giải thoát chơn chánh như vậy, liền được sáu hằng trụ, như mắt thấy sắc mà không hỷ, không ưu, an trú xả, chánh niệm, chánh trí...
    - Kinh Độ: Đức Phật nói có ba độ xứ (tức ba chủ trương, học thuyết) của ngoại đạo, như cho rằng có số mạng định sẵn..., dù được trình bày với hình thức nào cũng không đưa đến lợi ích. Rồi Đức Phật nói pháp duyên khởi mà Ngài chứng ngộ, như 6 xứ: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; và pháp 6 giới: địa, thủy, hỏa, phong, không, thức; cho đến pháp Tứ đế...
    - Kinh La Vân: Răn dạy La Hầu La chớ vọng ngữ.
    - Kinh Tư: Nói về quả báo tạo nghiệp cố ý và tạo nghiệp không cố ý.
    - Kinh Già Lam: Răn cấm 10 nghiệp bất thiện, khuyên tu 4 tâm vô lượng, được 4 trú xứ an ổn.
    - Kinh Già Di Ni: Nói quả báo của 10 ác, 10 thiện như đá, như dầu, chìm nổi khác nhau.
    - Kinh Sư Tử: Nói cho Đại thần Sư Tử về các việc nên làm và không nên làm.
    - Kinh Ni Kiền: Nói về 5 điều đáng ghê tởm của Ni Kiền tử và 5 điều được xưng tán mà Như Lai đã đạt.
    - Kinh Ba La Lao: Nói Phật biết huyễn thuật, nhưng chính Phật không phải là nhà huyễn thuật, và nói 4 tâm vô lượng cùng pháp viễn ly quyết định đoạn trừ được nghi hoặc.
    Phẩm Tương ưng Xá Lợi Phất: gồm 11 kinh, chủ yếu do ngài Xá Lê Tử (tức Xá Lợi Phất) nói, hoặc các việc có liên quan đến khả năng, đạo đức và trí tuệ của Ngài.
    - Kinh Đẳng Tâm: Ghi lại sự kiện Tôn giả Xá Lợi Phất phân biệt nghĩa lý nội kết sử và ngoại kết sử cho các Tỳ kheo.
    - Kinh Thành Tựu Giới: Ngài Xá Lợi Phất nói nếu Tỳ kheo nào thành tựu giới, thành tựu định, thành tựu tuệ thì ngay trong đời hiện tại mà ra vào định tưởng thọ diệt, nếu không chứng được cứu cánh trí, khi thân hoại mạng chung, vượt qua khỏi trời Đoàn thực, sanh lên các cõi trời Ý sanh, tại các cõi ấy mà ra vào định tướng tri diệt. Bản kinh còn cho biết 5 tiêu chuẩn để một Tỳ kheo được kính trọng.
    - Kinh Trí: Ngài Xá Lợi Phất gián tiếp tuyên bố chứng đắc trí, biết như thật rằng, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Qua đó, Đức Phật ấn chứng cho lời tuyên bố đó bằng cách gạn hỏi về pháp Nhân duyên sanh.
    - Kinh Sư Tử Hống: Ngài Xá Lê Tử nói nếu người có quán niệm thân trên thân thì không khinh mạn một vị phạm hạnh; nếu người nào không có quán niệm thân trên thân thì người ấy mới khinh mạn một vị phạm hạnh.
    - Kinh Thủy Dụ: Xá Lợi Phất nói cho các Tỳ kheo 5 pháp diệt trừ sự phiền não.
    - Kinh Cù Ni Sư: Ngài Xá Lợi Phất, nhân Cù Ni Sư sống một mình trong rừng nhưng vẫn buông lung, mà dạy các Tỳ kheo phải học phương pháp sống một mình, như phải học pháp kính trọng và tùy thuận quán sát, học hạnh không cười giỡn, không tháo động...
    - Kinh Phạm chí Đà Nhiên: Ngài Xá Lợi Phất giáo hóa Bà la môn Đà Nhiên trở về quy y Tam bảo, tạo dựng cuộc sống chánh nghiệp, chánh mạng và tu tập 4 tâm vô lượng để sanh lên cõi Phạm thiên.
    - Kinh Giáo Hóa Bệnh: Tôn giả Xá Lợi Phất vì ông Cấp Cô Độc nói về 10 thứ thượng tín của người đắc quả Tu Đà Hoàn. Bài pháp mầu nhiệm này đã trị lành bệnh cho Cấp Cô Độc.
    - Kinh Đại Câu Hy La: Tôn giả Xá Lợi Phất cùng Tôn giả Đại Câu Hy La thảo luận về chánh kiến, con đường nhập vào Chánh pháp; Tôn giả Đại Câu Hy La trình bày về chánh kiến, đó là thấy được bất thiện, căn bản của bất thiện...
    - Kinh Tượng Tích Dụ: Tôn giả Xá Lợi Phất giảng dạy cho các Tỳ kheo về giáo lý Tứ diệu đế, đó là pháp thâu nhiếp vô lượng thiện pháp, là pháp tối thượng nhất, như dấu chân voi thâu nhiếp tất cả dấu chân của các con vật khác.
    - Kinh Phân Biệt Thánh Đế: Đức Phật giảng cho các Tỳ kheo biết ba đời chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều công bố Chánh pháp tối thượng, đó là Tứ diệu đế, đồng thời phân biệt, giảng nói rộng rãi nghĩa lý của bốn pháp này.
    Phẩm Vị tằng hữu pháp: gồm 10 kinh, nói về pháp chưa từng có (tức những vấn đề đặc biệt kỳ diệu) mà chỉ Đức Phật và các đệ tử của Ngài mới có.
    - Kinh Vị Tằng Hữu Pháp: Tôn giả A Nan phát nguyện thọ trì pháp Vị tằng hữu của Đức Thế Tôn.
    - Kinh Thị Giả: Nói về pháp Vị tằng hữu của thị giả A Nan.
    - Kinh Bạt Câu La: Nói về hạnh tri túc vị tằng hữu của ngài Bạt Câu La.
    - Kinh A Tu La: Vua của loài Atu la thăm Đức Thế Tôn và nói về 8 pháp Vị tằng hữu của biển lớn. Đức Thế Tôn liền dùng 8 pháp ấy để dụ cho 8 pháp Vị tằng hữu trong Chánh pháp luật của Phật.
    - Kinh Địa Động: Nói về 3 nguyên nhân gây động đất và Như Lai thành tựu công đức đắc pháp Vị tằng hữu.
    - Kinh Chiêm Ba: Đức Thế Tôn sẽ không thuyết giới nếu trong chúng có Tỳ kheo không thanh tịnh. Rồi Đức Phật lại dùng 8 pháp Vị tằng hữu của biển cả dụ cho 8 pháp Vị tằng hữu trong Chánh pháp luật của Ngài.
    - Kinh Úc Già Trưởng Giả: Đức Phật khen ngợi tán thán trưởng giả Úc Già có 8 pháp Vị tằng hữu.
    - Kinh Thủ Trưởng Giả: Nói Thủ Trưởng giả có 8 pháp Vị tằng hữu, như có thiểu dục, có tín, có tàm, có quý, có tinh tấn, có niệm, có định, có tuệ.
    Phẩm Tập tương ưng: gồm 16 kinh, nói về những nguyên nhân đưa đến kết quả, chẳng hạn do nhân tu tập đúng Chánh pháp nên được quả giải thoát, và ngược lại.
    - Kinh Hà Nghĩa: Nói mục đích của sự trì giới, nhân trì giới mà được không hối hận,... cho đến được giải thoát.
    - Kinh Bất Tư: Nói pháp tánh vốn vậy: ai giữ giới, người ấy được sự không hối hận,... cho đến được giải thoát, không nên nghĩ ngợi, mong cầu gì hết.
    - Kinh Niệm: Nói nếu không có chánh niệm thì không thể có chánh trí,... không thể dẫn đến giải thoát Niết bàn. Nếu có chánh niệm thì có thể dẫn đến giải thoát, Niết bàn.
    - Kinh Tàm Quý (1 và 2): Nói không tàm quý thì sẽ làm tổn hại ái kỉnh, cho đến không thể hộ trì các căn, không thể đạt giải thoát, Niết bàn. Nhưng nếu biết tàm quý thì có ái kỉnh, cho đến có được giải thoát, Niết bàn.
    - Kinh Giới (1 và 2): Nói Tỳ kheo nào phạm giới thì không thể đi đến giải thoát, Niết bàn. Nếu ai giữ giới thì thường không hối hận, hân hoan, hỷ, an chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát, Niết bàn.
    - Kinh Cung Kính (1 và 2): Nói Tỳ kheo nên thực hành hạnh cung kính và khéo quán sát, kính trọng các vị đồng phạm hạnh. Nếu không, sẽ không thể đạt được giải thoát Niết bàn. Nếu thực hành, chắc chắn đạt được giải thoát, Niết bàn.
    - Kinh Bổn Tế: Nói người ác do gần gũi ác tri thức dần dần đi đến vô minh, sanh hữu ái; người lành do gần gũi thiện tri thức dần dần tiến đến có 7 giác chi, sanh trí huệ giải thoát.
    - Kinh Thực: Tương tự kinh Bổn Tế, nói người ác là thức ăn của ác tri thức, cho đến vô minh là thức ăn của hữu ái, cũng giống như tất cả ao rạch, sông ngòi... là thức ăn của biển cả. Ngược lại, người thiện là thức ăn của thiện tri thức, cho đến bảy giác chi là thức ăn của minh giải thoát.
    - Kinh Tận Trí: Nói có tri, có kiến, mới có chứng đắc lậu tận, chứ không phải không tri, không kiến. Nếu ai phụng sự thiện tri thức, điều gì chưa nghe liền được nghe, điều gì đã nghe liền được bổ ích, dần dần tiến đến giải thoát.
    - Kinh Niết bàn: Nói do vô minh có hành; duyên hành có thức... cho đến duyên già chết có khổ. Tập (=do, nhờ, tức nguyên nhân) khổ mới có tín; tập tín mới có chánh tư duy; tập chánh tư duy mới có chánh niệm chánh trí; tập chánh niệm chánh trí mới có thủ hộ các căn, hộ trì giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Có tập giải thoát mới chứng đắc Niết bàn.
    - Kinh Di Hê: Đức Phật dạy 5 pháp tu tập và 4 pháp quán để tâm giải thoát thuần thục. 5 pháp là sống chung hòa hợp với thiện tri thức, tu tập cấm giới, nói điều đáng nói, chánh tinh tấn và tu hành về trí tuệ. 4 pháp quán là quán bất tịnh để đoạn trừ dục, tu tâm từ để đoạn trừ sân nhuế, quán sổ tức để đoạn trừ tâm niệm tán loạn, quán vô thường để đoạn trừ ngã mạn.
    Phẩm Vương tương ưng: gồm 14 kinh, trình bày về nhân cách, phước báo, sự trị nước an dân và xuất gia tu hành của Chuyển luân Thánh vương, phần lớn là tiền thân của Đức Phật Thích Ca, (phẩm Thượng gồm 7 kinh):
    - Kinh Thất Bảo: Khi Chuyển luân vương ra đời thì có 7 báu xuất hiện ở thế gian, như xe báu, voi báu, ngựa báu... Còn lúc Như Lai ra đời, thì có bảy báu giác chi (thất giác chi) xuất hiện ở thế gian.
    - Kinh Tam Thập Nhị Tướng: Nói bậc đại nhân có 32 tướng tốt, nếu ở tại gia thì làm Chuyển luân vương, nếu xuất gia thì thành bậc Chánh giác.
    - Kinh Tứ Châu: Nói trong quá khứ Đức Phật đã từng làm vua Đảnh Sanh, cai trị bốn châu thiên hạ, nhưng vẫn chưa thỏa mãn, vì kiếp ấy Ngài cũng có làm lợi lạc cho mọi người, nhưng không rốt ráo phạm hạnh nên không thể thoát khỏi khổ đau.
    - Kinh Ngưu Phẩn Dụ: Nói trong quá khứ nhờ tu bố thí, điều phục, và thủ hộ các căn mà Đức Phật hưởng quả báo thù thắng ở cõi trời và cõi người, có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần; nhưng không có một sắc nào thường trú, bất biến, hoàn toàn chỉ có lạc, tồn tại vĩnh viễn; không có thọ, tưởng, hành, thức nào thường trú, bất biến, hoàn toàn chỉ có lạc, tồn tại vĩnh viễn. Ngũ uẩn là vô thường.
    - Kinh Tần Tỳ Sa La Vương Nghinh Phật: Đức Phật thuyết pháp cho vua Tần Tỳ Sa La, nói 5 uẩn vô thường; những gì là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc đẹp hoặc xấu, hoặc gần hoặc xa; tất cả đều chẳng phải là ta, chẳng phải là sở hữu của ta; ta chẳng phải là sở hữu của kia; tất cả các pháp không có ngã, không có ngã sở. Ngã vốn không, ngã sở vốn không; pháp khi sanh thì sanh, pháp khi diệt thì diệt; thảy đều do nhân duyên. Vua nghe xong liền xa lìa trần cấu, xin quy y Tam bảo.
    - Kinh Tỳ Bà Lăng Kỳ: Đức Phật kể chuyện tiền thân của Ngài trong thời Phật Ca Diếp, lúc ấy Ngài là thợ gốm Nan Đề Bà La.
    - Kinh Thiên Sứ: Đức Phật dạy, các chúng sanh tùy theo nghiệp của mình đã tạo mà thọ sanh vào các cảnh giới tương ứng. Nếu thân, khẩu, ý ác hành, bất hiếu với cha mẹ, phỉ báng thánh hiền, chắc chắn đọa địa ngục, sau khi đọa địa ngục sẽ bị Diêm vương trị tội với sự cật vấn của 5 thiên sứ. Còn chúng sanh nào thành tựu thân thiện hành, khẩu, ý thiện hành, không phỉ báng Thánh nhân, có chánh kiến, thành tựu nghiệp chánh kiến, thì do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chúng sanh này chắc chắn đi đến chỗ lành, sanh vào cõi trời.
  7. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    Ngày thứ hai
    tụng 4 phẩm rưỡi, gồm có 52 kinh
    Phẩm Vương tương ưng (phẩm Hạ gồm 7 kinh):
    - Kinh Ô Điểu Dụ: Đức Phật dùng nhiều ví dụ để răn dạy các thầy Tỳ kheo chớ sống như con rái cá,... chớ nương vào phi pháp để bảo tồn sự sống. Hãy tịnh hóa thân hành, tịnh hóa khẩu hành và tịnh hóa ý hành, sống trong rừng vắng, khoác y phấn tảo, thường hành khất thực, thứ lớp khất thực, thiểu dục tri túc, ưa sống viễn ly mà tu tập tinh cần, an trụ nơi chánh niệm, chánh trí, chánh định, chánh tuệ, thường nên viễn ly.
    - Kinh Thuyết Bản: Nói trong quá khứ, Tôn giả A Na Luật Đà nhờ cúng dường một bữa ăn cho một vị Bích chi Phật mà 7 lần được sanh lên trời, được làm Thiên vương; bảy lần tái sanh vào loài người lại làm bậc Nhân chủ; bản kinh còn nói về việc của vua Chuyển luân tên Loa ở đời vị lai; việc Phật Di Lặc ra đời trong tương lai khi tuổi thọ con người đạt đến tám vạn tuổi.
    - Kinh Đại Thiên Nại Lâm: Kể chuyện tiền thân của Đức Phật trong quá khứ đã từng làm Chuyển luân vương có tên gọi Đại Thiên, lần lượt có đến tám vạn bốn ngàn Chuyển luân vương, từng cạo bỏ râu tóc, xuất gia học đạo, tu hành phạm hạnh, làm lợi ích cho mình, cũng làm lợi ích cho kẻ khác, làm lợi ích cho mọi người, nhưng thuyết pháp không đến chỗ rốt ráo, không rốt ráo bạch tịnh, không rốt ráo phạm hạnh; vì không rốt ráo phạm hạnh, lúc ấy Ngài không thoát ly khỏi sự sanh, tuổi già, bệnh tật, sự chết, khóc than, áo não, cũng chưa thể thoát ra ngoài mọi khổ đau.
    - Kinh Đại Thiện Kiến: Đức Phật diễn tả lại thành Câu Thi Na, nơi Ngài nhập Niết bàn, trong quá khứ nó là một Câu Thi vương, đẹp như một Tịnh độ, vua Đại Thiện Kiến là quốc chủ, từng tu 4 vô lượng tâm, cũng là tiền thân của Ngài.
    - Kinh Tam Thập Dụ: Đức Phật dùng 30 vật sở hữu cao quý của vua và đại thần để dụ cho các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni cũng dùng 30 pháp tu tập để trang nghiêm đời sống phạm hạnh của mình.
    - Kinh Chuyển Luân Vương: Đức Phật khuyên các Tỳ kheo hãy tự mình thắp lên ngọn đèn pháp, hãy nương tựa nơi pháp của chính mình, chớ đừng thắp nơi khác làm ngọn, đừng nương tựa một pháp khác, như Chuyển luân vương Kiên Niệm thành tựu 7 báu, đắc 4 đức như ý, Tỳ kheo phải lấy 4 niệm xứ làm cảnh giới tu tập...
    - Kinh Tì Tứ: Vua Tì Tứ ôm kiếp chấp không có đời sau, không có chúng sanh hóa sanh. Tôn giả Cưu Ma La Ca Diếp đã dùng vô số phương tiện, ví dụ để phá trừ kiến chấp ngu si ấy. Cuối cùng Tì Tứ quy phục, phát nguyện quy y, thực hành bố thí...
    Phẩm Trường Thọ Vương: gồm 15 kinh, gồm một số kinh nói về tiền thân của Phật Thích Ca, một số còn lại nói về giới luật hoặc liên quan:
    - Kinh Trường Thọ Vương Bổn Khởi: Đức Phật khuyên các Tỳ kheo đã chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, hãy nên thực hành hạnh nhẫn nhục, lại xưng tán nhẫn nhục; tự thực hành từ tâm, lại xưng tán từ tâm; tự ban ân huệ, lại xưng tán ân huệ, như cha con vua Trường Thọ (tiền thân của Ngài và A Nan). Đoạn cuối, Đức Phật thuyết pháp cho nhóm Tỳ kheo gồm: Tôn giả A Na Luật Đà, Tôn giả Nan Đề, Tôn giả Kim Tì La, liên quan đến pháp lục hòa.
    - Kinh Thiên: Nói Đức Phật có tri kiến về chư Thiên với 8 sự lưu chuyển.
    - Kinh Bát Niệm: Ngài A Na Luật Đà nói đắc 8 pháp suy niệm của bậc đại nhân, (tức kinh Bát Đại Nhân Giác).
    - Kinh Tịnh Bất Động Đạo: Thế Tôn nói rằng dục là vô thường, hư ngụy, giả dối, huyễn hóa, dối gạt, ngu si. Dù là dục của đời này hay dục của đời sau, dù là sắc của đời này hay sắc của đời sau, tất cả đều là cảnh giới của Ma, là miếng mồi của Ma. Nhân những thứ ấy, tâm mới sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện, tham lam, sân nhuế và đấu tranh, làm chướng ngại sự tu học của Thánh đệ tử, cho nên các Thánh đệ tử phải thực hành pháp ly dục, vô thủ trước là Niết bàn.
    - Kinh Úc Già Chi La: Đức Phật dạy cho một Tỳ kheo tu bốn niệm xứ.
    - Kinh Sa Kê Đế Tam Tộc Tánh Tử: Kể chuyện Tôn giả A Na Luật Đà, Tôn giả Nan Đề và Tôn giả Kim Tì La là những người với tâm niệm tịnh tín mới xuất gia, Đức Phật vì họ chỉ dạy phương pháp tu tập để chứng đắc vô thượng thiện pháp.
    - Kinh Phạm Thiên Thỉnh Phật: Đức Thế Tôn tùy thuận thuyết pháp theo sự thỉnh cầu Phạm Thiên, Ngài hóa hiện như ý túc vượt thắng ba cõi trời, thu phục và diệt trừ tà kiến của Phạm Thiên, gặp sự chống đối của Ma Ba Tuần.
    - Kinh Hữu Thắng Thiên: Tôn giả A Na Luật Đà giải thích ý nghĩa của đại tâm giải thoát và vô lượng tâm giải thoát, đồng thời nói đến nhân quả của ba cõi trời Quang Thiên, Tịnh Quang Thiên và Biến Tịnh Quang Thiên.
    - Kinh Ca Hy Na: Đức Thế Tôn cùng đại chúng may ba y cho Tôn giả A Na Luật Đà xong, Ngài yêu cầu A Na Luật Đà nói pháp Ca Hy Na cho đại chúng nghe.
    - Kinh Niệm Thân: Đức Thế Tôn chỉ dạy cho các Tỳ kheo phương pháp tu tập quán niệm thân thể.
    - Kinh Chi Ly Di Lê: Tôn giả Đại Câu Hy La chỉ cho các thầy Tỳ kheo thấy trong chúng có những hạng người xuất gia giả trang thiền tướng.
    - Kinh Trưởng Lão Thượng Tôn Thùy Miên: Đức Thế Tôn chỉ phương pháp dứt trừ sự thùy miên (bị buồn ngủ chi phối) cho Tôn giả Đại Mục Kiền Liên.
    - Kinh Vô Thích: Đức Phật nói ?oÂm thanh là gai nhọn đối với thiền?, và những chiếc gai nhọn khác như gai dục, gai sân, gai si... Chỉ bậc A la hán mới không bị gai chích.
    - Kinh Chân Nhân: Đức Phật nói cho các Tỳ kheo nghe về pháp chân nhân và pháp không phải chân nhân. Bản kinh cho biết con người cao quý không phải bởi xuất thân từ dòng dõi cao quý, hay bởi đoan chánh, hùng biện... mà họ trở nên cao quý nhờ đoạn trừ dâm, nộ, si...
    - Kinh Thuyết Xứ: Đức Phật giảng dạy cho những người xuất gia trẻ những bài pháp căn bản, như Ngũ ấm, Sáu nội xứ, Sáu ngoại xứ, Tứ diệu đế, Duyên khởi...
    Phẩm Uế: gồm 10 kinh, phân biệt pháp uế và vô uế, thiện và bất thiện, khuyên Tỳ kheo nên cầu pháp, chớ nên cầu tài thực:
    - Kinh Uế Phẩm: Ngài Xá Lợi Phất nói với các Tỳ kheo, trong thế gian có bốn hạng người: người có cấu uế mà không tự biết mình có cấu uế, hoặc không có cấu uế mà cũng không tự biết mình không có cấu uế, đây là hai hạng người hạ tiện nhất; người có cấu uế mà tự biết mình có cấu uế, hoặc không có cấu uế cũng tự biết mình không có cấu uế, đây là hai hạng người tối thắng trong cuộc đời.
    - Kinh Cầu Pháp: Đức Phật khuyên các Tỳ kheo nên cầu pháp, chớ nên tìm cầu tài thực. Sau đó Ngài Xá Lợi Phất giải thích bài pháp thoại của Đức Thế Tôn, nêu lên 3 pháp đáng chê và 3 pháp đáng khen; lại nói Trung đạo đoạn dục tham... làm cho tâm được an trú cho đến Niết bàn.
    - Kinh Tỳ Kheo Thỉnh: Ngài Mục Kiền Liên nói về sự đắc thất khác nhau của người nói lời ngang ngược và người nói lời hiền lành.
    - Kinh Tri Pháp: Tôn giả Chu Na phân biệt cho các thầy Tỳ kheo biết thế nào là người biết pháp và người không biết pháp.
    - Kinh Chu Na Vấn Kiến: Tôn giả hỏi Đức Thế Tôn làm thế nào để các kiến chấp được tiêu diệt, được xả ly và khiến cho các tà kiến khác không tiếp diễn, không bị chấp thủ. Thế Tôn vì tôn giả trả lời cặn kẽ.
    - Kinh Thanh Tịnh Bạch Liên Hoa Dụ: Nói có pháp do nơi thân mà diệt trừ, không do nơi miệng mà diệt trừ. Hoặc có pháp do nơi miệng mà diệt trừ, không do nơi thân mà diệt trừ. Hoặc có pháp không do nơi thân và miệng diệt trừ nhưng do tuệ kiến để diệt trừ.
    - Kinh Thủy Tịnh Phạm Chí: Nói 21 thứ cấu uế làm bẩn tâm, chắc chắn dẫn đến ác xứ, sanh vào địa ngục. Đó là tà kiến, phi pháp dục, ác tham, tà pháp, tham, nhuế, thụy miên, trạo cử hối quá, nghi hoặc, sân triền, phú tàng, xan tham, tật đố, khi trá, dua siểm, vô tàm, vô quý, mạn, đại mạn, ngạo mạn, phóng dật.
    - Kinh Hắc Tỳ Kheo: Nhân Hắc Tỳ kheo, người ưa tranh cãi, Đức Phật nói những người ưa tranh cãi, ác dục, phạm giới, vượt giới, sứt mẻ giới, làm rách giới, cấu uế giới, sân triền, phú kết, bỏn sẻn, tật đố, dua siểm, dối trá, vô tàm, vô quý, không tiếp đãi các vị đồng phạm hạnh, không quán các pháp, không tĩnh tọa... thì không xứng đáng Sa môn, không thể khiến nhất ý, không khiến chứng đắc Niết bàn.
    - Kinh Trụ Pháp: Nói về sự thối thất của thiện pháp, không đình trụ cũng không tăng tiến; sự đình trụ của thiện pháp, không thối thất không tăng tiến; sự tăng tiến của thiện pháp, không thối thất cũng không đình trụ.
    - Kinh Vô: Nói trường hợp Tỳ kheo, Tỳ kheo ni suy thoái hoặc tăng trưởng tịnh pháp.
    Phẩm Nhân: gồm 10 kinh, chủ yếu giải thích ý nghĩa 12 nhân duyên:
    - Kinh Đại Nhân: Giải thích rộng ý nghĩa pháp duyên khởi sâu xa, và nói 8 giải thoát.
    - Kinh Niệm Xứ: Trình bày phương pháp hành trì thiền tập Tứ niệm xứ, con đường tịnh hóa chúng sanh, vượt qua lo sợ, diệt trừ khổ não, chấm dứt kêu khóc, chứng đắc Chánh pháp.
    - Kinh Khổ Uẩn: Đức Phật giảng về vị ngọt của dục, tai họa của dục, sự xuất yếu của dục; vị ngọt của sắc, tai họa của sắc, sự xuất yếu của sắc; vị ngọt của thọ, tai họa của thọ, sự xuất yếu của thọ.
    - Kinh Khổ Ấm: Vì Ma Ha Nam nói dục không có lạc, chỉ toàn là vô lượng khổ hoạn.
    - Kinh Tăng Thượng Tâm: Đức Phật dạy các Tỳ kheo thường quán niệm 5 tướng thì được tăng thượng tâm. Khi một tâm niệm bất thiện phát sinh, thì dùng một trong 5 tướng này để đối trị: suy niệm về một tướng tương ưng với thiện; quán niệm ác có tai họa; không suy niệm về 2 niệm trên; dùng hành tướng của tư duy để giảm dần niệm ấy; ngậm khít răng lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm để tu tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm khiến không niệm ác bất thiện.
    - Kinh Niệm: Đức Phật dạy: Bít con đường chánh, mở một đường hiểm, đó là ba niệm ác bất thiện, niệm dục, niệm nhuế và niệm hại; bít lấp con đường hiểm, mở con đường chánh, đó là ba niệm thiện, niệm vô dục, niệm vô nhuế và niệm vô hại.
    - Kinh Sư Tử Hống: Đức Phật tuyên bố chỉ trong pháp của Ngài mới có tứ quả Sa môn, nhờ trong đời này, Ngài chủ trương đoạn trừ tất cả thủ, chủ trương đoạn trừ dục thủ, giới thủ, kiến thủ, ngã thủ, đoạn trừ tận gốc rễ của vô minh.
    - Kinh Ưu Đàm Bà La: Đức Phật phân tích cho Dị học Vô Nhuế thấy rõ pháp khổ hạnh cấu uế và pháp khổ hạnh không cấu uế, nhưng cả hai đều không đưa đến chánh giải thoát. Chỉ có thấu suốt Tứ diệu đế, diệt trừ dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu mới là cứu cánh giải thoát.
    - Kinh Nguyện: Nói về các việc mà Tỳ kheo nên ước nguyện, mong cầu.
    - Kinh Tưởng: Nói chấp 4 đại (địa, thủy, hỏa, phong) thì không biết 4 đại, không chấp 4 đại thì biết 4 đại. Nói "Cái tất cả không phải là ngã, cái tất cả không phải là sở hữu của ngã, ngã không phải là sở hữu của cái tất cả".
    Phẩm Lâm: gồm 10 kinh, diễn tả đời sống tu hành của một Tỳ kheo, nên ở đâu, tu hành thế nào... để được giải thoát:
    - Kinh Lâm (1): Đức Thế Tôn chỉ cho các Tỳ kheo biết trú xứ nào nên ở, trú xứ nào nên bỏ đi. Theo đó, Tỳ kheo ở nơi nào mà chưa có chánh niệm liền được chánh niệm, tâm chưa định liền được định, chưa giải thoát liền được giải thoát, các lậu chưa hết liền được đoạn hết, chưa chứng đắc Niết bàn an ổn vô thượng liền chứng đắc Niết bàn, thì nên ở, dù cho có khó khăn về đời sống vật chất. Còn ở nơi nào dù có điều kiện vật chất tiện nghi đầy đủ, nhưng thiện pháp không tăng trưởng, ngược lại ác pháp mỗi ngày mỗi tăng trưởng thì nên bỏ đi.
    - Kinh Lâm (2): Tương tự kinh 107. Tỳ kheo với lý tưởng xuất gia học đạo là thành đạt ý nghĩa của Sa môn, nên chọn trú xứ tu tập nào mà có thể thành đạt được lý tưởng đó, dù điều kiện vật chất khó khăn; trường hợp vật chất khá tiện nghi thì ở trọn đời để tu tập. Ngược lại, tu học ở nơi nào mà không thực hiện được lý tưởng giải thoát, thì dù có đầy đủ tiện nghi cũng bỏ đi, nói gì đến việc thiếu tiện nghi!
    - Kinh Tự Quán Tâm (1): Đức Phật dạy: Nếu Tỳ kheo không thiện xảo quán tâm người khác, hãy thiện xảo tự quán sát tâm của chính mình, bằng cách tu tập Thiền chỉ và Thiền quán song hành. Sau khi thành tựu Chỉ Quán, nên cầu lậu tận trí.
    - Kinh Tự Quán Tâm (2): Dạy các Tỳ kheo phải tự quán chiếu tâm mình xem có tham lam, tâm sân nhuế, thùy miên, triền, trạo hối, cống cao, nghi hoặc, thân tránh, tâm ô uế, bất tín, giải đãi, không suy niệm, không tâm định, thường hành ác tuệ hay không. Nếu có, phải diệt trừ pháp ác bất thiện này, phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập, tinh cần, chánh niệm, chánh trí, kham nhẫn, đừng để bị thoái chuyển. Nếu quán chiếu tâm mà không thấy có pháp ác bất thiện trên, thì nên mong cầu tự thân chứng ngộ lậu tận trí thông.
    - Kinh Đạt Phạm Hạnh: Nói biết lậu, biết thọ, biết tưởng, biết dục, biết nghiệp, biết khổ; biết nhân sinh, biết sự hữu báo, biết sự thắng liệt, biết sự diệt tận, biết con đường diệt tận của lậu, thọ, tưởng, dục, nghiệp, khổ. Biết như vậy gọi là Đạt phạm hạnh, có thể diệt tận tất cả khổ.
    - Kinh A Nô Ba: Nói Đề Bà Đạt Đa vì buông lung cho nên bị đọa địa ngục. Rồi nói Như Lai dùng tha tâm trí quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp bất thiện hay thành tựu pháp thiện...
    - Kinh Chư Pháp Bổn: Nói dục là gốc của các pháp, xúc là hòa hiệp của các pháp, thọ là dẫn khởi của các pháp, tác ý là hiện hữu của các pháp, niệm là thượng thủ của các pháp, định là tiền đạo của các pháp, tuệ là tối thượng của các pháp, giải thoát là chắc thật của các pháp, và Niết bàn là cứu cánh của các pháp.
    - Kinh Ưu Đà Là: Nói cội gốc của ung nhọt là ba ái: dục ái, sắc ái và vô sắc ái. Tất cả lậu gây ung nhọt là sáu xúc xứ, mắt lậu thấy sắc, tai lậu nghe tiếng, mũi lậu ngửi mùi, lưỡi lậu nếm vị, thân lậu cảm xúc, ý lậu biết các pháp.
    - Kinh Mật Hoàn Dụ: Đức Phật nói tông chỉ giáo pháp của Ngài là: không đấu tranh, tu tập ly dục, thanh tịnh phạm hạnh, lìa bỏ siểm khúc, dứt trừ truy hối, không đắm trước nơi hữu, phi hữu, cũng không có tưởng.
    - Kinh Cù Đàm Di: Tường thuật lại sự kiện Đại Ái Đạo xuất gia, và nhân đó Đức Phật chế Bát kỉnh pháp.(

  8. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    Ngày thứ ba
    tụng một phẩm rưỡi, gồm có 35 kinh
    Phẩm Đại: gồm 25 kinh, nhấn mạnh về đức tính tối thắng, tối tôn, tối thượng của Phật:
    - Kinh Nhu Nhuyến: Đức Phật kể lại đời sống sang cả của mình khi còn là Thái tử, nhưng khi trực nghiệm sự già, bệnh, chết mà mỗi người không ai tránh khỏi, thì tâm cống cao liền được đoạn trừ.
    - Kinh Long Tượng: Đức Phật nói bất cứ ai, từ người cho đến trời ở trên đời này mà không làm hại bằng thân, miệng, ý, thì Ngài nói vị ấy chính là rồng. Như Lai ở trong thế gian này bao gồm Trời, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn (hay bất cứ ai) từ người cho đến trời đều không dùng thân, miệng, ý để làm hại, cho nên được gọi là Rồng.
    3. Kinh Thuyết Xứ: Nói về 3 thuyết xứ quá khứ, hiện tại, vị lai; người trí trọn không lời xấu xa, không luận vì luận tranh, không tùy người thách đố...
    4. Kinh Thuyết Vô Thường: Dạy các Tỳ-kheo quán 5 uẩn là vô thường, đồng thời tu tập 7 giác chi, giữ chánh niệm.
    5. Kinh Thỉnh Thỉnh: Đức Phật cùng 500 Tỳ-kheo thực hành pháp tự tứ sau ba tháng an cư tại thành Vương Xá, trong rừng Trúc.
    6. Kinh Chiêm-ba: Đức Phật không thuyết giới Biệt giải thoát do trong đại chúng Tỳ-kheo có người phạm hạnh bất tịnh. Nhân đó, Đức Phật cho phép trục xuất những kẻ phạm giới ra khỏi Tăng đoàn để các đồng phạm hạnh không bị ô nhiễm.
    7. Kinh Sa-môn Nhị Thập Ức: Nói quá trình tu tập cũng như nghệ thuật lên dây đàn cầm, không nên quá căng, không nên quá chùng. Sa-môn Nhị Thập Ức sau khi lãnh thọ ví dụ này đã nỗ lực tinh tấn, không bao lâu chứng quả A-la-hán, đến trình sở chứng với đức Thế Tôn.
    8. Kinh Bát Nạn: Nói lúc Đức Phật xuất hiện, có những chúng sanh đang trôi lăn trong 8 nạn, 8 phi thời, đó là: 1. Sanh vào chốn địa ngục, 2. Sanh vào loài súc sanh, 3. Vào loài ngạ quỷ, 4. Sanh vào cõi trời Trường thọ, 5. Sanh ở xứ biên địa mọi rợ, không tín, vô ân, không biết báo đáp, 6. Bị điếc, câm, 7. Có tà kiến và điên đảo kiến, 8. Sanh vào thời không có Phật xuất hiện.
    9. Kinh Bần Cùng: Nói ở đời, kẻ bần cùng, nợ nần là khổ. Còn trong Thánh pháp, kẻ không tin ở thiện pháp, không giữ cấm giới, không nghe nhiều, không bố thí, không trí tuệ, đối với thiện pháp, dù có nhiều châu báu, nhưng người ấy vẫn là kẻ nghèo nàn cô thế. Kẻ ấy đang vay nợ bất thiện.
    10. Kinh Hành Dục: Nói về 10 loại người hành dục, tìm cầu của cải một cách phi pháp, vô đạo; hoặc tìm cầu của cải hợp pháp, phải lẽ nhưng sử dụng của cải ấy không đúng nghĩa.
    11. Kinh Phước Điền: Nói ở đời có hai hạng phước điền: hạng người hữu học và hạng người vô học. Hạng hữu học có 18, là: Tín hành, pháp hành, tín giải thoát, kiến đảo, thân chứng, gia gia, nhất chủng, hướng Tu-đà-hoàn, đắc Tu-đà-hoàn; hướng Tư-đà-hàm, đắc Tư-đà-hàm; hướng A-na-hàm, đắc A-na-hàm, trung Bát-Niết-bàn, sanh Bát-Niết-bàn, hành Bát-Niết-bàn, vô hành Bát-Niết-bàn, thượng lưu sắc cứu cánh. Hạng vô học có 9, là: Tư pháp, thăng tấn pháp, bất động pháp, thối pháp, bất thối pháp, hộ pháp, hộ tắc bất thối bất hộ tắc thối, thật trụ pháp, tuệ giải thoát, câu giải thoát.
    12. Kinh Ưu-bà-tắc: Nói người Phật tử tại gia nếu giữ gìn 5 giới và 4 tâm tăng thượng (niệm Phật, Pháp, Tăng, Giới) thì không còn đọa địa ngục, cũng không sanh vào loài súc sanh, ngạ quỷ và các chỗ ác, được quả Tu-đà-hoàn, không đọa ác pháp, nhất định thẳng tiến đến quả vị Chánh giác, tối đa chịu bảy lần sanh tử nữa, sau bảy lần qua lại cõi trời và nhân gian, liền được chấm dứt khổ đau.
    13. Kinh Oán Gia: Nói người nào hay giận hờn, sân hận thì gây thành oán gia, làm da mặt xấu đi, mất vẻ đẹp, ăn ngủ không yên?
    14. Kinh Giáo Đàm-di: Đức Phật dạy Đàm-di: Tỳ-kheo bị người mắng nhiếc, không mắng nhiếc lại; bị người sân giận không sân giận lại; bị người quấy phá, không quấy phá lại; bị đánh đập không đánh đập lại. Này Đàm-di, như vậy gọi là Sa-môn trụ Sa-môn pháp.
    15. Kinh Hàng Ma: Kể chuyện Tôn giả Đại Mục-kiền-liền hàng phục ma Ba-tuần, khuyên Ba-tuần chớ có xúc nhiễu Như Lai, cũng chớ xúc nhiễu đệ tử của Như Lai, đừng sống mãi trong sự vô nghĩa, vô ích mà phải tái sanh ác xứ, thọ vô lượng khổ.
    16. Kinh Lại-tra-hòa-la: Kể lại chuyện tôn giả Lại-tra-hòa-la do thấy, nghe, hiểu biết từ Như Lai 4 tướng của thế gian: Thế gian này không được bảo vệ, không đáng nương tựa; Thế gian này nhất thiết phải đi đến sự già nua; Thế gian này không thường, cần phải bỏ đi; Thế gian này không có sự thỏa mãn, không có sự biết đủ, là tôi tớ của ái, nên đã xuất gia, đắc quả A-la-lán, trở lại độ cho cha mẹ và vua Câu-lao-bà.
    17. Kinh Ưu-ba-ly: Kể lại chuyện cư sĩ Ưu-ba-ly bỏ Ni-kiền Tử theo Phật, làm đệ tử Ưu-bà-tắc, do hiểu được giáo lý nghiệp báo: thân, khẩu, ý nghiệp, trong đó ý nghiệp là nguy hiểm nhất.
    18. Kinh Thích Vấn: Kể chuyện Thiên Vương Thích cùng chư Thiên Tam thập tam đến thăm đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn vì chư thiên thuyết pháp Bát thánh đạo phòng hộ sáu căn, khiến chư thiên xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.
    19. Kinh Thiện Sanh: Đức Phật dạy cho Thiện Sanh về ý nghĩa lễ bái 6 phương.
    20. Kinh Thương Nhân Cầu Tài: Nói giáo pháp của đức Thế Tôn như cầu, bè đưa người qua biển khổ. Ai thấy ngũ uẩn vô ngã thì được giải thoát. Ai thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức là ngã thì sẽ bị hại.
    21. Kinh Thế Gian: Nói đức Như Lai đã tự mình giác ngộ về thế gian, biết thế gian, tự giác ngộ về sự tập khởi của thế gian, đoạn trừ thế gian tập, tự giác ngộ sự diệt tận của thế gian, chứng ngộ thế gian diệt, tự giác ngộ đạo tích của thế gian và cũng nói cho người khác. Đó đều là sự thật.
    22. Kinh Phước: Những gì được gọi là phước thì cũng gọi là lạc. Rồi kể chuyện phước báo của Phật trong quá do đã tu hành từ tâm trong 7 năm liền.
    23. Kinh Tức Chỉ Đạo: Đức Phật dạy các Tỳ-kheo mới tu học phải thường quán niệm bất tịnh, quán sát tướng trạng của các tử thi để trừ tham dục, sân nhuế trong tâm.
    24. Kinh Chí Biên: Nói vì nhàm tởm, ghê sợ sự sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, khóc than, ưu, khổ, áo não mà chấp nhận đi khất thực ?" một sự nuôi sống mà thế gian húy kỵ. Cho nên phải nỗ lực tu pháp Sa-môn để đoạn trừ khổ.
    25. Kinh Dụ: Nói vô lượng pháp lành đều lấy không buông lung làm gốc. Trong các thiện pháp, không phóng dật là tối đệ nhất, như đất là nơi muôn loài nương tựa, như trong các loài hương, trầm hương là quý?
    v Phẩm Phạm Chí: gồm 20 kinh, gồm những kinh ghi lại cuộc đối thoại giữa các Phạm chí với Đức Phật và Tăng chúng (phẩm Thượng có 10 kinh):
    1. Kinh Vũ Thế: Nói 7 pháp bất thối và 6 pháp ủy lạo để Tăng đoàn và đời sống của Tỳ-kheo không bi suy yếu.
    2. Kinh Thương-ca-la: Phật nói 3 pháp thị hiện: Như ý túc thị hiện, chiêm niệm thị hiện và giáo huấn thị hiện, khiến Ma-nạp Thương-ca-la hoan hỷ phát tâm xuất gia.
    3. Kinh Toán Số Mục-kiền-liên: Đức Phật vì nhà toán học Mục-kiền-liên nói trình tự tiến tu trong Phật pháp, từ thấp lên cao, cho đến đạt được Niết-bàn. Mục-kiền-liên nghe xong hoan hỷ xin quy y Tam Bảo.
    4. Kinh Cù-mặc Mục-kiền-liên: Ngài A-nan vì Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên mà nói không có một thầy Tỳ-kheo nào bằng với đức Thế Tôn, nhưng tất cả các Thánh đệ tử đều đáng được tôn kính cúng dường, đặc biệt, A-nan khẳng định giải thoát và tuệ giải thoát giữa một Thánh giả A-la-hán và đức Như Lai không có sai biệt.
    5. Kinh Tượng Tích Dụ: Đức Phật vì Phạm chí Sanh Văn nói: từ khi xuất gia, thủ hộ các căn cho đến chứng quả Thánh đế, vượt thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu mới thực sự là cứu cánh của Như Lai và Pháp do Như Lai thuyết, Thánh đệ tử thú hướng, giống như người thợ rừng lành nghề thấy dấu chân của con voi cực lớn đồng thời tận mắt chứng kiến nó mới kết luận đó là con voi chúa.
    6. Kinh Văn Đức: Phật vì Phạm chí Sanh Văn nói về công đức sai biệt của bác văn tụng tập, từ xuất gia đến chứng tịch diệt Niết-bàn.
    7. Kinh Hà Khổ: Đức Phật phân tích việc khổ, vui của người tại gia và xuất gia. Do làm điều phi pháp, làm điều dữ nên không được lợi ích, hoan lạc; Do sống đúng như pháp, không làm điều dữ mà được ích lợi, được hoan lạc.
    8. Kinh Hà Dục: Đức Phật trả lời cho Phạm chí Sanh Văn về những ước muốn, thực hành, thiết lập, y cứ của con người. Trong mọi tầng lớp xã hội, mỗi người có những ước muốn riêng.
    9. Kinh Uất-sấu-ca-la: Nói cái phi lý của sự phân chia bốn giai cấp, và chỉ cho thấy sự bình đẳng của bốn giai cấp.
    10. Kinh Phạm chí A-nhiếp-hòa: Bằng mọi phương tiện, Đức Phật chứng minh sự bình đẳng của bốn giai cấp, cả bốn chủng tánh thảy đều thanh tịnh.
    D. Ngày thứ tư tụng 3 phẩm, gồm có 36 kinh
    v Phẩm Phạm Chí (phẩm Hạ có 10 kinh):
    1. Kinh Anh Võ: Đức Phật vì Ma-nạp Anh Võ mà phân biệt việc tại gia, xuất gia có hay không có phước báo, công đức; còn nói 5 pháp mà Bà-la-môn chủ trương là không chân thật, lại nói về 5 món ngăn che (dục, sân, nghi, thân kiến, giới thủ kiến. Bản Pali: 5 triền cái) và pháp từ tâm khởi.
    2. Kinh Man-nhàn-đề: Vì kẻ dị đạo tên Man-nhàn-đề mà nói về pháp ly dục, pháp Tứ đế, khiến Man-nhàn-đề xa lìa trần cấu, xin được xuất gia học đạo.
    3. Kinh Bà-la-bà-đường: Dức Phật vì 2 vị Phạm chí Bà-tư-tra và Bà-la-bà nói về lai lịch và nghiệp báo của 4 giai cấp bình đẳng.
    4. Kinh Tu-đạt-đa: Phật vì cư sĩ Tu-đạt-đa mà nói về sự sai biệt của tâm bố thí. Nói bố thí thức ăn cho phàm phu toàn cõi Diêm-phù, cho một trăm Tu-đà-hoàn, một trăm vị Tư-đà-hàm, một trăm vị A-na-hàm, một trăm vị A-la-hán, một trăm vị Bích-chi-phật, tạo phòng, nhà bố thí cho Chúng Tỳ-kheo bốn phương, tâm hoan hỷ quy y Ba ngôi tôn quý là Phật, Pháp, chúng Tỳ-kheo, thọ giới và trong khoảnh khắc thực hành từ tâm đối với tất cả chúng sanh, không bằng người quán được tất cả pháp là vô thường, khổ, không và vô ngã.
    5. Kinh Phạm Ba-la-diên: Đức Phật nói ngày nay không còn Bà-la-môn học pháp Bà-la-môn cổ đại. Bà-la-môn đã vượt khỏi pháp Bà-la-môn cổ đại từ lâu rồi.
    6. Kinh Hoàng Lô Viên: Nói không tham đắm, không sợ 5 dục, chứng 4 thiền, 3 minh mới không nhập thai.
    7. Kinh Đầu-na: Phật vì Phạm chí Đầu-na mà nói về 5 pháp Phạm chí.
    8. Kinh A-già-la-ha-na: Phật đáp câu hỏi của Phạm chí A-già-la-ha-na về kinh điển dựa vào con người để tồn tại, lần lượt cho đến dựa vào Niết-bàn.
    9. Kinh A-lan-na: Phật vì Phạm chí A-lan-na xuất gia mà nói pháp vô thường lợi ích vô lượng.
    10. Kinh Phạm-ma: Nói Phạm chí Phạm-ma và Ma-nạp Ưu-đa-la thấy Phật tướng hảo mà phát tâm xuất gia.
    v Phẩm Căn Bản Phân Biệt: gồm 10 kinh, giải thích những pháp căn bản, như phân biệt 6 giới, 6 xứ...
    1. Kinh Phân Biệt Lục Giới: Đức Phật vì Tỳ-kheo Phất-ca-la-sa-lợi nói pháp về sáu giới tụ, sáu xúc xứ, mười tám ý hành, bốn trụ xứ.
    2. Kinh Phân Biệt Lục Xứ : Phân biệt sáu xứ, sáu xúc xứ, mười tám ý hành, ba mươi sáu đao kiếm, ba niệm trụ?
    3. Kinh Phân Biệt Quán Pháp: Phân biệt quán pháp, tâm tán loạn hay không tán loạn.
    4. Kinh Ôn Tuyền Lâm Thiên và 166. Kinh Thích Trung Thiền Thất Tôn: Phật dạy: chớ nghĩ về quá khứ, tương lai cũng đừng mong cầu, tức bài kệ Bạt-địa-la-đế (Nhất dạ hiền), Ngài Ca-chiên-diên dùng căn trần để giảng rộng ý nghĩa bài kệ.
    5. Kinh A-nan Thuyết: Ngài A-nan nói kệ Bạt-địa-la-đế và ý nghĩa của kệ này, được Phật ấn khả.
    6. Kinh Ý Hành: Nói 8 định, 8 thiên xứ đều lấy diệt định làm hơn hết.
    7. Kinh Câu-lâu-sấu Vô Tránh: Phân biệt pháp tranh cãi và không tranh cãi.
    8. Kinh Anh Võ: Phân biệt pháp nghiệp báo sai biệt.
    9. Kinh Phân Biệt Đại Nghiệp: Phân biệt sự sai biệt lúc thọ 3 thứ nghiệp báo.
    v Phẩm Tâm: gồm 10 kinh, nói tâm làm chủ các pháp:
    1. Kinh Tâm: Nói tâm dẫn thế gian đi, tâm đắm nhiễm, tâm khởi tự tại ?
    2. Kinh Phù-di: Nói về phạm hạnh, tà chánh, đắc quả hay không.
    3. và 4. Kinh Thọ Pháp: Nói về hiện tại khổ về sau vui, hiện tại vui về sau khổ, hiện tại khổ về sau khổ, hiện tại vui về sau vui.
    5. Kinh Hành Thiền, Phân biệt 4 loại hành thiền thạnh suy?
    6. Kinh Thuyết: Nói về nghĩa thoái trụ trong 8 định và lậu tận.
    7. Kinh Lạp Sư: Tu 4 thiền có thể thoát ma cảnh.
    8. Kinh Ngũ Chi Vật Chủ: Nói Đệ nhất nghĩa sa-môn đủ 8 chánh đạo phải biết thiện giới, bất thiện giới?
    9. Kinh Cù-đàm-di: Nói về bố thí, thọ nhận thanh tịnh và không thanh tịnh.
    10. Kinh Đa Giới: Nói biết giới, xứ và duyên khởi là trí huệ, lại nói 18 giới và 62 giới.
    v Phẩm Song: gồm 10 kinh, trình bày các pháp đối nghịch, như thiện ác, chánh tà? (phẩm Thượng có 6 kinh):
    1. và 2. Kinh Mã Ấp: Nói pháp Sa-môn cần phải 3 nghiệp thanh tịnh thành tựu thiền định cho đến lậu tận.
    3. Kinh Ngưu Giác Sa-la Lâm (thượng): Người thích như ý đạo là Đại Mục-kiền-liên, người thích hạnh Đầu-đà là Đại Ca-diếp, người luận nghị là Ca-chiên-diên, người thành tựu thiên nhãn là A-na-luật-đà, người tu thiền là Ly-việt-đa, người đa văn là A-nan theo sự hiểu biết của mình mà đáp lại lời hỏi của Ngài Xá-lê Tử về sở đắc tu hành.
    4. Kinh Ngưu Giác Sa-la Lâm (hạ): Ngài A-na-luật? nói tu 4 thiền, 4 vô lượng là pháp thượng nhân.
    5. Kinh Cầu Giải: Nói do thấy sắc nghe tiếng mà hiểu được, biết được pháp Như Lai.
    6. Kinh Thuyết Trí: Hỏi đáp với Tỳ-kheo phạm hạnh đã lập về tri kiến 5 ấm, 4 thực, 4 thuyết?.
    E. Ngày thứ năm tụng 3 phẩm rưỡi, gồm 35 kinh
    v Phẩm Song (phẩm Hạ có 4 kinh):
    1. Kinh A-di-na: Nói về tri kiến của chúng đúng pháp và chúng phi pháp.
    2. Kinh Thánh Đạo: Nói 8 thánh đạo và 10 chi chánh giải thoát, chánh trí ?. theo sự tu đoạn đúng sai mà thành 40 pháp thiện và bất thiện.
    3. Kinh Tiểu Không: Nói hành chân thật Không thì không điên đảo, không khởi tưởng về người, về thôn xóm, về vô sự cho đến không trụ vào định Vô tưởng.
    4. Kinh Đại Không: Người muốn hành Không phải tu pháp nội không, ngoại không, nội ngoại không, pháp bất động.
    v Phẩm Hậu Đại: gồm 10 kinh, đề cập nhiều đến giới luật:
    1. Kinh Ca-lâu-ô-đà-di: Ngợi khen người bỏ việc ăn quá ngọ.
    2. Kinh Mâu-lê-phá-quần-na: Nói người xuất gia phải tu tập vô dục, từ, bi, hỷ, xả ?
    3. Kinh Bạt-đà-hòa-lợi: Khen ngợi pháp nhất tọa thực (ngồi ăn một lần).
    4. Kinh A-thấp-bối: Quở trách việc ăn quá ngọ.
    5. Kinh Châu-na: Nói 6 pháp ủy lạo và 7 pháp diệt tránh để chấm dứt sự tranh cãi (nếu có xảy ra trong Tăng đoàn).
    6. Kinh Ưu-ba-ly: Ngài Ưu-ba-ly hỏi Đức Thế Tôn về các trường hợp giới luật.
    7. Kinh Điều Ngự Địa: Nói về tu hành bất phóng dật, 6 tịnh bản, 7 diệt pháp, 7 diệt tịnh, như pháp, bất như pháp?
    8. Kinh Si Huệ Địa: Nói về các tướng quả báo khổ vui của ngu si và trí huệ.
    9. Kinh A-lê-tra: Nói pháp dục làm chướng đạo.
    10. Kinh Trà-đế: Nói về 12 duyên khởi.

  9. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    v Phẩm Bô-lợi-đa: gồm 10 kinh, nói phiền não và phương pháp diệt trừ phiền não, được giải thoát, nhập Niết-bàn; và còn cho biết hai loại tìm cầu, Thánh cầu và phi Thánh cầu:
    1. Kinh Trì Trai: Nói nên trì bát quan trai và tu 5 niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Thiên.
    2. Kinh Bô-lợi-đa: Phật vì cư sĩ Bô-lợi-đa mà nói về 8 chi là lìa sát sanh?cắt đứt các việc thế tục.
    3. Kinh La-ma: nói cầu pháp Niết-bàn an ổn không bệnh là Thánh cầu, cầu pháp bệnh là chẳng phải Thánh cầu.
    4. Kinh Ngũ Hạ Phần Kiết: Nói nương vào đạo để đoạn trừ 5 hạ phần kiết sử.
    5. Kinh Tâm Uế: Dẹp mối nghi về ô uế trong 5 thứ tâm, cởi mở sự trói buộc trong 5 thứ tâm, đấy là pháp thanh tịnh của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.
    6. Kinh Tiễn Mao: Phật vì kẻ dị học tên Tiễn Mao mà nói Phật dùng 5 pháp là vô thượng giới? khiến cho đệ tử cung kính, không rời.
    7. Kinh Tiễn Mao: Phật vì kẻ dị học tên Tiễn Mao mà nói về thiên nhãn, túc mạng thông.
    8. Kinh Bệ-ma-na-tu: Nói người không dua dối theo sự giáo hóa của Phật ắt đắc chánh pháp.
    9. Kinh Pháp Lạc Tỳ-kheo-ni: Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp lời hỏi pháp của Ưu-bà-di Tỳ-xá-khư.
    10. Kinh Đại Câu-hy-la: Ngài Câu-hy-la đáp lời hỏi pháp của Ngài Xá-lợi-phất.
    v Phẩm Lệ: gồm 11 kinh, nói nếu Tỳ-kheo muốn tổng tri, biệt tri vô minh và đoạn trừ vô minh, thì phải tu tập những pháp căn bản như 37 bồ-đề phần, 10 biến xứ, 10 pháp vô học. Những kinh khác cho biết quan điểm của Đức Phật về vấn đề siêu hình:
    1. Kinh Nhất Thiết Trí: Phật vì vua Ba-tư-nặc mà nói về 4 giai cấp thành tựu 5 đoạn chi, ở đời sau có sai biệt.
    2. Kinh Pháp Trang Nghiêm: Vua Ba-tư-nặc ngợi khen các pháp Phật thanh tịnh.
    3. Kinh Bệ-ha-đề: Phật nói pháp thiện, các đệ tử hướng thiện, Phật hành thiện không bị Sa-môn Phạm chí thông minh trí huệ và người đời ghen ghét.
    4. Kinh Đệ Nhất Đắc: Nói đệ tử không muốn pháp đổi khác, chỉ nên truyền bá rộng rãi 8 chánh đạo.
    5. Kinh Ái Sanh: Nói lúc sanh ái thì sanh ra buồn khổ.
    6. Kinh Bát Thành: Ngài A-nan vì cư sĩ Bát Thành mà nói 12 thiền.
    7. Kinh A-na-luật-đà: Nói Tỳ-kheo đắc 4 thiền và lậu tận chết được an lành.
    8. Kinh A-na-luật-đà: Ngài A-na-luật-đà nói Tỳ-kheo tri kiến chất trực, tu niệm xứ, 4 vô lượng chết không bị phiền nhiệt.
    9. và 10. Kinh Kiến, Kinh Tiễn Dụ: Phật luôn luôn nói hữu thường, vô thường, nhưng không phải bao giờ cũng nói thế gian hữu thường. Những pháp nào được Phật xác quyết là: ?~Đây là khổ, Khổ tập, Khổ diệt, Khổ diệt đạo tích?T. Vì những điều này tương ưng với cứu cánh, tương ưng với pháp, là căn bản phạm hạnh, đưa đến trí, đưa đến giác, dẫn đến Niết-bàn.
    11. Kinh Lệ: Nói muốn đoạn trừ vô minh cho đến già chết, thấu rõ vô minh cho đến già chết thì phải tu 37 bồ-đề phần, 10 nhất thiết xứ, 10 pháp vô học.
  10. Tinhnguyen08

    Tinhnguyen08 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2004
    Bài viết:
    1.879
    Đã được thích:
    4
    NHẬN XÉT
    A- Nhận xét chung
    Bản dịch đầu tiên của kinh Trung A-hàm cùng với kinh Tăng Nhất A-hàm là của Đàm-ma-nan-đề, còn bản dịch hiện nay do Tăng-già-la-xoa đọc bản Phạn, Tăng-già-đề-bà chuyển dịch Phạn Hán, hai vị này đều là người ở nước Kế Tân, căn cứ địa của Hữu Bộ. Ngoài ra, Tăng-già-đề-bà còn có dịch Luận A-tỳ-đàm Bát Kiền-độ (tức Luận Phát Trí), ngài Tăng-già-la-xoa dịch tiếp thành ra bộ mà sau này ngài La-thập dịch lại mang tên Luật Thập Tụng, đều là những tác phẩm trọng yếu của Hữu Bộ. Kết cấu của kinh này và bản dịch Tây Tạng Trung A-hàm Hữu Bộ mà ngài Chỉ Thiên dẫn dụng trong Câu-xá Luận Sớ Yếu Dụng Luận rất tương tự. Xét từ các phương diện kể trên, kinh này có thể là truyền bản của Hữu Bộ. Đọc Trung A-hàm quả nhiên ta thấy kinh này phản ánh nhiều quan điểm độc đáo, biểu thị rõ nét về đặc trưng tư tưởng Phật giáo Hữu bộ, xen lẫn một ít giáo nghĩa Kinh Lượng Bộ.
    Trong 4 bộ A-hàm, Trung A-hàm có số lượng kinh tương đối lớn (222 kinh), chứa đựng nhiều giáo lý căn bản, phương pháp hành trì tu tập được giải thích rõ ràng, cặn kẻ, chỉ dẫn cả cách ăn, cách ở? Trung A-hàm dạy cho một Tỳ-kheo biết mình phải làm gì để xứng đáng là một Sa-môn Thích tử, cũng thấy được thế nào là một Sa-môn đáng bị chê trách. Ai chưa biết phải tu tập thế nào, phải ở đâu, làm gì? thì đọc Trung A-hàm khắc tự biết mình phải làm gì. Người Phật tử cũng vậy, cũng thấy mình cần phải sống làm sao cho xứng đáng một cận sự nam, cận sự nữ ưu tú của Tam Bảo. Người làm công tác lãnh đạo, quản lý nhà nước mà đọc Trung A-hàm thì cũng biết mình cần phải làm gì cho dân cho nước (Phẩm Vương Tương Ưng), v.v?
    B- Vài đặc điểm của Trung A Hàm
    1) Tinh thần hiện chứng thể nghiệm:
    Đây là đặc điểm nổi bật của Trung A-hàm, mà cũng là của toàn bộ Phật giáo. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường, và chân lý không phải là thứ đem cho người ta thấy được. Cho nên đối với chân lý tối cao, chúng ta phải tự lực thể nghiệm. Sự tự lực thể nghiệm ấy, không những áp dụng với tinh thần tự lực giải thoát mà thôi, mà còn đặc biệt chú ý đến sự hiện chứng. Thế nào gọi là sự hiện chứng? Ví dụ con đường bộ từ TP. HCM đi Vũng Tàu dài 120km. Người đi không thể đến Vũng Tàu bằng đường bộ mà không qua 120km này, mà phải đi từng bước, bước từng đoạn, được một đoạn là đến Vũng Tàu một đoạn. Con đường vô thượng giác cũng vậy, nương theo lời Phật chỉ dẫn, ta phải bước từng bước, hiện chứng đến đâu thể nghiệm chân lý đến đó, cho đến khi toàn giác. Kinh Trú Độ Thọ cho chúng ta biết đoạn đường của một người từ khi mới xuất gia đến khi thành tựu Phạm hạnh giải thoát phải trải qua bảy giai đoạn. Do đó, quá trình tu chứng và đạt chân lý là một quá trình tuần tự nhi tiến; và theo Trung A-hàm, chưa có quan điểm đột biến và dù dưới hình thức nào, cũng không vượt qua phạm vi Tam vô lậu học, Giới ?" Định ?" Tuệ (Phẩm Bảy Pháp, và nhiều kinh khác).
    2) Nói về Tâm:
    Tâm là phần chủ động của mọi hành vi của con người và thế giới. Hễ tâm thiện thì tạo nghiệp thiện, tâm ác thì tạo nghiệp ác. ?oTâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ thế gian, tâm phát khởi tự tại, tâm tạo tác tất cả?? (Kinh 172). Đặc biệt, trong khi tu thiền định, điều quan trọng nhất là sự hướng tâm. Cho nên, cùng một pháp tu nhưng kết quả tu tập lại phụ thuộc vào chỗ hướng tâm của hành giả, hướng đến thiện hay bất thiện. Nhất thiết duy tâm tạo là tiền cho hết thảy tư tưởng Phật giáo (Phẩm Tâm).
    3) Nhân sinh quan và thế giới quan:
    Con người và thế giới theo cái nhìn của Phật giáo chỉ là những yếu tố tương tác, nương tựa của tứ đại, ngũ uẩn, 12 nhân duyên, 12 xứ, 18 giới, sự cảm thọ, bốn loại thức ăn, nghiệp thức và kiết sinh thức mà hình thành. Ngoài những yếu tố này, không có một đấng thần linh nào sáng tạo, không có một linh hồn bất tử, một thần thức cố định, một đại ngã thường hằng, mà luôn luôn trong quá trình vận động theo định thức duyên khởi. Do đó, thực tướng của các pháp là không, vô thường, vô ngã. Khi quán chiếu và thấy được các pháp như thế, Đức Phật giác ngộ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đồng thời chỉ cho chúng sanh cũng thấy được cái thấy như thế, để cũng có thể giác ngộ như Ngài. Phật dạy: ?oNgười nào thấy được lý duyên khởi là người đó thấy được pháp tánh. Người nào thấy được pháp tánh là người đó thấy được Như Lai? (Kinh 13, 36, 60, 97, 163, 181, 184, 201).
    4) Nhân quả nghiệp báo:
    Giáo lý nhân quả nghiệp báo xác định rõ con người là chủ nhân của nghiệp và là kẻ thừa tự của nghiệp. Tùy thuộc vào nghiệp tốt hay xấu mà có hoàn cảnh và cuộc sống tốt đẹp hay khổ đau. Nghiệp là một năng lực, khi còn ở tiềm năng thì gọi là nghiệp nhân, khi đã thể hiện qua hành động thì gọi là nghiệp tướng, khi lãnh thọ quả báo thì gọi là nghiệp quả. Nghiệp là kết quả của các hành vi từ thân, khẩu, ý có dụng tâm (tác ý). Theo đó, với tâm niệm tốt, thiện lành, thân khẩu ý sẽ tạo ra 10 nghiệp thiện; với tâm niệm không tốt, bất thiện, thân khẩu ý sẽ tạo ra 10 nghiệp ác. Nghiệp này sẽ dẫn dắt chúng sanh đến những hoàn cảnh và cuộc sống tương ưng. Tuy nhiên, phạm trù nhân quả nghiệp báo thật sâu xa khó hiểu, vì nó chi phối, ảnh hưởng cả ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai, nếu không hiểu thấu đạo lý này chúng ta không thể hiểu được những hiện tượng hình như trái với quy luật nhân quả, như ?oĂn ở hiền lành mà vẫn gian nan, hung hăng tàn bạo mà vẫn an nhàn?. Đọc Trung A-hàm sẽ hóa giải được những nghi ngờ về kiếp sống nhân sinh, củng cố niềm tin và hy vọng vào cái chân, cái thiện sẽ có kết quả tốt đẹp. (Xem Phẩm Nghiệp Tương Ưng và các kinh 171, 174, 175?)
    5) Quan điểm đạo đức:
    Nền tảng đạo đức của Phật giáo là giới luật và kết quả chung cục của nó là đạo đức giải thoát. Trên cơ sở đó, Phật giáo quan niệm các hành động bị điều động bởi tâm lý tham, sân, si là các hành động dẫn đến khổ đau, vì thế chúng là bất thiện; các hành động được điều động bởi vô tham, vô sân, vô si là các hành động dẫn đến các kết quả an lạc, hạnh phúc, vì thế chúng là thiện. Thiện là đạo đức và bất thiện là phi đạo đức. Với quan niệm này, giới luật trở thành những nguyên tắc đạo đức, xây dựng cuộc sống an vui, hạnh phúc cho mình và tha nhân. Hơn nữa, giáo lý Duyên khởi xác định con người tương quan mật thiết với thế giới xung quanh, cho nên gây tổn thương với tha nhân và môi trường là đồng nghĩa với sự làm tổn thương, gây đau khổ cho chính bản thân mình. Vì vậy, Phật giáo luôn đề cao sự tu luyện bản thân, cải thiện tự tâm, hoàn thành bổn phận đạo đức trong phạm vi gia đình, xã hội, và thế giới chung quanh, cuối cùng là được sự an lạc, giải thoát trong hiện tại và tương lai. (Xem các kinh 28, 38, 39, 40, 41, 128, 135, 202)
    6) Tinh thần giải thoát vô trụ:
    Giải thoát là không đi về đâu cả, mà ngay trong đời hiện tại này chứng được đạo lộ tịch tĩnh, diệt tận. Cho nên, cơ bản của giải thoát là đoạn trừ phiền não, là phải quán chiếu để thấy ?oTa không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì được đoạn trừ. Sau khi đoạn, vị ấy đạt được xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước?. Điều này có nghĩa không thấy có tâm đoạn trừ phiền não và phiền não bị đoạn trừ. Cả 2 đều xả ly. Tiến xa hơn, khi đạt được chân lý nhưng không an trụ chân lý đã đạt, do đó được gọi là không trụ vào đâu, mới thật chứng vô dư Niết-bàn. Niết-bàn ấy có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước, tức là Niết-bàn vô trú (Kinh 7, 6, 191,88).
    7) Tinh thần thực tiễn:
    Đạo Phật nhận thức cuộc đời có mặt của những nỗi khổ niềm đau, và ý thức một cách rõ ràng tất cả những khổ đau đều có nguyên do của nó; đồng thời thực chứng rằng khi khổ đau vắng mặt thì hạnh phúc hiển bày. Do đó, Phật giáo vạch ra con đường đi đến hạnh phúc, bằng cách đoạn tận các phiền não, cắt đứt tham ái, những nguyên do của khổ đau, để thiết lập cuộc sống hạnh phúc ngay đây và bây giờ, mà không bận tâm đến những vấn đề siêu hình, những vấn đề không thực tế, không liên quan thiết thực đến cuộc sống hiện tại v.v? Đạo Phật là đạo giác ngộ, giải thoát, mà là giác ngộ, giải thoát trong cuộc đời này, chứ không hứa hẹn về một thế giới bên kia nào khác, gọi là hiện pháp lạc trú. (Kinh 120, 121, 165, 166, 167?)
    8) Quan điểm giáo dục:
    Đạo Phật đặt con người là trung tâm điểm của xã hội loài người. Xã hội ấy tiến hóa hay thoái hóa là hoàn toàn do hoạt động của con người, mà hoạt động của con người lại do tâm trí con người làm chủ. ?oTâm tạo tác, tâm làm chủ?. Do đó, muốn xây dựng xã hội, căn bản là phải xây dựng con người, muốn cải tạo xã hội, căn bản là cải tạo con người. Cho nên Phật giáo đặt giáo dục chuyển hóa nội tâm con người lên hàng đầu. Bởi tâm con người nếu còn tham lam, ích kỷ, độc tài, thì xã hội loài người vẫn còn địa ngục; ngược lại, nếu tâm ấy được đối trị, được cải tạo, được uốn nắn cho trở nên nhu nhuyến, dễ sử dụng, làm cho trong sạch tham, sân, si, thì hoạt động con người trở nên sáng suốt, xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, cực lạc. Chung quy, giáo dục Phật giáo được xây dựng đầy đủ trên 4 đức tính: tâm đức, trí đức, hạnh đức và quả đức. 4 đức tính ấy được truyền đạt của 8 hình thức: giáo dục về mặt trí thức, tư tưởng, chiêm nghiệm, nhận thức, hành động, đạo đức bản thân, nhân bản, và giải thoát toàn diện. (Kinh 1, 14, 74, 81, 146, 157?)
    9) Bình đẳng giới tính:
    Nếu như vấn đề bình đẳng giới tính trong xã hội ngày nay vẫn còn gây nhiều tranh cãi và bất đồng quan điểm, thì trong xã hội Ấn Độ cách đây hơn 25 thế kỷ có thể nói là vô cùng xa lạ và không thể chấp nhận được! Thế mà Tăng đoàn Phật giáo thời bấy giờ xuất hiện nữ giới: được xuất gia, tu hành và chứng quả Thánh, cho đến quả Thánh A-la-hán. Cứ nhìn vào bối cảnh của xã hội Ấn Độ lúc đó, khi phải trở thành đời sống khất sĩ nay đây mai đó, phải đối mặt với thú dữ, cướp bóc, thời tiết khắt nghiệt, với chỉ trích của ngoại đạo v.v? thì mới thấy được tấm lòng bi mẫn của đức Thế Tôn, mới hiểu được vì sao Bát kỉnh pháp được hình thành, và vì sao giới luật của Ni nhiều hơn Tăng. Quả thật, đọc Trung A-hàm chúng ta thấy mình có mặt trong xã hội Ấn Độ thời Phật còn tại thế, bỗng nhiên chợt hiểu các điều luật ấy hết sức thực tiễn và cảm thông cho đời sống tu sĩ cả Tăng lẫn Ni! Đó là chưa nói đến sự khu biệt trong tâm sinh lý của chúng sanh.
    10) Vấn đề thọ ký:
    Dù chỉ xuất hiện trong một kinh (kinh 66), nhưng nó lại có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trong kinh, Đức Phật thọ ký cho Tỳ-kheo A-di-đà làm Chuyển luân thánh vương tên là Loa trong thời Đức Phật Di Lặc ra đời. Đồng thời thọ ký cho tôn giả Di Lặc sẽ thành Phật trong tương lai. Qua sự kiện này, Trung A-hàm không những chỉ làm sáng tỏ vấn đề nhân quả trong pháp hội A-hàm, mà còn làm tiền đề cho sự phát triển văn học thọ ký thuộc Hữu Bộ, và cuối cùng là đỉnh cao của tư tưởng Pháp Hoa sau này.
    Kết luận
    Đọc hết Trung A-hàm. Đọc lại thêm vài lần nữa, mới hiểu câu nói của Trúc Lâm Điều Ngự Trần Nhân Tông: ?oNhất hồi niêm xuất nhất hồi tinh?, mỗi lần cầm lại mỗi lần mới tinh. Cái mới ở đây không phải là sự phát hiện cái gì mới lạ trong văn học văn bản kinh A-hàm, mà là mới vì ?othâm nhập kinh tạng?. Quả nhiên, pháp Phật chỉ có một vị, vị giải thoát. Càng đọc càng thấm cái hương vị giải thoát, được pháp lạc, gọi là ?ohiện pháp lạc trú?.
    Cho nên, hãy:
    Cẩn thận, đừng nghĩ quá khứ;
    Tương lai cũng chớ mong cầu.
    Quá khứ đã qua, đã mất,
    Tương lai chưa đến, còn xa.
    Hiện tại những gì đang có
    Thì nên quán sát suy tư.
    (Kinh Ôn Tuyền Lâm Thiên)

    Câu hỏi thực hành
    1. Hãy đọc qua trọn bộ kinh Trung A-hàm một lần. Chọn lấy một kinh tâm đắc để hành trì.
    2. Áp dụng kinh Thiện Sanh trong cuộc sống gia đình, bạn bè, xã hội...
    3. Cư sĩ Cấp Cô Độc đang bị bệnh nặng, Tôn giả Xá-lợi-phất đã vì ông mà nói Kinh Giáo Hóa Bệnh, sau khi nghe xong, cư sĩ liền khỏi bệnh. Nếu chúng ta đang có bệnh, thử điều trị bằng cách này?

    Tư liệu tham khảo
    - Đại tạng kinh Đại chính tân tu.
    - Kinh Trung A Hàm, trọn bộ 4 tập, Đại tạng kinh Việt Nam, số hiệu A a2.
    - Kinh Trung A Hàm, TT. Tuệ Sĩ dịch, phatviet.com
    - Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa, quyển 1.
    - Luận Phân biệt công đức, quyển 1.
    - Đại cương kinh Trung A Hàm, TT. Thích Thiện Nhơn biên soạn.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này