1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chuyện kể về các loài hoa - Mục lục trang 1

Chủ đề trong 'Cuộc sống' bởi Oshin, 08/06/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    hoa Trạng Nguyên - Poinsettia
    sau đây là một huyền thọai khác về hoa Trạng Nguyên từ phương Tây
    Một chuyện kể lại rằng ngày xưa , Pepita, một bé gái nghèo bên xứ Mehicô không có quà đem biếu Chúa Hài Đồng trong ngày lễ Giáng Sinh cuối năm . Pepita đang đi bộ chung với người anh họ Pedro , quả tim nặng trĩu u buồn thay vì vui mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Pedro an ủi cô bé rằng , món quà đơn giản nhất , nếu được biếu với hết cái Tâm, hay tình yêu của mình, cũng sẽ được Đức Chúa vui vẻ chấp thuận .
    Không biết làm gì hơn, cô bé Papita quỳ bệt xuống bên lề đường và bắt đầu hái những nắm cỏ dại , và cố gắng gom chúng lại như một chùm hoa . Nhìn chùm cỏ dại xấu xí, lòng cô quặn buồn và xấu hổ vì sự đơn giản của món quà Noel này . Cô cố gắng để không bật khóc thành tiếng và lững thững đi vào ngôi nhà thờ nhỏ.
    Khi cô bé đến gần bàn thờ nơi hang đá , cô chợt nhớ lại lời anh Pedro lúc nãy : món quà đơn giản nhất , nếu biếu với hết tấm lòng kính yêu cũng sẽ đuợc Chúa nhận . Cô chợt cảm thấy an tâm và đặt chùm cỏ dại bên cạnh nôi Chúa Hài Đồng . Bất chợt chùm cỏ dại khô héo bùng sáng lên và biến thành một bó hoa mầu đỏ rực rỡ và tất cả mọi người đêu đuợc chứng kiến một phép lạ đêm Giáng Sinh hôm đó .
    Và kể từ hôm đó lòai hoa đỏ rực rỡ này được mọi người gọi là Flores de Noche Buena hay Hoa của đêm Thánh Vô Cùng và hàng năm, hoa lá đỏ này nở rộ mỗi mùa Giáng Sinh ( mèo phỏng dịch theo Legend of the Poinsettia)
  2. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    hoa Trạng Nguyên - Poinsettia
    sau đây là một huyền thọai khác về hoa Trạng Nguyên từ phương Tây
    Một chuyện kể lại rằng ngày xưa , Pepita, một bé gái nghèo bên xứ Mehicô không có quà đem biếu Chúa Hài Đồng trong ngày lễ Giáng Sinh cuối năm . Pepita đang đi bộ chung với người anh họ Pedro , quả tim nặng trĩu u buồn thay vì vui mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Pedro an ủi cô bé rằng , món quà đơn giản nhất , nếu được biếu với hết cái Tâm, hay tình yêu của mình, cũng sẽ được Đức Chúa vui vẻ chấp thuận .
    Không biết làm gì hơn, cô bé Papita quỳ bệt xuống bên lề đường và bắt đầu hái những nắm cỏ dại , và cố gắng gom chúng lại như một chùm hoa . Nhìn chùm cỏ dại xấu xí, lòng cô quặn buồn và xấu hổ vì sự đơn giản của món quà Noel này . Cô cố gắng để không bật khóc thành tiếng và lững thững đi vào ngôi nhà thờ nhỏ.
    Khi cô bé đến gần bàn thờ nơi hang đá , cô chợt nhớ lại lời anh Pedro lúc nãy : món quà đơn giản nhất , nếu biếu với hết tấm lòng kính yêu cũng sẽ đuợc Chúa nhận . Cô chợt cảm thấy an tâm và đặt chùm cỏ dại bên cạnh nôi Chúa Hài Đồng . Bất chợt chùm cỏ dại khô héo bùng sáng lên và biến thành một bó hoa mầu đỏ rực rỡ và tất cả mọi người đêu đuợc chứng kiến một phép lạ đêm Giáng Sinh hôm đó .
    Và kể từ hôm đó lòai hoa đỏ rực rỡ này được mọi người gọi là Flores de Noche Buena hay Hoa của đêm Thánh Vô Cùng và hàng năm, hoa lá đỏ này nở rộ mỗi mùa Giáng Sinh ( mèo phỏng dịch theo Legend of the Poinsettia)
  3. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    hoa Huệ
    [​IMG]
    Hai cành hoa huệ
    Cách đây ba năm, vào một ngày nắng hè tươi thắm, như bao nhiêu người bản xứ đều muốn đi ra ngoài để tranh thủ hưởng thụ ánh nắng ấm áp cũng như hít thở thoáng khí bên ngoài, tôi ngồi tàu điện ngầm để đi vào trung tâm thành phố mua vài thứ hàng cần dùng. Đang ngồi liên miên với bao ý nghĩ vu vơ thì tàu dừng ở một bến để đón khách, một phụ nữ người Đức bước lên, đến ngồi đối diện với tôi, trên tay cầm năm cành hoa trắng. Bà trạc 50 ngoài.
    Năm cành hoa đập ngay vào mắt tôi, tôi không biết mình có trông đúng hay không? Hình như đó là hoa huệ, thứ hoa huệ của bên nhà mà ở phía Nam, trên mọi bàn thờ thường có. Tôi nghĩ có lẽ mình nhận sai chăng, làm gì lại có hoa huệ tươi ở đất Âu Châu này? Từ mấy mươi năm nay, có bao giờ tôi thấy hoa huệ được bán ở đây? Hơn nữa, cành hoa này to lớn hơn hoa huệ bên nhà, cánh hoa rất to nên trông đẹp hơn hoa huệ mà tôi từng được biết. Ngày xưa, lúc còn bé thơ, tôi rất ghét hai loại hoa, hoa vạn thọ vì dáng trông xấu, hương lại nồng; thứ đến là hoa huệ vì nó gầy đét!
    Tôi cứ thắc mắc, nhìn ngắm mãi mấy cành hoa, lòng rạt rào một niềm vui nho nhỏ. Sau cùng, vì không dằn được sự tò mò, tôi đánh liều làm quen người chủ của những bông hoa ấy: "Thưa bà, hoa này ở đâu mà bà có được vậy? Tôi nghĩ nó là một loại hoa của xứ nhiệt đới, phải không??o. Bà tươi cười, hãnh diện nhìn bó hoa, đáp: "Đúng, tôi đi du lịch sang Thái Lan, thấy người ta bán củ hoa, tôi mua về đợi ra mùa xuân trồng thử, không ngờ nó lên xanh tốt! Đẹp quá, phải không bà??o. Tôi gật đầu: "Hoa này bên xứ tôi cũng có, nó rất thông dụng. Trông thấy nó, tôi nhớ nhà quá!?o. Bà liền sốt sắn rút hai cành đưa cho tôi: "Bà cầm đi?o. Tôi ngại ngùng: "Hoa này ở đây hiếm có, bà nên giữ để chưng, tôi không thể nhận như thế?o. Nhưng bà vẫn cứ khăng khăng: "Bà cứ cầm lấy đi, cái này là tôi định mang đến cho con gái tôi, thêm hay bớt một, hai cành cũng không sao. Ở nhà tôi, ngoài vườn còn nhiều lắm!?o. Tôi rối rít cám ơn bà, nhận hoa, lòng mừng khôn tả. Bà còn trao cho tôi một danh thiếp, dặn nếu tôi muốn, có thể điện thoại hẹn với bà để đến nhà bà
    Về đến nhà, tôi vội cho hoa vào lọ nước ngay vì sợ nó bị héo. Tôi nâng niu nó như nâng trứng, đi tới đi lui ngắm nhìn cho thỏa thích, như được nhìn thấy lại một góc quê hương. Tôi giải thích cho con tôi biết: "Đây là hoa huệ của bên mình, thường dùng để cúng trên bàn thờ ông bà hay bàn thờ Phật. Mấy mươi năm rồi, bây giờ mẹ mới được nhìn thấy lại nó!?o. Khi gia đình em trai tôi đến chơi, tôi hãnh diện khoe nó với mọi người. Em tôi trố mắt: "Cái này là hoa huệ đây hở? Ở đây mà lại có hoa huệ tươi chưng trong nhà!?o. Những ngày kế tiếp, cứ mỗi khi có một hoa bị úa tàn, tôi ngắt bỏ nó đi, cho đến khi tàn hết cành, tôi mới mang đi vứt hẳn. Hai cành hoa mất đi rồi, tôi nghe lòng buồn man mác, như đã đánh mất đi một cái gì thân thiết. Sau đó, vì bận rộn với bao công việc, tôi cũng không có thì giờ để đến nhà bà Đức nọ xem hoa tiếp. Có lẽ, tôi sẽ nhận được thêm vài cành huệ nữa để mang về chưng, kéo dài thêm cái hạnh phúc nho nhỏ của tôi?
    Hai cành hoa huệ đưa tôi trở về một kỷ niệm thời thơ ấu. Lúc ấy, tôi khoảng 8 tuổi, cái tuổi hoàn toàn chỉ biết đi học, ăn và chơi. Một hôm, mẹ tôi và chị ở (gọi theo trong Nam thời đó) vừa đi chợ về, có mua một bó hoa huệ, còn để nằm trên bàn trong bếp ở dãy phòng bồi. Mẹ tôi bận lên nhà trên, chị ở thì lo soạn các thức mua về để chuẩn bị nấu nướng. Bó hoa nằm cô đơn trên mặt bàn.Tôi đang thơ thẩn đi tới đi lui, chưa biết phải làm gì, chợt trông thấy bó hoa, nãy ra ý nghĩ, sao mình không lấy hoa này mang sang chơi "làm cô, làm thím?o với cô bạn thân nhà bên cạnh? Thế là tôi rút đại hai cành huệ mà chẳng cần hỏi ý kiến ai, chạy vụt sang nhà cô bạn láng giềng.
    Cô bạn tôi cũng tên là Huệ, trong nhà cô gọi cô là Bảy Huệ, nên tôi cũng gọi cô như thế. Thấy tôi sang, Bảy Huệ rất mừng vì có người chơi chung. Tôi chìa hai cành huệ ra khoe, đưa cho Bảy Huệ một cành, tôi giữ một. Mẹ của Bảy Huệ thình lình xuất hiện, thấy chúng tôi cầm hoa huệ trên tay, hỏi tôi ngay: "Hoa huệ ở đâu mà tụi con có chơi vậy? Coi chừng lấy của nhà, bị la đó!?o. Tôi không trả lời cũng chẳng có suy tư gì về điều bà nói.
    Thế là trò chơi bắt đầu. Mỗi đứa ở một gốc vườn, chúng tôi đều có "nhà riêng?o. Hoa thì chúng tôi cắt bỏ cọng dài, chỉ lấy đoạn có hoa cho nó ngắn, cắm xuống đất không bị ngã, trồng trong "mãnh vườn riêng?o của mỗi đứa. Thời đó, đồ chơi của con gái có gì hơn là một cái nồi đất và cái lò đun cũng bằng đất sét bé tí teo. Chúng tôi xắt lá cây cho vào nồi giả vờ nấu cơm, dùng lá ổi làm bát, chân nhang làm đũa, rồi chạy qua, chạy lại thăm viếng nhau, mời nhau "ăn uống?o. Hết nấu nướng, ăn uống xong đến chơi đánh đũa, bồng búp bê chơi trò mẹ con. Búp bê Pháp thời ấy chưa có nhắm mắt được và khi mua, nó cũng chẳng có quần áo như bây giờ. Thế mà đối với chúng tôi, nó là cả một cái gì rất quý giá, vì không phải đứa trẻ nào cũng có được! Chúng tôi dùng khăn tay xếp tréo quấn ngang mình nó làm áo. Cứ thế mà thì giờ trôi qua rất nhanh. "Bữa tiệc?o nào rồi cũng phải tàn?
    Tôi đang vừa đi, trên tay bồng búp bê, vừa tung tăng vào nhà thì nghe tiếng mẹ tôi gọi "H. lại đây mẹ bảo!?o. Nhìn nét mặt và nghe giọng nói của mẹ tôi, tôi đoán ngay có điều không lành xảy ra. Tôi bước tới mà tim cứ đánh trống thình thịch! "Tại sao hoa của mẹ mua để cúng bàn thờ ông nội mà con dám lấy chơi? Con có biết như vậy là bị đòn không??o. Tôi lo sợ, cúi nhìn xuống đất, không dám trả lời. Thế là hai tiếng "bốp, bốp?o vào mông tôi. Con búp bê rơi ngay xuống đất. Nước mắt tôi chảy dài, tôi cắn răng, không dám bật khóc thành tiếng. Mẹ tôi quát tiếp theo: "Từ nay về sau, không được làm như thế nữa, nghe không? Đi vào tắm rửa đi!?o. Tôi đi nhanh vào phòng tắm, ngồi bẹp xuống đất, để cho hai hàng nuớc mắt được tự do tuôn trào!
    Từ đó về sau, không bao giờ tôi dám mó đến một cành hoa huệ, dù có thấy nó bất cứ ở đâu! Đối với tôi, hoa huệ là cả một cái gì tôn nghiêm mà tôi luôn kính sợ. Nhìn thấy một bó huệ là tôi len lén bỏ đi chỗ khác, dù nó được bày bán ở chợ hay được chưng trên bàn ở phòng khách nhà ai!
    Tôi không ngờ sau này lớn lên, suốt đời tôi sẽ không bao giờ được trông thấy lại hoa huệ trong cuộc sống đời thường hàng ngày nữa, cũng như không còn được gặp lại Bảy Huệ nữa. Hai năm sau đó, gia đình tôi dọn nhà đi nơi khác, chúng tôi cũng bặt tin nhau luôn kể từ đó. Năm 1993, tôi được tin Bảy Huệ đã từ trần bên Mỹ vì một chứng bệnh nan y, khi cô được 48 tuổi.
    Giờ muốn được trông thấy lại hoa huệ, tôi phải bay xa ngàn dặm, trở về nơi tôi đã được sinh ra và trưởng thành. Nơi mà tôi gọi là quê hương và cũng là nơi mà đối với tôi, nó là duy nhất! Hoa huệ mà ngày xưa tôi ghét bỏ, giờ đây đối với tôi nó quý vô cùng. Tôi thấy yêu thương nó lạ, cũng như tôi vốn yêu thích tất cả các loại hoa khác ở đây. Bây giờ, tôi mới nhận ra, mỗi loại hoa đều có một vẻ đẹp riêng, chẳng có hoa nào xấu cả. "Mỗi hoa một vẻ, mười phân vẹn mười?o! (xin phép được sửa lời thơ của Nguyễn Du).
    Giờ đây, tôi mới thấy là hoa huệ rất đẹp, nhưng đã muộn rồi?
    PHƯƠNG NAM (Đức)
  4. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    hoa Huệ
    [​IMG]
    Hai cành hoa huệ
    Cách đây ba năm, vào một ngày nắng hè tươi thắm, như bao nhiêu người bản xứ đều muốn đi ra ngoài để tranh thủ hưởng thụ ánh nắng ấm áp cũng như hít thở thoáng khí bên ngoài, tôi ngồi tàu điện ngầm để đi vào trung tâm thành phố mua vài thứ hàng cần dùng. Đang ngồi liên miên với bao ý nghĩ vu vơ thì tàu dừng ở một bến để đón khách, một phụ nữ người Đức bước lên, đến ngồi đối diện với tôi, trên tay cầm năm cành hoa trắng. Bà trạc 50 ngoài.
    Năm cành hoa đập ngay vào mắt tôi, tôi không biết mình có trông đúng hay không? Hình như đó là hoa huệ, thứ hoa huệ của bên nhà mà ở phía Nam, trên mọi bàn thờ thường có. Tôi nghĩ có lẽ mình nhận sai chăng, làm gì lại có hoa huệ tươi ở đất Âu Châu này? Từ mấy mươi năm nay, có bao giờ tôi thấy hoa huệ được bán ở đây? Hơn nữa, cành hoa này to lớn hơn hoa huệ bên nhà, cánh hoa rất to nên trông đẹp hơn hoa huệ mà tôi từng được biết. Ngày xưa, lúc còn bé thơ, tôi rất ghét hai loại hoa, hoa vạn thọ vì dáng trông xấu, hương lại nồng; thứ đến là hoa huệ vì nó gầy đét!
    Tôi cứ thắc mắc, nhìn ngắm mãi mấy cành hoa, lòng rạt rào một niềm vui nho nhỏ. Sau cùng, vì không dằn được sự tò mò, tôi đánh liều làm quen người chủ của những bông hoa ấy: "Thưa bà, hoa này ở đâu mà bà có được vậy? Tôi nghĩ nó là một loại hoa của xứ nhiệt đới, phải không??o. Bà tươi cười, hãnh diện nhìn bó hoa, đáp: "Đúng, tôi đi du lịch sang Thái Lan, thấy người ta bán củ hoa, tôi mua về đợi ra mùa xuân trồng thử, không ngờ nó lên xanh tốt! Đẹp quá, phải không bà??o. Tôi gật đầu: "Hoa này bên xứ tôi cũng có, nó rất thông dụng. Trông thấy nó, tôi nhớ nhà quá!?o. Bà liền sốt sắn rút hai cành đưa cho tôi: "Bà cầm đi?o. Tôi ngại ngùng: "Hoa này ở đây hiếm có, bà nên giữ để chưng, tôi không thể nhận như thế?o. Nhưng bà vẫn cứ khăng khăng: "Bà cứ cầm lấy đi, cái này là tôi định mang đến cho con gái tôi, thêm hay bớt một, hai cành cũng không sao. Ở nhà tôi, ngoài vườn còn nhiều lắm!?o. Tôi rối rít cám ơn bà, nhận hoa, lòng mừng khôn tả. Bà còn trao cho tôi một danh thiếp, dặn nếu tôi muốn, có thể điện thoại hẹn với bà để đến nhà bà
    Về đến nhà, tôi vội cho hoa vào lọ nước ngay vì sợ nó bị héo. Tôi nâng niu nó như nâng trứng, đi tới đi lui ngắm nhìn cho thỏa thích, như được nhìn thấy lại một góc quê hương. Tôi giải thích cho con tôi biết: "Đây là hoa huệ của bên mình, thường dùng để cúng trên bàn thờ ông bà hay bàn thờ Phật. Mấy mươi năm rồi, bây giờ mẹ mới được nhìn thấy lại nó!?o. Khi gia đình em trai tôi đến chơi, tôi hãnh diện khoe nó với mọi người. Em tôi trố mắt: "Cái này là hoa huệ đây hở? Ở đây mà lại có hoa huệ tươi chưng trong nhà!?o. Những ngày kế tiếp, cứ mỗi khi có một hoa bị úa tàn, tôi ngắt bỏ nó đi, cho đến khi tàn hết cành, tôi mới mang đi vứt hẳn. Hai cành hoa mất đi rồi, tôi nghe lòng buồn man mác, như đã đánh mất đi một cái gì thân thiết. Sau đó, vì bận rộn với bao công việc, tôi cũng không có thì giờ để đến nhà bà Đức nọ xem hoa tiếp. Có lẽ, tôi sẽ nhận được thêm vài cành huệ nữa để mang về chưng, kéo dài thêm cái hạnh phúc nho nhỏ của tôi?
    Hai cành hoa huệ đưa tôi trở về một kỷ niệm thời thơ ấu. Lúc ấy, tôi khoảng 8 tuổi, cái tuổi hoàn toàn chỉ biết đi học, ăn và chơi. Một hôm, mẹ tôi và chị ở (gọi theo trong Nam thời đó) vừa đi chợ về, có mua một bó hoa huệ, còn để nằm trên bàn trong bếp ở dãy phòng bồi. Mẹ tôi bận lên nhà trên, chị ở thì lo soạn các thức mua về để chuẩn bị nấu nướng. Bó hoa nằm cô đơn trên mặt bàn.Tôi đang thơ thẩn đi tới đi lui, chưa biết phải làm gì, chợt trông thấy bó hoa, nãy ra ý nghĩ, sao mình không lấy hoa này mang sang chơi "làm cô, làm thím?o với cô bạn thân nhà bên cạnh? Thế là tôi rút đại hai cành huệ mà chẳng cần hỏi ý kiến ai, chạy vụt sang nhà cô bạn láng giềng.
    Cô bạn tôi cũng tên là Huệ, trong nhà cô gọi cô là Bảy Huệ, nên tôi cũng gọi cô như thế. Thấy tôi sang, Bảy Huệ rất mừng vì có người chơi chung. Tôi chìa hai cành huệ ra khoe, đưa cho Bảy Huệ một cành, tôi giữ một. Mẹ của Bảy Huệ thình lình xuất hiện, thấy chúng tôi cầm hoa huệ trên tay, hỏi tôi ngay: "Hoa huệ ở đâu mà tụi con có chơi vậy? Coi chừng lấy của nhà, bị la đó!?o. Tôi không trả lời cũng chẳng có suy tư gì về điều bà nói.
    Thế là trò chơi bắt đầu. Mỗi đứa ở một gốc vườn, chúng tôi đều có "nhà riêng?o. Hoa thì chúng tôi cắt bỏ cọng dài, chỉ lấy đoạn có hoa cho nó ngắn, cắm xuống đất không bị ngã, trồng trong "mãnh vườn riêng?o của mỗi đứa. Thời đó, đồ chơi của con gái có gì hơn là một cái nồi đất và cái lò đun cũng bằng đất sét bé tí teo. Chúng tôi xắt lá cây cho vào nồi giả vờ nấu cơm, dùng lá ổi làm bát, chân nhang làm đũa, rồi chạy qua, chạy lại thăm viếng nhau, mời nhau "ăn uống?o. Hết nấu nướng, ăn uống xong đến chơi đánh đũa, bồng búp bê chơi trò mẹ con. Búp bê Pháp thời ấy chưa có nhắm mắt được và khi mua, nó cũng chẳng có quần áo như bây giờ. Thế mà đối với chúng tôi, nó là cả một cái gì rất quý giá, vì không phải đứa trẻ nào cũng có được! Chúng tôi dùng khăn tay xếp tréo quấn ngang mình nó làm áo. Cứ thế mà thì giờ trôi qua rất nhanh. "Bữa tiệc?o nào rồi cũng phải tàn?
    Tôi đang vừa đi, trên tay bồng búp bê, vừa tung tăng vào nhà thì nghe tiếng mẹ tôi gọi "H. lại đây mẹ bảo!?o. Nhìn nét mặt và nghe giọng nói của mẹ tôi, tôi đoán ngay có điều không lành xảy ra. Tôi bước tới mà tim cứ đánh trống thình thịch! "Tại sao hoa của mẹ mua để cúng bàn thờ ông nội mà con dám lấy chơi? Con có biết như vậy là bị đòn không??o. Tôi lo sợ, cúi nhìn xuống đất, không dám trả lời. Thế là hai tiếng "bốp, bốp?o vào mông tôi. Con búp bê rơi ngay xuống đất. Nước mắt tôi chảy dài, tôi cắn răng, không dám bật khóc thành tiếng. Mẹ tôi quát tiếp theo: "Từ nay về sau, không được làm như thế nữa, nghe không? Đi vào tắm rửa đi!?o. Tôi đi nhanh vào phòng tắm, ngồi bẹp xuống đất, để cho hai hàng nuớc mắt được tự do tuôn trào!
    Từ đó về sau, không bao giờ tôi dám mó đến một cành hoa huệ, dù có thấy nó bất cứ ở đâu! Đối với tôi, hoa huệ là cả một cái gì tôn nghiêm mà tôi luôn kính sợ. Nhìn thấy một bó huệ là tôi len lén bỏ đi chỗ khác, dù nó được bày bán ở chợ hay được chưng trên bàn ở phòng khách nhà ai!
    Tôi không ngờ sau này lớn lên, suốt đời tôi sẽ không bao giờ được trông thấy lại hoa huệ trong cuộc sống đời thường hàng ngày nữa, cũng như không còn được gặp lại Bảy Huệ nữa. Hai năm sau đó, gia đình tôi dọn nhà đi nơi khác, chúng tôi cũng bặt tin nhau luôn kể từ đó. Năm 1993, tôi được tin Bảy Huệ đã từ trần bên Mỹ vì một chứng bệnh nan y, khi cô được 48 tuổi.
    Giờ muốn được trông thấy lại hoa huệ, tôi phải bay xa ngàn dặm, trở về nơi tôi đã được sinh ra và trưởng thành. Nơi mà tôi gọi là quê hương và cũng là nơi mà đối với tôi, nó là duy nhất! Hoa huệ mà ngày xưa tôi ghét bỏ, giờ đây đối với tôi nó quý vô cùng. Tôi thấy yêu thương nó lạ, cũng như tôi vốn yêu thích tất cả các loại hoa khác ở đây. Bây giờ, tôi mới nhận ra, mỗi loại hoa đều có một vẻ đẹp riêng, chẳng có hoa nào xấu cả. "Mỗi hoa một vẻ, mười phân vẹn mười?o! (xin phép được sửa lời thơ của Nguyễn Du).
    Giờ đây, tôi mới thấy là hoa huệ rất đẹp, nhưng đã muộn rồi?
    PHƯƠNG NAM (Đức)
  5. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Hoa Ty-gôn - Thanh Châu
    "... Hoa leo ti-gôn sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người..." Khái Hưng (Gánh hàng hoa)
    Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa "Ti-gôn". Đó là thói quen của họa sư mà không một người bạn hay người bạn học trò thân nào là không biết rõ. Đến mùa hoa "Ti-gôn" nở nhiều nhất, trong nhà họa sư Lê người ta chẳng còn thấy một thứ hoa nào khác. Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ, họ sẽ phải cho lời nhận xét của họa sư Lê là đúng : "Hoa Ti-gôn hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuộm máu đào". Rồi người ta tự hỏi thầm :
    "Tại sao họa sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá một ngày đã rụng rồi ? Chắc lại có điều tâm sự chi đây..."
    * * *
    Một buổi trưa - hồi đó Lê Chất hai mươi bốn tuổi, còn là hoạ sĩ nghèo mới ở trường ra - đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe. Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh đẹp.
    Mà cảnh đẹp ở đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.
    Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ, trông ra dáng biệt thự của một quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi. Chất hãm xe, nghển cổ nhìn qua một hàng rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất dắt xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nữa. Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khỏe mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ. Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vừng trán, cảnh "con gái hái hoa" ấy như một bức tranh linh động, khiến người họa sĩ phải dừng chân ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất là đôi môi có một nét vẽ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi, ai trông thấy lần đầu đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô tình, bận gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Đến khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng nhìn mình, mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng.
    Nhưng từ hôm đó, hôm nào họa sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà.
    Lê Chất chỉ được trông thấy nàng vài lần nữa rồi thôi, bởi ngôi nhà hình như sau đó không có người ở nữa, ngày nào cũng chỉ thấy có một ông già cuốc cỏ trong vườn.
    Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đã vẽ nhiều croquis cất trong an-bom để ghi giữ lại, rồi dần dần cũng quên đi...
    * * *
    Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa anh lên một địa vị mà nhiều người ganh tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán với giá cao. Anh bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người, nhất là tranh vẽ đàn bà khiến các bạn Chất tặng cho cái tên : "Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp". Họa sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính, Lê Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ lâu không còn là gã họa sĩ nghèo huýt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà thành đi tìm cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp.
    Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi của tòa nhà lãnh sự Pháp, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đã gặp người này. ở đâu ? Chất giật mình. Có thể nào ? Nhưng quên làm sao khuôn mặt ấy, đôi môi ấy ? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ : thiếu phụ là vợ một viên chức trong tòa lãnh sự.
    Trong khi nhảy với thiếu phụ trong một bản "Tango", Lê Chất đột nhiên hỏi :
    - Bà vẫn thích hái hoa "ti-gôn" chứ ?
    Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên :
    - Ông nói gì... tôi không hiểu.
    - Có lẽ bà đã quên cả Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa...
    Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh :
    - Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không ?
    Nàng nói tiếp :
    - Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng nghĩ không biết đã gặp ở đâu rồi. Tám chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau...
    * * *
    Mai Hạnh - tên thiếu phụ - rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó đã dự vào dĩ vãng tươi đẹp của mình, một họa sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được ? Hạnh thường đến chỗ họa sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận sẽ cho chàng vẽ một chân dung.
    Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo trên đỉnh núi, Lê Chất hỏi :
    - Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể trở thành đôi bạn thôi ư ? Hạnh có đoán được lòng tôi lúc này không ?
    Mai Hạnh, giọng run run, tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất đã ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại :
    - Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.
    Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.
    Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn Lê Chất thì lo ngại, tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng dự định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại, sau cùng cũng nhận lời.
    Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt song mọi việc, lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đã sẵn sàng, thì phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh : "Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Đừng giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn như anh đã tưởng. Đến phút cuối cùng em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai... Em đã thấy rằng : nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy chưa ? Em là một đứa hèn ! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy ! Nhưng còn em thì thật chẳng bao giờ, chẳng bao giờ ! Vì em biết sẽ không bao giờ an ủi được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh...".
    Trong thư, một dây hoa "ti-gôn" nhỏ ép rơi ra : những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.
    Lê Chất đặt một cái hôn lên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch Phù Tang có một mình.
    * * *
    Bốn năm sau, một hôm họa sư Lê Chất thấy trên bàn mình một phong thư viền đen báo tang. Ông mở ra xem thì đó là người chồng Mai Hạnh báo tin nàng đã chết.
    Họa sĩ đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa quen thuộc. Rồi trở về Hà Nội, ông sực nhớ ra rằng đã quên không hỏi xem Mai Hạnh chết vì một bệnh gì, một cơn cảm sốt.. hay vì sầu muộn...
    Ngày nay, họa sư Lê Chất đã già, nhưng cứ đến mùa hoa "ti-gôn" nở, không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế cho hoa cũ trong phòng vẽ, vì thứ hoa ấy chóng tàn.
  6. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Hoa Ty-gôn - Thanh Châu
    "... Hoa leo ti-gôn sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người..." Khái Hưng (Gánh hàng hoa)
    Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa "Ti-gôn". Đó là thói quen của họa sư mà không một người bạn hay người bạn học trò thân nào là không biết rõ. Đến mùa hoa "Ti-gôn" nở nhiều nhất, trong nhà họa sư Lê người ta chẳng còn thấy một thứ hoa nào khác. Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ, họ sẽ phải cho lời nhận xét của họa sư Lê là đúng : "Hoa Ti-gôn hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuộm máu đào". Rồi người ta tự hỏi thầm :
    "Tại sao họa sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá một ngày đã rụng rồi ? Chắc lại có điều tâm sự chi đây..."
    * * *
    Một buổi trưa - hồi đó Lê Chất hai mươi bốn tuổi, còn là hoạ sĩ nghèo mới ở trường ra - đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe. Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh đẹp.
    Mà cảnh đẹp ở đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.
    Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ, trông ra dáng biệt thự của một quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi. Chất hãm xe, nghển cổ nhìn qua một hàng rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất dắt xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nữa. Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khỏe mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ. Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vừng trán, cảnh "con gái hái hoa" ấy như một bức tranh linh động, khiến người họa sĩ phải dừng chân ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất là đôi môi có một nét vẽ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi, ai trông thấy lần đầu đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô tình, bận gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Đến khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng nhìn mình, mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng.
    Nhưng từ hôm đó, hôm nào họa sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà.
    Lê Chất chỉ được trông thấy nàng vài lần nữa rồi thôi, bởi ngôi nhà hình như sau đó không có người ở nữa, ngày nào cũng chỉ thấy có một ông già cuốc cỏ trong vườn.
    Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đã vẽ nhiều croquis cất trong an-bom để ghi giữ lại, rồi dần dần cũng quên đi...
    * * *
    Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa anh lên một địa vị mà nhiều người ganh tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán với giá cao. Anh bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người, nhất là tranh vẽ đàn bà khiến các bạn Chất tặng cho cái tên : "Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp". Họa sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính, Lê Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ lâu không còn là gã họa sĩ nghèo huýt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà thành đi tìm cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp.
    Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi của tòa nhà lãnh sự Pháp, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đã gặp người này. ở đâu ? Chất giật mình. Có thể nào ? Nhưng quên làm sao khuôn mặt ấy, đôi môi ấy ? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ : thiếu phụ là vợ một viên chức trong tòa lãnh sự.
    Trong khi nhảy với thiếu phụ trong một bản "Tango", Lê Chất đột nhiên hỏi :
    - Bà vẫn thích hái hoa "ti-gôn" chứ ?
    Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên :
    - Ông nói gì... tôi không hiểu.
    - Có lẽ bà đã quên cả Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa...
    Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh :
    - Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không ?
    Nàng nói tiếp :
    - Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng nghĩ không biết đã gặp ở đâu rồi. Tám chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau...
    * * *
    Mai Hạnh - tên thiếu phụ - rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó đã dự vào dĩ vãng tươi đẹp của mình, một họa sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được ? Hạnh thường đến chỗ họa sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận sẽ cho chàng vẽ một chân dung.
    Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo trên đỉnh núi, Lê Chất hỏi :
    - Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể trở thành đôi bạn thôi ư ? Hạnh có đoán được lòng tôi lúc này không ?
    Mai Hạnh, giọng run run, tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất đã ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại :
    - Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.
    Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.
    Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn Lê Chất thì lo ngại, tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng dự định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại, sau cùng cũng nhận lời.
    Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt song mọi việc, lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đã sẵn sàng, thì phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh : "Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Đừng giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn như anh đã tưởng. Đến phút cuối cùng em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai... Em đã thấy rằng : nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy chưa ? Em là một đứa hèn ! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy ! Nhưng còn em thì thật chẳng bao giờ, chẳng bao giờ ! Vì em biết sẽ không bao giờ an ủi được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh...".
    Trong thư, một dây hoa "ti-gôn" nhỏ ép rơi ra : những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.
    Lê Chất đặt một cái hôn lên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch Phù Tang có một mình.
    * * *
    Bốn năm sau, một hôm họa sư Lê Chất thấy trên bàn mình một phong thư viền đen báo tang. Ông mở ra xem thì đó là người chồng Mai Hạnh báo tin nàng đã chết.
    Họa sĩ đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa quen thuộc. Rồi trở về Hà Nội, ông sực nhớ ra rằng đã quên không hỏi xem Mai Hạnh chết vì một bệnh gì, một cơn cảm sốt.. hay vì sầu muộn...
    Ngày nay, họa sư Lê Chất đã già, nhưng cứ đến mùa hoa "ti-gôn" nở, không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế cho hoa cũ trong phòng vẽ, vì thứ hoa ấy chóng tàn.
  7. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    [[​IMG]
    Hoa Anh Ðào giữa Sài Gòn Nguyễn Ðạt
    Cô gái Nhật Bản Chisato, đóa hoa anh đào ấy, và thầy giáo Hồ Thái Bình của trường Trung Học Sư Phạm Mầm Non Sài Gòn, gặp nhau trong ý tưởng chung, ý tưởng nảy sinh từ mối quan tâm tới trẻ em khuyết tật bẩm sinh. Rồi từ đấy, trải qua nhiều thời gian với những cố gắng hết sức mình, một quán xinh xắn được hình thành, với nhiều dáng nét Nhật Bản : Quán mang tên Hoa Anh Ðào. Tới Chủ Nhật này (ngày 15 Tháng Tám 2004), quán Hoa Anh Ðào đã có mặt ở số 4 đường Tôn Ðức Thắng (tên cũ: đường Cường Ðể), quận 1, Sài Gòn, đúng 4 tháng.
    Nơi chốn để dừng chân
    Sau khi tốt nghiệp đại học ngành phúc lợi xã hội, sau những chuyến đi một số nước Âu Châu, một số nước vùng Cận Ðông, rồi vùng Ðông Nam Á, cô gái Nhật Bản Chisato tới Việt Nam. Chính Sài Gòn là nơi đặt những bước chân đầu tiên của Chisato tại Việt Nam, và chính Sài Gòn là nơi mà cô gái xứ hoa anh đào quyết định dừng chân: Chisato đã gặp những cô bé, cậu bé khuyết tật, đặc biệt là trẻ em chậm phát triển trí tuệ.
    Nung nấu trong lòng từ lâu vấn đề con người, xã hội, tình cảm đặc biệt của Chisato đã dành sẵn cho các em khuyết tật, nên cô gái xứ hoa anh đào ấy đã quyết định: Phải làm gì cho các em. Vậy là Chisato trở về ngay gia đình mình ở Nhật Bản, ngỏ ý định ấy với cha mẹ. Tất nhiên cha mẹ Chisato đồng ý không do dự, và sự do dự duy nhất có thể có, là vấn đề thực hiện ý định, vì đây là vấn đề không dễ dàng: Phải có tiền. Ấy tuy nhiên, khi lòng đã quyết, cô Chisato không quản ngại. Một cuộc vận động tích cực, và ở xứ hoa anh đào, hoa xứ tuyết như thể tiềm tàng trong lòng biết bao con người Nhật Bản. Cũng cần kể ra trước nhất, trước cả cuộc vận động của Chisato, cha mẹ của Chisato đã tặng cô hơn một trăm triệu đồng (tính ra tiền Việt Nam).
    Sài Gòn hiện nay cũng thuộc một trong những thành phố người khôn của khó, đặc biệt về vấn đề nhà đất, mặt bằng thuê mướn để lập quán. Nên, nếu như không gặp một thầy giáo như thầy Hồ Thái Bình thì Chisato còn chật vật về việc thuê mướn mặt bằng. Nghĩa là ở Sài Gòn không phải thiếu những nhà cửa đất đai cho thuê, nhưng rất thiếu những sở hữu chủ cho thuê một căn nhà, một khoảnh đất mà không vì lợi nhuận. Họ thường cho thuê với những vài ngàn đô la một tháng, nhất là ở những khu vực như quận 1, nơi Chisato muốn mở quán để thuận tiện cho hoạt động quy tụ, chăm sóc, giúp các em khuyết tật hòa nhập xã hội.
    Thầy giáo Hồ Thái Bình là giáo viên tại trường Trung Học Sư Phạm Mẫu Giáo Mầm Non, số 4 đường Tôn Ðức Thắng. Cơ sở của trường trước đây là cơ sở của chủng viện, sau chủng viện di dời, chuyển cơ sở cho trường Trung Học Sư Phạm Mẫu Giáo của ngành giáo dục đào tạo thành phố. Vậy là, thầy giáo Hồ Thái Bình đã ra sức kiếm tìm giúp Chisato. Cuối cùng, một bên hông của tòa nhà chủng viện, với phía ngoài là bờ tường của chủng viện (chúng ta hãy nhớ lại kiến trúc cổ điển của chủng viện): Khoảng trống hẹp và dài đó là nơi mà ban giám hiệu trường Trung Học Sư Phạm Mẫu Giáo Mầm Non đồng ý cho cô Chisato mướn với giá rẻ.
    Khi tôi tìm tới quán của cô gái xứ hoa anh đào, dù có quên đi cái quán có mục đích đẹp đẽ như vậy, chỉ là một quán cà phê, giải khát mà thôi, thì cái quán này vẫn là một quán đẹp, một vẻ đẹp thích hợp với rất nhiều người để bước vào. Quán Hoa Anh Ðào, với tấm biển hiệu là miếng gỗ nhỏ kẻ chữ kiểu hội họa thiếu nhi, treo trên khuôn cổng sắt kiểu cổ điển của chủng viện. Với dải đất gãy góc, khuôn theo khoảng trống giữa tòa nhà và bức tường, nên cổng quán ở chỗ gãy góc đó, vào đúng chỗ góc đường Tôn Ðức Thắng và con đường mới mở, không chú ý thì khó nhận ra. Thẳng cổng vào là chỗ để xe cho khách, rồi bước vào ngang phía tay phải là quán, giản dị, thanh sạch, từ dáng nét cấu trúc ngôi quán, tới bố cục, bài trí, cây cảnh phía trong quán. Và hiển nhiên, không biết Chisato là ai, cũng thấy quán mang vẻ Nhật Bản.
    Ðội ngũ phục vụ viên
    Nếu vào quán Hoa Anh Ðào mà quên mục đích của quán, một phần trong mục đích đó là giúp các em khuyết tật, đặc biệt các em chậm phát triển trí tuệ hòa nhập đời sống xã hội, sẽ thấy giống như xem cuốn phim, hình dung một cảnh sinh hoạt trong một tu viện nào đó, hay một phim câm của Charlot. Trên mỗi bàn để một cái chuông con, và một bảng chỉ dẫn: Khi kêu thức uống, khách rung chuông. Các em sẽ mang menu có in trên phiếu danh mục thức uống. Khách ghi số lượng thức uống mình cần vào phiếu. Các em sẽ phục vụ. Và khi kêu tính tiền, khách cũng rung chuông, các em mang phiếu tính tiền ra cho khách.
    Tôi vào quán, chưa rung chuông vì còn đợi người bạn tới sau. Một em thấy tôi, đem tới một ly trà đá, đây là thức uống mang tới ngay cho khách khi khách vào ngồi ở bàn. Rồi em đưa phiếu ghi thức uống. Tôi vừa xua tay, vừa nói chậm rãi từng tiếng một: Chờ một lát nữa chú rung chuông, thì cháu mang phiếu cho chú ghi. Em bé ngồi xuống bờ khuôn cây cảnh gần ngay bên tôi, và thỉnh thoảng lại đứng dậy, đưa phiếu đăng ký ra. Lúc mang tới thức uống, trên khay có một ly cà phê đen, một ly đá, một ly cà phê đen nữa để chảy xong đổ vào ly đá. Em đi chậm từng bước như trong phim quay chậm. Sợ em vụng về làm rơi vỡ, tôi đón cái khay. Em không chịu, nghĩa là không nói gì, mà chỉ giữ chặt khay ly không cho tôi đỡ, em đặt cả khay đó trên một bàn gần bên, rồi mang từng thứ một cho bàn chúng tôi.
    Tôi quên hỏi đội ngũ phục vụ viên của quán có mấy em, vì lần này tới quán để chụp hình, cô Chisato đang cảm bịnh sao đó, không đến quán. Cô mướn căn nhà xoàng xĩnh mãi tận quận Gò Vấp, vì giá rẻ. Thầy giáo Hồ Thái Bình đang trong giờ lên lớp, còn cậu trai ngồi ghi phiếu tính tiền và điều động đội ngũ phục vụ viên, cũng không biết gì nhiều hơn công việc cậu đang làm.
    Nhưng tôi biết từ lâu, cô Chisato tự tay giặt quần áo cho các em. Hỏi sao cô không mua máy giặt, cô nói mua máy giặt tốn nhiều tiền, để tiền ấy lo liệu những thứ khác cho các em, cô giặt tay cũng được. Thế cô học tiếng Việt hồi nào mà nói rành quá vậy? Cô bảo học từ hồi ở bên Nhật.
    Tôi sẽ nói lên lời cảm phục và cảm tạ cô Chisato, đối với trẻ em khuyết tật, chậm phát triển trí tuệ, những trẻ em người Việt Nam chúng tôi? Và tôi biết cô Chisato chẳng chờ đợi những lời đó, và xét cho cùng, cô Chisato cũng chỉ là một người như hàng triệu người ở đất nước Việt Nam chúng ta, ai cũng toàn tâm, toàn ý. Chỉ khác, là cô Chisato toàn tâm toàn ý với trẻ em bất hạnh ở đất nước chúng tôi, còn hàng triệu người đồng hương của chúng tôi thì toàn tâm toàn ý với chính họ!
    NGUYỄN ÐẠT
  8. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    [[​IMG]
    Hoa Anh Ðào giữa Sài Gòn Nguyễn Ðạt
    Cô gái Nhật Bản Chisato, đóa hoa anh đào ấy, và thầy giáo Hồ Thái Bình của trường Trung Học Sư Phạm Mầm Non Sài Gòn, gặp nhau trong ý tưởng chung, ý tưởng nảy sinh từ mối quan tâm tới trẻ em khuyết tật bẩm sinh. Rồi từ đấy, trải qua nhiều thời gian với những cố gắng hết sức mình, một quán xinh xắn được hình thành, với nhiều dáng nét Nhật Bản : Quán mang tên Hoa Anh Ðào. Tới Chủ Nhật này (ngày 15 Tháng Tám 2004), quán Hoa Anh Ðào đã có mặt ở số 4 đường Tôn Ðức Thắng (tên cũ: đường Cường Ðể), quận 1, Sài Gòn, đúng 4 tháng.
    Nơi chốn để dừng chân
    Sau khi tốt nghiệp đại học ngành phúc lợi xã hội, sau những chuyến đi một số nước Âu Châu, một số nước vùng Cận Ðông, rồi vùng Ðông Nam Á, cô gái Nhật Bản Chisato tới Việt Nam. Chính Sài Gòn là nơi đặt những bước chân đầu tiên của Chisato tại Việt Nam, và chính Sài Gòn là nơi mà cô gái xứ hoa anh đào quyết định dừng chân: Chisato đã gặp những cô bé, cậu bé khuyết tật, đặc biệt là trẻ em chậm phát triển trí tuệ.
    Nung nấu trong lòng từ lâu vấn đề con người, xã hội, tình cảm đặc biệt của Chisato đã dành sẵn cho các em khuyết tật, nên cô gái xứ hoa anh đào ấy đã quyết định: Phải làm gì cho các em. Vậy là Chisato trở về ngay gia đình mình ở Nhật Bản, ngỏ ý định ấy với cha mẹ. Tất nhiên cha mẹ Chisato đồng ý không do dự, và sự do dự duy nhất có thể có, là vấn đề thực hiện ý định, vì đây là vấn đề không dễ dàng: Phải có tiền. Ấy tuy nhiên, khi lòng đã quyết, cô Chisato không quản ngại. Một cuộc vận động tích cực, và ở xứ hoa anh đào, hoa xứ tuyết như thể tiềm tàng trong lòng biết bao con người Nhật Bản. Cũng cần kể ra trước nhất, trước cả cuộc vận động của Chisato, cha mẹ của Chisato đã tặng cô hơn một trăm triệu đồng (tính ra tiền Việt Nam).
    Sài Gòn hiện nay cũng thuộc một trong những thành phố người khôn của khó, đặc biệt về vấn đề nhà đất, mặt bằng thuê mướn để lập quán. Nên, nếu như không gặp một thầy giáo như thầy Hồ Thái Bình thì Chisato còn chật vật về việc thuê mướn mặt bằng. Nghĩa là ở Sài Gòn không phải thiếu những nhà cửa đất đai cho thuê, nhưng rất thiếu những sở hữu chủ cho thuê một căn nhà, một khoảnh đất mà không vì lợi nhuận. Họ thường cho thuê với những vài ngàn đô la một tháng, nhất là ở những khu vực như quận 1, nơi Chisato muốn mở quán để thuận tiện cho hoạt động quy tụ, chăm sóc, giúp các em khuyết tật hòa nhập xã hội.
    Thầy giáo Hồ Thái Bình là giáo viên tại trường Trung Học Sư Phạm Mẫu Giáo Mầm Non, số 4 đường Tôn Ðức Thắng. Cơ sở của trường trước đây là cơ sở của chủng viện, sau chủng viện di dời, chuyển cơ sở cho trường Trung Học Sư Phạm Mẫu Giáo của ngành giáo dục đào tạo thành phố. Vậy là, thầy giáo Hồ Thái Bình đã ra sức kiếm tìm giúp Chisato. Cuối cùng, một bên hông của tòa nhà chủng viện, với phía ngoài là bờ tường của chủng viện (chúng ta hãy nhớ lại kiến trúc cổ điển của chủng viện): Khoảng trống hẹp và dài đó là nơi mà ban giám hiệu trường Trung Học Sư Phạm Mẫu Giáo Mầm Non đồng ý cho cô Chisato mướn với giá rẻ.
    Khi tôi tìm tới quán của cô gái xứ hoa anh đào, dù có quên đi cái quán có mục đích đẹp đẽ như vậy, chỉ là một quán cà phê, giải khát mà thôi, thì cái quán này vẫn là một quán đẹp, một vẻ đẹp thích hợp với rất nhiều người để bước vào. Quán Hoa Anh Ðào, với tấm biển hiệu là miếng gỗ nhỏ kẻ chữ kiểu hội họa thiếu nhi, treo trên khuôn cổng sắt kiểu cổ điển của chủng viện. Với dải đất gãy góc, khuôn theo khoảng trống giữa tòa nhà và bức tường, nên cổng quán ở chỗ gãy góc đó, vào đúng chỗ góc đường Tôn Ðức Thắng và con đường mới mở, không chú ý thì khó nhận ra. Thẳng cổng vào là chỗ để xe cho khách, rồi bước vào ngang phía tay phải là quán, giản dị, thanh sạch, từ dáng nét cấu trúc ngôi quán, tới bố cục, bài trí, cây cảnh phía trong quán. Và hiển nhiên, không biết Chisato là ai, cũng thấy quán mang vẻ Nhật Bản.
    Ðội ngũ phục vụ viên
    Nếu vào quán Hoa Anh Ðào mà quên mục đích của quán, một phần trong mục đích đó là giúp các em khuyết tật, đặc biệt các em chậm phát triển trí tuệ hòa nhập đời sống xã hội, sẽ thấy giống như xem cuốn phim, hình dung một cảnh sinh hoạt trong một tu viện nào đó, hay một phim câm của Charlot. Trên mỗi bàn để một cái chuông con, và một bảng chỉ dẫn: Khi kêu thức uống, khách rung chuông. Các em sẽ mang menu có in trên phiếu danh mục thức uống. Khách ghi số lượng thức uống mình cần vào phiếu. Các em sẽ phục vụ. Và khi kêu tính tiền, khách cũng rung chuông, các em mang phiếu tính tiền ra cho khách.
    Tôi vào quán, chưa rung chuông vì còn đợi người bạn tới sau. Một em thấy tôi, đem tới một ly trà đá, đây là thức uống mang tới ngay cho khách khi khách vào ngồi ở bàn. Rồi em đưa phiếu ghi thức uống. Tôi vừa xua tay, vừa nói chậm rãi từng tiếng một: Chờ một lát nữa chú rung chuông, thì cháu mang phiếu cho chú ghi. Em bé ngồi xuống bờ khuôn cây cảnh gần ngay bên tôi, và thỉnh thoảng lại đứng dậy, đưa phiếu đăng ký ra. Lúc mang tới thức uống, trên khay có một ly cà phê đen, một ly đá, một ly cà phê đen nữa để chảy xong đổ vào ly đá. Em đi chậm từng bước như trong phim quay chậm. Sợ em vụng về làm rơi vỡ, tôi đón cái khay. Em không chịu, nghĩa là không nói gì, mà chỉ giữ chặt khay ly không cho tôi đỡ, em đặt cả khay đó trên một bàn gần bên, rồi mang từng thứ một cho bàn chúng tôi.
    Tôi quên hỏi đội ngũ phục vụ viên của quán có mấy em, vì lần này tới quán để chụp hình, cô Chisato đang cảm bịnh sao đó, không đến quán. Cô mướn căn nhà xoàng xĩnh mãi tận quận Gò Vấp, vì giá rẻ. Thầy giáo Hồ Thái Bình đang trong giờ lên lớp, còn cậu trai ngồi ghi phiếu tính tiền và điều động đội ngũ phục vụ viên, cũng không biết gì nhiều hơn công việc cậu đang làm.
    Nhưng tôi biết từ lâu, cô Chisato tự tay giặt quần áo cho các em. Hỏi sao cô không mua máy giặt, cô nói mua máy giặt tốn nhiều tiền, để tiền ấy lo liệu những thứ khác cho các em, cô giặt tay cũng được. Thế cô học tiếng Việt hồi nào mà nói rành quá vậy? Cô bảo học từ hồi ở bên Nhật.
    Tôi sẽ nói lên lời cảm phục và cảm tạ cô Chisato, đối với trẻ em khuyết tật, chậm phát triển trí tuệ, những trẻ em người Việt Nam chúng tôi? Và tôi biết cô Chisato chẳng chờ đợi những lời đó, và xét cho cùng, cô Chisato cũng chỉ là một người như hàng triệu người ở đất nước Việt Nam chúng ta, ai cũng toàn tâm, toàn ý. Chỉ khác, là cô Chisato toàn tâm toàn ý với trẻ em bất hạnh ở đất nước chúng tôi, còn hàng triệu người đồng hương của chúng tôi thì toàn tâm toàn ý với chính họ!
    NGUYỄN ÐẠT
  9. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    CÂY SEN VÀ CÂY CÓI
    Vào thời mà tổ tiên chúng ta còn tin rằng con người sau khi chết sẽ đầu thai vào thú vật hay cây cối, có ông lão làm vườn nọ sống trong một khu rừng đầy bóng mát bên bờ sông Nil.
    Cạnh ngôi nhà của ông là mảnh vườn đầy những loài hoa xinh đẹp nhất, luôn ngào ngạt tỏa hương thơm. Nơi đó mọc lên những cây cọ, ô liu, sung, bách, cam và lưu. Tất cả những thứ cây mà thần Rê toàn năng ban thưởng cho đất nước Ai Cập đều mọc và nảy nở ở đây.
    Ông lão vun trồng mảnh vườn của mình từ cả trăm năm nay, lão đã ba lần khóc vọ, nhưng thần Rê toàn năng vẫn để cho lão được sống. Người tao bảo rằng cái chết đã quên lão. Tuy nhiên lão già vẫn muốn biết tới một cuộc sống khác.
    Người vợ cuối cùng đã sinh cho lão hai cô con gái. Sắc đẹp của họ khiến cho dân cư sống quanh đó luôn bàn tán và bao kẻ ngấp nghé. Tiếng đồn về sắc đẹp của hai cô lan tới tận triều đình của đức Pharaông vinh quang.
    Và một ngày nọ các đại quan trong triều điến nhà của người làm vườn. Ngay khi trông thấy hai cô gái, họ liền yêu cầu ông lão cho phép hai cô đến triều đình của Pharaông để làm người hầu cho hoàng hậu. Nhưng hai cô gái chỉ thấy hạnh phúc trong cái thế giới đầy hoa của mình và chăm sóc người cha già thôi.
    Không hiểu người làm vườn đã giải thích ra sao nhưng hai cô gái vẫn ở lại với ông. Các vị quan rất đỗi kinh ngạc, không hiểu vì sao ông lão lại bỏ đi một cơ may hiếm có như vậy trong khi nhiều người tìm đến cầu xin và sẵn sàng hy sinh tất cả để con gái họ được nhận vào cung.
    Mùa thu đến. Đây là thời điểm con sông Nil bồi đắp phù sa cho ruộng đồng. Nước sông Nil dâng cao là biểu hiện sự dồi dào và thịnh vượng cho đất nước. Năm đó, thật không may là sông Nil tràn bờ quá ít. Dân chúng cầu khẩn thần Rê toàn năng nhưng không thành công. Sông Nil vẫn không nhích lên được chút nào.
    Các vị giáo sĩ giải thích rằng thần Khnoum đầy quyền uy, con trai của thần Rê, đang ở trên sông Nil và muốn được cung hiến.
    Giáo sĩ và các nhà thông thái Ai Cập quyết định phải cung hiến cho thần Khnoum một cô gái đẹp nhất trong thung lũng sông Nil để thần lại tiếp tục ban tặng những ân huệ. Mọi người nhớ tới ông lão làm vườn và hai cô con gái. Lần này thì ông không thể lẩn tránh được. Vậy là họ tới nhà ông lão và dẫn cô em đi. Cô chị chạy theo van xin họ để nàng đi theo em. Ông lão làm vườn vừa đi theo đoàn người vừa rên rỉ.
    Dân chúng đã tập hợp trên bờ sông. Trên đỉnh một ngọn núi đá nhìn xuống sông Nil, các vị giáo sĩ và các nhà hiền triết cùng cất tiếng hát ca ngợi thần Khnoum vinh quang, vị thần đầy quyền uy.
    - Lạy thần Khnoum vĩ đại và quyền uy !
    Và bản hợp xướng của mọi người đáp lại :
    - Lạy thần Khnoum vĩ đại và quyền uy ! Người hằng năm vẫn mang tới cho chúng con cuộc sống và sự giàu có ! Xin người cho chúng con thấy một khuôn mặt tươi cười, xin người lại cho chúng con niềm tin vào cuộc sống và hạnh phúc !
    Các vị giáo sĩ và các nhà hiền triết lập lại ba lần bài hát cầu xin ban ơn của họ, xòe hai bàn tay ra trên dòng sông, rồi đứng bất động như hóa đá.
    Cô em nằm dài trên phần núi đá nhô ra, và chị cô ôm chặt cô trong đôi tay. Vị trưởng giáo tới bên cô gái sẽ cung hiến cho thần Khnoum, giơ tay lên trời và tiếp tục tụng niệm. Những người nô lệ bước tới để mang cô gái tới rìa núi đá. Khi trông thấy hai cô gái đã chết, họ đứng lại. Không ai để ý tới hai mầm non màu xanh lục đang vươn lên trên đá.
    Dân chúng tản ra. Các giáo sĩ và các nhà hiền triết cũng dời bước.
    - Thần Khnoum quyền uy đã chấp nhận lễ vật cúng hiến ! Dân chúng kêu lên.
    Ông già làm vườn mang thi thể hai cô con gái vào vườn để chon cất, cam chịu nỗi đau thương. Ông trồng trên nấm mồ các con những loài hoa đẹp nhất trong vườn.
    Nhưng sáng hôm sau, ông rất đỗi ngạc nhiên khi thấy trên nấm mồ cô em một loài hoa lạ. Nó trắng như tuyết và giống một bông huệ lớn. Từ khắp nơi mọi người tới kính cẩn nghiêng mình trước đóa hoa đó. Các nhà hiền triết đặt tên cho nó là hoa sen.
    Trên nấm mồ thứ nhì, nấm mồ cô chị, vươn lên một thân cây xinh xắn nhưng không có bông mà chỉ có một vòng lá sáng láng. Các nhà hiền triết đặt tên cho nó là cây cói. Họ lấy lá của nó làm thành cuộn để viết tác phẩm của mình.
    Theo Truyền Thuyết & Các Truyện Thần Kỳ Về Các Pharaông, Huỳnh Phan Anh dịch từ bản tiếng Pháp của Jean và Renée Karel ?" Libralrie Grund, Paris 1982.
    Nguyên tác : Jiri Tomek (Tiệp Khắc).

  10. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    CÂY SEN VÀ CÂY CÓI
    Vào thời mà tổ tiên chúng ta còn tin rằng con người sau khi chết sẽ đầu thai vào thú vật hay cây cối, có ông lão làm vườn nọ sống trong một khu rừng đầy bóng mát bên bờ sông Nil.
    Cạnh ngôi nhà của ông là mảnh vườn đầy những loài hoa xinh đẹp nhất, luôn ngào ngạt tỏa hương thơm. Nơi đó mọc lên những cây cọ, ô liu, sung, bách, cam và lưu. Tất cả những thứ cây mà thần Rê toàn năng ban thưởng cho đất nước Ai Cập đều mọc và nảy nở ở đây.
    Ông lão vun trồng mảnh vườn của mình từ cả trăm năm nay, lão đã ba lần khóc vọ, nhưng thần Rê toàn năng vẫn để cho lão được sống. Người tao bảo rằng cái chết đã quên lão. Tuy nhiên lão già vẫn muốn biết tới một cuộc sống khác.
    Người vợ cuối cùng đã sinh cho lão hai cô con gái. Sắc đẹp của họ khiến cho dân cư sống quanh đó luôn bàn tán và bao kẻ ngấp nghé. Tiếng đồn về sắc đẹp của hai cô lan tới tận triều đình của đức Pharaông vinh quang.
    Và một ngày nọ các đại quan trong triều điến nhà của người làm vườn. Ngay khi trông thấy hai cô gái, họ liền yêu cầu ông lão cho phép hai cô đến triều đình của Pharaông để làm người hầu cho hoàng hậu. Nhưng hai cô gái chỉ thấy hạnh phúc trong cái thế giới đầy hoa của mình và chăm sóc người cha già thôi.
    Không hiểu người làm vườn đã giải thích ra sao nhưng hai cô gái vẫn ở lại với ông. Các vị quan rất đỗi kinh ngạc, không hiểu vì sao ông lão lại bỏ đi một cơ may hiếm có như vậy trong khi nhiều người tìm đến cầu xin và sẵn sàng hy sinh tất cả để con gái họ được nhận vào cung.
    Mùa thu đến. Đây là thời điểm con sông Nil bồi đắp phù sa cho ruộng đồng. Nước sông Nil dâng cao là biểu hiện sự dồi dào và thịnh vượng cho đất nước. Năm đó, thật không may là sông Nil tràn bờ quá ít. Dân chúng cầu khẩn thần Rê toàn năng nhưng không thành công. Sông Nil vẫn không nhích lên được chút nào.
    Các vị giáo sĩ giải thích rằng thần Khnoum đầy quyền uy, con trai của thần Rê, đang ở trên sông Nil và muốn được cung hiến.
    Giáo sĩ và các nhà thông thái Ai Cập quyết định phải cung hiến cho thần Khnoum một cô gái đẹp nhất trong thung lũng sông Nil để thần lại tiếp tục ban tặng những ân huệ. Mọi người nhớ tới ông lão làm vườn và hai cô con gái. Lần này thì ông không thể lẩn tránh được. Vậy là họ tới nhà ông lão và dẫn cô em đi. Cô chị chạy theo van xin họ để nàng đi theo em. Ông lão làm vườn vừa đi theo đoàn người vừa rên rỉ.
    Dân chúng đã tập hợp trên bờ sông. Trên đỉnh một ngọn núi đá nhìn xuống sông Nil, các vị giáo sĩ và các nhà hiền triết cùng cất tiếng hát ca ngợi thần Khnoum vinh quang, vị thần đầy quyền uy.
    - Lạy thần Khnoum vĩ đại và quyền uy !
    Và bản hợp xướng của mọi người đáp lại :
    - Lạy thần Khnoum vĩ đại và quyền uy ! Người hằng năm vẫn mang tới cho chúng con cuộc sống và sự giàu có ! Xin người cho chúng con thấy một khuôn mặt tươi cười, xin người lại cho chúng con niềm tin vào cuộc sống và hạnh phúc !
    Các vị giáo sĩ và các nhà hiền triết lập lại ba lần bài hát cầu xin ban ơn của họ, xòe hai bàn tay ra trên dòng sông, rồi đứng bất động như hóa đá.
    Cô em nằm dài trên phần núi đá nhô ra, và chị cô ôm chặt cô trong đôi tay. Vị trưởng giáo tới bên cô gái sẽ cung hiến cho thần Khnoum, giơ tay lên trời và tiếp tục tụng niệm. Những người nô lệ bước tới để mang cô gái tới rìa núi đá. Khi trông thấy hai cô gái đã chết, họ đứng lại. Không ai để ý tới hai mầm non màu xanh lục đang vươn lên trên đá.
    Dân chúng tản ra. Các giáo sĩ và các nhà hiền triết cũng dời bước.
    - Thần Khnoum quyền uy đã chấp nhận lễ vật cúng hiến ! Dân chúng kêu lên.
    Ông già làm vườn mang thi thể hai cô con gái vào vườn để chon cất, cam chịu nỗi đau thương. Ông trồng trên nấm mồ các con những loài hoa đẹp nhất trong vườn.
    Nhưng sáng hôm sau, ông rất đỗi ngạc nhiên khi thấy trên nấm mồ cô em một loài hoa lạ. Nó trắng như tuyết và giống một bông huệ lớn. Từ khắp nơi mọi người tới kính cẩn nghiêng mình trước đóa hoa đó. Các nhà hiền triết đặt tên cho nó là hoa sen.
    Trên nấm mồ thứ nhì, nấm mồ cô chị, vươn lên một thân cây xinh xắn nhưng không có bông mà chỉ có một vòng lá sáng láng. Các nhà hiền triết đặt tên cho nó là cây cói. Họ lấy lá của nó làm thành cuộn để viết tác phẩm của mình.
    Theo Truyền Thuyết & Các Truyện Thần Kỳ Về Các Pharaông, Huỳnh Phan Anh dịch từ bản tiếng Pháp của Jean và Renée Karel ?" Libralrie Grund, Paris 1982.
    Nguyên tác : Jiri Tomek (Tiệp Khắc).

Chia sẻ trang này