1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chuyện kể về các loài hoa - Mục lục trang 1

Chủ đề trong 'Cuộc sống' bởi Oshin, 08/06/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    Iris - Hoa Diên Vĩ
    Sứ điệp Hạnh Phúc
    Những sắc màu nhẹ chuyển đổi đó đây
    Của báu vật tuyệt vời trong vũ trụ
    Chính là hoa Diên Vĩ phía trời tây
    Bắc ngang chiều chiếc cầu vồng tình tự.
    (John Arrington)
    Ý nghĩa : Lòng trung thành, sự khôn ngoan, lòng dũng cảm, niềm hy vọng.
    Thông điệp : "Promise", "I have a message for you", "Your friendship means so much to me", "My compliment to you".
    Symbol of Idea & Message
    Tiếng Hy Lạp, "Iris" có nghĩa là Cầu Vồng. Trong thần thoại Hy Lạp, Iris là tín sứ của thần Zeus và nàng thường xuất hiện dưới hình một chiếc cầu vồng. Nàng là người đưa tin trên đỉnh Olympus, Iris mang thông điệp của các vị thần linh từ "con mắt Thiên Đường" xuống cho nhân loại trên trái đất qua vòng cung cầu vồng rực rỡ. Từ Iris cũng có nghĩa là "con mắt Thiên Đường" (the eye of Heaven). Iris, như ta đã biết, là tên của một nữ thần Hy Lạp, một loài hoa, và nó còn có nghĩa là tròng đen trong con mắt chúng ta. Điều này ngụ ý rằng mỗi chúng ta đều mang trong mình một mảnh của Thiên Đường. Những người đàn ông Hy Lạp thường trồng hoa Diên Vĩ tím trên mộ những người phụ nữ mà họ yêu thương để tỏ lòng tôn kính nữ thần Iris, người mang sứ mệnh dẫn dắt những linh hồn phụ nữ này đến chốn Thiên Đàng (the Elysian fields).
    Diên Vĩ là loài cây lưu niên có thân thảo vươn cao, lá hình lưỡi kiếm và những đóa hoa to nhiều màu sắc với ba cánh và ba đài hoa rũ xuống. Có hơn 200 loài hoa Diên Vĩ xinh đẹp khác nhau với các màu xanh da trời nhạt, tím, vàng, trắng, hồng, cam, nâu đỏ...đa dạng như màu sắc cầu vồng. Hoa Diên Vĩ được xem như sứ giả mang đến những điềm lành. niềm hy vọng. Ba cánh hoa Diên Vĩ đại diện cho lòng Trung Thành, sự Khôn Ngoan và lòng Dũng Cảm. Hoa Diên Vĩ vàng là biểu tượng của ngọn lửa và niềm đam mê
    Hoa Diên Vĩ đã từng được thấy ở sa mạc, đầm lầy hay cả miền Bắc cực Siberia lạnh giá, nhiều nhất vẫn là ở các vùng khí hậu ôn hòa. Hoa Diên Vĩ thường được vẽ trong những bức tranh tĩnh vật, như của các danh họa Vincent van Gogh, Monet...Có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải và phía Nam Châu Âu, hoa Iris đã từng được những người Hy Lạp cổ đặt trên trán của Nhân Sư và trên vương trượng của đức vua xem như là biểu tượng của quyền lực. Vào năm 1479 trước Công Nguyên, ở Ai Cập, để ghi nhớ chiến công tại Syria, vua Thutmose III đã cho vẽ những bông hoa Diên Vĩ trên bức tường ngôi đền thờ của mình.
    Nhà thờ La Mã xem hoa Lily là hiện thân của Đức Mẹ Đồng Trinh. Do có ba cánh đặc biệt, fleur-de-lis cũng được làm hình ảnh tượng trưng cho Chúa Ba Ngôi linh thiêng (the Holy Trinity).
    Hoa Diên Vĩ đã là biểu tượng của hoàng gia và sự che chở thần thánh suốt hàng thế kỷ trên khắp thế giới. Loài hoa đầy sức thu hút này được rất nhiều người ngưỡng mộ. Các vị vua chúa nước Pháp đã dùng nó làm biểu tượng hoàng gia và gọi nó là Fleur-de-lis. "Fleur-de-lis" có nguồn gốc từ tên "Fleur-de-Louis", sau thời vua Louis VII, năm 1147. Theo thời gian, tên đó chuyển thành "Fleur-de-luce", có nghĩa là hoa của ánh sáng (flower of light), cuối cùng đến ngày nay, nó được gọi là "Fleur-de-Lys", hay Flower of the Lily (Lily : Hoa Huệ Tây, Loa Kèn, Bách Hợp). Fleur-de-Lis đã là biểu tượng của nước Pháp từ thế kỷ 13. Hoàng gia Pháp trang trí hoa Diên Vĩ trên áo choàng, các đồ vật trong cung điện và trên những bức tường như biểu hiện của sự toàn bích, ánh sáng và cuộc sống. Có nhiều truyền thuyết khác nhau giải thích tại sao hoa Diên Vĩ được chế độ quân chủ Pháp chọn làm biểu tượng . Tương truyền rằng, Clovis, vua nước Pháp triều đại Mêrôvê khi đối mặt với đội quân thiện chiến của Alamanni (Đức) đến xâm chiếm vương quốc mình, ông đã nói với hoàng hậu Clotida rằng ông sẽ theo đạo và chịu rửa tội nếu như Chúa phù hộ ông đánh thắng trận đấu này (trước đó hoàng hậu đã nhiều lần khuyên chồng mình vào đạo nhưng ông vẫn không nghe). Cuối cùng, ông thắng thật và nhận fleur-de-lis làm biểu tượng. Tiếp đó, vào thế kỷ 12, vua Louis trở thành hoàng đế nước Pháp đầu tiên khắc họa hoa Diên Vĩ trên chiếc khiên của mình. Nữ anh hùng nước Pháp, Joan of Arc (Jeanne d'Arc) đã mang theo lá cờ trắng có biểu tượng Chúa hộ mệnh của hoàng gia (hoa Diên Vĩ) khi bà đánh bại quân Anh tại Orléans (1429).
    Ở Nhật, hoa Diên Vĩ tượng trưng cho chí khí anh hùng và dòng dõi quý phái. Hoa Diên Vĩ là một phần quan trọng trong lễ hội mùa xuân dành cho các bé trai.
    Được xem như một loài hoa thiêng, người ta tin rằng hoa Diên Vĩ có khả năng chữa bệnh và đã được dùng làm thuốc từ thời xa xưa. Vào thế kỷ đâu tiên sau Công Nguyên, vị y sĩ Hy Lạp Dioscorides đã đưa ra bài thuốc dùng rễ cây hoa Diên Vĩ uống với mật ong, giấm hay rượu vang để chữa ho, cảm lạnh, khó tiêu và chứng đau thần kinh tọa. Rễ cây hoa Diên Vĩ cũng được dùng để tạo hương thơm.


    *****
    Là hoa hậu các loài hoa
    Bay bằng đôi cánh lụa là tiên xanh
    Trao nhau thông điệp tốt lành
    Hoa Diên Vĩ khẽ nhịp thanh roi vàng
    Lá xanh phố thị rộn ràng
    Quen men theo suối dọc ngang núi rừng
    Vi vu thổi sáo bâng khuâng
    Mỗi lời ca đẹp như từng lời thơ
    Ôi loài hoa của giấc mơ
    Sông hôn em nụ ngẩn ngơ mặn mà
    Ôi loài hoa của tình ca
    Điểm tô thế giới thật thà yêu thương

    (Henry Wadsworth Longfellow)
    Oshin
    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 02:04 ngày 08/07/2003
  2. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    Hoa Anh Đào
    Biểu tượng Nhật Bản
    Tên tiếng Nhật : Sakura
    Tên tiếng Anh : Cherry blossom
    Sakura là quốc hoa của Nhật bản. Đặc điểm của nó là rơi trong khi còn đương độ tươi thắm. Hoa anh đào tượng trưng cho tinh thần võ sĩ đạo - samurai - biết chết một cách cao đẹp.
    Nhật Bản có câu : "A flower is a cherry blossom, a person is a Samurai" (Nếu là hoa, xin làm hoa anh đào. Nếu là người, xin làm một võ sĩ đạo) . Điều đó có nghĩa là, khi một võ sĩ đạo đối mặt với hiểm nguy, anh ta không run sợ trước cái chết, bởi vì, giống như hoa anh đào, anh ta sẽ tự đâm mình và gục xuống ngay lập tức, không ngần ngại. (Ghê quá !!!).
    Đối với người Nhật Bản, hoa anh đào không chỉ tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao mà còn là nỗi buồn về sự ngắn ngủi, phù dung và tính khiêm nhường, nhẫn nhịn. Cây hoa anh đào đem tặng được xem như biểu tượng hòa bình của nước Nhật với các nước khác trên thế giới. Hoa anh đào mọc ở Triều Tiên và Mĩ không có mùi hương. Trong khi đó, ở Nhật Bản, người ta ngợi ca hương thơm của hoa anh đào trong những vần thơ. Trong ngôn ngữ Nhật, nhất là trong thơ ca, chữ ''hana'' (hoa) và ''sakura'' hầu như đồng nghĩa.
    Hoa anh đào nở báo hiệu mùa xuân đến. Suốt tuần lễ thứ hai của tháng Tư, lễ hội hoa anh đào được tổ chức khắp nơi đón mùa xuân mới và mọi người tụ tập trong các buổi tiệc ngắm hoa ''ohanami'' (flower viewing) parties.
    Dưới những tán cây anh đào trùng điệp muôn ngàn bông hoa hồng nhạt, người ta uống rượu sakê và ca múa, liên hoan thật vui vẻ.

    Bài hát của trẻ em về hoa anh đào
    Sakura Sakura
    (Tiếng Nhật)
    Sakura ...... sakura ......... noyamamo satomo
    Miwatasu kagiri
    Kasumi-ka kumo-ka .... asahi-ni niou
    Sakura .... Sakura..... Hanazakari
    The Cherry Blossom Song
    (dịch sang tiếng Anh)

    Cherry Blossoms, cherry blossoms. On mountains, in villages.
    As far as you can see.
    They look like fog or clouds. They are fragrant in the morning sun.
    Cherry blossoms, cherry blossoms. In full bloom.

    Hoa anh đào
    Hoa anh đào, hoa anh đào. Trên núi rừng, trong xóm làng.
    Khắp nơi mà bạn có thể thấy được.
    Chúng giống như sưong mù hay những đám mây. Hoa anh đào ngát hương dưới ánh mặt trời buổi sáng.
    Hoa anh đào, hoa anh đào. Nở rực rỡ.
    *****
    Sakura - Mùa hoa anh đào ở Nhật Bản
    (Edward Fowler) ​
    Sau 51 tuần bị lãng quên trong năm, cây hoa anh đào lại được người ta nhớ đến. Loài cây giản dị có độ cao trung bình với lớp vỏ và lá cây mộc mạc này không có cái vẻ hùng vĩ của cây thông, vẻ rực rỡ của cây mận và vẻ duyên dáng của cây liễu, song hoa anh đào nở rộ trong một tuần của mùa xuân lại phù hợp với tính đa cảm của người Nhật tới mức hoa anh đào đã trở thành đồng nghĩa với thế giới của loài hoa (Hana).
    Cùng họ thực vật với hoa Hồng, những bông hoa Sakura nhỏ nhắn không hương vị trở nên mờ nhạt trước những bông hoa rực rỡ đầy hương sắc có họ hàng xa của mình. Sakura là hoa của các nhà thơ, chứ không phải hoa của họa sĩ. Nếu bị tách ra trên giá vẽ của các họa sĩ, nó cần tới sự phân biệt rõ ràng của hoa Mẫu Đơn, hoa Trà hay hoa Cúc. Còn trong những vần thơ ngắn, người ta không ngớt lời ngợi ca hoa anh đào khiến nó trở nên một phần quan trọng trong tinh thần người Nhật Bản.
    Những cánh hoa màu hồng nhạt của một cây hoa anh đào đơn độc là một bài học về sự cô đơn, giống như một người Nhật Bản đơn độc vậy. Nhưng nếu đứng trong cả một rừng hoa nở rộ, giống như những người Nhật Bản đoàn kết lại với nhau, thì nó sẽ trở nên tràn đầy sức sống và bao trùm cả cảnh quan. Thực ra, một cây với muôn ngàn bông hoa của nó đã là một cảnh đẹp rồi, song, tầng tầng lớp lớp cây nọ nối cây kia trên bờ hào, bờ sông, trên những con đê, bãi cỏ thì quả là một bức tranh tuyệt tác. Người Nhật Bản quên mình đi trước vẻ đẹp tập thể của hoa anh đào. Và khi cùng quần tụ dưới bóng hoa, họ quên đi những gì là của riêng mình. Họ uống rượu, hát và nhảy múa. Họ hét toáng lên, tranh luận với nhau ầm ĩ và cười nắc nẻ. Theo tinh thần của mùa hoa anh đào, mỗi năm một lần, người Nhật Bản dành trọn vẹn mình cho một cuộc vui chơi thoải mái, thổ lộ hết mình như một ánh sao băng lóe sáng vậy.
    Tuy nhiên, ẩn dưới cái đẹp của mùa hoa là những vần thơ bất hủ mà thiếu nó, Sakura không thể chiếm lĩnh được trái tim của người Nhật Bản đến như vậy được. Ngay khi đạt đến độ nở đẹp nhất của mình, những bông hoa Sakura bắt đầu rụng xuống theo những cơn gió xuân bất chợt và trải xuống theo những giọt mưa xuân. Hoa anh đào rụng một cách khoan dung, buồn bã và hùng hồn. Khoan dung vì chỉ sau vài ngày rộ nở, bông hoa bắt đầu tàn héo. Buồn vì những cánh hoa rụng xuống, theo truyền thống, vẫn nhắc người ta nhớ tới những cuộc đời ngắn ngủi. Hùng hồn vì bông hoa có cuộc đời ngắn ngủi này đã khẳng định một nét thẩm mĩ rất tự hào của người Nhật Bản, rằng những gì đẹp trong thiên nhiên cũng như trong cuộc đời thường hiếm khi tồn tại lâu, rằng chính sự tàn phai sớm cũng là một nét đẹp, và rằng nỗi luyến tiếc về những cuộc đời đã tắt lụi đúng ở đỉnh cao rực rỡ của nó chính là cái đẹp cao cả nhất.
    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 02:19 ngày 08/07/2003
  3. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    Hoa Anh Đào
    Biểu tượng Nhật Bản
    Tên tiếng Nhật : Sakura
    Tên tiếng Anh : Cherry blossom
    Sakura là quốc hoa của Nhật bản. Đặc điểm của nó là rơi trong khi còn đương độ tươi thắm. Hoa anh đào tượng trưng cho tinh thần võ sĩ đạo - samurai - biết chết một cách cao đẹp.
    Nhật Bản có câu : "A flower is a cherry blossom, a person is a Samurai" (Nếu là hoa, xin làm hoa anh đào. Nếu là người, xin làm một võ sĩ đạo) . Điều đó có nghĩa là, khi một võ sĩ đạo đối mặt với hiểm nguy, anh ta không run sợ trước cái chết, bởi vì, giống như hoa anh đào, anh ta sẽ tự đâm mình và gục xuống ngay lập tức, không ngần ngại. (Ghê quá !!!).
    Đối với người Nhật Bản, hoa anh đào không chỉ tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao mà còn là nỗi buồn về sự ngắn ngủi, phù dung và tính khiêm nhường, nhẫn nhịn. Cây hoa anh đào đem tặng được xem như biểu tượng hòa bình của nước Nhật với các nước khác trên thế giới. Hoa anh đào mọc ở Triều Tiên và Mĩ không có mùi hương. Trong khi đó, ở Nhật Bản, người ta ngợi ca hương thơm của hoa anh đào trong những vần thơ. Trong ngôn ngữ Nhật, nhất là trong thơ ca, chữ ''hana'' (hoa) và ''sakura'' hầu như đồng nghĩa.
    Hoa anh đào nở báo hiệu mùa xuân đến. Suốt tuần lễ thứ hai của tháng Tư, lễ hội hoa anh đào được tổ chức khắp nơi đón mùa xuân mới và mọi người tụ tập trong các buổi tiệc ngắm hoa ''ohanami'' (flower viewing) parties.
    Dưới những tán cây anh đào trùng điệp muôn ngàn bông hoa hồng nhạt, người ta uống rượu sakê và ca múa, liên hoan thật vui vẻ.

    Bài hát của trẻ em về hoa anh đào
    Sakura Sakura
    (Tiếng Nhật)
    Sakura ...... sakura ......... noyamamo satomo
    Miwatasu kagiri
    Kasumi-ka kumo-ka .... asahi-ni niou
    Sakura .... Sakura..... Hanazakari
    The Cherry Blossom Song
    (dịch sang tiếng Anh)

    Cherry Blossoms, cherry blossoms. On mountains, in villages.
    As far as you can see.
    They look like fog or clouds. They are fragrant in the morning sun.
    Cherry blossoms, cherry blossoms. In full bloom.

    Hoa anh đào
    Hoa anh đào, hoa anh đào. Trên núi rừng, trong xóm làng.
    Khắp nơi mà bạn có thể thấy được.
    Chúng giống như sưong mù hay những đám mây. Hoa anh đào ngát hương dưới ánh mặt trời buổi sáng.
    Hoa anh đào, hoa anh đào. Nở rực rỡ.
    *****
    Sakura - Mùa hoa anh đào ở Nhật Bản
    (Edward Fowler) ​
    Sau 51 tuần bị lãng quên trong năm, cây hoa anh đào lại được người ta nhớ đến. Loài cây giản dị có độ cao trung bình với lớp vỏ và lá cây mộc mạc này không có cái vẻ hùng vĩ của cây thông, vẻ rực rỡ của cây mận và vẻ duyên dáng của cây liễu, song hoa anh đào nở rộ trong một tuần của mùa xuân lại phù hợp với tính đa cảm của người Nhật tới mức hoa anh đào đã trở thành đồng nghĩa với thế giới của loài hoa (Hana).
    Cùng họ thực vật với hoa Hồng, những bông hoa Sakura nhỏ nhắn không hương vị trở nên mờ nhạt trước những bông hoa rực rỡ đầy hương sắc có họ hàng xa của mình. Sakura là hoa của các nhà thơ, chứ không phải hoa của họa sĩ. Nếu bị tách ra trên giá vẽ của các họa sĩ, nó cần tới sự phân biệt rõ ràng của hoa Mẫu Đơn, hoa Trà hay hoa Cúc. Còn trong những vần thơ ngắn, người ta không ngớt lời ngợi ca hoa anh đào khiến nó trở nên một phần quan trọng trong tinh thần người Nhật Bản.
    Những cánh hoa màu hồng nhạt của một cây hoa anh đào đơn độc là một bài học về sự cô đơn, giống như một người Nhật Bản đơn độc vậy. Nhưng nếu đứng trong cả một rừng hoa nở rộ, giống như những người Nhật Bản đoàn kết lại với nhau, thì nó sẽ trở nên tràn đầy sức sống và bao trùm cả cảnh quan. Thực ra, một cây với muôn ngàn bông hoa của nó đã là một cảnh đẹp rồi, song, tầng tầng lớp lớp cây nọ nối cây kia trên bờ hào, bờ sông, trên những con đê, bãi cỏ thì quả là một bức tranh tuyệt tác. Người Nhật Bản quên mình đi trước vẻ đẹp tập thể của hoa anh đào. Và khi cùng quần tụ dưới bóng hoa, họ quên đi những gì là của riêng mình. Họ uống rượu, hát và nhảy múa. Họ hét toáng lên, tranh luận với nhau ầm ĩ và cười nắc nẻ. Theo tinh thần của mùa hoa anh đào, mỗi năm một lần, người Nhật Bản dành trọn vẹn mình cho một cuộc vui chơi thoải mái, thổ lộ hết mình như một ánh sao băng lóe sáng vậy.
    Tuy nhiên, ẩn dưới cái đẹp của mùa hoa là những vần thơ bất hủ mà thiếu nó, Sakura không thể chiếm lĩnh được trái tim của người Nhật Bản đến như vậy được. Ngay khi đạt đến độ nở đẹp nhất của mình, những bông hoa Sakura bắt đầu rụng xuống theo những cơn gió xuân bất chợt và trải xuống theo những giọt mưa xuân. Hoa anh đào rụng một cách khoan dung, buồn bã và hùng hồn. Khoan dung vì chỉ sau vài ngày rộ nở, bông hoa bắt đầu tàn héo. Buồn vì những cánh hoa rụng xuống, theo truyền thống, vẫn nhắc người ta nhớ tới những cuộc đời ngắn ngủi. Hùng hồn vì bông hoa có cuộc đời ngắn ngủi này đã khẳng định một nét thẩm mĩ rất tự hào của người Nhật Bản, rằng những gì đẹp trong thiên nhiên cũng như trong cuộc đời thường hiếm khi tồn tại lâu, rằng chính sự tàn phai sớm cũng là một nét đẹp, và rằng nỗi luyến tiếc về những cuộc đời đã tắt lụi đúng ở đỉnh cao rực rỡ của nó chính là cái đẹp cao cả nhất.
    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 02:19 ngày 08/07/2003
  4. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    Hoa Đậu Thơm
    Niềm vui bất tận
    Nàng đậu hoa nhón bàn chân
    Khẽ khàng đôi cánh trắng ngần bay lên
    Tay thon từng ngón dịu mềm
    Kết vòng vạn vật về bên lòng mình.
    (John Keats)​
    Tên khoa học : Lathyrus Odoratus - Họ : Leguminosae
    Tên thông dụng : Hoàng hậu của loài cây hàng năm (Queen of Annuals)
    Tên tiếng Anh : Sweet Pea
    Hoa của tháng Tư (April''s Flower)
    Biểu tượng : Niềm vui bất tận, sự khởi đầu, sự duyên dáng, thanh nhã.
    Thông điệp : Goodbye (?); Thank you for a lovely time; I think of you.
    Tên ""Sweet Peas"" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp ""Lathyros"" có nghĩa là Pea (đậu) và Odoratus là fragant (thơm). Tên ""Sweet Pea"" lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà thơ Keats (1795-1821). Sweet Pea được trồng từ 1722 và trở nên phổ biến suốt giai đoạn cuối thế kỷ 19 vì hương thơm ngọt ngào của nó. Đặc biệt, vào thời vua Eđwar ở Anh, hoa đậu thơm được xem như biểu tượng hoa của người dân lúc đó. Sweet Pea được trang trí trong các buổi dạ tiệc, đám cưới. Người ta còn lấy hoa làm hương liệu khô để làm thơm phòng, tủ v.v
    Bông hoa thơm nồng nàn và tinh tế này có dáng vẻ tao nhã, khá tự nhiên. Trên một cành, các bông hoa có thể có nhiều đốm màu khác nhau như xanh, tía nhạt, hồng và trắng.
    Một số quan niệm mê tín cho rằng, các hạt giống đậu thơm được gieo trước khi mặt trời mọc vào ngày lễ thánh Patrick sẽ nở những cánh hoa lớn hơn và thơm hơn. Một số người khác thì tin rằng, kết quả tương tự cũng xảy ra nếu hạt giống được gieo vào khoảng thời gian giữa lễ thánh David & Chad (mùng 1, mùng 2 tháng 3) và lễ thánh Benedid (21 tháng 3).
    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 02:31 ngày 08/07/2003
  5. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    Hoa Đậu Thơm
    Niềm vui bất tận
    Nàng đậu hoa nhón bàn chân
    Khẽ khàng đôi cánh trắng ngần bay lên
    Tay thon từng ngón dịu mềm
    Kết vòng vạn vật về bên lòng mình.
    (John Keats)​
    Tên khoa học : Lathyrus Odoratus - Họ : Leguminosae
    Tên thông dụng : Hoàng hậu của loài cây hàng năm (Queen of Annuals)
    Tên tiếng Anh : Sweet Pea
    Hoa của tháng Tư (April''s Flower)
    Biểu tượng : Niềm vui bất tận, sự khởi đầu, sự duyên dáng, thanh nhã.
    Thông điệp : Goodbye (?); Thank you for a lovely time; I think of you.
    Tên ""Sweet Peas"" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp ""Lathyros"" có nghĩa là Pea (đậu) và Odoratus là fragant (thơm). Tên ""Sweet Pea"" lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà thơ Keats (1795-1821). Sweet Pea được trồng từ 1722 và trở nên phổ biến suốt giai đoạn cuối thế kỷ 19 vì hương thơm ngọt ngào của nó. Đặc biệt, vào thời vua Eđwar ở Anh, hoa đậu thơm được xem như biểu tượng hoa của người dân lúc đó. Sweet Pea được trang trí trong các buổi dạ tiệc, đám cưới. Người ta còn lấy hoa làm hương liệu khô để làm thơm phòng, tủ v.v
    Bông hoa thơm nồng nàn và tinh tế này có dáng vẻ tao nhã, khá tự nhiên. Trên một cành, các bông hoa có thể có nhiều đốm màu khác nhau như xanh, tía nhạt, hồng và trắng.
    Một số quan niệm mê tín cho rằng, các hạt giống đậu thơm được gieo trước khi mặt trời mọc vào ngày lễ thánh Patrick sẽ nở những cánh hoa lớn hơn và thơm hơn. Một số người khác thì tin rằng, kết quả tương tự cũng xảy ra nếu hạt giống được gieo vào khoảng thời gian giữa lễ thánh David & Chad (mùng 1, mùng 2 tháng 3) và lễ thánh Benedid (21 tháng 3).
    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 02:31 ngày 08/07/2003
  6. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    Xin phép bác Milou cho em post lại bài này ạ.
    Tác giả: Milou
    Ngày trả lời: 11/02/2002 01:19
    Nội dung:
    Cây Mai ngày Tết
    Lê Việt Điểu
    Qua khỏi cầu Bình Lợi, trên quốc lộ số 1 hướng về Thủ Đức là những khu vườn sầm uất với các loại cây ăn trái như mãn cầu, bòn bon, lê kei ma, ổi? và đôi khi có nhà vườn trồng đôi ba gốc chôm chôm và dâu da. Nơi đây là những khu vườn tư nhân không phải là nơi thương mại như các vườn cây Lái Thiêu. Các khu vườn nầy đôi khi có những con lạch nhỏ chảy qua và những gốc dừa xiêm cao không quá bức tường thành ngăn cách đường xe lửa xuyên Việt chạy qua khu vực. Những khu vườn nằm trên quốc lộ số một bên kia sông Sài Gòn không xa đô thành là mấy, như mang một vẽ khác hẳn với chốn thị thành.
    Những làng quê, nửa chợ nửa quê, là nơi vui thú điền viên của các chủ nhân một thời chen chân trong chốn bụi hồng. Tuy nhiên, phần lớn các gia chủ là những nông dân, tiểu thương gia, hoặc một đôi căn là nhà từ đường của giòng họ. Nằm dọc theo sông Sài Gòn về hướng Bình Triệu, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một còn có những khu vườn nho nhỏ xinh xinh trồng hoa kiểng bán Tết. Trong những khu vườn đó có những khu vườn trồng rặt một loại: Hoa Mai.
    Hoa Mai, với miền Nam nước Việt, nằm trong vùng khí hậu nhiêt đới rất thích hợp môi trường cho Hoa Mai đơm bông nẩy lộc mỗi dịp Xuân về Tết đến. Khác với miền Bắc, khí hậu có phần nào lạnh lẽo hơn, thích hợp cho Hoa Đào khoe sắc.
    Đào đỏ, mai vàng. Màu đỏ thăm tươi biểu tượng cho sự vui mừng; màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang. Tại nước Việt màu vàng còn tượng trưng cho Vua (thời phong kiến) Màu vàng thuộc hành Thổ trong ngũ hành- Thổ nằm ở vị trí Trung Ương, và màu vàng cũng tượng trưng cho nòi giống Việt. Không ngạc nhiên dân Việt chuộng mai vàng cho ngày đầu năm tại phương Nam.
    Nói đến hoa Mai sách vở và trong dân gian chia Mai làm mấy loại:
    Khánh khẩu mai: Mai trồng ở vùng núi Khánh Khẩu (Có lẻ ở bên Tàu)
    Hà Hoa mai: Cánh mai giống cánh hoa sen ôm tròn vào nhụỵ
    Đàn Hương mai: Mai vàng màu sậm, nhiều hoa, hương thơm nồng, nở sớm.
    Ban Khấu mai: Cánh hoa cong cong, không nở xòe như các loại khác.
    Cẩu Đăng mai: Hoa nhỏ không có hương thơm.
    Không biết từ lịch sử nào trong dân gian có những phân chia như vậy về Mai. Tuy nhiên, theo sự thông tục bình thường, người chơi mai, mua mai chỉ chú đến 2 loạị Mai Tứ Quý, nở bốn mùa có năm cánh, bông to, và một loại Mai có mười cánh, bông nhỏ hương thơm.
    Khi chọn mua một cành mai về chưng trong ba ngày Tết, người mua thường để ý các điểm sau đây.
    - Những cành mai có dáng đẹp, với các hình dáng một gốc ?olão mai? gốc to, da sần sùi, mọc rong rêu càng tốt, nhánh khẳng khiu và có thể có những hình thể như: Chân quỳ, Hạc bay, Phụng Hoàng?
    Ngoài những nét trên, người mua mai còn chú trọng đến sự phân chia các nhánh trên một gốc mai. Nhánh to, nhánh nhỏ, sự sắp xếp các nhánh. Có thể phân chia tên gọi tùy sự phong phú của các tay chơi mai chuyện nghiệp. Nhìn chung có các điểm cần chú ý khi lực một nhành mai: Các cành phân chia thứ lớp, bông rải đều, nhánh to khỏe, nhánh uyển chuyển, nụ bụ bẩm, lá non vừa nhú. Ngoài ra các người chơi mai chuyên môn còn phân biệt thêm nhiều thứ phụ khác nữa mà chỉ có các nhà ấy biết mà thôi. Thí dụ như Nhụy Âm Dương, Cành Tứ Quý. Nhụy âm đương là chỉ đạo vợ chồng phu phụ, cành từ quý chỉ bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông?v.v. Đặc biệt là các nhà nho học chơi mai rất công phụ Một cành mai nở không đúng vào dịp Tết, mai vừa nở đã rụng, hoặc các nhánh phân bố không hợp cách là xui xẻo cả năm (Người chơi mai tin như vậy).
    Nói chung do sự nhân cách hóa mà con người đã đặt vào cây mai khi đem bày trong nhà trong ba ngày Xuân. Phong tục á Đông nói chung, Việt nam nói riêng rất trọng sự tôn ti trật tự, trên dưới trong ngoài thành nề nếp. Và mỗi cuộc chơi đều mang theo nhiều ý nghĩa cao siêu.
    Từ những nhu cầu như thế cho nên ngoài những cành mai bình thường bày bán trong các chợ tết, những cành mai nầy cắt từ những cây mai trong vườn, bó lại bằng lá dừa và mang ra chợ bày bán, cốt mua về cho có hương thơm, có màu vàng trên bàn thờ cho tăng thêm không khí tết; các chủ nhân các gốc lão mai thường ỏ công ra chăm bón những cành mai rất đạt tiêu chuẩn yêu cầu của các bậc danh nho đòi hỏi. Tất nhiên các gốc mai nầy giá đáng bạc vạn.
    Trồng mai trên đất vườn phải là thứ đất đen, đất thịt nhưng không giữ nước để tránh úng thủy. Mai trồng trên các luống vồng cao, có khoảng cách vừa đủ đề cây tăng trưởng. Mỗi năm vào rằm tháng 10 Âm Lịch phải ngắt hết lá để dồn nhựa cho các nhánh ra hoa. Tuốt lá không đúng ngày sẽ ảnh hưởng đến ngày hoa nở. Khi cắt nhánh đem ra chợ phải đốt gốc. Cách đốt gốc cũng góp một phần không nhỏ vào việc giữ cho hoa nở bền hơn.
    Ngoài các loại mai vàng kể trên, tại Lục Tỉnh còn một loại mai trắng, còn có tên gọi là Nam Mai- Cây Nam Mai chánh thực là cây gì? Đó là cây Mù U. ?oNhánh mù u con **** vàng không đậu, vì xa em mà thành điệu nhớ não lòng? Mù u bông trắng, năm cánh, lá mù u to bản dày kích thước chừng bàn tay người lớn. Thân mu u là thân mộc, mù u có trái tròn không ăn được, hột mù u ép làm dầu thắp đèn, nhiều khói ít sáng. Cây mù u có tên Nam Mai trong sự tích Gia Long Tẩu quốc.
    Cứ mỗi dịp Xuân về bất cứ con người Việt Nam nào, nếu còn yêu quê hương, còn trông về nguồn gốc, đều cảm thấy một nỗi sầu man mát dâng tràn. Dù cho đang sống tại quê nhà hay đang lưu lạc khắp năm châu bốn biển. Nhắc đến cây Mai là nhắc đến ngày tết cổ truyền dân tộc, nhắc đến bành dày bánh chưng, cây nêu tràng pháo, thịt mỡ dưa hành. Tại Hoa Kỳ không tìm được giống Mai Vàng nên tạm dùng cành đào hồng (plum) bông nhỏ mỏng manh thay thế cây Mai Vàng ngày đó để chưng nơi bàn thờ và treo đôi bà cánh thiệp xuân để nhớ những ngày Xuân yêu thương trên đất mẹ.
    Lê Việt Điểu
    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 02:40 ngày 08/07/2003
  7. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    Xin phép bác Milou cho em post lại bài này ạ.
    Tác giả: Milou
    Ngày trả lời: 11/02/2002 01:19
    Nội dung:
    Cây Mai ngày Tết
    Lê Việt Điểu
    Qua khỏi cầu Bình Lợi, trên quốc lộ số 1 hướng về Thủ Đức là những khu vườn sầm uất với các loại cây ăn trái như mãn cầu, bòn bon, lê kei ma, ổi??? và đôi khi có nhà vườn trồng đôi ba gốc chôm chôm và dâu da. Nơi đây là những khu vườn tư nhân không phải là nơi thương mại như các vườn cây Lái Thiêu. Các khu vườn nầy đôi khi có những con lạch nhỏ chảy qua và những gốc dừa xiêm cao không quá bức tường thành ngăn cách đường xe lửa xuyên Việt chạy qua khu vực. Những khu vườn nằm trên quốc lộ số một bên kia sông Sài Gòn không xa đô thành là mấy, như mang một vẽ khác hẳn với chốn thị thành.
    Những làng quê, nửa chợ nửa quê, là nơi vui thú điền viên của các chủ nhân một thời chen chân trong chốn bụi hồng. Tuy nhiên, phần lớn các gia chủ là những nông dân, tiểu thương gia, hoặc một đôi căn là nhà từ đường của giòng họ. Nằm dọc theo sông Sài Gòn về hướng Bình Triệu, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một còn có những khu vườn nho nhỏ xinh xinh trồng hoa kiểng bán Tết. Trong những khu vườn đó có những khu vườn trồng rặt một loại: Hoa Mai.
    Hoa Mai, với miền Nam nước Việt, nằm trong vùng khí hậu nhiêt đới rất thích hợp môi trường cho Hoa Mai đơm bông nẩy lộc mỗi dịp Xuân về Tết đến. Khác với miền Bắc, khí hậu có phần nào lạnh lẽo hơn, thích hợp cho Hoa Đào khoe sắc.
    Đào đỏ, mai vàng. Màu đỏ thăm tươi biểu tượng cho sự vui mừng; màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang. Tại nước Việt màu vàng còn tượng trưng cho Vua (thời phong kiến) Màu vàng thuộc hành Thổ trong ngũ hành- Thổ nằm ở vị trí Trung Ương, và màu vàng cũng tượng trưng cho nòi giống Việt. Không ngạc nhiên dân Việt chuộng mai vàng cho ngày đầu năm tại phương Nam.
    Nói đến hoa Mai sách vở và trong dân gian chia Mai làm mấy loại:
    Khánh khẩu mai: Mai trồng ở vùng núi Khánh Khẩu (Có lẻ ở bên Tàu)
    Hà Hoa mai: Cánh mai giống cánh hoa sen ôm tròn vào nhụỵ
    Đàn Hương mai: Mai vàng màu sậm, nhiều hoa, hương thơm nồng, nở sớm.
    Ban Khấu mai: Cánh hoa cong cong, không nở xòe như các loại khác.
    Cẩu Đăng mai: Hoa nhỏ không có hương thơm.
    Không biết từ lịch sử nào trong dân gian có những phân chia như vậy về Mai. Tuy nhiên, theo sự thông tục bình thường, người chơi mai, mua mai chỉ chú đến 2 loạị Mai Tứ Quý, nở bốn mùa có năm cánh, bông to, và một loại Mai có mười cánh, bông nhỏ hương thơm.
    Khi chọn mua một cành mai về chưng trong ba ngày Tết, người mua thường để ý các điểm sau đây.
    - Những cành mai có dáng đẹp, với các hình dáng một gốc ??olão mai??? gốc to, da sần sùi, mọc rong rêu càng tốt, nhánh khẳng khiu và có thể có những hình thể như: Chân quỳ, Hạc bay, Phụng Hoàng???
    Ngoài những nét trên, người mua mai còn chú trọng đến sự phân chia các nhánh trên một gốc mai. Nhánh to, nhánh nhỏ, sự sắp xếp các nhánh. Có thể phân chia tên gọi tùy sự phong phú của các tay chơi mai chuyện nghiệp. Nhìn chung có các điểm cần chú ý khi lực một nhành mai: Các cành phân chia thứ lớp, bông rải đều, nhánh to khỏe, nhánh uyển chuyển, nụ bụ bẩm, lá non vừa nhú. Ngoài ra các người chơi mai chuyên môn còn phân biệt thêm nhiều thứ phụ khác nữa mà chỉ có các nhà ấy biết mà thôi. Thí dụ như Nhụy Âm Dương, Cành Tứ Quý. Nhụy âm đương là chỉ đạo vợ chồng phu phụ, cành từ quý chỉ bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông???v.v. Đặc biệt là các nhà nho học chơi mai rất công phụ Một cành mai nở không đúng vào dịp Tết, mai vừa nở đã rụng, hoặc các nhánh phân bố không hợp cách là xui xẻo cả năm (Người chơi mai tin như vậy).
    Nói chung do sự nhân cách hóa mà con người đã đặt vào cây mai khi đem bày trong nhà trong ba ngày Xuân. Phong tục á Đông nói chung, Việt nam nói riêng rất trọng sự tôn ti trật tự, trên dưới trong ngoài thành nề nếp. Và mỗi cuộc chơi đều mang theo nhiều ý nghĩa cao siêu.
    Từ những nhu cầu như thế cho nên ngoài những cành mai bình thường bày bán trong các chợ tết, những cành mai nầy cắt từ những cây mai trong vườn, bó lại bằng lá dừa và mang ra chợ bày bán, cốt mua về cho có hương thơm, có màu vàng trên bàn thờ cho tăng thêm không khí tết; các chủ nhân các gốc lão mai thường ỏ công ra chăm bón những cành mai rất đạt tiêu chuẩn yêu cầu của các bậc danh nho đòi hỏi. Tất nhiên các gốc mai nầy giá đáng bạc vạn.
    Trồng mai trên đất vườn phải là thứ đất đen, đất thịt nhưng không giữ nước để tránh úng thủy. Mai trồng trên các luống vồng cao, có khoảng cách vừa đủ đề cây tăng trưởng. Mỗi năm vào rằm tháng 10 Âm Lịch phải ngắt hết lá để dồn nhựa cho các nhánh ra hoa. Tuốt lá không đúng ngày sẽ ảnh hưởng đến ngày hoa nở. Khi cắt nhánh đem ra chợ phải đốt gốc. Cách đốt gốc cũng góp một phần không nhỏ vào việc giữ cho hoa nở bền hơn.
    Ngoài các loại mai vàng kể trên, tại Lục Tỉnh còn một loại mai trắng, còn có tên gọi là Nam Mai- Cây Nam Mai chánh thực là cây gì? Đó là cây Mù U. ??oNhánh mù u con **** vàng không đậu, vì xa em mà thành điệu nhớ não lòng??? Mù u bông trắng, năm cánh, lá mù u to bản dày kích thước chừng bàn tay người lớn. Thân mu u là thân mộc, mù u có trái tròn không ăn được, hột mù u ép làm dầu thắp đèn, nhiều khói ít sáng. Cây mù u có tên Nam Mai trong sự tích Gia Long Tẩu quốc.
    Cứ mỗi dịp Xuân về bất cứ con người Việt Nam nào, nếu còn yêu quê hương, còn trông về nguồn gốc, đều cảm thấy một nỗi sầu man mát dâng tràn. Dù cho đang sống tại quê nhà hay đang lưu lạc khắp năm châu bốn biển. Nhắc đến cây Mai là nhắc đến ngày tết cổ truyền dân tộc, nhắc đến bành dày bánh chưng, cây nêu tràng pháo, thịt mỡ dưa hành. Tại Hoa Kỳ không tìm được giống Mai Vàng nên tạm dùng cành đào hồng (plum) bông nhỏ mỏng manh thay thế cây Mai Vàng ngày đó để chưng nơi bàn thờ và treo đôi bà cánh thiệp xuân để nhớ những ngày Xuân yêu thương trên đất mẹ.
    Lê Việt Điểu
    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 02:40 ngày 08/07/2003
  8. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    Xin phép chị Angelique cho em post bài này nhé !
    Tác giả: Angelique
    Ngày trả lời: 17/03/2002 04:37
    Nội dung:
    Monet và sự quyến rũ của những bông hoa súng

    Monet vẽ những bông hoa súng. Ông cũng vẽ thành phố London, Venise và những phong cảnh đẹp đẽ của nước Pháp, nhưng những bức tranh về khu vườn ao của ông là cái thực sự thu hút công chúng.
    Claude Monet, người được mệnh danh là "người cha của hội họa ấn tượng", đã bỏ ra 30 năm cuối đời để vẽ về khu vườn ao của mình, một niềm say mê đơn độc và thu hút được sự ngưỡng mộ khắp nơi. Một triển lãm gồm khoảng 60 bức tranh về hoa súng của ông, khai mạc vào tháng năm vừa qua, tại Bảo tàng Orangerie ở Paris, hàng ngày đã thu hút những lượng khách tối đa, những người háo hức muốn được xem những bức tranh nguyên bản đã không ngớt được in lại trong các ấn phẩm và bưu thiếp. Trước đó, một triển lãm về Monet ở London vào tháng tư kết thúc với 813.000 người xem, một kỷ lục đối với triển lãm nghệ thuật tại Anh.
    Ngôi nhà của Monet và khu vườn ao của ông nằm ở vùng Giverny, cửa ngõ Tây Bắc của Paris, nơi ông sống và vẽ từ năm 1895 đến năm 1926, cũng trở thành một thánh địa hành hương với những "tua" du lịch bằng xe khách và tàu hỏa từ Paris đến.
    Những dãy người xếp hàng rồng rắn tại triển lãm Paris và Giverny đã nói lên sức quyến rũ của những bông hoa súng. Monet đã vẽ khoảng 300 bức tranh về khu vườn - ao ở Giverny, trong đó có 40 bức tranh khổ lớn.
    Triển lãm "Chu kỳ của hoa súng" tại Bảo tàng Orangerie, nhằm trình bày những mưu toan chuyên nhất của họa sĩ - đôi khi đầy tuyệt vọng - để nắm bắt vẻ đẹp đến sững sờ của một khu vườn - ao với những nét đổi thay của bầu trời, màu sắc, ánh sáng và sắc độ. Trong một bức thư năm 1916, Monet đã viết: "Tôi thực sự bị ám ảnh bởi những gì mình đang vẽ".
    Những họa sĩ lớn là những người biến những cái thông tục thành những vẽ đẹp tuyệt kỳ. Và thiên tài của Monet hiện ra trong những bức tranh về vườn ao. Pierre Georgel, Giám đốc Bảo tàng Orangerie, nhận xét: "Cuộc cách mạng của Monet là việc đi đến tận cùng cái mà ông tìm kiếm, vượt quá thế giới hiển hiện thông thường để đạt tới sự phát hiện, cái mà chúng ta không thấy qua vẻ quen thuộc của chúng và cái nhìn vội vàng của chính ta".
    Năm 1951 Monet đã quyết định một dự án đã chiếm lĩnh những năm cuối đời mình. Ông viết: "Nó thuộc về chủ đề mà một thời đã chiếm lĩnh tôi - nước, hoa súng, cây cỏ, nhưng trên một mặt tranh rộng khiến cho người xem không chỉ bị vây quanh mà còn bị chìm ngập vào đó"
    Cuộc triển lãm này nhằm đánh dấu ngày kỷ niệm 80 năm của dự án lớn của nhà danh họa - sự trao lại một loại bích họa cho tổng thống Pháp Georges Clemenceau vào ngày 12/11/1918, ngày tiếp sau ngày đình chiến.
    Nhưng khi sự trao lại này được thực hiện, những cuộc thương lượng căng thẳng đã kéo dài sau đó nhiều năm khi những quan chức chính phủ cãi cọ lằng nhằng với Monet về con số bức tranh, cỡ tranh và những phòng tranh mà chúng được treo.
    Những tranh này được trưng bày năm 1927, sau khi Monet qua đời.
    Chu kỳ ban đầu của tranh hoa súng bắt đầu vào năm 1897. Những tranh này tràn ngập ánh sáng và vẻ duyên dáng được tạo nên bởi những sắc thái đục mờ của các màu xanh lam, xanh lá cây và hồng nhạt, để miêu tả nước và những nụ hoa.
    Nhưng từ năm 1914, sau 2 năm đào bới, những cảnh về chiếc ao có màu sẫm hơn với những nét bút dày đặc về những sắc độ thẫm của màu tím, hung, lam và xanh. Đây là những cảnh về đêm được vẽ dưới ánh trăng.
    Một chiếc cầu gỗ kiểu Nhật Bản trông thanh nhã và duyên dáng, trong những bức tranh thời đầu được chuyển thành những thanh dầm thẫm màu mang đậm nét u uẩn và lo âu. Cây cỏ trên bờ ao thì mơ hồ huyền ảo và rối ren nhàu nát. Màu sắc đã lấn chỗ của hình thể. Những bức tranh này tạo thành chiếc cầu, nối liền hội họa ấn tượng thế kỷ 19 với hội họa trừu tượng và biểu hiện của thế kỷ 20.
    Những bức tranh tối màu và u uẩn ra đời sau khi Monet chịu tang bà vợ, chết vì bệnh bạch cầu năm 1911. Ông sống một mình ở Giverny sau khi Thế chiến I nổ ra, biến miền Bắc Pháp thành bãi chiến trường. Lúc này thị lực ông đã sa sút. Ông đã viết rằng vẽ đã trở thành việc tra tấn khi ông vật vã để hoàn thành dự án lớn vào những năm cuối đời.
    Triển lãm Paris kết thúc với những bức tranh tường tạo ra khoản di sản chuyển nhượng trong di chúc của ông. Được sắp xếp trong hai căn phòng bầu dục, những bức họa này gợi lên một giấc mơ về ánh sáng, không gian, sự tĩnh lặng và sự chấp nhận - sự thức ngộ của Monet sau quãng đời mang cái nhìn tăm tối của cô đơn và tuyệt vọng.
    Với bất cứ ai yêu Monet, Giverny là một địa điểm hành hương, nơi mà phép lạ của nghệ thuật được tạo ra. Ngôi nhà và những mảnh vườn nép mình dưới chân tường ngọn đồi nhấp nhô um tùm, hàng ngày thu hút hàng trăm du khách.
    Một cặp vợ chồng, David và Lynda Hoxley, từ vùng Woodford phía Tây Nam nước Anh, từng xếp hàng để xem triển lãm của Monet tại London và sau đó lại xếp hàng để thăm khu vườn của ông. Khi vào bên trong để thăm thú, họ tuyên bố rằng thật bõ công chờ chực, Lynda nói: "thật kỳ diệu, đẹp tuyệt vời" và nói thêm rằng, khu vườn còn đẹp hơn nữa nếu không đầy những người.
    Khu vườn thượng, được chăm sóc ân cần từ bàn tay 9 người làm vườn, đầy hoa diên vĩ ngạt ngào trong sự hòa sắc giữa màu tím nhạt, xanh lam và trắng, viền quanh là luống oải hương màu hồng nhạt. Quanh chiếc ao, những cây diên vĩ nước mọc lẫn với liễu và một chiếc thuyền sơn màu xanh lá cây cắm sào giữa những đám hoa súng huyền thoại.
    "Giverny làm cho người ta phải nín thở, đúng như từng chờ đợi. Nhưng những bức tranh lại còn hơn thế nhiều. Chúng đến với nhiều nơi hơn", Christopher Hughes, một sinh viên Mỹ, phát biểu tại triển lãm Orangerie.
    Julianne Eager, một sinh viên mỹ thuật người Mỹ khác, người đã đến cả triển lãm lẫn Giverny nói rằng khu vườn - ao đã làm thay đổi cái nhìn của cô đối với tranh của Monet, từ cái đẹp hời hợt đơn giản đến một cái đẹp sâu lắng hơn. "Thật lạ lùng. Ông có cặp mắt nhìn mà tôi không có được. Tôi nhìn xuống ao súng từ chiếc cầu gỗ Nhật Bản và cố hình dung ra những tranh vẽ của ông. Nhưng không thể. Tôi không thể thấy được cái mà ông thấy".
    Loạt tranh hoa súng, loạt tranh cuối cùng mà đã bỏ ra 20 năm cuối đời đã trở thành sự kết thúc huy hoàng của sự nghiệp một danh họa, "những tác phẩm tuyệt đỉnh" như Proust đã nói. Dự cảm về những giới hạn của nghệ thuật ấn tượng, nhà họa sĩ của Giverny đã đẩy nghệ thuật ấn tượng đến mức tối thiểu trong tranh ông. Bằng sự lặp đi lặp lại, chủ đề của tranh trở thành giai thoại, nó tự hòa tan, tự tiêu ma đi, để lại môi trường tự do cho thứ hội họa thuần khiết: đấy là nghệ thuật trừu tượng.
    Giống như Titien trước ông, giống như Matisse sau ông, giống như mọi nghệ sĩ mà tuổi già đã giáng phúc cho họ, Monet, với tuổi 70, đã dấn thân vào những con đường mới. Đấy là những con đường của nghệ thuật hiện đại. Liệu ông từng có ý thức về điều này không? Khi hỏi ông điều này trước khi ông qua đời mấy tháng. Ông đã vui lòng thổ lộ: "Tất cả những gì mà tôi có thể nói: Hội họa là một công việc cực kỳ khó khăn".
    Thật vậy, có thể nói gì khác hơn với con người đã âm thầm lật đổ mọi sự chuyên chế để dẫn dắt hội họa đến những cuộc phiêu lưu mới.
    (Thể thao văn hóa - 27/7/1999)

    ****************************************************​
    Tác giả: Angelique
    Ngày trả lời: 17/03/2002 12:12
    Nội dung:
    http://www.giverny.org/gardens/fcm/fleurs/listflor.htmhttp://www.giverny.org/gardens/fcm/fleurs/listflor.htm
    Liste des plantes et des fleurs du jardin de Claude Monet
    List of plants and flowers of Claude Monet's garden
    BASSIN / POND
    Arbres / Trees
    Saules pleureurs / Weeping willow / Thùy dương
    Saules têtards / Willow / dương liễu
    Peupliers / Poplar / Bạch dương
    Bambous / Bamboo / Tre
    Bambous noirs / Bambusa nigra
    Cognassiers du Japon / Quince tree of Japan
    Cerisiers du Japon / Cherry tree of Japan / Hoa Anh Đào Nhật
    Pommiers du Japon / Apple tree of Japan / Táo Nhật
    Aulnes / Alder
    Frênes / Ash tree
    Ginkgos
    Plantes / Plants
    Rhododendrons
    Azalées / Azalea /Đỗ quyên
    Pivoines arbustives tardive / Peony / Mẫu đơn
    Agapanthes / Lily of the Nile / Lily sông Nile
    Fougères de Kalmia / Fern of Kalmia / (dương sỉ Kalmia)
    Berberis
    Sceaux de Salomon
    Gyneriums
    Framboisiers / Raspberry bush
    Petasites
    Houx / Holly
    Fleurs de Printemps / Spring flowers
    Glycines mauves et blanches / Wisteria white and mauve
    Tamaris / Tamarisk
    Iris / I dĩ
    Lupins
    Fleurs d'été / Summer flowers
    Nympheas / Water Lily /Súng
    Rosiers tiges / Stem rose
    Lys / Lis / Huệ tây
    CLOS NORMAND
    Arbres / Trees
    Cerisiers du Japon / Cherry tree of Japan /Hoa Anh Đào Nhật
    Pommiers du Japon / Apple tree of Japan / Táo Nhật
    Erable du Japon / Maple of Japan
    Erables sycomores / Maple Sycamore
    Marronniers / Chestnut tree
    Tilleuls / Lime tree
    Fleurs de printemps / Spring flowers
    Aubrietias
    Iris germanica mauve et violet / Iris germanica mauve and purple / I dĩ Đức màu hồng tím và tím
    Perce-neige / Snowdrop / " Giọt tuyết"
    Roses de Noël blanches / Christmas rose / Hồng Giánhg Sinh
    Primevères / Primerose
    Pensées / Pansy / Hoa cánh ****
    Violas cornutas
    Crocus
    Jonquilles / Daffodil / Thuỷ Tiên
    Myosotis / Forget-me-not
    Seringats
    Viburnums
    Tulipes rouges, jaunes, roses, mauves, perroquet / Tulip
    Iris hollandais / Dutch Iris / I dĩ Hà Lan
    Pavots d'Orient / Oriental Poppy
    Pivoines / Peony / Mẫu đơn
    Doroniques
    Ancolies
    Clématites / Clematis
    Fleurs d'été et d'automne / Summer and autumn flowers
    Anémones / Anemone
    Dahlias cactus
    Asters mauves / Mauve Aster
    Campanules des Carpathes / Bellflower / Hoa chuông
    Passiflores grimpants
    Dahlias jaunes, blancs et roses / Yellow, white and rose Dahlias / Thược dược vàng, trắng & hồng
    Rosiers tiges à fleurs simples roses, jaunes et orange / Stem Rose
    Rosiers grimpants à fleurs simples roses et rouges / Climbing rose / Hoa hồng leo
    Rudbeckias
    Clématites / Clematis
    Sauges / Salvia
    Soucis / Marigold
    Aconites
    Oeillets / Carnatịon / cẩm chướng
    Pelargoniums
    Cannas /Hoa chuối
    Ipomées
    Hypericums
    Mufliers / Antirrhinum
    Capucines grimpantes / Climbing Nasturtium / hoa Sen cạn leo
    Soleils / Sunflower /hướng dương
    Marguerites / Cúc
    Delphiniums
    Campanules / Bellflower / hoa chuông
    Digitales / Digitalis
    Oenothères
    Heliopsis
    Epilobes
    Verbascums
    Glaïeuls / Gladiola / Hoa Lay-ơn
    Lammiums
    Lys / Lis / Huệ Tây
    Roses trémières / Hollyhocks / Mãn đình hồng
    Chardons bleus / Blue Thistle
    Sumacs roses / Pink Sumac
    Pois de senteur / Sweet Pea / hoa đậu hà lan
    Solidago
    Hortensias bleus / Blue Hydrangea/ oc tăng xia
    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 02:49 ngày 08/07/2003
  9. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    Xin phép chị Angelique cho em post bài này nhé !
    Tác giả: Angelique
    Ngày trả lời: 17/03/2002 04:37
    Nội dung:
    Monet và sự quyến rũ của những bông hoa súng

    Monet vẽ những bông hoa súng. Ông cũng vẽ thành phố London, Venise và những phong cảnh đẹp đẽ của nước Pháp, nhưng những bức tranh về khu vườn ao của ông là cái thực sự thu hút công chúng.
    Claude Monet, người được mệnh danh là "người cha của hội họa ấn tượng", đã bỏ ra 30 năm cuối đời để vẽ về khu vườn ao của mình, một niềm say mê đơn độc và thu hút được sự ngưỡng mộ khắp nơi. Một triển lãm gồm khoảng 60 bức tranh về hoa súng của ông, khai mạc vào tháng năm vừa qua, tại Bảo tàng Orangerie ở Paris, hàng ngày đã thu hút những lượng khách tối đa, những người háo hức muốn được xem những bức tranh nguyên bản đã không ngớt được in lại trong các ấn phẩm và bưu thiếp. Trước đó, một triển lãm về Monet ở London vào tháng tư kết thúc với 813.000 người xem, một kỷ lục đối với triển lãm nghệ thuật tại Anh.
    Ngôi nhà của Monet và khu vườn ao của ông nằm ở vùng Giverny, cửa ngõ Tây Bắc của Paris, nơi ông sống và vẽ từ năm 1895 đến năm 1926, cũng trở thành một thánh địa hành hương với những "tua" du lịch bằng xe khách và tàu hỏa từ Paris đến.
    Những dãy người xếp hàng rồng rắn tại triển lãm Paris và Giverny đã nói lên sức quyến rũ của những bông hoa súng. Monet đã vẽ khoảng 300 bức tranh về khu vườn - ao ở Giverny, trong đó có 40 bức tranh khổ lớn.
    Triển lãm "Chu kỳ của hoa súng" tại Bảo tàng Orangerie, nhằm trình bày những mưu toan chuyên nhất của họa sĩ - đôi khi đầy tuyệt vọng - để nắm bắt vẻ đẹp đến sững sờ của một khu vườn - ao với những nét đổi thay của bầu trời, màu sắc, ánh sáng và sắc độ. Trong một bức thư năm 1916, Monet đã viết: "Tôi thực sự bị ám ảnh bởi những gì mình đang vẽ".
    Những họa sĩ lớn là những người biến những cái thông tục thành những vẽ đẹp tuyệt kỳ. Và thiên tài của Monet hiện ra trong những bức tranh về vườn ao. Pierre Georgel, Giám đốc Bảo tàng Orangerie, nhận xét: "Cuộc cách mạng của Monet là việc đi đến tận cùng cái mà ông tìm kiếm, vượt quá thế giới hiển hiện thông thường để đạt tới sự phát hiện, cái mà chúng ta không thấy qua vẻ quen thuộc của chúng và cái nhìn vội vàng của chính ta".
    Năm 1951 Monet đã quyết định một dự án đã chiếm lĩnh những năm cuối đời mình. Ông viết: "Nó thuộc về chủ đề mà một thời đã chiếm lĩnh tôi - nước, hoa súng, cây cỏ, nhưng trên một mặt tranh rộng khiến cho người xem không chỉ bị vây quanh mà còn bị chìm ngập vào đó"
    Cuộc triển lãm này nhằm đánh dấu ngày kỷ niệm 80 năm của dự án lớn của nhà danh họa - sự trao lại một loại bích họa cho tổng thống Pháp Georges Clemenceau vào ngày 12/11/1918, ngày tiếp sau ngày đình chiến.
    Nhưng khi sự trao lại này được thực hiện, những cuộc thương lượng căng thẳng đã kéo dài sau đó nhiều năm khi những quan chức chính phủ cãi cọ lằng nhằng với Monet về con số bức tranh, cỡ tranh và những phòng tranh mà chúng được treo.
    Những tranh này được trưng bày năm 1927, sau khi Monet qua đời.
    Chu kỳ ban đầu của tranh hoa súng bắt đầu vào năm 1897. Những tranh này tràn ngập ánh sáng và vẻ duyên dáng được tạo nên bởi những sắc thái đục mờ của các màu xanh lam, xanh lá cây và hồng nhạt, để miêu tả nước và những nụ hoa.
    Nhưng từ năm 1914, sau 2 năm đào bới, những cảnh về chiếc ao có màu sẫm hơn với những nét bút dày đặc về những sắc độ thẫm của màu tím, hung, lam và xanh. Đây là những cảnh về đêm được vẽ dưới ánh trăng.
    Một chiếc cầu gỗ kiểu Nhật Bản trông thanh nhã và duyên dáng, trong những bức tranh thời đầu được chuyển thành những thanh dầm thẫm màu mang đậm nét u uẩn và lo âu. Cây cỏ trên bờ ao thì mơ hồ huyền ảo và rối ren nhàu nát. Màu sắc đã lấn chỗ của hình thể. Những bức tranh này tạo thành chiếc cầu, nối liền hội họa ấn tượng thế kỷ 19 với hội họa trừu tượng và biểu hiện của thế kỷ 20.
    Những bức tranh tối màu và u uẩn ra đời sau khi Monet chịu tang bà vợ, chết vì bệnh bạch cầu năm 1911. Ông sống một mình ở Giverny sau khi Thế chiến I nổ ra, biến miền Bắc Pháp thành bãi chiến trường. Lúc này thị lực ông đã sa sút. Ông đã viết rằng vẽ đã trở thành việc tra tấn khi ông vật vã để hoàn thành dự án lớn vào những năm cuối đời.
    Triển lãm Paris kết thúc với những bức tranh tường tạo ra khoản di sản chuyển nhượng trong di chúc của ông. Được sắp xếp trong hai căn phòng bầu dục, những bức họa này gợi lên một giấc mơ về ánh sáng, không gian, sự tĩnh lặng và sự chấp nhận - sự thức ngộ của Monet sau quãng đời mang cái nhìn tăm tối của cô đơn và tuyệt vọng.
    Với bất cứ ai yêu Monet, Giverny là một địa điểm hành hương, nơi mà phép lạ của nghệ thuật được tạo ra. Ngôi nhà và những mảnh vườn nép mình dưới chân tường ngọn đồi nhấp nhô um tùm, hàng ngày thu hút hàng trăm du khách.
    Một cặp vợ chồng, David và Lynda Hoxley, từ vùng Woodford phía Tây Nam nước Anh, từng xếp hàng để xem triển lãm của Monet tại London và sau đó lại xếp hàng để thăm khu vườn của ông. Khi vào bên trong để thăm thú, họ tuyên bố rằng thật bõ công chờ chực, Lynda nói: "thật kỳ diệu, đẹp tuyệt vời" và nói thêm rằng, khu vườn còn đẹp hơn nữa nếu không đầy những người.
    Khu vườn thượng, được chăm sóc ân cần từ bàn tay 9 người làm vườn, đầy hoa diên vĩ ngạt ngào trong sự hòa sắc giữa màu tím nhạt, xanh lam và trắng, viền quanh là luống oải hương màu hồng nhạt. Quanh chiếc ao, những cây diên vĩ nước mọc lẫn với liễu và một chiếc thuyền sơn màu xanh lá cây cắm sào giữa những đám hoa súng huyền thoại.
    "Giverny làm cho người ta phải nín thở, đúng như từng chờ đợi. Nhưng những bức tranh lại còn hơn thế nhiều. Chúng đến với nhiều nơi hơn", Christopher Hughes, một sinh viên Mỹ, phát biểu tại triển lãm Orangerie.
    Julianne Eager, một sinh viên mỹ thuật người Mỹ khác, người đã đến cả triển lãm lẫn Giverny nói rằng khu vườn - ao đã làm thay đổi cái nhìn của cô đối với tranh của Monet, từ cái đẹp hời hợt đơn giản đến một cái đẹp sâu lắng hơn. "Thật lạ lùng. Ông có cặp mắt nhìn mà tôi không có được. Tôi nhìn xuống ao súng từ chiếc cầu gỗ Nhật Bản và cố hình dung ra những tranh vẽ của ông. Nhưng không thể. Tôi không thể thấy được cái mà ông thấy".
    Loạt tranh hoa súng, loạt tranh cuối cùng mà đã bỏ ra 20 năm cuối đời đã trở thành sự kết thúc huy hoàng của sự nghiệp một danh họa, "những tác phẩm tuyệt đỉnh" như Proust đã nói. Dự cảm về những giới hạn của nghệ thuật ấn tượng, nhà họa sĩ của Giverny đã đẩy nghệ thuật ấn tượng đến mức tối thiểu trong tranh ông. Bằng sự lặp đi lặp lại, chủ đề của tranh trở thành giai thoại, nó tự hòa tan, tự tiêu ma đi, để lại môi trường tự do cho thứ hội họa thuần khiết: đấy là nghệ thuật trừu tượng.
    Giống như Titien trước ông, giống như Matisse sau ông, giống như mọi nghệ sĩ mà tuổi già đã giáng phúc cho họ, Monet, với tuổi 70, đã dấn thân vào những con đường mới. Đấy là những con đường của nghệ thuật hiện đại. Liệu ông từng có ý thức về điều này không? Khi hỏi ông điều này trước khi ông qua đời mấy tháng. Ông đã vui lòng thổ lộ: "Tất cả những gì mà tôi có thể nói: Hội họa là một công việc cực kỳ khó khăn".
    Thật vậy, có thể nói gì khác hơn với con người đã âm thầm lật đổ mọi sự chuyên chế để dẫn dắt hội họa đến những cuộc phiêu lưu mới.
    (Thể thao văn hóa - 27/7/1999)

    ****************************************************​
    Tác giả: Angelique
    Ngày trả lời: 17/03/2002 12:12
    Nội dung:
    http://www.giverny.org/gardens/fcm/fleurs/listflor.htmhttp://www.giverny.org/gardens/fcm/fleurs/listflor.htm
    Liste des plantes et des fleurs du jardin de Claude Monet
    List of plants and flowers of Claude Monet's garden
    BASSIN / POND
    Arbres / Trees
    Saules pleureurs / Weeping willow / Thùy dương
    Saules têtards / Willow / dương liễu
    Peupliers / Poplar / Bạch dương
    Bambous / Bamboo / Tre
    Bambous noirs / Bambusa nigra
    Cognassiers du Japon / Quince tree of Japan
    Cerisiers du Japon / Cherry tree of Japan / Hoa Anh Đào Nhật
    Pommiers du Japon / Apple tree of Japan / Táo Nhật
    Aulnes / Alder
    Frênes / Ash tree
    Ginkgos
    Plantes / Plants
    Rhododendrons
    Azalées / Azalea /Đỗ quyên
    Pivoines arbustives tardive / Peony / Mẫu đơn
    Agapanthes / Lily of the Nile / Lily sông Nile
    Fougères de Kalmia / Fern of Kalmia / (dương sỉ Kalmia)
    Berberis
    Sceaux de Salomon
    Gyneriums
    Framboisiers / Raspberry bush
    Petasites
    Houx / Holly
    Fleurs de Printemps / Spring flowers
    Glycines mauves et blanches / Wisteria white and mauve
    Tamaris / Tamarisk
    Iris / I dĩ
    Lupins
    Fleurs d'été / Summer flowers
    Nympheas / Water Lily /Súng
    Rosiers tiges / Stem rose
    Lys / Lis / Huệ tây
    CLOS NORMAND
    Arbres / Trees
    Cerisiers du Japon / Cherry tree of Japan /Hoa Anh Đào Nhật
    Pommiers du Japon / Apple tree of Japan / Táo Nhật
    Erable du Japon / Maple of Japan
    Erables sycomores / Maple Sycamore
    Marronniers / Chestnut tree
    Tilleuls / Lime tree
    Fleurs de printemps / Spring flowers
    Aubrietias
    Iris germanica mauve et violet / Iris germanica mauve and purple / I dĩ Đức màu hồng tím và tím
    Perce-neige / Snowdrop / " Giọt tuyết"
    Roses de Noël blanches / Christmas rose / Hồng Giánhg Sinh
    Primevères / Primerose
    Pensées / Pansy / Hoa cánh ****
    Violas cornutas
    Crocus
    Jonquilles / Daffodil / Thuỷ Tiên
    Myosotis / Forget-me-not
    Seringats
    Viburnums
    Tulipes rouges, jaunes, roses, mauves, perroquet / Tulip
    Iris hollandais / Dutch Iris / I dĩ Hà Lan
    Pavots d'Orient / Oriental Poppy
    Pivoines / Peony / Mẫu đơn
    Doroniques
    Ancolies
    Clématites / Clematis
    Fleurs d'été et d'automne / Summer and autumn flowers
    Anémones / Anemone
    Dahlias cactus
    Asters mauves / Mauve Aster
    Campanules des Carpathes / Bellflower / Hoa chuông
    Passiflores grimpants
    Dahlias jaunes, blancs et roses / Yellow, white and rose Dahlias / Thược dược vàng, trắng & hồng
    Rosiers tiges à fleurs simples roses, jaunes et orange / Stem Rose
    Rosiers grimpants à fleurs simples roses et rouges / Climbing rose / Hoa hồng leo
    Rudbeckias
    Clématites / Clematis
    Sauges / Salvia
    Soucis / Marigold
    Aconites
    Oeillets / Carnatịon / cẩm chướng
    Pelargoniums
    Cannas /Hoa chuối
    Ipomées
    Hypericums
    Mufliers / Antirrhinum
    Capucines grimpantes / Climbing Nasturtium / hoa Sen cạn leo
    Soleils / Sunflower /hướng dương
    Marguerites / Cúc
    Delphiniums
    Campanules / Bellflower / hoa chuông
    Digitales / Digitalis
    Oenothères
    Heliopsis
    Epilobes
    Verbascums
    Glaïeuls / Gladiola / Hoa Lay-ơn
    Lammiums
    Lys / Lis / Huệ Tây
    Roses trémières / Hollyhocks / Mãn đình hồng
    Chardons bleus / Blue Thistle
    Sumacs roses / Pink Sumac
    Pois de senteur / Sweet Pea / hoa đậu hà lan
    Solidago
    Hortensias bleus / Blue Hydrangea/ oc tăng xia
    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 02:49 ngày 08/07/2003
  10. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    Tác giả: MilouNgày trả lời: 18/03/2002 11:12Nội dung:

    Lan, Hoàng Hậu Các Loài Hoa Thái Thụy Vy​

    Thật không có gì quá đáng khi gọi Lan là hoàng hậu các loài hoa. Ngày xưa chỉ có giới trưởng giả, quý tộc hoặc phú thương mới có phương tiện thưởng ngoạn Lan, một của báu trời cho, một loài hoa quý, hiếm và đắt tiền. Ngày nay, Lan có một chỗ đứng trong tim của các người hằng yêu mến nàng, người giàu cũng như giới bình dân. Lan đã rời bỏ nhung gấm để hòa mình với nhân gian.
    Lan là loại hoa gì?
    Có những người đã từng gặp Lan mà không để ý, có những người chưa biết gì về Lan vẫn thích ngắm Lan vì dáng dấp ngọc ngà, thanh nhã, lại thêm nhiều hương sắc, nồng nàn, gợi cảm. Giới yêu Lan thì coi thú chơi Lan là một đam mê lành mạnh, vì những người mê Lan một số là những người theo trà đạo và thiền đạo. Họ tự gọi là hoa đạo.
    Tôi làm quen với Lan từ thuở nhỏ, trong vườn nhà cạnh sông Đồng Nai, ngó qua đầu cù lao Phố. Vườn cây quê nội của tôi có các loại cây trái miền Nam: bưởi, chôm chôm, mù u, hồng nhung, lý, mận, măng cụt, cam, ổi, trái gấc, mãng cầu, hoa phù dung, bông điệp... nhưng tôi lại chú ý nhất cây bằng lăng (thao lao) to lớn mọc cạnh ụ đất, nơi chúng tôi dấu chiếc xuồng tam bản, không phải chỉ vì bằng lăng cho những chùm bông tim tím, hương thơm thoang thoảng, nhè nhẹ; mà vì trên thân cây còn có cây ổ rồng, và một loại cây lạ có rễ thòng, với mấy cành oằn những chuỗi bông tím thơm ngát cả một vùng. Tôi bị tiếng sét..."hoa tình" từ đó. Ông nội tôi bảo đó là bông ráng.
    Lớn lên tôi tìm hiểu biết đó là hoa Phong Lan, cái tên càng đánh động sự tò mò của tôi, có lần tôi đọc báo Ngày Nay, ông Nhất Linh có viết về thú chơi "thần tiên" của ông ở Đàlạt, đó là thú chơi Phong Lan. Tôi bị thu hút ngay, từ việc tìm hiểu "đời tư" của nàng Lan, tôi dần dần cảm mến đến độ si mê. Từ đó tôi bắt đầu làm bạn với Lan, lúc 23 tuổi.
    Lan được nhắc tới trong chuyện thần thoại Hy Lạp. Trong lịch sử Lan đã chiếm nhiều chỗ trong văn học lẫn khoa học vì nàng tượng trưng cho sắc đẹp bền bỉ, ướt át, một sắc đẹp nhiệt đới nồng nàn, tuy rất quý phái, đài các nhưng rất đa tình, gợi cảm. Nàng cũng rất yểu điệu, ẻo lả, nhạy cảm và thích ăn diện, thích khoe hương, khoe sắc.
    Dòng dõi của Lan ước chừng 35,000 thứ (varieties) trong thiên nhiên được sắp xếp theo từng giống (genus) và loại (species) dựa trên các đặc tính hình thể, màu sắc và mùi hương... Mỗi năm Lan lai giống được ghi nhận và vào sổ bộ bởi một Ủy ban có tính cách Quốc tế. Con số Lan lai giống càng ngày càng nhiều, gấp đôi con số 35,000.
    Có loại Lan bông nhỏ li ti bằng đầu cây tăm, có Lan to bề ngang đến 5 inches. Lan là giống hoa mang nhiều màu sắc khác biệt nhất (1/7 loài hoa trên trái đất là Lan), lá cũng khác nhau và có màu sắc khác nhau. Chỉ có Lan đen là chưa thấy, tuy có loại có màu rất gần với màu đen như Lan Tử Cán tìm thấy trong một động đá ở Côn Minh, Trung Quốc giống màu Tulip đen, Hồng đen, và Pensée đen pha sắc tím than.
    Tuy Lan là giống thiên hình vạn trạng, thiên biến vạn hóa, tất cả các loại Lan đều mang đặc tính chung : mỗi hoa có 3 ngoại đài hoa và 3 nội đài hoa. Một trong ba nội đài gọi là mội dưới (labellum) được làm bãi đậu cho côn trùng. Có "môi" dài ra thành râu mép (beardie). Có loại đài hoa được dấu trong "miệng" (gnome).
    Trong hầu hết các giống hoa, bộ phận sinh dục đực và cái nằm riêng. Ở Lan chúng nằm chung trên một tuyến gọi là lỗ mũi của hoa. Đa số Lan có cách cấu trúc từ bàn tay khéo léo của tạo hóa (hay luật tiến hóa của Darwin) làm thế nào để côn trùng mang phấn hoa đực bắt buộc phải chui qua ngõ ngách để tìm mật hoa, đồng thời rắc phấn hoa lên nhụy cái. Lúc lui trở ra, lại bị "gài" để phải chở thêm một số phấn đực khác đem gieo giống cho các hoa khác.
    Phân loại Lan:
    Trái với nhiều người tưởng, Lan không phải là cây chùm gửi (ký sinh), Lan chỉ dùng thân cây cao để nương tựa và che chở. Lan không hề ăn bám chất dinh dưỡng của cây (thật đáng hãnh diện cho một loài hoa mang tên Hoàng hậu).
    Lan được chia làm ba loại: Phong Lan (Épiphites), Địa Lan (Terrestrial), Thạch Lan (Lithophites). Sự phân loại Thạch lan không được đúng lắm, vì đâu có loại Lan nào mọc nổi ngay từ trong đá ra, mà phải mọc ở kẽ đá có đất, có lá mủn hoặc ít nhất có chút chất dinh dưỡng. Một tác giả khác, ông Jack Kramer, mới đây còn phân loại giống Thủy Lan (Amphibious orchid).
    Thạch lan thường mọc ở cao độ 14,000-18,000 feet ở vùng núi Andes bên Nam Mỹ có sương mù nên đá núi ít khi bị hấp quá nóng .
    Cách phân loại trên còn thiếu sót nếu không đề cập đến một loại Lan mà cả cây cành lá và hoa đều mọc và nở dưới mặt đất sâu : đó là Lan Rhizanthella Gardeni được tìm thấy ở miền Tây Úc đại Lợi năm 1928 cùng với một giống Lan Subterranean khác.
    Lan (Orchidaceae Genus) gồm có từ 600-800 loại (species) và từ 15,000 đến 35,000 thứ (varieties), trong đó 3/4 các loại và thứ cư trú tại miệt rừng sâu nhiệt đới. Riêng Á châu có nhiều loại Lan khác nhau nhất trên thế giới.
    Tiểu sử một loài hoa :
    Lan được khám phá lần đầu tiên bởi người Hy Lạp. Cha đẻ của ngành thảo mộc học, ông Théophratus đặt tên tộc cho Lan là Orchies, từ chỗ nhận thấy một cặp giò Lan dưới mặt đất na ná giống bộ phận sinh dục nam. Các thế hệ nhà thảo mộc học tin rằng giò Lan khêu gợi thần Venus, và ăn giò Lan sẽ ảnh hưởng đến sự tạo giống cho đứa trẻ sắp được sinh nở. Năm 1731, một nhà thảo mộc học người Anh nhận một mẩu giò Lan khô từ Providence, Bahama. Ông cẩn thận chăm sóc đặc biệt khi trồng thử, chỉ ngay năm sau đó, Lan trổ hoa màu hồng nhạt xinh tươi và diễm lệ. Đó là Lan Bletila Purpura. Nó đánh dấu cành hoa Lan nở đầu tiên trên đất Anh. Lan từ đó đã làm say mê giới chơi cây cảnh giống như hoa Tulip đã một thời làm say mê giới yêu hoa Hòa Lan vào thế kỷ XVII.
    Vào năm 1835, dân trồng tỉa tài tử dùng thử nhà kính có điều chỉnh nhiệt độ và không khí luân lưu đã thành công rực rỡ trong cách trồng Lan. Thiên hạ đổ xô qua các nước Nam Mỹ như Péru, Brésil, Vénézuela, Colombia và Trung Mỹ, Bahama, Jamaica để săn Lan tương tự như phong trào săn vàng (Gold rush) trước đây.
    Đến năm 1904, gần 200năm sau lần Lan xuất hiện ở Âu châu, một nhười Pháp, ông Noel Bernard tìm thấy một loại nấm vi ti (fungus) giúp cho sự nẩy mầm hạt Lan (orchid seed).
    Năm 1922, tiến sĩ Lewis Knudson, người Hoa kỳ nghĩ ra nhiệm vụ của nấm trên là để biến hóa chất đường giúp cho sự dinh dưỡng cây, ông bèn trộn thử đường vào môi trường cấy bằng thạch (Agar agar) đã cho ông kết quả mỹ mãn. Sự khám phá của ông đã cách mạng hóa cách gầy giống Lan không cần qua sự trung gian của nấm nữa.
    Ngày nay, với sự tiến bộ vượt bực của ngành thực vật học, chính phủ Pháp đỡ đầu giúp kỹ nghệ sản xuất Lan với phương pháp phân chia (meristem, cũng như cloning). Nhà sinh vật học George Morel, người hướng dẫn chương trình thí nghiệm Meristem với giống khoai tây, chợt nảy ra ý kiến thí nghiệm Meristem cho giống Lan. Kết quả thật bất ngờ, năm 1956, ông dùng một tế bào trên chóp của một chồi Lan con mới nhú từ giò Lan mẹ đem cấy trên một môi trường cấy có chất dinh dưỡng, ông đã tách ra được vô số các cây Lan con từ "mục măng lan" (module). Cách này có cái lợi là ta có thể sản xuất Lan con giữ tính di truyền giống hệt cây Lan mẹ, trong lúc cách cấy hạt Lan có thể sinh ra nhiều cây Lan con khác nhau tuy cùng một gia tộc.
    Áp dụng phương pháp của tiến sĩ Morel, hai ông Michel Vacherot và ông Maurice Lecouffe đã khởi sự sản xuất Lan hàng loạt.
    Ngày nay, ngoài một số các nhà gầy giống Lan chuyên nghiệp ở khắp Âu Á, các trại Lan ở Mỹ, Phi châu, Hawaii, Singapore, Thái Lan đã đạt đến mức sản xuất Lan kỹ nghệ. Ở Mỹ, nhất là lễ Valentine, Secretary Day và dạ vũ tốt nghiệp Prom, hàng năm tiêu thụ đến 20 triệu Lan cài áo (brioche) hoặc bouquet.
    Việt Nam ta, với khí hậu rừng nhiệt đới nhiều mưa, nhất là vùng cao nguyên như Pleiku, Kontum, Ban mê Thuột, Đà lạt có nhiều giống Lan dại hiếm và nổi tiếng là đẹp, có nhiều triển vọng phát triển một nguồn tài nguyên thiên nhiên, vừa có ngoại tệ, vừa tạo một thú vui tiêu khiển thần tiên, lành mạnh. Nhưng tiếc thay, nạn khai thác Lan vô kỷ luật, với sự che dù của cán bộ lâm sản ở Việt Nam ngày nay, nhiều nơi cây Lan con được cân ký lô bán cho ngoại bang từ Đài Loan và Thái Lan đến thu mua mảo, đã làm kiệt quệ số lượng Lan hiếm và đắt tiền, từng được coi như quốc bảo của nước ta.
    Lan sinh sản bằng cách nào?
    Theo cách cổ điển ngoài thiên nhiên, Lan được tạo hóa giúp sức trong việc truyền giống: côn trùng, ong, ****, chim hút mật, dơi và gió đều là những bà mai (matchmaker) bất thường và bất trắc. Tạo hóa lại nghĩ ra những tiểu xảo thật tinh vi để bổ túc cho những bất trắc trên nên cho trái Lan chín Catleya có độ 30,000 hạt giống nhỏ như hạt bụi, nhìn trên kính hiển vi thấy có hai loại: loại hạt vàng thì mang tính truyền giống, loại trắng thì không. Một loại khác ở Vénézuela sản xuất hai ống nhỏ (capsules), mỗi ống chứa 4 triệu hạt giống. Ông Darwin thử làm bài tính nhỏ : nếu cứ mỗi hạt của một giống Lan ở Âu châu nẩy mầm thì con cái nó sẽ bao trùm trái đất trong vòng ba thế hệ. Định luật bù trừ cho ta thấy trên thực tế chỉ có một số lượng rất nhỏ được thụ tinh.
    Tiến sĩ Calaway Dodson của đại học Miami mô tả một loại ong đầy màu sắc đã giúp thụ tinh trên hai ngàn giống Lan có mùi thơm rất mạnh thuộc loại Stanhopea và Catasetim.
    Bàn tay mầu nhiệm của tạo hóa đã khéo léo tạo nét duyên dáng huê dạng và mùi hương của Lan bằng cách cho Lan "bắt chước" hình thể các giống côn trùng để dụ dỗ các chàng ong, chàng **** yêu hoa bay đến dập dìu, hoặc tiết ra mật hoặc sáp để làm điên đảo say sưa giống nòi tình. Có một loài địa lan tinh khôn hơn, phóng xịt phấn hoa (pollinia)
    vào thân côn trùng để chúng chuyên chở đến hoa khác.
    Riêng mùi hương của hoa Green Orchid lúc được phân tích chứa đến 56 hợp chất, nhưng chỉ phân định được có 32, trong đó có hóa chất Benzil acetate, là chất chủ yếu trong việc chế tạo một loại nước hoa Chrstian Dior. Một hợp chất khác, để thu hút loài ong vò vẻ, là chất Cinéol, có trong lá khuynh diệp (Eucalyptus) và dầu thông mũi Vicks Vapo Rub.
    Một điều thật đáng tiếc là trong quá trình lai giống, các nhà trồng Lan (Orchidologist) thương mại, vì muốn tăng kích thước của hoa và để giữ cho Lan lâu tàn, Lan trồng trong nhà kính dần dần mất mùi hương (aroma) tuy vẫn giữ được đầy đủ màu sắc. Trái lại, do sự bất ngờ có loại Lan mới lai giống cho mùi hương mới rất đặc biệt. Có lần trại Lan Saigòn Orchid trên xa lộ Biên Hòa gần nghĩa trang quân đội có bức tượng nổi tiếng Tiếc Thương của điêu khắc gia Nguyễn thanh Thu, đã cho lai giống hai giò Lan không mùi, nhưng vô tình lại cho ra đời một giống Lan đẹp lạ lùng và thơm mùi kẹo Hòa Lan rất sang.
    Trong khoảng 450 năm qua, giới hàng hải gốc Tây Ban Nha đã tìm thấy ở các bộ lạc Aztecs bên Mễ Tây Cơ thường cho một loại hạt thơm của một giống Lan vào bột cacao để uống. Đó là loại Lan giây Vanilla Planifolia, loại cho trái đậu vanille. Họ đem về trồng tại đảo Madagascar. Ngày nay đảo này cung cấp phân nửa bột thơm cho thế giới. Bột vanilla dùng làm bánh, nấu ăn và là chất chủ yếu làm nên rượu mùi cà phê Liqueur hiệu Kahlúa của Mexico, là một trong các loại rượu nhập cảng đắt tiền nổi tiếng trên đất Mỹ.
    Đặc biệt là bông Lan vanilla chỉ nở và tàn trong ngày (giống Lan yểu mệnh nhất thế giới) nên phải nhờ đến phương pháp thụ tinh nhân tạo vì ở Madagascar không có loại côn trùng nào làm mai dong hết.
    Cách thụ tinh nhân tạo giản dị thôi : đem nhụy đực châm vào nhụy cái. Có lần tôi đã giúp người bạn than "không có bầu", tôi khám phá ra giống bầu đem giống từ Việt Nam qua chỉ nở hoa vào buổi xế chiều vì khác múi giờ, ngày ở Việt Nam là đêm ở Mỹ và ngược lại. Nàng bầu Việt Nam trung thành với tổ quốc, nhớ quê hương nên giữ vững phong tục nở hoa cùng giờ bên Việt Nam. Tôi và cô bạn vui vẻ làm bà mai tình nguyện. Kết quả vài ngày sau đó, cô gọi điện thoại khoe với tôi : "Em có bầu rồi !!!".
    Cách săn sóc lan:
    Điều kiện sinh sống của Lan rất dễ nhưng cũng rất khó. Dễ nếu săn sóc đúng cách. Khó nếu không biết tánh nàng và không có thì giờ. Có loại Thạch lan mọc từ kẽ đá. Có Lan mọc trong đất. Có Lan nhiệt đới, ôn đới, hàn đới. Chỉ trừ châu Antartica là không thấy Lan mọc nổi. Có Lan mọc từ thân cây thật cao trong rừng rậm nhiệt đới, trong thung lũng sương mù, trên các đồi đá trọc ở Péru, Écuador, El Salvador, Colombia, Vénézuela, Phi châu, Á châu... Có Lan chỉ mọc ở vùng mặt trời nóng bức ở Úc châu như loại Lan hiếm Blue Orchid cho màu xanh da trời, xanh như mắt biếc.
    Có Lan chỉ nở một, hai ngày. Có Lan nở hai, ba tháng là chuyện thường. Tôi có một chậu Phalaenopsis, cho bảy cành mang đầy hoa liên tục trong vòng ba năm rưỡi, ngưng đi độ năm tháng lại bắt đầu cho hoa lại và đẻ cây Lan con trên không (airborne). Lan chỉ tự động rũ chết khi người bạn tặng nó cho tôi bị chết bất đắc kỳ tử.
    Giá Lan từ 5 đô la đến 10,000 đô la (Lan đoạt giải Quốc tế). Thường giới sưu tập Lan hiếm bỏ tiền mua nhiều loại Lan đắt tiền để rước Hoàng Hậu Lan trở về cung cấm.
    Có loại Lan ra hoa trong vòng một năm sau khi trồng, có loại sáu năm, có loại phải đến mười năm.
    Lan "khó tính" như vậy vì sự khác biệt từ nguồn gốc, môi sinh, di truyền. "Nuôi" Lan phải biết chiều chuộng nàng. Nhớ câu "nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa" là nàng đó.
    Lan có thể trồng quanh năm trong nhà kính loại dựa (Attached) vừa tiện sưởi và máy lạnh lại có cơ hội Người và Lan giao cảm với nhau qua nhân điện hơn.
    Liệt kê Lan theo phong tục, tánh tình:
    Như đã nói trên, có độ 35,000 loại Lan đã được vào sổ bộ hộ tịch Lan. Hàng năm có cả ngàn giống Lan mới, đa số do sự lai giống. Có sách cho tên cả 140,000 ngàn thứ (varieties).
    Các chuyên gia về Lan thường không đồng ý với nhau trong cách phân loại. Có người chủ trương nên tập họp (categorize) Lan theo các đặc tính chung mà không nên phân biệt theo các tiểu tiết, có lẽ họ sợ gia đình Lan đông con quá, khó kiểm soát. Trên thực tế, chưa có tiêu chuẩn nhất định nhưng hàng năm, đại thể có các vị giám khảo có thẩm quyền nhất về Lan của Anh Quốc họp nhau tại The Orchid Committee of The Royal Horticultural Society để thẩm định giải thưởng và công nhận loại Lan mới.
    Phân loại Lan theo khí hậu:
    A- Lan nhiệt đới (65 độ F về đêm). Loại Lan này sinh trưởng và cho hoa trong môi sinh ấm áp: Lan Angraecum,Calanthe, Dendrobrium, Maxillaria, Phalaenopsis, Vanda...
    B- Lan ôn đới (58-60 độ F về đêm). Các loại Lan thích môi sinh trung bình hơi mát: Lan Cattleya, Epidendrum (bulbous), Sophronitis, Laelia, Miltonia (Pansy orchid), Paphiopedilum (Lady slipper), Brassia, Bulbophyllium...
    C- Lan hàn đới : chỉ thích hợp môi sinh thật mát (45-50 F về đêm): Ada, Coelogyne, Cymbidium (Miniature species and hybrids), Masdevalia (tailed orchid), Bletila, Cochlioda, Anguloa (cradle orchid), Odontoglossum, Oncidium, Pleione, Plemothallis, Thumia...
    Tên các giống loại được viết ra với dạng thức tên khoa học mà cái gốc chữ La tinh thường mô tả hình dáng, màu sắc của thể loại như chúng ta thường nghe đến Hài Lan, Lan Vũ Nữ, Bạch Hạc Lan, Ngọc Điệp Lan, Điểm Hồng Lan... Loại Anguola thì có hình dáng cái nôi, Masdevalia có đuôi, Miltonia có dáng hoa Pensée, Paphiopedilum dáng chiếc hài, Phaleonopsis dáng con **** đêm...
    Ngoài tên khoa học, giới sưu tập Lan còn đặt tên tục (nickname, maiden name), gọi là tục nhưng lại là các tên mỹ miều, thanh nhã giống như trước đây giới sưu tập đã đặt tên cho các loại hoa hồng nổi tiếng trên thế giới.
    Đa số Lan có maiden name là các loại Lan đã đoạt giải quốc tế như Maria Irma, Double Delight Soroa, Francis Melandez Chiquitin, Catherina Louise Weltz, Rose Bowl, Golden Sun Lorene, Cognac Golden Gate, ShoreBirds, Blue Jay, May Victoria, Vanda Joequin (ngày nay là giống Lan tượng trưng cho quốc gia đảo Singapore).
    Riêng ở Việt Nam có một vài loại cây lớn cỡ cây cổ thụ cho rất nhiều hoa, rất đẹp, rất thơm, cũng mang tên Lan nhưng không liệt vào giống Lan: đó là Lan Hoàng hậu, Hoàng Lan (bông chúa), Ngọc Lan (bông sứ ta), Thiết mộc Lan (Ti plant).
    Lan là một tên đẹp trong văn chương Việt. Danh sách có thể dài đến vô tận thường để đặt tên cho con gái nhưng đứng đầu lại là Trần Bích Lan tức nhà thơ Nguyên Sa, tiếp theo là Thụy Hư Lan, Dạ Lan, Mộng Lan, Linh Lan, Dả Lan, Khuê Lan , Khúc Lan, Trúc Lan, Bạch Ngọc Lan, Uyễn Lan, Đàm Lan,  Lan, Ý Lan, Miên Lan, Tường Thụy Lan, Tuyết Băng Lan, Trúc Diệp Lan, Điệp Lan...
    Vài bí quyết săn sóc Lan:
    Tất cả giống Lan có thể sống sót qua một mùa hè mà nhiệt độ lên đến 90 độ F, nếu chúng có đủ độ ẩm và nếu thời gian "phơi nắng" đừng kéo dài quá lâu. Đến mùa đông, nhiệt độ có thể tụt thấp xuống 5 độ dưới mức tối thiểu cho các loại Lan phân biệt theo khí hậu nêu trên trong vòng hai tuần lễ nếu chúng được giữ cho khô ráo trong khoảng thời gian đó .
    Có rất nhiều nhà chơi Lan tài tử thường phàn nàn Lan chỉ cho hoa lần đầu lúc mới mua về. Sau đó, làm eo dẫu có tưới bón bao nhiêu cũng vậy. Như trên đã nói Lan rất dễ trồng mà cũng rất khó. Không đủ bảy điều kiện dưới đây nàng sẽ không buồn khoe sắc, khoe hương.
    1/ Ánh sáng :
    Lan đòi hỏi rất nhiều ánh sáng. Cuối Xuân qua Hạ, đầu Thu, có thể đem Lan ra ngoài trong bóng râm. Ánh mặt trời trực tiếp sẽ làm cháy lá. Nhưng nếu bóng râm quá sẽ làm hoa trổ chậm. Một chỗ treo lan nhiều ánh sáng buổi sớm và xế chiều, nhưng rợp hơn giữa trưa là lý tưởng. Vào mùa Đong, đem Lan vào nhà, để gần cửa sổ, quay về hướng đông, hoặc hướng Tây là đủ. Nếu quay về hướng Nam, cửa sổ nên có loại màn điều chỉnh bớt ánh sáng chói lọi trực tiếp. Hướng Bắc là hướng không tốt cho Lan. Loại Cattleya đòi hỏi ít nhất 4 tiếng đồng hồ ánh sáng ở nhiệt độ 65F mỗi ngày mới cho hoa.
    2/ Nhiệt độ:
    Lan sẽ chết nếu bị giá lạnh và chậm lớn nếu nhiệt độ tụt xuống dưới 50F. Nếu về đêm nhiệt độ bắt đầu xuống dưới 40F thường xuyên thì phải đem Lan vô nhà ngay.
    3/ Nước:
    Nước là một trong những yếu tố tối cần thiết cho Lan. Giò Lan cần phải thật khô ráo trước khi tưới nước, muốn biết giò Lan khô hay không cứ nâng chậu lên thấy nhẹ là biết ngay. Thường mùa hè nên tưới mỗi tuần. Mùa đông tưới mỗi hai tuần. Lan không chịu quá nhiều nước. Hễ sủng nước rễ sẽ mục và cây chết. Cách tưới hay nhất là nhúng cả châu Lan hay giò Lan vào một thùng nước mưa, ngâm độ 2,3 phút, nâng lên đợi ráo nước hãy đặt Lan lên khay sâu có lót sạn (peeble) và đổ nước lúp xúp. Đừng để đít chậu Lan chạm nước. Độ ẩm lý tưởng cho Lan là 60-70%.
    Ngoài thiên nhiên Lan hút sương để sống. Cách giữ độ ẩm hay nhất là bắt chước thiên nhiên: xịt Lan cả lá lẫn rể ngày một hai lần. Trong các nhà kính (greenhouse) tối tân, có trong bị hệ thống phun sương (misting) tự động như kiểu trồng cây treo hydroponic là bảo đảm nhất cho Lan không bị khô. Nhưng nhớ đừng phun quá nhiều quá ẩm.
    4/ Phân bón:
    Mùa Xuân, mùa Hè và mùa Thu bón phân 3,4 tuần một lần. Cách bón phân giống như cách tưới nêu trên, nhưng nhúng Lan vào một dung dịch phân 30-10-10 pha loãng, loại đặc biệt dành cho Lan hoặc dung dịch 20-20-20 chung cho các loại kiểng cho hoa (các con số trên là tỷ lệ của ba hóa chất nitrogen-phosphorous-potassium). Cách tưới phân trên vừa tiện lại vừa lợi phân bón.
    5/ Không khí luân lưu :
    Ngoài thiên nhiên Lan cần không khí và gió. Trong nhà nên để Lan cách khoảng nhau để Lan dể thở , và khoảng cách xa máy lạnh hoặc máy sưởi vài ba thước. Lan rất cần không khí tự do luân lưu. Không bao giờ để Lan dồn sát lại nhau quá gần.
    6/ Chậu và Mội sinh:
    Lan sẽ phản ứng bất lợi trong mỗi lần thay chậu nếu không làm đúng cách và nếu không dùng đúng môi sinh cho từng loại Lan (medium). Các rễ phụ không cần phải nhét vào bên trong chậu. Nên thay chậu mỗi ba hoặc bốn năm. Chậu bằng đất nung nhiều lổ thoát nước hay giò làm bằng gỗ thưa là tốt nhất. Không nên dùng môi trường có đất cho loại Phong Lan (épyphites) vì rễ sẽ mục. Dùng vật liệu dễ thấm nước nhưng dễ rút nước như sớ osmunda, peat moss, than vụn, perlite hoặc styrofoam pellet và vỏ cây thông Fir nghiền nhỏ với tỷ lệ 7 phần Fir, 1 phần peat moss, 1 phần perlite, dưới đáy chậu lót sạn, cát thô và chút ít than vụn.
    Loại Lan đất (terrestrial) như loại Calanthe cần đất trộn theo tỷ lệ 1 phần đất, 1 phần peat moss, 1 phần vỏ cây, và 1 phần perlite. Loại Phiopedilum thích hợp với môi sinh có tính kiềm (alkaline) nên thêm một phần vỏ sò nghiền nát.
    7/ Trừ sâu bọ :
    Nàng Lan rất nhậy cảm nên dễ bị bệnh tật. Người mê Lan thì sâu bọ càng mê hơn bằng cách cắn nát nàng, ăn tươi nuốt sống nàng. Hai loại sâu gây bệnh cho Lan thông thường nhất là mealy bug và scale. Trị chúng chỉ có cách xịt hoặc nhúng úp (upside down) vào dung dịch Malathion pha loãng nhiều lần cho đến khi nào chúng bị tiêu diệt.
    Nếu thấy hoa bị có tật (deformed) và lá Lan bị những đốm trong suốt thì chỉ còn cách hủy diệt cây đó mà thôi. (nói tới cách này đau lòng lắm !). Lần sau, khi mua nên chọn kỹ giống tốt, không sâu bọ, không bệnh tật, cách chắc ăn nhất là mua lúc Lan đang nở hoa, không sợ "tiền mất tật mang". Khi mua thuốc trừ sâu nên hỏi kỹ loại dành riêng cho Lan, thường thường loãng hơn vì Lan rất sợ thuốc Tây. Nuôi Lan bằng chất hữu cơ, Lan sẽ tươi trẻ khỏe mạnh hơn. Biết bao giống Lan bất hạnh, yểu mệnh chưa được chúng ta chiêm ngưỡng sắc đẹp diễm kiều đã bị tuyệt chủng vì thuốc khai quang (chemical defoliation). Rừng nhiệt đới Việt Nam nổi tiếng khắp thế giới về các giống Lan dại hiếm và quý, nay đã bị chất Orange agent khai tử vĩnh viễn, nếu may mắn lắm còn được các nhà sưu tập Lan tài tử hoặc nhà nghề khắp nơi trên thế giới gìn giữ và cho con cái nối dõi như hai Hoàng hậu Paphiodilum Armenia Cum và Paphiodilum Deleneti duyên dáng và diễm tình, đã được tìm thấy ở vùng Châu thổ sông Cửu Long, vùng gần Sàigòn và Vân Nam.
    Ngoài các cách chăm sóc Lan nói trên, trong phòng thí ngiệm thực vật học Biosphere II ở Tucson, Arizona và các trại Lan thí nghiệm bên Âu châu, cácnhà bác học nhận thấy các giống Lan cũng như các loại hoa khác khi được để cho nghe nhạc cổ điển Tây phương 24/24 giờ đều cho hoa lớn hơn, thơm hơn và lâu tàn hơn các hoa không được nghe nhạc.
    Có khoa học gia đã đi xa hơn, thí nghiệm tính thần giao cách cảm của hoa: Lan biết xúc động, mỗi lần người chủ cây Lan nghĩ đến Lan, dẫu đang ở xa nửa vòng trái đất, một cách ưu ái, thì Lan vạch những mạch dịu dàng trên đồ thị xoay vòng, nếu người đó thử nghĩ kỳ này sẽ đem diệt Lan để thay thế cây khác, Lan vạch những cảm xúc mạnh như lo sợ hay giận dữ trên đồ thị đúng giờ giấc người đó ghi chú.
    Một nhiếp ảnh gia chụp các loại hoa lá trên phim ảnh infrared, khi rửa hình phát giác vầng hào quang tỏa chung quanh hoa (halo), họ rất ngạc nhiên và nghĩ là hoa cỏ cũng có linh hồn (hồn thu thảo?).
    Lan thích được vuốt ve âu yếm. Nếu có thì giờ nói chuyện với Lan, các bạn nhớ lau bụi vho từng cái lá, tập Tai chi gần Lan, Lan sẽ tươi tốt hơn và cho nhiều hoa hơn. Có phải vì Lan được tưới nhân điện?
    Một phát minh hiện đại nhất trong năm 1992: một kỹ sư âm thanh người Nhật gắn cực điện vào một cành hoa, thật ngoài sức tưởng tượng: Hoa Biết Nói. Khi được khuếch đại trên màn ảnh máy điện toán, mỗi loại hoa khác nhau vẽ một đồ thị 3D (ba chiều) khác nhau và phát âm khác nhau như những nốt nhạc. Khám phá trên sẽ làm đảo lộn tất cả ngành điện tử và sinh vật học. Biết đâu đầu thế kỷ 21 chúng ta sẽ được anh chàng Kitaro cho nghe bản trường ca New Age mang tên Trường ca "Nụ Hôn Loài Lan Tím Dại".
    Để kết thúc bài nầy, tôi xin trích đoạn dưới đây từ chương Hoa Đạo của Okakura Kakuzo để chúng ta đừng bao giờ tàn nhẫn với hoa, vì tôi tin rằng hoa có hồn, biết xúc động và bây giờ thêm hoa biết nói, biết hát:
    "Khi vui hay buồn, Hoa luôn luôn là bạn trung thành của ta. Ta ăn uống, ta ca vũ, ta ve vãn, đùa cợt với Hoa. Ta kết hôn, làm lễ rửa tội với Hoa. Ta không dám chết mà không có Hoa. Ta thờ phượng với Bách hợp, ta mặc tưởng với Sen, ta bày trận với Hồng và Cúc. Ta lại còn muốn nói bằng ngôn ngữ của Hoa. Không có hoa làm sao ta có thể sống được? Nghĩ tới một thế giới bị tước đoạt hết hoa mà phát sợ. Hoa đã chẳng đem an ủi tới giường bệnh nhân, đem ánh sáng tươi vui tới nơi u ám của những tâm hồn yếu đuối đó ư? Vẻ dịu dàng êm ái của Hoa làm cho lòng tin tưởng vào vũ trụ của ta đang bị suy giảm đi được hồi phục trở lại. Khi ta nhắm mắt nằm xuống chính cũng lại là Hoa bi thương lưu luyến trên mồ của ta."

    Thái Thụy Vy Hội Viên Northern Virginia Bonsai Society Virginia, Thu 1992

Chia sẻ trang này